LỜI NÓI ĐẦU
Cách đây hai mươi thế kỷ,
vào mùa xuân năm 40 sau Công nguyên, cuộc khởi nghĩa do
Hai Bà Trưng lãnh đạo đã đập tan bộ máy đàn áp của
bè lũ bành trướng Đại Hán, giành lại độc lập
tự do cho đất nước.
Đó là niềm tự hào chung
của dân tộc Việt Nam, trong đó và trước hết có niềm
tự hào của Hà Nội vì châu thổ sông Hồng mà Hà Nội
là trung tâm đã là cái nôi sinh thành của cuộc khởi
nghĩa vẻ vang này.
Tiếp theo cuộc khởi nghĩa là
những năm tháng độc lập. “Đô kỳ đóng cõi Mê
Linh. Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta” dù Mê
Linh nay là huyện Mê Linh (Yên Lăng cũ) hay huyện Thạch
Thất thì cũng là cận kề với Hà Nội.
Ba năm sau,
cuộc kháng chiến chống quân Hán xâm lược bùng nổ,
quyết liệt và rộng khắp. Nhiều trận đánh đã diễn
ra trên đất Hà Nội. Người Hà Nội ngày ấy đã viết
tiếp trang sử truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm
kiên cường, bất khuất mà tổ tiên từ thời các vua
Hùng, vua Thục đã đắp xây nền tảng.
Cho nên việc
tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Hà Nội và
các tỉnh lân cận thành phố Thủ đô không chỉ có ý
nghĩa học thuật mà còn có ý nghĩa phát huy truyền thống
của nhân dân vùng châu thổ sông Hồng đã có dư mấy
nghìn năm lịch sử.
Tuy nhiên, việc làm này không
phải là dễ dàng. Vì ngay đối với việc nghiên cứu
cuộc khởi nghĩa nói chung thì tài liệu cũng đã là quá
ít ỏi. Về nguồn chính sử của Việt Nam thì bộ sử cổ
nhất hiện còn cũng là biên soạn sau cuộc khởi nghĩa đó
hàng mười bốn thế kỷ, do vậy rất sơ lược. Đó là
bộ Việt sử lược (khuyết danh) soạn vào cuối
đời Trần, tức nửa sau thế kỷ XIV, chỉ ghi được về
cuộc khởi nghĩa chấn động toàn cõi Giao Châu này có
khoảng hai trăm chữ!
Bộ thứ hai là Đại Việt
sử ký toàn thư (sẽ gọi tắt là Toàn thư) do
Ngô Sỹ Liên soạn, hoàn thành năm 1479 (sử thần các đời
sau có viết tiếp, bổ sung, sửa chữa), ghi chép có nhiều
hơn một chút nhưng cũng không quá sáu trăm chữ.
Còn
những bộ sử soạn sau đó như Đại Việt sử ký tiền
biên của Ngô Thì Sỹ (1725-1779) hay Việt sử thông
giám cương mục của sử thần triều Nguyễn soạn
khoảng 1856-1889 (sẽ gọi tắt là Cương mục) thì
cũng là chép lại các bộ sử cũ, có thêm một vài chi
tiết do tham khảo truyền thuyết dân gian hoặc sử sách
Trung Quốc.
Về nguồn sử Trung Quốc cổ, những
sách đầu tiên ghi chép về thời kỳ Hai Bà Trưng mà nay
dễ tìm đọc là ba bộ sau: Hán thư, Hậu Hán kỷ, Hậu
Hán thư.
Bộ thứ nhất, còn quen gọi là Tiền
Hàn thư, do Ban Cố soạn theo thể ký truyện, hoàn
thành năm 67 sau Công nguyên, có một số tư liệu về tình
hình Giao Chỉ và Cửu Chân thời Tây Hán, tức thời gian
trước Công nguyên tới năm thứ 8 sau Công nguyên. Bộ sử
này gồm bốn phần, chia ra 100 quyển: phần Đế kỷ 12
quyển, phần Biểu 8 quyển, phần Chí 10 quyển, phần Liệt
truyện 70 quyển. Liên quan nhiều đến Giao Chỉ, Cửu Chân
là Địa lý chí (quyển thứ 8) và Nam Việt vương
truyện (quyển 65).
Bộ thứ hai – Hậu Hán kỷ
- là sách của Viên Hoành làm quan đời Tấn Hiếu Vũ biên
soạn (376-396). Bộ này viết theo thể biên niên, gồm
30 quyển, chép lịch sử nhà Đông Hán theo trình tự thời
gian hàng năm của các đời vua. Phần liên quan đến cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng chủ yếu nằm ở quyển thứ
7.
Bộ thứ ba – Hậu Hán thư – là sách của
Phạm Diệp (còn có một âm nữa là Việp) sống thời Lưu
Tống (420-479), viết theo thể ký truyện. Bộ này gồm ba
phần, chia ra 120 quyển: phần Đế ký 10 quyển, phần Chí
30 quyển, phần Liệt truyện 80 quyển. Những quyển có
liên quan tới thời kỳ Hai Bà Trưng là phần Đế ký,
quyển 1 đời Quang Vũ và phần Liệt truyện gồm
các quyển 12 mục Lưu Long truyện, quyển 14 mục Mã
Viện truyện, quyển 66 mục Nhân Diên truyện và
quyển 76 mục Nam Man truyện.
Do là sử của
Trung Quốc nên ở hai bộ đó phần ghi chép về cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng có cụ thể hơn về phía hoạt động
của quân Hán. Nhưng dù vậy, phần ghi chép ấy cũng không
quá vài trăm chữ.
Một bộ sách khác cung cấp thêm
một ít tư liệu cho việc nghiên cứu thời kỳ Hai Bà
Trưng là Thủy kinh chú. Đây là bộ địa lý lịch
sử của Lịch Đạo Nguyên viết thời Bắc Ngụy (515-526)
nội dung chính là chủ giải sách Thủy kinh (sách
ghi chép về các sông ngòi) do Tang Khâm soạn đới Hán.
Thủy kinh chú gồm 40 quyển, trong đó, quyển 37 nhân
chú giải về sông Diệp Du (tức sông Hồng của Việt
Nam) tác giả có đề cập tới quan hệ chiến tranh giữa
Mã Viện và Hai Bà Trưng. Điều đáng chú ý nữa là Thủy
kinh chú có dẫn một số đoạn văn liên quan đến
nước Việt ta thời cổ trích từ những sách cổ hơn mà
nay không còn thấy như Giao Châu ngoại vực ký, Việt
chí v.v…
Còn như các bộ sử Trung Quốc soạn ở
những đời sau như Tư trị thông giám của Tư Mã
Quang (đời Tống), Việt kiệu thư của Lý Văn
Phượng (đời Minh), An Nam chí của Cao Hùng Trưng
(đời Thanh) v.v… phần viết về thời kỳ Hai Bà Trưng
đều là chép từ các bố sử sách nói trên.
Nguồn
thư tịch bác học ít ỏi như thế, nếu chỉ dựa vào đó
thì nói thêm về cuộc khởi nghĩa Hai Bà cũng chẳng được
là bao nhiêu.
Điều may mắn là nhân dân ta xưa – người bình
dân Việt Nam – có một cách chép sử riêng. Đó là kho
tàng các truyền thuyết lịch sử và sự tích những người
anh hùng được lưu truyền từ đời này qua đời khác,
tồn tại mãi tới ngày nay. Đành rằng trong các truyền
thuyết đó có nhiều yếu tố hoang đường và không ít
những sự gán ghép, thêm bớt, hư cấu của người đời
sau, không loại trừ có nhân vật hoàn toàn là hư cấu,
nhưng dù sao cũng chắc chắn là có phản ánh một sự
thật lịch sử. Ông Phạm Văn Đồng đã từng viết:
“Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi
là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã
gửi gắm vào đấy tâm tình tha thiết của mình cùng với
thơ và mộng”1.
Vậy nên khi tách
thơ và mộng - tức phần sáng tạo, hư cấu văn học –
thì có thể là còn lại là cái cốt lõi lịch sử.
Thứ
nữa, trong nhân dân từ ngàn xưa còn có tục lệ thờ
phụng anh hùng. Những người có công với dân với nước,
dù trẻ hay già, là nam hay nữ, đều được nhân dân lập
đền thờ, tôn làm phúc thần, thành hoàng. Những ngôi
đền ấy được dựng hoặc ở ngay quê hương bản quán
của nhân vật, hoặc ở nơi là địa bàn hoạt động
chính hoặc nơi hy sinh của nhân vật đó. Tại những đền
miếu ấy có lưu giữ những thần tích, ngọc phả kể về
cuộc đời người anh hùng được phụng thờ. Những văn
bản này thực ra cũng là những truyền thuyết dân gian
được cố định hóa, văn bản hóa ở một thời điểm
nhất định (thời điểm ấy đối với đa số các thần
tích thường là thế kỷ XVI). Cho nên khảo sát các đền
miếu và thần tích, ngọc phả cũng có thể tìm ra những
sự thật lịch sử bổ sung phần nào cho chính sử.
Ngoài
ra, ở nhiều làng xóm hiện vẫn còn những địa điểm,
địa danh như “đồn quân”, “kho lương”, “cột cờ”,
“xóm nhà Bà” v.v… và vết tích những thành xưa lũy
cổ. Đó là những chứng tích truyền kỳ nhưng một khi
được xác định niên đại chắc chắn thì cũng là một
nguồn tư liệu giúp phục hiện lại phần nào quá
khứ.
Cuối cùng, trong lòng đất có chứa không ít
những di vật của người các đời trước, từ những
công cụ sản xuất, công cụ chiến đấu đến những dấu
vết nơi ăn, chốn ở và cả những hài cốt… Các tư
liệu khảo cổ học này sau khi được phân tích tìm ra
niên đại cụ thể thì quan trọng chẳng khác gì tư liệu
thư tịch gốc! Nhất là những tư liệu khảo cổ học
lại gặp ở cùng một địa điểm có lưu hành truyền
thuyết và bảo lưu tục lệ thì các tư liệu văn hóa dân
gian và dân tộc học rất có khả năng là đã hàm dưỡng,
chất chứa những sự thật lịch sử.
Cho nên, tuy
chính sử thì quá ít ỏi nhưng chúng tôi đã dựa vào các
nguồn tư liệu trên để phối hợp tiến hành tìm hiểu
về cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo. Thực ra những
hoạt động cứu nước của Hai Bà và nhân dân ngày ấy
gồm ba giai đoạn: khởi nghĩa – xây dựng chính quyền –
kháng chiến, nhưng theo cách nói đã quen thuộc, chúng tôi
xin gọi gộp lại là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Trong dăm chục năm gần đây, nghiên cứu nghiêm
túc và khoa học về cuộc khởi nghĩa này thì cũng đã có
một số sách và bài báo giá trị như:
- Phần “Cuộc
khởi nghĩa của Trưng Trắc” trong Lịch sử cổ đại
Việt Nam – giai đoạn quá độ sang chế độ phong
kiến của Đào Duy Anh – 1957 (sẽ gọi tắt là Cổ đại
Việt Nam - Tập IV).
- Phần “Cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng” trong Lịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam - Tập 1 - Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn
– 1963.
- Phần “Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng” trong Lịch sử Việt Nam, Quyển 1 - Tập 1 –
Trương Hữu Quýnh – 1970
- Phần “Cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng” trong Lịch sử Việt Nam - Tập 1
- Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam – 1971.
- Phần
“Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng” trong Lịch sử
Việt Nam (từ khởi thủy đến thế kỷ X) - Phần viết
của Nguyễn Danh Phiệt – 2001.
- Bài “Tính chất
cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng” của Duy Hinh, trên tạp
chí Nghiên cứu Lịch sử số 72-1965.
- Bài “Tài
liệu khảo cổ học và việc nghiên cứu thời kỳ Hai Bà
Trưng” của Lê Văn Lan, trên Nghiên cứu Lịch sử số
149-1973…
- Bài “Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở
Thủ đô Hà Nội qua các di tích” của Vũ Tuấn Sán, trên
Nghiên cứu Lịch sử số 149-1973 v.v…
Nhưng trong
phạm vi nghiên cứu chuyên đề về cuộc khởi nghĩa ấy
trên vùng đất châu thổ sông Hồng thì chưa có một tác
phẩm hoàn chỉnh nào.
Trong khi đó, ngoài các tư
liệu lịch sử liên quan đã nêu ở trên, qua các chuyến
đi khảo sát thực địa, chúng tôi thấy nổi bật lên
một thực tế là ngay ở những nơi mà xưa nay nhiều
người đã biết là có gắn bó với sự tích Hai Bà và
đã được mô tả thì cũng cón có nhiều điều mới phát
hiện rất đáng lưu ý. Và cũng trên địa bàn châu thổ
sông Hồng ngày nay có những di tích thuộc về các tướng
của Hai Bà. Tại những địa điểm này, ngoài các chứng
cứ vật chất (lăng mộ, thành lũy…) còn có những
truyền thuyết phản ánh sự tham gia khởi nghĩa và kháng
chiến bằng nhiều hình thức, phương thức khác nhau của
các anh hùng nam, nữ đó. Có người đã lập đồn đắp
thành lũy đánh lại giặc Hán trước cả ngày Hai Bà khởi
sự. Có người tay trắng tới đầu quân và nhanh chóng
trưởng thành. Có người làm trinh sát. Có người công
thành… Họ chặn địch. Họ phá vây. Họ đánh thủy,
đánh bộ. Có người bồng con mới sinh mà chiến đấu.
Nhiều trường hợp cả gia đình vợ chồng con cái đều
tham gia nghĩa quân. Có người đánh giặc ngay tại quê
hương. Có người đi chiến đấu tại những miền Cửu
Chân, Nhật Nam xa xưa…
Những dấu vết và truyền
thuyết phong phú đó có thể giúp hình dung ra được cuộc
chiến đấu ngày ấy và cũng với những thư tịch chính
sử đã có thể phần nào tạo nên một bức tranh khá
hoàn chỉnh về hình ảnh cuộc khởi nghĩa và cuộc kháng
chiến trong những năm 40-44 vẻ vang ấy ở địa bàn Hà
Nội cùng các tỉnh lân cận.
Tuy nhiên, dù có lượm
lặt được một số tư liệu như vậy và đã thừa hưởng
kinh nghiệm của những nhà nghiên cứu đi trước, tập
sách này tất vẫn còn nhiều thiếu sót. Nhất là do hạn
định của mục đích – là chủ yếu tìm hiểu về cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở địa bàn Hà Nội và các tỉnh
lân cận – nên trong sách không đề cập hoặc chỉ nói
rất sơ lược về sự kiện này ở tất cả các địa
phương khác, vì thế mà cách trình bày cũng như cách lý
giải một số vấn đề có thể còn chưa toàn diện,
thiếu tầm khái quát.
________________________________________
1.
“Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 âm lịch”
– Báo Nhân dân số 29-4-1969.
Chương Một
HÀ
NỘI ĐẦU CÔNG NGUYÊN
TRUNG TÂM QUẬN GIAO
CHỈ
Vào nửa sau thế kỷ thứ III
trước Công nguyên (tr.c.n.), Thục Phán - thủ lĩnh bộ tộc
Âu Việt - kế thừa triều Hùng Vương của bộ tộc Lạc
Việt, dựng nên nước Âu Lạc với kinh đô là Cổ Loa.
Như vậy là lãnh thổ của người Âu và người Lạc được
thống nhất lại thành một quốc gia mà trung tâm là một
vùng đất nay thuộc về thành phố Hà Nội. Sự thống
nhất đó làm cho đất nước thêm mạnh. Chính vì thế mà
trong mấy chục năm cuối thế kỷ thứ III - đầu thế kỷ
thứ II tr.c.n., quân của nhà Tần (Thủy Hoàng) rồi quân
của nhà Nam Việt (Triệu Đà) nhiều lần xâm lược Âu
Lạc đều bị thất bại. Chỉ tới năm 179 tr.c.n., dùng
mưu mô quỷ quyệt, Triệu Đà mới thắng được Thục
Phán và sáp nhập nước Âu Lạc vào lãnh thổ nước Nam
Việt của Đà (lập nên từ năm 207 tr.c.n. do việc tách
khỏi đế quốc Tần ba quận là Tượng, Nam Hải và Quế
Lâm tức hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc
ngày nay). Cũng từ đó, Âu Lạc bị chia làm hai quận:
Giao Chỉ và Cửu Chân.
Nhưng nhà Triệu không tồn
tại được lâu. Năm 111 tr.c.n., nhà Tây Hán (206 tr.c.n. -
8 s.c.n.) đưa quân đánh Nam Việt. Sau khi tiêu diệt họ
Triệu, Tây Hán chia phần đất cũ của Triệu Đà ra làm
bốn quận là Nam Hải, Hợp phố, Thương Ngô, Uất Lâm,
giữ nguyên hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, lập thêm quận
Nhật Nam ở phía Nam quận Cửu Chân, hợp với hai quận ở
đảo Hải Nam là Chu Nhai, Đạm Nhĩ thành ra bộ Giao
Chỉ. Việc lấy tên của quận Giao Chỉ làm tên gọi
chung cho bộ mới đặt ra này chứng tỏ quận Giao Chỉ
khi đó là một quận trọng yếu, nếu không là quận lớn
nhất thì cũng là đông dân nhất. Vì trong sách Tiền Hán
thư (q.8 Địa lý chí) có số liệu về nhân khẩu các
quận thuộc bộ Giao Chỉ vào khoảng thời gian cuối Tây
Hán:
Quận Nam Hải có 94.253 nhân khẩu, 19.613 hộ.
Quận Thương Ngô có 71.162 nhân khẩu, 24.397 hộ.
Quận
Uất Lâm có 146.160 nhân khẩu, 12.415 hộ.
Quận Hợp
Phố có 78.980 nhân khẩu, 15.398 hộ.
Quận Giao Chỉ có
746.237 nhân khẩu, 92.440 hộ.
Quận Cửu Chân có 166.013
nhân khẩu, 35.743 hộ.
Quận Nhật Nam có 89.488 nhân
khẩu, 15.460 hộ.
Có thể những số liệu trên
không hoàn toàn chính xác nhưng do cùng một nguồn thu thập
nên về mặt giá trị sử dụng để so sánh thì có thể
chấp nhận được. Những con số đó cho thấy rằng vào
đầu Công nguyên, số dân của quận Giao Chỉ đông gấp
hai lần số dân của cả bốn quận đầu cộng lại.
Điều này nói lên độ tập trung cư dân rất lớn và vị
trí đặc biệt quan trọng của quận Giao Chỉ so với toàn
thể bộ Giao Chỉ.
Quận Giao Chỉ ngày ấy (thời
thuộc Hán) tương ứng với đất Bắc Bộ ngày nay trừ
miền tây - bắc còn ở ngoài phạm vi thống trị của nhà
Hán và phía tây - nam (miền ven biển Nam Định, Ninh
Bình...) bấy giờ còn là biển. Quận này gồm mười
huyện: 1. Liên Lâu, 2. An Định, 3. Câu Lậu, 4. Mê Linh, 5.
Khúc Dương, 6. Bắc Đái, 7. Kê Từ, 8. Tây Vu, 9. Long Biên,
10. Chu Diên. So với sự phân bố đó thì thành phố Hà
Nội và các tỉnh lân cận được đề cập trong tập
sách nằm trên đất đai của bốn huyện Mê Linh, Chu Diên,
Liên Lâu và Tây Vu.
Các huyện Ba Vì, Phúc Thọ,
Thạch Thất (Hà Tây) nằm giữa ba mặt sông (sông Đà,
sông Hồng, sông Đáy) thuộc địa hạt huyện Mê Linh.
Các huyện Đan Phượng, Hoài Đức (Hà Tây), hai
huyện Từ Liêm, Thanh Trì và bốn quận cũ nội thành Hà
Nội là thuộc địa hạt huyện Chu Diên.
Các
huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc), Sóc Sơn, Đông Anh và phần đất
huyện Gia Lâm (Hà Nội) ở tả ngạn sông Đuống là thuộc
địa hạt huyện Tây Vu.
Còn huyện Gia Lâm
phần nằm giữa sông Hồng và sông Đuống thì thuộc
huyện Liên Lâu1.
Nằm trên đất
đai của các huyện đó, Hà Nội vào đầu Công nguyên là
trung tâm của quận Giao Chỉ đồng thời của cả bộ
Giao Chỉ, không riêng về mặt địa lý mà cả về chính
trị và quân sự. Vì suốt thời Tây Hán, trị sở quận
Giao Chỉ đặt ở huyện Mê Linh, mà trị sở bộ Giao Chỉ
cũng là đặt tại đó. Sang thời Đông Hán, các trị sở
này chuyển sang huyện Liên Lâu (nay là khu vực làng Dâu,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Nhưng Mê Linh vẫn là
nơi đồn trú của viên đô úy quận Giao Chỉ, tức là
viên chỉ huy lực lượng vũ trang của quận. Về vị trí
huyện Mê Linh hiện có hai chủ trương khác nhau, hoặc đặt
ở bên tả ngạn sông Hồng với huyện trị là làng Hạ
Lôi nay thuộc xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc (như
lâu này vẫn quan niệm) hoặc đặt ở bên hữu ngạn sông
Hồng mà huyện trị cũng là làng Hạ Lôi nhưng thuộc xã
Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, Hà Tây (như nhận định
của nhà địa lý lịch sử Đinh Văn Nhật).
Cho nên
nếu như Hà Nội mất vị trí kinh đô từ năm 179 tr.c.n.
với việc thất thủ Cổ Loa thì Hà Nội vẫn thuộc bộ
Giao Chỉ và quận Giao Chỉ, nơi đụng đầu trực tiếp
giữa người dân Âu Lạc và bọn ngoại xâm đô hộ. Cũng
nơi đây là địa bàn quan trọng của cuộc khởi nghĩa
lần đầu tiên thành công trong lịch sử đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân ta: cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng.
____________________________________
1.
Việc xác định vị trí các khu vực hành chính thời cổ
thực ra rất khó khăn vì tài liệu thư tịch rất ít ỏi,
phải vận dụng các cứ liệu cổ địa lý, cổ sử, địa
danh học v.v... mới có thể đoán nhận ra. Ở đây, chúng
tôi dựa vào sách Đất
nước Việt Nam qua các đời
của Đào Duy Anh và các luận văn nghiên cứu về vấn đề
này của Đinh Văn Nhật in trên tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử các
số 142, 155, 156, 172, 190.
GIAO CHỈ TRƯỚC
CUỘC KHỞI NGHĨA
Thư tịch ghi chép về tình
hình xã hội cũng như sinh hoạt nhân dân Giao Chỉ ngày ấy
thì thật sự ít ỏi. Tư liệu cổ nhất là đoạn văn
của Giao Châu ngoại vực ký được trích dẫn trong
Thủy kinh chú. Đoạn này tuy ngắn ngủi nhưng đã
phác họa một cách rất cơ bản tình hình sinh hoạt của
dân cư Giao Chỉ thời tr.c.n: “Thời xưa, Giao Chỉ chưa
có quận huyện thì đất đai có ruộng Lạc, ruộng ấy
theo nước thủy triều lên xuống (mà làm). Dân làm ruộng
ấy mà ăn nên gọi là dân Lạc”.
Nhiều nhà
nghiên cứu đã thống nhất nhận định rằng ruộng canh
tác theo nước triều lên xuống như thế thì chỉ có thể
là ruộng cấy lúa. Khảo cổ học đóng góp một dẫn
chứng cụ thể: ở di chỉ Đồng Đậu (nay thuộc huyện
Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phú, xưa là đất huyện Tây Vu) có
hạt lúa mà qua phân tích đồng vị phóng xạ C14 thì có
niên đại là 3300 ± 100 năm. Như vậy là vào thời các
vua Hùng mới dựng nước, người Việt đã trồng lúa ở
đồng bằng sông Hồng. Ngoài nghề trồng lúa ra, nghề
làm vườn trồng cây ăn quả cũng phát triển. Nam
phương thảo mộc trạng có ghi là vào năm Nguyên Đỉnh
thứ 6 (tức năm 111 tr.c.n.), vừa chiếm xong Nam Việt,
thành lập quận Giao Chỉ, Hán Vũ Đế đã cho xây cung Phù
Lệ để trồng cây quí ở đất Nam Việt mang về, có 100
cây vải và 2 cây chuối tiêu. Tiền Hán thư cho biết
là từ đời Hán Vũ Đế ở Giao Chỉ có chức quất
quan coi riêng việc cống quít, có chức tu quan để
đốc thúc việc dâng tiến hoa quả, thức ăn. Dị vật
chí chép: “Mía sản xuất ở Giao Chỉ đặc biệt tốt
và ngon, gốc và ngọn đều ngọt... ép lấy nước làm
thành đường”. Tiền Hán thư còn cho biết “Người
Lạc Việt biết trồng dâu... dệt vải” 1.
Bấy nhiêu thư tịch cho phép đoán định rằng vào
đầu Công nguyên, ở Giao Chỉ (trong đó có đất Hà Nội)
đã phát triển các nghề trồng lúa, làm vườn, trồng
mía, trồng dâu (tức là đã biết nuôi tằm lấy tơ) và
trồng bông. Trong mấy chục năm gần đây, nhờ những
thành tựu của ngành khảo cổ mà sự đoán định đó
thêm chắc chắn hơn. Cùng với những nhát cuốc khai quật
lòng đất Hà Nội, ngành khảo cổ đã kể lại một cách
đáng tin cậy về cuộc sống của người Hà Nội thời
bấy giờ, đặc biệt là đã làm sáng tỏ một sự thật
là không đợi đến đầu Công nguyên mà ngay từ thời
các vua Hùng dựng nước, Hà Nội đã có những điểm tụ
cư lớn, những làng cổ khá đông đúc như:
Cách
đây bốn nghìn năm, ở Văn Điển và Triều Khúc (huyện
Thanh Trì), Đồng Vông và Xuân Kiều (huyện Đông Anh), Gò
Ấp (huyện Kim Anh), Gò Đồng (huyện Ba Vì)... đã có cư
dân biết sử dụng rìu đá, đục đá, biết chế tác
thật tinh xảo những mũi tên đá khá lợi hại, những
viên “chì” lưới để đánh cá, biết làm đồ gốm
với những hoa văn tinh tế...
Cách đây trên ba
nghìn năm, ở Thành Dền (huyện Mê Linh), Vườn Chuối
(huyện Hoài Đức), Đồi Đà (huyện Ba Vì), Tiên Hội và
Bãi Mèn (huyện Đông Anh)... kỹ thuật đúc đồng đã bắt
đầu có đà phát triển: những mũi tên đồng, lưỡi rìu
đồng đã xuất hiện bên cạnh các công cụ bằng đá.
Cách đây trên hai nghìn năm, ở Núi Cả (thị xã
Phúc Yên), Vinh Quang và Chiền Vậy (huyện Hoài Đức), Gò
Chùa Thông (huyện Thanh Trì), Đình Tràng (huyện Đông
Anh)... dân cư đã đúc đồng thành thạo với hàng loạt
sản phẩm như rìu, đục, lưỡi cày, lưỡi câu, giáo,
loa, mũi tên, dao găm, vòng trang sức... Đặc biệt ở Gò
Chùa Thông có tìm thấy một lưỡi hái là lưỡi thứ hai
tìm thấy ở nước ta, một bằng chứng chắc chắn về
sự phát triển cao của nghề làm ruộng Lạc, ruộng lúa
nước (Lưỡi hái thứ nhất là ở Gò Mun, tỉnh Phú Thọ).
Tới khoảng dăm sáu trăm năm tr.c.n. và tiếp đến
đầu Công nguyên, làng mạc ở vùng Hà Nội bấy giờ mọc
lên nhiều hơn, qui mô cũng rộng hơn. Đó là Trung Mầu
(huyện Gia Lâm), Đường Mây và Cổ Loa (huyện Đông Anh),
Tam Hiệp (huyện Phúc Thọ), Tây Đằng (huyện Ba Vì)...
Dân cư những nơi đó không chỉ đã làm chủ kỹ thuật
đúc đồng mà còn biết nấu sắt2. Sắt
đã là vật liệu để tạo ra những lưỡi cuốc và nhiều
nông cụ khác. Theo đó nền công nghiệp (làm ruộng và
làm vườn) tất phải ở một trình độ phát triển khá
cao. Điều này hoàn toàn phù hợp với sự ghi chép của
các thư tịch dẫn bên trên.
Song những bằng chứng
thư tịch và hiện vật khảo cổ đó thực ra cũng chỉ
mới cho thấy những công cụ lao động, những vũ khí
cùng với những sản phẩm nông nghiệp và thủ công
nghiệp mà nhân dân ngày ấy làm ra. Còn như thời đại
đó là ở trong phương thức sản xuất nào, thuộc về
hình thái kinh tế - xã hội nào thì còn thiếu nhiều tư
liệu để khái quát, chỉ có thể đoán định rằng cuộc
đô hộ của bọn bành trướng phương Bắc với nhiều
phương thức bóc lột khác nhau đã làm chậm lại không
ít bước tiến của xã hội Âu Lạc.
Tuy nhiên, nếu
chấp nhận sự suy luận thì những con số thống kê nhân
khẩu và số hộ của bộ Giao Chỉ trong sách Tiền Hán
thư (đã nêu ở trên) cho phép biết thêm về tình hình
xã hội Giao Chỉ vào khoảng thời gian được đề cập
tới trong sách đó. Theo những con số này, vào thế kỷ
thứ nhất tr.c.n và những năm đầu Công nguyên, ở Giao
Chỉ đã thống kê được tới đầu người và đặc biệt
là đầu hộ. Như vậy đơn vị cơ sở của xã hội đã
là từng hộ gia đình. Gia đình nói ở đây là gia đình
nhỏ. Lấy con số nhân khẩu chia cho số hộ thì ở quận
Giao Chỉ ngày ấy mỗi hộ (tức gia đình) trung bình chỉ
có tám người (746237 : 92400 = 8 ). Rõ ràng đây là một
loại hình gia đình nhỏ3. Mà gia đình nhỏ
đã trở thành đối tượng thống kê - tức cũng là đã
trở thành những đơn vị tồn tại và phổ biến trong xã
hội - thì như vậy có nghĩa là chế độ thị tộc dựa
trên quan hệ dòng máu (huyết thống) đã tan rã. Đây là
một trong những dấu hiệu chứng tỏ rằng đến thời kỳ
trước và kế tiếp mốc Công nguyên - trong đó có thời
kỳ Hai Bà Trưng - thì đã qua đi rồi cái thời kỳ công
xã thị tộc. Lúc này công xã nông thôn hình thành do quan
hệ láng giềng (từ bao lâu thì chưa thể xác định) đã
trở nên phổ biến trong xã hội. (Công xã nông thôn gồm
những gia đình nhỏ, có thể cùng hoặc khác huyết thống
tập hợp lại trên một địa vực và do yêu cầu của
sản xuất - ở nước ta là trồng lúa nước - cũng như
yêu cầu tự vệ đã gắn bó với nhau thành láng giềng).
Và trong gia đình thì chế độ phụ quyền đã chiếm ưu
thế.
Thực tế có như vậy, bởi một khi đã xuất
hiện gia đình nhỏ tức là sức sản xuất đã lên cao,
xã hội đã bước vào thời kỳ trồng trọt phát triển.
Vì từ thị tộc mà tách ra được thành những gia đình
nhỏ thì nguồn sống xã hội nói chung là ổn định, gia
đình nhỏ đã có đủ khả năng tự túc về những nhu
cầu ăn mặc. Muốn được như thế, công cụ sản xuất
phải có hiệu quả lớn, không thể chỉ là bằng đá mà
phải là bằng kim khí sắc bén, có vậy mới đủ khả
năng đẩy mạnh nghề trồng trọt, bảo đảm nguồn sống
cho các thành viên của từng gia đình.
Sự đoán
định này được khảo cổ học hậu thuẫn: qua xác định
niên đại các di vật, ngành khảo cổ học đã nhất trí
nhận định rằng thời kỳ phát triển rực rỡ của đồng
thau và bước đầu chuyển sang đồ sắt - tức thời kỳ
cuối của giai đoạn văn hóa Đông Sơn - chính là khoảng
thời gian vài ba trăm năm trước và đầu mốc Công nguyên
mà thời kỳ Hai Bà Trưng là những năm tháng kết
thúc4.
_____________________________________
1.
Các tư liệu về hoa quả, cây trồng trích ở các sách
Trung Quốc cổ là dẫn theo Trần Quốc Vượng trong bài
“Mấy nét sơ lược về tình hình sản xuất nông nghiệp
Việt Nam thời Bắc thuộc”, Thông
báo Sử học - Nhà
xuất bản Giáo dục - Tập 1, năm 1963.
2. Tại di chỉ
Cổ Loa, bên cạnh những mũi tên đồng, có một số đồ
sắt. Vậy kỹ thuật luyện sắt đã xuất hiện trước
thời kỳ nước Âu Lạc, tức trước thế kỷ thứ 111
tr.c.n.. Tại di chỉ Gò Chiên Vậy (xã Kim Hoàng, huyện
Hoài Đức) có lưỡi cuốc sắt. Di chỉ này có niên đại
C.14 là 2350 ± 100 tức là khoảng thế kỷ thứ IV
tr.c.n.
3. Bản dịch sách Sơ
yếu lịch sử và văn hóa nguyên thủy
của M.O.Côsven (NXB Văn Sử Địa - 1958) gọi là gia tộc
cá thể.
4. Thuật ngữ “thời kỳ Hai Bà Trưng” dùng
trong sách này không chỉ là thời gian ba năm Trưng Vương
ở ngôi mà muốn chỉ cả nửa đầu thế kỷ thứ I sau
Công nguyên.
DƯỚI ÁCH CAI TRỊ
CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÔ HỘ
Như đã nêu ở trên, Triệu
Đà chia nước Âu Lạc làm hai quận Giao Chỉ và Cửu
Chân. Nhưng sau đấy tổ chức cai trị ra sao và tình hình
xã hội hai quận đó như thế nào thì tài liệu rất
nghèo nàn. Chỉ có thể biết một cách đại thể là
Triệu Đà không xóa bỏ thiết chế sẵn có của nhà nước
Âu Lạc, tức là vẫn duy trì chế độ lạc tướng, vẫn
để các lạc tướng giữ quyền thế tập mà cai quản
các bộ lạc của mình. Ở mỗi quận, Triệu Đà chỉ đặt
một chức điển sứ coi việc chung, chủ yếu là
kiểm soát và đôn đốc các lạc tướng đóng nộp cống
phẩm. Bên cạnh điển sứ còn có chức tả tướng
phụ trách lực lượng vũ trang đồn trú. Như vậy, một
điều rất có ý nghĩa là chính việc Triệu Đà không dám
cai trị trực tiếp Âu Lạc - như đối với Lưỡng Quảng
- đã nói lên rằng nước Âu Lạc từng có một cơ cấu
nhà nước với những chế thiết riêng biệt ổn định,
hình thành trên cơ sở ý thức dân tộc khá vững chắc.
Phương thức bóc lột chủ yếu ở thời kỳ này
là cống nạp các vật lạ của quí của Âu Lạc: đồi
mồi, châu ngọc, sừng tê, ngà voi và các đặc sản nhiệt
đới như hoa quả, hương liệu... Không có tài liệu gì
nói vế đời sống nhân dân ngày ấy nhưng điều có thể
khẳng định được là nhân dân Âu Lạc lần đầu tiên
gánh chịu thêm ách bóc lột của ngoại bang thì cuộc
sống hẳn phải cơ cực và tủi nhục. Ngoài việc phục
vụ các quí tộc bản địa, họ còn phải săn bắt tìm
kiếm những của báu, vật lạ để cống nạp bên cạnh
việc thường xuyên phải đóng góp những sản phẩm chăn
nuôi, trồng trọt và thủ công. Trong hoàn cảnh như vậy
thì dù là đang ở trong một hình thái kinh tế - xã hội
nào, nhân dân Âu Lạc cũng khó có thể phát triển sản
xuất.
Nhà Tây Hán, sau khi diệt nhà Triệu, đã áp
dụng chế độ quận huyện như ở Trung Quốc, tức là
chia mỗi quận ra làm một số huyện, đứng đầu mỗi
huyện là chức huyện lệnh (đối với huyện có
trên một vạn hộ, còn huyện có số hộ dưới một vạn
thì đặt chức huyện trưởng) do triều đình bổ
dụng. Nhưng ở Giao Chỉ (và cả ở Cửu Chân, Nhật Nam)
nhà Hán coi mỗi bộ lạc hoặc một liên minh bộ lạc là
một huyện và vẫn để các lạc tướng cai trị với
quyền thế tập như cũ, chỉ đổi danh hiệu ra là huyện
lệnh (hoặc huyện trưởng) mà thôi. (Hậu Hán thư
có ghi là “để lạc tướng cai trị dân như cũ” và
“dùng tục cũ mà cai trị”). Như vậy là trên đại
thể, Tây Hán vẫn duy trì phương thức cai trị của nhà
Triệu, dù nguồn bóc lột không phong phú bằng phương
thức trực tiếp cai trị nhưng lại ít động chạm đến
quyền lợi của quí tộc bản địa, tức là ít gây mâu
thuẫn giữa chính quyền đô hộ với giai cấp thống trị
địa phương.
Ngoài ra, điều đó một lần nữa
nói lên rằng tính bền vững của cộng đồng dân Âu Lạc
đã khiến nhà Tây Hán không thể nhất loạt áp dụng chế
độ quận huyện như ở Trung Quốc.
Cai quản mỗi
quận là chức thái thú, có thêm chức đô úy
chỉ huy số quân sĩ đồn trú để trấn áp nhân dân khi
cần.
Đứng đầu bộ Giao Chỉ (đến năm 203 đổi
gọi là Giao Châu) là viên thứ sử (có lúc gọi là
châu mục). Nhưng thứ sử không cai trị trực tiếp
mà chỉ giám sát các quan lại ở các quận. Hàng năm vào
tháng tám, thứ sử đi tuần tra xem xét công việc cai trị
của các thái thú. Sang đầu năm sau, y về kinh đô tâu
trình. Như vậy thái thú là người thay mặt trực tiếp
chính quyền đô hộ và có toàn quyền cai trị dân bản
xứ. Hàng năm thái thú thu cống phẩm đưa tiến về
triều.
Ban đầu có lẽ nhà Tây Hán chưa thu thuế,
vì Sử ký (q 30) của Tư Mã Thiên có ghi “lương ăn
vật dụng của quan lại sĩ tốt đều chở từ các quận
cũ tới”. Như vậy là ở địa phương Giao Chỉ, Cửu
Chân, Nhật Nam không có thuế lúa hoặc có nhưng chẳng
bao nhiêu. Phương thức bóc lột cơ bản vẫn là cống
nạp. Cống phẩm vẫn là các của quí, vật lạ. Và nguồn
tai họa cho nhân dân cũng vẫn là do đó mà ra. Vì để có
những cống phẩm ấy, nhân dân Âu Lạc lại vẫn phải
chịu bao cay đắng và tội vạ, phải xông pha lam chướng,
xuống biển, lên rừng. Nhưng dần về sau, sự áp bức
bóc lột còn tăng lên mạnh hơn. Nạn gánh chịu phu phen
tạp dịch, xây cất thành lũy, công thự, tư dinh... ngày
một nặng nề. Rất nhiều người biến thành nô tì phục
vụ bọn quan lại đô hộ, thậm chí biến thành món hàng
đổi trao mua bán. Tiền Hán thư (phần biểu q.2) có
chép: “Vào năm Ngũ Phượng thứ 4 (tức 54 tr.c.n.), hầu
tước Ích Xương can tội khi làm thái thú Cửu Chân trộm
sai người mua nô tì và sừng tê, tang vật trị giá trên
trăm vạn”. Hẳn đây không phải là một trường hợp
duy nhất.
Ngoài ra để việc kiểm soát nhân dân Âu
Lạc thêm chặt chẽ. Tây Hán dùng chính sách “trồng
người”. Hậu Hán thư (q.86) ghi: “Dời những tội
nhân Trung Quốc cho ở lẫn với họ. Như thế là vừa để
chế ngự, vừa đồng hóa người bản địa. Cho nên nhân
dân Âu Lạc đã phản ứng lại”. Sử ký (q.30) và
Tiền Hán thư (q.24) còn ghi: “Đối với những quận
mới chinh phạt (tức Giao Chỉ và Cửu Chân) quan lại quân
sĩ Trung Quốc phần nhiều xâm phạm, vì vậy dân thường
nổi lên giết quan lại nhà Hán”.
Trong khoảng một
trăm năm trước Công nguyên, đại thể sự cai trị của
nhà Tây Hán là như vậy. Tới những năm đầu Công
nguyên, nhà Tây Hán lâm vào cơn khủng hoảng. Nông dân
Trung Quốc nổi lên khắp nơi. Lợi dụng tình hình đó,
vào năm 8, Vương Mãng cướp ngôi vua, lập ra nhà Tân. Rất
nhiều quí tộc, quan lại, sĩ phu mà quyền lợi gắn bó
với nhà Hán đã chống lại Vương Mãng. Một số chạy
sang Giao Chỉ. Bọn này bổ sung thêm “quân số” cho bộ
máy đô hộ, góp phần quan trọng vào công cuộc đồng
hóa mà chính quyền Tây Hán đã thực hiện, đồng thời
đẩy mạnh quá trình chiếm đoạt ruộng đất của các
cộng đồng người Âu Lạc, lập ra những trang trại
riêng nằm ngoài vòng kiểm soát của các lạc tướng
huyện lệnh.
Năm 23, Lưu Tú diệt Vương
Mãng rồi sau đó lên ngôi vua tức Quang Vũ Đế (25-56),
tái lập nhà Hán. Sau này sử sẽ gọi đó là nhà Đông
Hán hoặc Hậu Hán (25-220).
Hán Quang Vũ ra sức tăng
cường quyền lực ở các địa phương xa. Trước đó
hàng năm thứ sử tự mình về kinh đô báo cáo tình hình
cai trị ở các quận thì từ bấy giờ phải ở luôn tại
trị sở, dù có tang cha mẹ cũng không được bỏ chức,
hàng năm chỉ cử một viên kế lại về thay. Cũng từ
đấy thứ sử được giao thêm chức năng cai trị chứ
không chỉ thanh tra như trước. Và một số chức vụ gọi
là tòng sự sử được đặt ra để trông coi công
việc cai trị giúp thứ sử như công tào tòng sự sử
coi việc dân chính, binh tào tòng sự sử coi việc
binh v.v...
Coi giữ các quận vẫn là thái thú nhưng
có đặt thêm chức quận thừa để giúp việc. (Các
quận ở xa có thêm chức trưởng sử). Về mặt
quân sự, trước đó ở mỗi quận có viên đô úy
trông coi lực lượng vũ trang đồn trú, chức phó là đô
úy thừa. Năm Kiến Vũ thứ 6 (năm 30) có lệnh bãi hai
chức này mà giao cho thái thú kiêm giữ. Như vậy là quyền
lực của thái thú được nâng cao hơn trước. Do đó bộ
máy giúp việc thái thú cũng được bổ sung: dưới thái
thú và quận thừa có đặt các chức duyện sử
chuyên trách từng phần việc dân, chính, quân sự... như
nơi nào có muối thì thêm chức diêm quan, nơi nào
có nghề rèn sắt thì thêm chức thiết quan v.v...
Còn ở cấp huyện thì vẫn là huyện lệnh, huyện
trưởng - vốn là lạc tướng - cai quản nhưng hẳn là bị
thắt buộc hơn trước và quyền lực (cả quyền lợi
nữa) cũng có bị thu hẹp, giảm sút.
Nói chung ở
Giao Chỉ và các quận khác, tới thời Đông Hán ách trực
trị ngày một rõ hơn. Bộ máy cai trị được bổ sung và
tổ chức lại chặt chẽ hơn. Để đủ cung cấp lương
thực và phát lương cho các quan lại, binh lính, chính
quyền đô hộ phải tăng cường bóc lột. Việc đánh
thuế đã là hiển nhiên và tất phải đều đặn, ráo
riết1. Cuộc sống nhân dân bị gò bó,
khốn đốn hơn, lao dịch nặng nề hơn, việc sách nhiễu
tăng lên, ruộng đất của các bộ lạc, các cộng đồng
bị bao chiếm nhiều nên số người dân Âu Lạc trở
thành nông nô, nô tì cho bọn quan lại quí tộc Trung Quốc
cũng đông lên. Đời sống của họ càng cơ cực vì ách
bóc lột trực tiếp của bọn địa chủ ngoại tộc mới
này rất nặng nề và tàn bạo.
Trong khoảng thời
gian ấy, ở Giao Chỉ, Tích Quang sang làm thái thú (từ
những năm đầu Công nguyên). Còn ở Cửu Chân thì Nhâm
Diên giữ chức thái thú từ năm 25. Các pho sử Trung Quốc
đều ca ngợi hai viên này. Như Hậu Hán thư (q.86)
chép: “Đời Quang Vũ, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ,
Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân, dạy cho dân biết cày
cấy, chế tạo mũ giày, bắt đầu đặt mối lái, dân
mới biết hôn nhân. Dựng học hiệu, dạy dân lễ nghĩa”.
Hoặc: “Đời Bình Đế (1-5 s.c.n.), Tích Quang sang làm
thái thú Giao Chỉ, dạy dân Di (chỉ dân Âu Lạc lúc bấy
giờ - N.V.P) dần hóa theo lễ” (q.760). Và: “Diên khiến
đúc chế điền khí, dạy dân khai khẩn ruộng đất”
(q.76).
Đó chỉ là những dòng phóng đại vừa để
đề cao bọn quan lại đô hộ và tô điểm cho chính sách
cai trị của nhà Hán, lại vừa để xuyên tạc hạ thấp
trình độ văn minh của nhân dân ta ngày ấy. Vì không
phải đợi đến hai viên thái thú dạy bảo thì người
Âu Lạc mới biết cày cấy. Giao Châu ngoại vực ký
chẳng đã từng ghi “Giao Chỉ khi chưa có quận huyện
(tức trước khi thuộc Hán) đã có ruộng Lạc” đó sao!
Còn việc đúc điền khí thì khảo cổ học đã cho biết
rằng trước Công nguyên hàng bốn, năm thế kỷ người
dân nước Văn Lang đã có những nông cụ bằng đồng và
cả bằng sắt nữa, như lưỡi cày, lưỡi cuốc, lưỡi
hái... Có điều là cách canh tác cấy trồng của người
Việt khác với canh tác của người Hán. Bọn Tích Quang,
Nhâm Diên muốn xóa bỏ tập quán này của người Âu
Việt, Lạc Việt thay thế bằng kiểu cách Hán hòng thủ
tiêu đặc tính dân tộc của người Việt.
Còn
việc gọi là “chế tạo mũ, giày, bắt đầu mối lái,
biết hôn nhân, dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa” thì
thực chất là sự truyền bá Nho giáo vào xã hội Âu Lạc,
làm cơ sở cho ý thức hệ phong kiến. Đó chính là thực
hiện chủ trương đồng hóa, cưỡng bức dân ta theo phong
tức lễ nghi phong kiến Hán tộc, từ việc ăn mặc đến
việc cưới xin. Ngoài mục đích đó, việc mở trường
học còn nhằm đào tạo thuộc viên và nô dịch hóa lớp
thanh niên đương thời. Riêng việc “đặt mối lái, dân
mới biết hôn nhân” thực ra thì là áp đặt những lễ
nghi phong kiến phiền toái. Vì như đã nêu ở trên (mục
II) vào thời kỳ này thì chế độ phụ hệ đã được
xác lập. Gia đình một vợ một chồng đã thay thế chế
độ quần hôn, theo đó việc cưới xin tất đã có rồi,
có điều là theo phong tục người Việt và dĩ nhiên là
xa lạ với người Hán2.
Tóm lại,
những chính sách của Tích Quang, Nhâm Diên chỉ là “nhằm
củng cố và mở rộng thế lực thống trị của phong
kiến, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất phong
kiến thực dân, phát triển những hình thái ý thức phong
kiến”3 đặng tăng cường bóc lột và
đẩy mạnh đồng hóa, cưỡng bức nhân dân Âu Lạc theo
văn hóa phong kiến Trung Quốc.
Sự tình này làm cho
mâu thuẫn giữa nhân dân Âu Lạc và chính quyền đô hộ
thêm gay gắt. Nhất là ở Giao Chỉ, do trình độ sinh
hoạt, trình độ sản xuất cao hơn Cửu Chân, Nhật Nam
(Cửu Chân phải mua lúa của Giao Chỉ) nên chính sách bóc
lột và đồng hóa của chính quyền đô hộ bị phản ứng
mạnh hơn. Tới năm Kiến Vũ thứ 10 (năm 34), sau khi Tô
Định sang làm thái thú Giao Chỉ thì cộng với sự tham
lam tàn bạo của hắn, ách thống trị của nhà Đông Hán
đối với dân Giao Chỉ là không thể chịu đựng được
nữa.
Điều đáng chú ý là lúc này nhà Hán đang ở
thế hưng thịnh. Hán Quang Vũ kiêu hãnh với hàng loạt
chiến công trong và ngoài nước: dẹp Vương Mãng, chiếm
Tây Vực, Triều Tiên, thông thương với Ấn Độ, tiếp
xúc với La Mã... Tên vua “hiếu đại hí công”
này không muốn để Âu Lạc tồn tại một cách lỏng lẻo
- như một thế kỷ qua - trong đế quốc Đại Hán mà muốn
đồng hóa nhanh chóng triệt để bằng mọi cách, kể cả
vũ lực. Tô Định chính là kẻ thực hiện chính sách đó.
Bên cạnh việc ra sức bóc lột dân chúng, hắn ta tiến
hành diệt trừ những người có uy tín và khả năng tập
hợp dân chúng chống quân Hán, tức là các lạc tướng -
huyện lệnh. Việc giết hại Thi Sách là một dẫn chứng.
Cho nên lúc này là thời điểm đụng đầu lịch sử
quyết liệt. Người Âu Lạc có cam chịu để người Hán
đồng hóa không? Phải trả lời dứt khoát! Và người Âu
Lạc đã trả lời bằng hàng động: mọi người, bắt
đầu từ quận Giao Chỉ, đã nổi dậy chống lại cường
quyền, cuốn theo các quận láng giềng lên đường tranh
đấu để rồi qui tụ lại thành Cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng lở đất long trời làm sụp đổ hoàn toàn
hệ thống cai trị mà nhà Hán đã thiết lập ở bộ Giao
Chỉ trên một thế kỷ
qua.
_____________________________________
1.
Sẽ trở lại vấn đề này ở Chương
ba.
2. Theo Lĩnh
Nam chích quái thì
đời Hùng Vương đã có hôn nhân và “việc hôn nhân lấy
gói muối (hoặc gói đất) làm đầu”. Đó là một tục
lệ trong nghi thức của hôn nhân thời ấy. (Xem thêm bài
“Việc hôn nhân lấy gói đất làm đầu” của tác giả
Nhâm Tuyết trong Hùng
Vương dựng nước
- Tập III - 1973).
3. Lịch
sử chế độ phong kiến Việt Nam
- Tập 1 - Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn - tr.39.
Chương Hai
HAI
BÀ TRƯNG
DÒNG DÕI
Các sử sách (của ta và của
Trung Quốc) đều chép Hai Bà Trưng là con gái lạc tướng
Mê Linh. Toàn thư có ghi chú thêm Hai Bà là
dòng dõi Hùng Vương. Nhưng tên họ của vị lạc tướng
đó thì không có sách nào đưa ra cả. Chỉ trong các thần
tích của những làng có lệ thờ Hai Bà và thân thích thì
có ghi, nhưng sự ghi chép đó không thống nhất: ngọc phả
làng Hát Môn (nay thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây)
ghi là Hùng lạc tướng; ngọc phả làng Nại Tử Xã (nay
thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) ghi là Trưng Nghĩa
Dũng; ngọc phả làng Hạ Lôi (nay thuộc huyện Mê Linh)
ghi là Hùng lạc tướng quân; ngọc phả làng Nam An (nay
thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) lại chép: “Nguyên là
Hùng Định sau đổi là Trưng Định”.
Chỉ là họ
tên được ghi trong các thần tích mà lại không thống
nhất và nhất là không có một dấu tích vật chất làm
hậu thuẫn nên những tính danh trên chỉ có thể coi là
những thông tin huyền thoại. Có lẽ cũng do quan niệm vấn
đề như thế mà các sử thần nhà Nguyễn ở nửa cuối
thế kỷ XIX, khi soạn bộ Cương mục, dù họ
tất là đã đọc các thần tích ngọc phả đó nhưng vẫn
thận trọng không đưa vào pho sử ấy.
Cho nên trong
điều kiện tư liệu hiện nay, chỉ có thể phát biểu
rằng cha của Hai Bà Trưng thuộc dòng dõi các vua Hùng,
đời đời thế tập cai quản bộ lạc Mê Linh (từ thời
thuộc Hán gọi là huyện Mê Linh) vốn thuộc đất bản
bộ của tổ tiên. (Vì Việt sử lược có
chép rằng Hùng Vương là người bộ Gia Ninh, vậy mà Gia
Ninh thì chính là tên gọi của một huyện sau này tách từ
huyện Mê Linh ra).
Về bà mẹ của Hai Bà thì chỉ
có thần tích, ngọc phả ghi chép họ tên nhưng cũng thiếu
sự nhất trí. Ngọc phả làng Hạ Lôi ở huyện Mê Linh,
ghi tên bà là Trần Thị Đoan nhưng không nói là bà quê
quán ở đâu. Ngọc phả làng Nại Tử Xã cũng ở huyện
Mê Linh lại chép tên họ bà là Hoàng Thị Đào và cũng
không có dòng nào nói về quê quán của bà. Trong khi đó,
ngọc phả làng Nam An nay thuộc huyện Ba Vì lại khẳng
định tên bà là Man Thiện và nhận làng này là quê hương
bản quán của bà.
Với tình trạng thiếu thốn tư
liệu như hiện nay thì không thể kết luận bản nào chép
đúng, bản nào chép sai. Tuy vậy có điều khá rõ là ở
Hạ Lôi và Nại Tử Xã (huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc)
thì không có đền thờ bà và cũng không có một dấu
tích hoặc một truyền thuyết nào kể về bà. Ngược lại
ở Nam An (huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) thì có cả một hệ
thống truyền thuyết và còn lưu giữ nhiều dấu tích:
Nhân dân Nam An còn kể lại nhiều chuyện về bà
Man Thiện, đại lược là bà vốn con nhà tướng, sớm
góa bụa nhưng nuôi dạy hai cô con gái rất chu đáo. Sau
này khi hai con dấy binh, bà đã đi vận động các lạc
tướng lân cận hưởng ứng. Tới khi Mã Viện xâm lược,
bà tổ chức kháng chiến ở cửa sông Hát và đã hy sinh
trong một trận chiến trên sông. Thi hài bà được các
gia tướng vớt lên an táng ở quê nhà, chỗ nay gọi là
gò Mả Dạ, cách đường quốc lộ 11A (nay gọi là đường
32) một đoạn ngắn về phía đê sông Hồng. Sau đó dân
làng còn lập một ngôi miếu ở cạnh gò để thờ bà,
gọi tên là Miếu Mèn. Theo dân làng giải thích thì Mèn
là một chữ cổ có nghĩa là mẹ và Dạ cũng là
một chữ cổ chỉ người đàn bà đáng kính1.
Lời giải thích đó rất có cơ sở. Vì theo những công
bố mới nhất về nhân chủng học và ngôn ngữ học lịch
sử thì vào đầu Công nguyên tức thời kỳ Hai Bà Trưng,
người Lạc Việt chưa chia ra hai nhánh Kinh và Mường như
ngày nay. Người Lạc Việt ngày ấy nói một thứ tiếng
gọi là ngôn ngữ Việt - Mường. Cho nên tiếng Kinh và
tiếng Mường rất giống nhau trên đại thể ngữ pháp và
từ vựng cơ bản. Trở lại vấn đề Mả Dạ và Miếu
Mèn thì ở tiếng Mường chữ Dạ đúng là chỉ
người đàn bà đáng trọng nể và tuy không có chữ Mèn
với nghĩa là mẹ nhưng có chữ Máng với nghĩa ấy.
Biết đâu chữ Man trong Man Thiện và chữ Mèn trong Miếu
Mèn lại chẳng là chữ Máng đọc chệch đi.
Dầu
sao, Nam An là nơi duy nhất có mộ và miếu thờ bà mẹ
của Hai Bà Trưng, lại có cả sự tích được lưu truyền
từ bao đời. Nơi đây nhận là quê của bà mẹ đáng
kính ấy không phải là vô căn cứ. Vậy Nam An có nhiều
khả năng là quê hương của bà và theo đó tên bà phải
là Man Thiện.
______________________________________
1.
Hà Kỉnh – Bà Man
Thiện - Danh nhân
quê hương - Tập II - Ty Văn hóa Hà Tây - 1974.
NĂM SINH
Trưng Trắc và Trưng Nhị là chị em ruột. Chính sử
không ghi năm sinh cũng như tuổi tác của cả hai bà. Ngọc
phả làng Hạ Lôi (huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) cũng
như ngọc phả làng Hát Môn (huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà
Tây) chép hai bà là chị em sinh đôi, ngày sinh là mùng 1
tháng tám năm Giáp Tuất tức năm 14. Niên đại này có
thể chấp nhận được, vì khi khởi nghĩa (năm 40) Hai Bà
Trưng đều 26 tuổi.
Thiên nam ngữ lục1
kể rằng bà Trưng Trắc khi tuổi vừa “đôi tám” thì
làm bạn với Thi Sách. Vài năm sau, bà cùng chồng mưu
việc lớn. Như vậy, khi khởi nghĩa bà cũng là đang ở
trong lứa tuổi thanh niên.
Riêng ngọc phả làng Nam
An thì lại ghi bà chị hơn bà em năm tuổi. Như vậy bà
Trưng Nhị sinh vào năm 19(?).
Thần tích phả làng
Nại Tử Xã (nay thuộc xã Chu Phan, huyện Mê Linh) thì lại
không hề nhắc gì tới Trưng Nhị và ghi ngày sinh của bà
Trưng Trắc là ngày 10 tháng tư2.
Như
vậy là giữa các thần tích không có sự nhất trí về
ngày tháng năm sinh của Hai Bà Trưng và những con số ngày
tháng đó rõ ràng là không có gì đảm bảo tính chính
xác cả. Nhưng trong thực tế, ở bốn làng trên, chỉ có
Hạ Lôi và Hát Môn mới có đền thờ Hai Bà Trưng và
việc cúng lễ đều lấy ngày mùng 1 tháng tám làm ngày
đản (tức ngày sinh), cho nên ngày tháng này được nhiều
người biết và có xu hướng công nhận như một ước
lệ.
HỌ TÊN
Về họ tên của Hai Bà cũng có vấn đề phải trao
đổi. Việt điện u linh chép Hai Bà “nguyên
họ Lạc”3.
Lĩnh Nam chích quái
chép “vốn dòng họ Hùng”4.
Toàn
thư chép “nguyên họ Lạc”, sau khi lấy được
65 thành Lĩnh Nam “tự lập làm vua mới xưng là họ
Trưng”5.
Cương mục
chép “vốn họ Lạc, lại có họ riêng (biệt tính) là
Trưng”6.
Về hai tộc danh “Lạc”
và “Hùng”, nếu như ở đây không phải là sự lẫn
lộn mặt chữ tương tự sự lẫn lộn giữa Hùng Vương
và Lạc Vương mà một thời các nhà sử học đã tranh
luận thì có thể đoán định nguồn gốc như sau:
1.
Sở dĩ có tộc danh Lạc là do Hai Bà là con của Lạc
tướng. Đó là lấy chức danh làm tộc danh.
2. Còn
tộc danh Hùng thì có thể do chỗ Hai Bà Trưng là
dòng dõi Hùng Vương.
Tất nhiên dù là chữ nào thì
cũng đều là phiên âm những từ Việt cổ mà ngữ nguyên
và ngữ nghĩa đã bị thời gian hai ngàn năm xóa mờ đi
trong vốn hiểu biết của người ngày nay. Ví dụ chữ
Hùng có thể là phiên âm một từ Việt cổ tương ứng
tới từ cun trong tiếng Mường hoặc từ khun
trong tiếng Thái, cả hai từ đều có nghĩa là người
đứng đầu một lãnh địa.
Về tộc danh “Trưng”
cũng có vấn đề cần xem xét. Ngay từ năm 1937, Cl. Mađrôn
trong luận văn “Xứ Bắc kỳ cổ “ (Le Tonkin ancien) in ở
B E F E O, tập XXXVII có ý cho rằng chữ Trưng không phải
là chỉ họ. Ông vốn chủ trương vào đầu Công nguyên,
người Việt chưa có họ.
Thực ra trong câu văn của
Toàn thư (dẫn ở trên) có một chi tiết đáng
quan tâm: sau khi làm vua, bà Trưng Trắc “mới xưng là họ
Trưng”. Như vậy rất có thể Trưng là một từ Việt cổ
tương đương với “ngôi vua” hoặc “thủ lĩnh” gì
đó.
Ông Phạm Huy Thông cho rằng chữ Trưng có thể
liên quan với chữ kurung là một tiếng Môn-Khơme,
chỉ vua nước Phù Nam, một nước thời cổ mà khu vực
trung tâm là nước Căm-pu-chia ngày nay7.
Chúng
tôi thì thấy trong tiếng Khơme hiện nay vẫn còn có chữ
tô ruông với nghĩa là vua. Không biết giữa chữ đó
với chữ Trưng có mối liên hệ gì không? (Một thực tế
là trong tiếng Việt của người Kinh có nhiều từ gốc ở
tiếng Môn-Khơme).
Còn về tên của Hai Bà thì
mọi sử sách của ta và của Trung Quốc cổ cũng như các
thần tích ngọc phả đều chép là Trắc và Nhị. Trong
chữ Hán Việt, Trắc có nhiều nghĩa: bên cạnh,
nghiêng, thấp, riêng. Nhị cũng có nhiều nghĩa: thứ
hai, chức phó, nghi ngờ, sai lầm. Có thể do hiểu chữ
Trắc theo nghĩa bên cạnh nên ngọc phả làng Nại
Tử Xã (đã nói tới ở trên) có kể rằng: “Bà mẹ nằm
mơ thấy một ông lão dẫn một cô gái đứng bên cạnh
giường (lập ư sàng trướng chi trắc) nên sau khi sinh bà
đặt tên cho con là Trắc”. Đó chỉ là một cách giải
thích theo từ nguyên học thông tục vốn rất quen thuộc
đối với các nhà Nho xưa (ví dụ Giao Chỉ là ngón
chân giao nhau, Văn Lang là chàng vẽ mình, xăm
mình...)
Riêng thần tích làng Lâu Thượng (nay thuộc
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) lại kể khác. Năm
1942, trên tạp chí Tri Tân số 42, ông Hoa Bằng có giới
thiệu thần tích này, chủ yếu là khẳng định tên của
Hai Bà là Chắc và Nhì. Theo văn bản đó thì mẹ của Hai
Bà có nghề chăn tằm, nghề này gọi cái kén dày là kén
chắc, kén mỏng là kén nhì. Khi sinh Hai Bà Trưng, mẹ lấy
luôn hai tiếng đó mà đặt làm tên con.
Ông Trần
Quốc Vượng cũng có đề ra một thuyết mới: “Tên
Trưng Trắc thời cổ phải phát âm là Mling Mlak (hay Bling
Blak)... với tên đất, tên bộ lạc (...) được lấy làm
tên họ”. Hùng Vương dựng nước - tập 1 - Bài
“Từ truyền thuyết ngôn ngữ đến lịch sử” - NXB
Khoa học xã hội - 1970. Nhưng Cl. Madrôn khi bàn về chữ
Mê Linh có cho rằng đó là phiên âm một từ bản địa
không có từ tương đồng trong tiếng Hán, từ đó có thể
là Mlinh hay Mring (B E F E O - Tập XXXVII). Vậy Mling là Mê
Linh hay là Trưng cũng còn phải thảo luận.
Dù sao
thì cách gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị đã quá quen thuộc
trong dân gian cũng như trên các sử sách xưa và nay. Cách
gọi đó đã trở thành chính
thống.
______________________________________
1.
Đây là một cuốn diễn ca lịch sử, khuyết danh, ra đời
khoảng thế kỷ XVIII, nội dung phần lớn là dựa vào
truyền thuyết dân gian. Đã có bản phiên âm ra chữ quốc
ngữ của Nguyễn Lương Ngọc - Đinh Gia Khánh. NXB Văn
hóa.
2. Trong sách này, những tháng viết cả chữ - chứ
không bằng số - đều là tháng âm lịch.
3. Bản dịch
của Trịnh Đình Rư - tr.22 - NXB Văn hóa.
4. Bản dịch
của Đinh Gia Khánh - Nguyễn Ngọc San - tr.62 - NXB Văn
hóa.
5. Bản dịch đã dẫn - tr.91.
6. Bản dịch của
Viện Sử học - tr.82 - NXB Văn sử địa.
7. “Văn
hiến 4000 năm” -
Báo Đại đoàn kết
số 4-4-1977.
GIA ĐÌNH
THI
SÁCH
Các sử của Trung Quốc như Hậu Hán thư, Việt
kiệu thư, An Nam chí... đều chép chồng bà
Trưng Trắc là Thi Sách. Như vậy, theo cách hiểu thông
thường ông này họ Thi tên Sách. Duy có Thủy kinh
chú chép như sau: “Hậu, Chu Diên lạc tướng tử
danh Thi Sách Mê Linh lạc tướng nữ danh Trưng Trắc”.
Nghĩa là: “Sau, con lạc tướng Chu Diên tên là Thi Sách
con gái lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc”. Do trong
câu đó thiếu một động từ chỉ việc lấy (con
lạc tướng Mê Linh) - ví dụ như động từ thú
chẳng hạn - nên có người cho rằng chữ Sách ở trong
câu là động từ với nghĩa là cầu lấy: theo đó
chồng bà Trắc tên là Thi chứ không phải Thi Sách. Hiểu
như vậy chưa ổn. Đành rằng chữ sách có nhiều
nghĩa: cái dây, tìm mời, xin, đòi, cầu lấy... nhưng
chúng tôi cho rằng đây chỉ là Thủy kinh chú
chép sót một chữ, vì chẳng nhẽ mọi sử sách (Hậu
Hán kỷ, Hậu Hán thư là những sách có trước
Thủy kinh chú và Việt sử lược, Toàn
thư... là những sách của ta) đều chép sai cả
sao? Còn như các thần tích, ngọc phả thì lại có nhiều
chỉ dẫn hơn, như ngọc phả làng Nại Tử Xã là nơi thờ
Thi Sách làm thành hoàng, có kể rằng: “Thi Sách họ
Dương, là con trai huyện lệnh Chư Diên Dương Thái Bình.
Mẹ là bà Hồ Thị Nhữ”. Hoặc theo lời truyền miệng
ở làng Hạ Lôi (huyện Yên Lăng cũ nay là huyện Mê Linh)
thì Thi Sách lại là họ Đặng1. Thực ra
Dương hay Đặng cũng đều là thêm thắt. Có lẽ do thấy
tộc danh Thi quá hiếm nên người ghi thần tích và người
kể chuyện đã thêm vào như vậy.
Về vai trò của
Thi Sách trong cuộc khởi nghĩa cũng như về cái chết của
ông thì sử sách ghi chép cũng khá phân tán. Hầu hết sử
Trung Quốc trước sau đều không nhắc tới Thi Sách trong
cuộc khởi nghĩa. Như Hậu Hán thư chỉ cho
biết Trưng Trắc là vợ Thi Sách rồi tiếp đó khi viết
về cuộc khởi nghĩa, toàn nói đến Trưng Trắc mà không
hề nhắc tới Thi Sách. Có thể hiểu là Thi Sách đã chết
(hoặc bị giết) trước hoặc ngay khi khởi nghĩa bùng nổ.
Riêng có Thủy kinh chú (q.37) chép khác hẳn:
“Trưng Trắc là người can đảm, dũng mãnh, cùng Thi khởi
loạn, đánh phá châu quận, các lạc tướng đều theo.
Trưng Trắc làm vua đóng ở Mê Linh, lấy được (hoặc
tha)2 thuế trong hai năm của dân hai quận
Giao Chỉ, Cửu Chân. Nhà Hậu Hán sai Phục Ba tướng quân
Mã Viện đem quân đánh... Trắc và Thi chạy vào Kim Khê
cứu, ba năm mới bắt được”. Như vậy Thủy kinh
chú là sách duy nhất chép Thi Sách cùng vợ khởi
nghĩa, sau ba năm mới lại cùng vợ bị bắt3.
Sử Việt Nam thì đều chép Thi Sách bị Tô Định
giết hại trước khi khởi nghĩa nổ ra. Thiên nam ngữ
lục ghi chi tiết hơn: hai vợ chồng Thi Sách “giận
thằng Tô Định gian manh”, muốn mưu đồ việc lớn.
Nhưng Tô Định lại cất binh đánh thành Chu Diên trước.
Thấy thế giặc mạnh Thi Sách khuyên Trưng Trắc đi tắt
về Hát Môn vì:
Hát Môn có thế
dụng binh
Sông sâu làm cứ, rừng xanh làm nhà
Bà nghe theo, về Hát Môn đắp
thành lũy đề phòng. Ở Chu Diên, Thi Sách một mình chống
cự. Song do “quan phòng sơ xuất” nên để Tô Định phá
được thành, Thi Sách chết tại trận.
Như thế
cũng là Thi Sách bị hại trước khi Hai Bà Trưng khởi
nghĩa. Xem sự tích một số nhân vật có tham gia vào phong
trào đấu tranh đánh đuổi giặc Hán thì Tô Định còn
giết hại nhiều lạc tướng, hào trưởng ở các địa
phương khác trong quận Giao Chỉ. Cho nên việc giết Thi
Sách cũng là điều có thể xảy ra.
Thần tích làng
Nại Tử Xã có một số chi tiết cụ thể hơn: “Tô Định
đem quân tới thành Chu Diên đánh Thi Sách. Thành bị hạ,
Thi Sách chạy ra ngoài, đến Nại Tử Xã thì bị giặc
đuổi kịp sát hại. Đó là ngày 11 tháng Chạp. Còn bà
Trưng Trắc thì chạy về Mê Linh, sau đó dựng cờ khởi
nghĩa...” Không biết có làng nào nữa nhận là nơi Thi
Sách bỏ mình không?
Về quê quán của Thi Sách thì
sử cũ và thần tích đều nhất trí là ở Chu Diên. Nhưng
xác định vị trí cụ thể của huyện này thì còn nhiều
khúc mắc.
Chu Diên nguyên là một trong 15 bộ họp
thành nước Văn Lang của các vua Hùng. Đời Hán thuộc,
Chu Diên là một trong số mười huyện họp thành quận
Giao Chỉ, Dư địa chí của Nguyễn Trãi (soạn
vào năm 1435) chỉ định: “Chu Diên là huyện Yên Lãng”4
(Huyện này, từ năm 1977 đổi tên là Mê Linh).
Vân
đài loại ngữ của Lê Quí Đôn (hoàn thành năm
1773) ở phần Khu vũ, điều 85 có ghi: “Phong Khê thì ở
đất Yên Lãng”5. Như vậy là đã có mâu
thuẫn vì huyện Phong Khê là một phần đất do Mã Viện
tách từ huyện Tây Vu ra từ năm 43. Mà Tây Vu và Chu Diên
là hai huyện song song tồn tại trong quận Giao Chỉ. Vậy
Yên Lãng đã là đất Chu Diên thì không thể lại là đất
Phong Khê (Tây Vu) được.
______________________________________
1.
Trong quyển Trưng
Vương lịch sử -
Hoàng Thúc Hội (Nhà in Đuốc Tuệ - 1937) cũng có ghi Thi
Sách là họ Đặng.
2. Có một bản Thủy
kinh chú thay chữ
“đắc” nghĩa là là lấy
được bằng chữ
“phục” nghĩa là tha cho.
3. Nguyên văn: “Hậu Chu
Diên lạc tướng tử danh Thi Sách Mê Linh lạc tướng nữ
Trưng Trắc vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương
Thi khởi tặc... Trắc, Thi tẩu nhập Kim Khê cứu, tam tuế
nãi đắc”.
4. Bản dịch của Phan Duy Tiếp, NXB Sử
học. tr.24.
5. Bản dịch của Trần Văn Giáp. NXB Văn
hóa, Tập 1, tr.171.
Cương mục của
sử thần nhà Nguyễn soạn trong khoảng 1856-1889, Tiền
biên (q.2) thì ghi rằng: “Huyện Chu Diên đặt từ đời
Hán... nhà Đường đổi làm Diên Châu, nhà Lê đổi làm
phủ Tam Đái, bây giờ là phủ Vĩnh Tường”1.
Phủ này hồi cuối thế kỷ XIX gồm các huyện Bạch Hạc,
Tam Dương, Lập Thạch, Yên Lạc và Yên Lãng.
Nhưng
Đại Nam nhất thống chí, soạn cùng thời với
Cương mục, ở phần tỉnh Sơn Tây lại
có đoạn: “Huyện Yên Lãng là đất Phong Khê đời Hán,
đến đời Nam Tề tách ra đặt làm huyện Bình Đạo, đời
Đinh đời Lý đặt là huyện Yên Lãng”2
và ở phần tỉnh Hưng Yên có đoạn: “Hưng Yên có
lẽ là đất Chu Diên”3.
Rồi ở
thần tích làng Hạ Lôi thuộc huyện Yên Lãng cũ, nay là
huyện Mê Linh, lại thấy khẳng định làng này là đất
huyện Chu Diên. Lời truyền miệng còn chỉ định cả vị
trí huyện đường của huyện này (sẽ nói ở đoạn
sau). Trong khi đó sách Phương dư kỷ yếu của
Cố Tổ Vũ (đời Thanh) soạn ở thế kỷ XVII lại chép:
“Thành Chu Diên ở phía đông nam phủ” (ý nói là đông
nam phủ lỵ phủ Giao Châu tức nội thành Hà Nội ngày
nay).
Như vậy sự chỉ định vị trí huyện Chu
Diên khá là phân tán. Gần đây, nhà sử học Đào Duy Anh
căn cứ vào đoạn văn của Thủy kinh chú nói
về các dòng sông ở đất Giao Chỉ (q.37) và lời chú của
Thái bình hoàn vũ ký mách rằng sông Đáy, tức
sông Hát còn có tên là sông Chu Diên, mà xác định vị
trí huyện Chu Diên đời Hán như sau: “... huyện Chu Diên
có thể là tương đương với một phần tỉnh Sơn Tây,
một phản tỉnh Hà Đông và miền Hà Nam ở giữa sông
Đáy và sông Hồng”4.
Nhà địa lý
lịch sử Đinh Văn Nhật cũng có kết luận tương tự sau
khi khảo sát thư tịch kết hợp với địa danh học và
cổ địa lý học: “Huyện Chu Diên đời Hán trải dài
giữa sông Đáy và sông Hồng, so với ngày nay là gồm các
huyện Đan Phượng, Từ Liêm, Hoài Đức, Thanh Trì, nội
thành Hà Nội, các huyện Thanh Oai, Ứng Hòa, Thường Tín,
Phú Xuyên của Hà Sơn Bình và kết thúc ở hai huyện Lý
Nhân, Bình Lục của tỉnh Hà Nam Ninh”5.
Ông Đinh Văn Nhật còn lý giải nguyên nhân vì sao
mà một số tài liệu lại coi Chu Diên là huyện Yên Lãng
bên tả ngạn sông Hồng (kỳ thực Yên Lãng là thuộc
huyện Phong Khê). Đó là sau khi đàn áp được cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng, Mã Viện đã triệt hạ vùng Chu Diên
(cũng như vùng Mê Linh) nhất là khu vức huyện lỵ, đưa
dân sang phía tả ngạn sông Hồng khi đó thuộc huyện Tây
Vu (ít lâu sau sẽ tách ra thành huyện Phong Khê). Những
người dân Chu Diên bị buộc phải ly hương này đã đem
theo sang sông những tập quán sinh hoạt, phong tục và ký
ức về quê cũ. Nhưng sau nhiều thế hệ, ký ức phai mờ
đi, mọi người không nhớ nổi gốc tích xa xưa mà coi
nơi họ đang ở - vốn đã qua bao đời tổ tiên họ khai
phá tạo dựng nên - là đất Chu Diên.
Giả thuyết
này cũng đáng được giới sử học tìm hiểu sâu hơn vì
tuy sự việc phá làng dời dân đó không thấy chép trong
sử sách nhưng thủ đoạn đó vốn không xa lạ đối với
những bè lũ xâm lược Trung Quốc ngày trước. Có thể
nêu lên một dẫn chứng: sau khi hoàn thành cuộc xâm lược,
Mã Viện đã triệt hạ nhiều làng xóm Âu Lạc, đuổi
dân đi, cho lính tráng Hán triều tới cư trú tại những
nơi đấy, sinh cơ lập nghiệp. Người mình gọi đó là
dân Mã lưu tức là những người do họ Mã lưu lại
(hoặc những người họ Mã lưu ngụ). Bên cạnh đó Mã
Viện còn đày ba trăm cừ súy Âu Lạc (các lạc hầu, lạc
tướng) sang Linh Lăng tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Như thế
thì ít nhất cũng là có tới ba trăm lãnh địa (ấp,
trại) ở Giao Chỉ và Cửu Chân bị người Hán chiếm
đoạt và xáo trộn6.
________________________________________
1.
Bản dịch của Viện Sử học, NXB Văn sử địa, Tập 1,
tr.83.
2. Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, NXB Khoa học
xã hội, Tập IV, tr.184.
3. Bản đã dẫn, Tập III,
tr.289.
4. Đất
nước Việt Nam qua các đời
- tr.37 - NXB Khoa học 1964.
5. Huyện
Chu Diên đời Hán
- Bản thảo lưu tại Ban Cổ sử - Viện Sử học.
6.
Không riêng gì phong kiến Trung Quốc mà mọi kẻ đô hộ
xâm lược trên thế giới đều áp dụng thủ đoạn này.
Thổ Nhĩ Kỳ đã từng làm như vậy với Bun-ga-ri, Hy
Lạp... La Mã từng làm đối với dân Do Thái và ngày nay
Israen đã và đang làm đối với dân Palextin.
TRƯNG
NHỊ
Ngoài việc nêu bà Trưng Nhị
là em và cùng khởi nghĩa với bà Trưng Trắc thì các sử
cũ không có ghi gì thêm về nhân vật này. Các ngọc phả
ở Hạ Lôi và ở Hát Môn có đưa ra một số chi tiết
mới:
Sau khi Trưng Trắc đã khởi binh ở Phong Châu
thành (?) thì bà ủy cho Trưng Nhị truyền hịch kêu gọi
anh hùng hào kiệt bốn phương hưởng ứng. Tại cuộc hội
quân Hát Môn, Trưng Nhị được phong là Bình Khôi công
chúa và cầm một đạo binh đi đánh thành Tô Định. Sau
khi thành công, bà Trưng Trắc lên ngôi vua, phong cho Trưng
Nhị làm phó vương. Đến lúc Mã Viện xâm lăng, Trưng
Nhị cùng chị dẫn đại quân chống cự ở nhiều nơi,
cuối cùng cả hai người hóa ở đỉnh một ngọn núi
thuộc Kinh Môn phủ, Thạch Thành huyện. Đó là ngày mùng
8 tháng ba. (Thần tích làng Hát Môn kể giống như thần
tích làng Hạ Lôi, chỉ khác một chi tiết về chung cục
của Hai Bà: Hai Bà tự trầm ở sông Hát và đó cũng là
vào ngày mùng 8 tháng ba. Tuy vậy cả hai bản đều do một
người soạn là Nguyễn Bính và năm soạn là Hồng Phúc
thứ nhất tức năm 15721.)
Thực ra
trong các thần tích này có lầm lẫn về địa danh: Kinh
Môn phủ (tỉnh Hải Dương cũ) không có huyện Thạch
Thành. Huyện này thuộc về tỉnh Thanh Hóa. Và những thứ
chức tước “Bình Khôi công chúa”, “Phó vương”, cả
việc Hai Bà chạy vào tận Thạch Thành tất cả đều là
không có căn cứ chính xác. Cho nên chỉ có thể coi đây
là truyền thuyết chứ chưa phải sử liệu.
Ngoài
ra, từ bao đời nay, Trưng Nhị thường được thờ cùng
với Trưng Trắc - như ở đền Hạ Lôi, đền Hát Môn,
đền Đồng Nhân v.v... Riêng có làng Cư An (nay thuộc xã
Tam Đồng, huyện Mê Linh) chỉ thờ một mình Trưng Nhị.
Theo truyền thuyết địa phương, nơi đây là đất bản
bộ của bà. Đáng lưu ý là ngọc phả của làng này kể
về Trưng Nhị có nhiều điều khác với ngọc phả Hạ
Lôi, Hát Môn cũng như khác với sự hiểu biết quen thuộc
của chúng ta lâu nay.
Dưới đây là tóm lược
những ý chính của văn bản đó: “Trắc và Nhị là hai
chị em sinh đôi, con gái lạc tướng. Chị lấy huyện
lệnh Ô Diên là Thi Sách. Em lập bản doanh ở trang Cự
Triền (nay là Cư An) thuộc huyện Ô Diên, phủ Tam Đái,
đạo Sơn Tây.
Thi Sách bị Tô Định giết. Trắc
khởi nghĩa binh ở Phong Châu thành. Bà cho vời Trưng Nhị
tới, giao quản lĩnh ba quân, truyền hịch đại cáo với
thiên hạ... Với ba vạn nam nữ quân sĩ, Hai Bà về Hát
Môn hội quân. Sau đó tiến đánh Tô Định. Khi đã đánh
đuổi được quân Hán, Trưng Trắc lên ngôi vua, phong em
là Bình Khôi công chúa. Bà này xin lui về Cự Triền mở
mang đất đai, lập nên thành đó. Trưng Vương dời đô
về đóng ở đó.
Mã Viện sang xâm lăng. Ban đầu
quân Hán thua nhiều. Mã Viện dùng mẹo, cho một cánh quân
đi đường thượng đạo, tiến ra Côn Luân, Bắc Tạ, đến
Tụ Long, Bảo Lạc, Tuyên Quang, Đại Man thập lục châu.
Trưng Vương cử bà Nhị lên thượng đạo cự chiến.
Nhưng kỳ thực Mã Viện phái đại binh theo hạ đạo đánh
vào trung châu. Được tin này, Trưng Nhị liền quay trở
lại.
Khi đó Trưng Trắc đã vào Ái Châu. Nhị tìm
theo, tới Thiệu Thiên phủ, Thạch Thành huyện thì cũng
vừa lúc ấy bà chị lên núi và hóa. Trưng Nhị trở về
Cự Triền. Quân Hán tới vây đánh. Bà phá vây và hy sinh
tại trận. Đó là ngày 10 tháng tám”.
Trở lên là
nội dung tóm tắt bản “Cư An xã thần tích” mà tác
giả là Lễ bộ thượng thư Nguyễn Bính, soạn vào năm
Hồng Phúc nguyên niên (1572), tháng hai, ngày mùng 102.
Như vậy thần tích An Cư có nhiều điểm khác với
thần tích các làng Hạ Lôi, Hát Môn:
1. Trưng Nhị
có một căn cứ riêng ở Cự Triền (tức Cư An).
2.
Huyện Chu Diên còn có thể gọi là Ô Diên (?)
3.
Trưng Trắc từng đóng đô ở Cự Triền và hóa ở huyện
Thạch Thành thuộc Châu Ái.
4. Trưng Nhị từng
chống quân Mã Viện ở Cự Triền và hy sinh tại đây vào
ngày 10 tháng tám, sau khi bà Trưng Trắc hy sinh tại Thạch
Thành.
Cũng chưa thể khẳng định thần tích nào
chép đúng vì đều là còn ở dạng truyền thuyết. Có
một điều hơi lạ là tác giả bản thần tích Cư An
chính cũng là Nguyễn Bính - tác giả hai bản Hạ Lôi, Hát
Môn; vậy mà lại có những sai biệt như thế3.
Trong thực tế thì tại Cư An hiện còn dấu vết một tòa
thành tương truyền là do bà Trưng Nhị đắp nên, gọi là
thành Dền4. Và ngành khảo cổ đã từng
khai quật ở đó những hiện vật bằng đá, bằng gốm,
bằng đồng thuộc các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên và
Gò Mun. Điều này có nghĩa là Cư An từng là một điểm
cư dân đông đúc từ thời các vua Hùng đầu tiên mới
dựng nước.
____________________________________
1.
Toàn văn lời dịch hai bản ngọc phả này in ở phần Phụ
lục.
2. Bản này
có ở Thư viện Khoa học xã hội, ký hiệu Q4*18 (phần
phủ Yên Lăng), do hương lý làng Cư An sao nộp trường
Viễn Đông bác cổ ngày 4-7-1938.
3. Sự sai biệt này có
thể do một trong những nguyên nhân sau:
-
Hoặc Nguyễn Bính đúng là tác giả các văn bản nói trên
nhưng người các đời sau ở từng địa phương, với
những động cơ, mục đích và nguồn tư liệu truyền
thuyết khác nhau đã thay đổi thêm bớt ít hoặc nhiều
tình tiết.
- Hoặc Nguyễn Bính chỉ soạn
một bản (nào đó), còn những bản khác do người đời
sau viết ra nhưng ký tên Nguyễn Bính để cho có uy tín.
4.
Ở Chương sáu
sẽ trở lại vấn đề thành Dền này.
HÙNC
NCUYÊN
Hầu hết các sử sách đều
không chép gì về gia đình riêng của Trưng Nhị. Thiên
Nam ngữ lục lại kể rằng hai chị em bà đều lấy
Thi Sách (tuy không phải là kể trực tiếp mà qua lời nói
của Tô Định: Hai gái má hồng dùng lấy kết duyên).
Điều này không thể tin được, vì hai lẽ:
1. Lúc
ấy xã hội Giao Chỉ đã bước sang chế độ phụ hệ
nhưng tàn dư của cơ cấu nguyên thủy vẫn còn, nhất là
vai trò và địa vị của người phụ nữ trong sản xuất
cũng như trong sinh hoạt xã hội còn rất cao, bằng chứng
là có nhiều phụ nữ tham gia khởi nghĩa và giữ những
chức vụ chỉ huy trọng yếu (theo các thần tích, ngọc
phả). Như thế thì chưa thể có chế độ đa thê.
2.
Theo nhiều thần tích, ngay cả thần tích làng Cư An ở
trên - là nơi thờ riêng bà Trưng Nhị - đều không có
dấu hiệu gì tỏ ra bà là vợ Thi Sách.
Ngược lại
theo thần tích làng An Duyên nay thuộc xã Tô Hiệu, huyện
Thường Tín, tỉnh Hà Tây thì Trưng Nhị có chồng. Người
chồng đó tên là Hùng Nguyên. Thần tích kể rằng:
“Hùng Nguyên người trang Phấn Thư, thuộc huyện
Chu Diên, là con ông Hùng Đức và bà Mai Thị Ngoạn. Ông
làm bạn với Trưng Nhị trước khi nổ ra cuộc khởi
nghĩa. Sau này, khi dấy binh, Hùng Nguyên cầm đầu một
đạo quân mà cờ hiệu và áo quần đều là màu xanh. Dẹp
xong Tô Định, Hùng Nguyên lập ấp ở trang An Duyên, dạy
dân khai hoang, cày cấy... Dân trang ngày một đông đúc.
Khi Mã Viện xâm lăng, Hùng Nguyên chiêu tập thêm
dân binh theo Hai Bà chiến đấu. Sau Hùng Nguyên tử trận.
Quân sĩ cũng hy sinh hầu hết. Chỉ còn sống sót có bảy
người. Họ vượt được vòng vây, vế tới An Duyên. Sau
đó dân làng tôn Hùng Nguyên làm thành hoàng. Hùng Nguyên
trở thành một trong số bảy thành hoàng của An Duyên”.
Thần tích là như vậy, ghi lại ở đây để giữ
một tư liệu chứ chưa thể khẳng định đúng
sai.1
____________________________________
1.
Rất tiếc là bản sao ngọc phả làng An Duyên hiện lưu ở
Thư viện Khoa học xã hội không ghi tên người soạn và
năm soạn. Về bà Trưng Nhị, ngoài một lần được nêu
là vợ của Hùng Nguyên thì không hề được nhắc tới
nữa trong suốt ngọc phả.
QUÊ HƯƠNG
Sử cũ (của ta và của Trung Quốc) đều chép Hai Bà
là con lạc tướng huyện Mê Linh. Vậy huyện này hiển
nhiên là quê hương của Hai Bà. Nhưng đó là khu vực nào
so với ngày nay? Tại đấy làng cụ thể nào là làng của
Hai Bà?
Hiện có hai chủ trương khác nhau: Một đặt
huyện Mê Linh đời Hán ở về phía tả ngạn sông Hồng
mà phần chủ yếu là đất đai huyện Yên Lãng, tức nay
là huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. (Chính theo chủ trương
này mà năm 1977 khi đặt tên cho một huyện mới, do sáp
nhập hai huyện Yên Lãng và Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phú đã
chọn tên Mê Linh. Tháng 12-1978, phần huyện Yên Lãng cũ
được cắt về Hà Nội nhưng vẫn giữ tên Mê Linh ấy.
Năm 1990, huyện này trở về thuộc tỉnh Vĩnh Phúc). Tại
đấy, làng Hạ Lôi được coi là quê của Hai Bà.
Một
chủ trương khác lại đặt huyện Mê Linh đời Hán ở
bên hữu ngạn sông Hồng mà trung tâm là vùng giáp ranh
các huyện Thạch Thất, Quốc Oai. Tại đấy cũng có một
làng tên là Hạ Lôi và được đoán định là quê của
Hai Bà. Làng này thuộc huyện Thạch Thất nay thuộc tỉnh
Hà Tây.
Dưới đây sẽ lần lượt điểm qua hai chủ
trương đó:
LÀNG
HẠ LÔI Ở HUYỆN MÊ LINH
Từ trước tới nay, rất nhiều người nếu không
nói là tất cả đều coi huyện Mê Linh đời Hán ở bên
bờ trái sông Hồng và trị sở của huyện đó là chỗ
làng Hạ Lôi ngày nay.
Làng Hạ Lôi nằm bên trong
đê tả ngạn, cách bờ sông chừng một ngàn mét, cách
trung tâm nội thành Hà Nội 13km đường chim bay về phía
tây bắc. Làng này nay hợp với làng Liễu Trì thành xã
Mê Linh. Khác với các làng cổ thường có tên gọi Nôm,
làng Hạ Lôi không có tên Nôm, chỉ có tên Hán - Việt.
Theo bản ngọc phả vốn giữ tại ngôi đền thờ Hai Bà
Trưng ở đây và cả ký ức dân làng thì Hạ Lôi là tên
mới. Xưa là Cổ Lôi trang, trung gian đổi ra là Cổ Lai.
Sau rốt, cách đây khoảng hai trăm năm mới có tên như
hiện nay:
Hiện nay làng Hạ Lôi có 12 xóm: 1. xóm
Chợ, 2. xóm Hội, 3. xóm Đình, 4. xóm Chùa, 5. xóm Cầu,
6. xóm Ao Sen, 7. xóm Xanh, 8. xóm Bờ Hè, 9. xóm Bàng, 10.
xóm Đường, 11. xóm Giếng, 12. xóm Ấp Hạ. Nhưng ngày
trước có cả thảy 36 giáp, chia làm hai thôn Đông và
Đoài. Các di tích cổ ở cả hai thôn là như sau:
VỀ
ĐÌNH MIẾU
Mỗi thôn có một văn chỉ riêng.
Văn chỉ thôn Đông nguyên ở vào chỗ nay là nghĩa trang
liệt sĩ. Văn chỉ thôn Đoài vốn là ở khu vực trường
cấp hai hiện nay.
Tuy có hai văn chỉ nhưng cả
làng chỉ có một ngôi đình. Trụ sở ủy ban nhân dân xã
ngày nay là dựng trên nền đình cũ.
Đình làng Hạ
Lôi thờ bốn thành hoàng là các ông Đô, Hồ, Bạch, Hạc,
tương truyền đó là bốn người đầu tiên đã lập ra
làng Hạ Lôi. Theo lời kể của người làng thì buổi ban
đầu bốn vị đó tới đây trụ ở bốn nơi, khai phá
đất đai, sinh cơ lập nghiệp. Dần dần bà con các nơi
khác cũng noi theo, kéo tới đây sinh sống, lập ra bốn
xóm có tên là xóm Đường, xóm Hội, xóm Nội, xóm Kiên.
Đó là bốn xóm “hạt nhân” của làng Cổ Lôi sau này.
(Song ngày nay mọi người chỉ biết có xóm Đường và
xóm Hội. Còn hai xóm Nội và Kiên thì chẳng ai biết là
ở chỗ nào, kể cả những người già nhất làng).
Ngoài ngôi đình ra, ở xóm Chợ còn có một ngôi
đền thờ Cốt Tung, tương truyền là người đã phù tá
vua Hùng Duệ Vương chống Thục Phán. (Làng Liễu Trì -
láng giềng của Hạ Lôi - thờ Cốt Tung làm thành hoàng
chính). Đền ấy nay không còn, trên nền đã xây nhà kho
của hợp tác xã. Có người gọi đó là đền Đen, vì đồ
thờ, cờ kiệu... đều sơn đen, do kiêng kỵ1
Cốt Tung chết vì đao kiếm. Sự tích tóm lược như sau:
“Ở làng Liễu Trì, khi đó gọi là Lục Trì sở
có hai vợ chồng nhà nọ, nhân leo lên một ngọn núi,
thấy có nhiều xương cốt vương vãi, họ bảo nhau nhặt
nhạnh rồi tung xuống chân núi để chôn cất làm phúc.
Sau hôm đó, người vợ có lòng, rồi sinh một trai, đặt
tên là Cốt Tung. Cốt Tung cao lớn lạ thường, được
vua Hùng tuyển đi chống quân Thục. Nhưng trong một trận
chiến, ông bị thương ở cổ, máu chảy đỏ lòm. Ông xé
áo buộc vết thương, tìm đường về làng. Quân địch
vẫn đuổi theo. Ông liền nhấc một tảng đá to bằng
con trâu mộng ném vào đám quân địch, khiến chúng kinh
hãi, thôi không dám đuổi.
Về tới đầu làng (Lục
Trì sở) ông ngồi tựa gốc đa rồi hóa. Mối đùn thành
mộ. Còn tảng đá ném địch thì rơi ở làng Hạ Lôi, có
in hằn năm vết ngón tay, mỗi vết to hơn quả chuối
mắn”.
Như vậy ở làng Hạ Lôi về mặt đình
miếu liên quan đến Hai Bà Trưng thì chỉ có ngôi đền
thờ Hai Bà, vẫn quen gọi là đền Hạ Lôi, nằm ở rìa
phía nam làng, tương truyền xây trên nền nhà cũ của bà
Trần Thị Đoan, mẹ của Hai Bà. Chính ngôi đền này cùng
với lời tương truyền đó đã là một căn cứ chủ yếu
để khẳng định làng Hạ Lôi là quê hương của Hai Bà2.
VỀ BI KÝ
Ở
kho văn bia của Thư viện Khoa học xã hội có ba bản dập
từ ba tấm bia của làng này. Theo thứ tự thời gian là
các bia sau:
Lưu truyền bi ký khắc năm Vĩnh
Thịnh thứ mười lăm (năm 1719) ghi lại sự tích, hành
trạng một người họ Dương có công đức.
Hậu
hiền bi ký khắc năm Cảnh Hưng thứ tám (năm 1747)
dựng ở văn chỉ thôn Đông, nói về việc xây văn chỉ
này.
Tụy văn bi ký khắc năm Cảnh Hưng thứ
mười (năm 1749) dựng ở văn chỉ thôn Đoài, cũng nói về
việc xây văn chỉ đó.
Như vậy cả ba tấm bia ấy
không liên quan gì tới Hai Bà Trưng và trong thực tế thì
hai tấm sau đã bị phá. Chỉ còn lại tấm thứ nhất
hiện thấy ở nhà thờ Dương Công Sủng.
Riêng ở
đền thờ Hai Bà có một tấm bia nhưng lại không giúp gì
cho việc nghiên cứu về Hai Bà vì nội dung chỉ ghi lại
việc sửa đổi hướng đền vào năm Thành Thái thứ nhất
tức năm 1899.
____________________________________
1.
Hèm.
2. Ở Chương
sáu sẽ nói về
ngôi đền này.
VỀ
NHỮNG TRUYỀN THUYẾT
Loại tư liệu này có
hai nguồn:
Một là những lời kể của dân làng -
sẽ gọi tắt là lời truyền miệng - chủ yếu là
của những người cao tuổi mà tác giả sách này được
tiếp xúc. Các vị đó có đoan rằng “ngày xưa các cụ
truyền ngôn lại thế nào thì chúng tôi kể như vậy”,
tức là sự tích chưa bị lịch sử hóa.
Nguồn thứ
hai là bản ngọc phả đền Hạ Lôi do Lễ bộ thượng
thư Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất tức năm
1572. Tuy gọi là ngọc phả đền Hạ Lôi nhưng trong đền
không còn lưu giữ vì khoảng năm 1947-1948, bọn tay sai
giặc Pháp đã vào đền phá phách, hủy tượng thờ, đốt
ngọc phả... May là trong kho thần tích, ngọc phả của
Thư viện Khoa học xã hội còn có một bản do hương lý
làng này sao nộp vào tháng 4 năm 1938.
Về nguồn
thứ nhất thì trong thực tế, người dân ở đây - những
người không chuyên chú đi sâu tìm hiểu qua sách báo hiện
nay về sự nghiệp Hai Bà - kể về Hai Bà cũng không dồi
dào chi tiết.
Như một người cao tuổi trong làng -
ông cụ Hương Đệ có kể cho chúng tôi nghe chuyện Hai Bà
“theo lời các cụ xưa truyền lại”, nội dung cũng đơn
giản. Những chi tiết chính thì mọi người đều biết:
Bà Trưng Trắc là con gái nhà lạc tướng và là vợ Thi
Sách. Thi Sách bị Tô Định giết. Bà khởi binh diệt trừ
Tô Định và ở ngôi vua ba năm. Mã Viện xâm lăng. Bà và
em gái hy sinh.
Nhưng có thêm một số chi tiết ít
phổ biến:
- Đền thờ Hai Bà là xây trên nền nhà
cũ của bà mẹ (bà Trần Thị Đoan).
- Hai Bà đóng
đô tại đây.
- Thi Sách làm huyện lệnh Chu Diên,
huyện đường chính là khu đất rộng chừng 10 mẫu ở
ngay đằng sau đền Hai Bà, nay vẫn gọi là khu huyện.
- Hai Bà trầm mình ở cửa Hát chứ không phải
chết vì đao kiếm nên đồ thờ tự trong đền vẫn sơn
son như thường.
Về nguồn thứ hai - nguồn ngọc
phả - thì nội dung phong phú hơn. Dưới đây là tóm tắt
những ý chính:
“Hùng lạc tướng và vợ là Trần
Thị Đoan sinh được hai gái, đặt tên là Trắc nương và
Nhị nương. Ngày sinh là mùng 1 tháng tám năm Giáp Tuất.
Năm 19 tuổi, Trắc nương lấy Thi Sách. Vài năm sau, Sách
bị Tô Định giết. Trắc nương nuôi chí trả thù chồng,
giành lại non sông. Bà cử em là Nhị nương đi chiêu mộ
hào kiệt. Hơn một năm, quân đông tới ba vạn người,
họp ở thành Phong Châu, sông Bạch Hạc. Bà cử binh về
cửa Hát, hội quân ở bãi Trường Sa. Tại đây, Bà lập
đàn kỳ đảo thiên địa bách thần. Sau đó, tiến đánh
thành Tô Định ở huyện Chu Diên. Hai Bà lập đồn tại
Cổ Lôi trang. Ngày mùng 7 tháng giêng, Hài Bà mở tiệc
khao quân rồi tiến đánh Tô Định. Định thua chạy. Trăm
quan đón Hai Bà vào thành Chu Diên. Bà chị lên ngôi vua
xưng là Trưng Nữ Vương. Bà xây đô thành ở huyện Chu
Diên, đất Phấn Lộ và mở một hành cung ở Cổ Lôi
trang nơi xứ Đầu Bàng Thượng.
Ba năm sau, Quang Vũ
sai Mã Viện sang xâm lăng. Quân Hán thường thua. Mã Viện
phải lui về Giang Hán, xin viện binh. Được cấp thêm
quân, Mã Viện trở lại đánh, Trưng Vương và em gái cùng
năm trăm nữ tướng cải trang thành nam giới ra trận.
Đánh hơn mười trận không phân thắng bại. Tới một
lần quân Hán đánh phủ Hạ Hồng thuộc Hải Dương.
Trưng Vương đã lập đồn tại đây. Bà dẫn nữ binh nữ
tướng ra nghênh chiến. Bỗng gió lớn nổi lên, thổi
tung áo mão mọi người. Quân Hán nhận ra quân Nam đều
là đàn bà liền bảo nhau cởi quần áo xông vào. Các bà,
các cô thẹn, chạy tán loạn. Hai Bà chạy đến huyện
Thạch Thành, phủ Kinh Môn, phi ngựa lên núi và hóa. Đó
là ngày mùng 8 tháng ba"1.
Gác lại
một bên những chi tiết hư cấu nhằm lý giải nguyên
nhân bại trận của Hai Bà (ý đồ tốt nhưng cảm thụ
nghệ thuật khá tầm thường), cũng như gác lại những
thông tin sai lầm về diễn biến của chiến tranh ngày ấy
hoặc về địa danh Thạch Thành - Kinh Môn (phủ Kinh Môn
không hề có huyện Thạch Thành, chỉ có huyện Kim Thành;
còn Thạch Thành là một huyện ở Thanh Hóa) v.v... thì
ngọc phả này có một số chi tiết rất đáng lưu ý:
-
Không nói rõ quê hương cụ thể của Hai Bà.
- Coi
Hạ Lôi là đất huyện Chu Diên và không hề nhắc gì tới
địa danh Mê Linh.
- Ở huyện Chu Diên có một thành
của Tô Định: để đánh thành này Hai Bà lập đồn ở
Hạ Lôi. Sau khi thành công Hai Bà cho dựng hành cung ở Hạ
Lôi, tại xứ Đầu Bàng Thượng2.
-
Còn kinh đô thì Hai Bà lập tại xứ Phấn Lộ cũng thuộc
huyện Chu Diên. Về địa danh này, chúng tôi ngờ là ngọc
phả sao chép sai mặt chữ. Có thể là Ký Hợp vì thần
tích chàng Hối ở làng Thịnh Kỷ (nay thuộc xã Tiền
Châu, huyện Mê Linh) có đoạn viết: “... Trưng Vương
theo lời tâu của chàng Hối cho lập đô tại Ô Diên
huyện, Ký Hợp phường” và chú thích “Ký Hợp nay là
làng Yên Lãng”. Chữ nay là chỉ thời gian soạn thần
tích tức thế kỷ XVI. Lúc đó làng Yên Lãng thuộc về
huyện Yên Lãng, còn hiện giờ thì làng này đã mang tên
mới là làng Lý Hải và thuộc xã Phú Xuân, huyện Bình
Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. (Hai chữ Phấn Lộ và Ký Hợp về
mặt chữ rất dễ lẫn lộn).
- Về chung cục của
Hai Bà thì ngọc phả nói là hóa ở núi huyện Thạch
Thành (chứ không phải trầm mình trên sông Hát).
Như
vậy ngọc phả khác nhiều so với lời truyền miệng ở
chính làng Hạ Lôi (phần dưới sẽ trở lại vấn đề
này).
Cũng cần nêu thêm là ở quyển “Truyền
thuyết Trưng Vương” do Chi hội Văn nghệ Vĩnh Phú in năm
1975 có bài Truyền thuyết về Hai Bà Trưng viết
dưới dạng tiểu thuyết mà các sự kiện, tư liệu dẫn
dụng trong bài lại không có xuất xứ cho nên chúng tôi
xin chưa sử dụng tới.
____________________________________
1.
Xem toàn văn bản dịch ở phần Phụ
lục.
2. Theo
người làng thì Đầu Bàng Thượng ở chỗ giáp ranh xóm
Bàng và xóm Chùa. Cl. Madrôn trong bài “Le Tonkin ancien”
(BEREO XXXVII) thì ghi lầm là Đầu Bằng
Thượng.
VỀ
DI TÍCH THÀNH CŨ
Người làng Hạ Lôi ai cũng
công nhận ngày trước ở đây có một tòa thành đất mà
mọi người gọi kiêng là thiềng. Nhưng hỏi về
hình dạng qui mô của thành đó thì không ai nói được.
Vì ngay cả những người cao tuổi nhất làng này cũng chỉ
nhớ là thủa nhỏ, khi họ bắt đầu có hiểu biết thì
thiềng chỉ còn là những vạt đất nứt nối rời
rạc, đôi chỗ có tre mọc, khó hình dung ra kiểu cách.
Về gốc gác của thành thì trong làng cũng có nhiều
cách giải thích. Người thì bảo đó là thành do Hai Bà
cho xây nên. Người thì nói đó là thành huyện Chu Diên,
nhiệm sở của Thi Sách. Nhưng có người lại đoan chắc
rằng huyện đường Chu Diên chỉ là khu đất rộng chừng
10 mẫu ta ở sát ngay phía sau đền Hai Bà.
Tóm lại,
bằng vào ký ức và dấu vết hiện còn thì chưa có thể
xác định lịch sử và hình dạng tòa thành đó. Tuy
nhiên, với cách nhìn có chuyên môn, hai ông Nguyễn Lộc -
Văn Lang đã nhận diện và mô tả tòa thành đó như sau:
“Đây là một tòa thành... rộng tới 100 mẫu Bắc
bộ1, chiều dài có chỗ lên tới 1700m,
chiều ngang nơi rộng nhất hơn 500m.
Điều đặc
sắc thứ nhất của thành là hình dáng không ổn định
của nó. Bình diện tòa thành gợi lên cảm giác lắp ghép
tiếp hợp của ba ô thành khác nhau có hình gần chữ nhật
và một ô thứ tư nữa, hình đa giác lồi chiếm hơn nửa
diện tích thành.
Điều đặc sắc thứ hai là bên
cạnh cấu trúc cổ điển gồm hào lũy thì tường thành
có chỗ còn thấy đắp thành hai lớp song song với khoảng
cách từ 1m đến 3m tạo thành một đường ống ở giữa.
Cái tên “Thành ống” cũng do đó mà có. Thành ống
khoanh lại trong lòng nó bốn xóm được coi là cổ nhất
làng, mang những tên Đường, Hội, Nội, Kiên... Lời kể
dân gian nói rằng đấy là xóm Nội - nằm trong ô thành
tính từ đông sang tây là ô thứ hai - xưa là quê của bà
Trần Thị Đoan... Nơi sinh hạ của Hai Bà cũng là xóm
Nội”2.
Có thể đó là tình hình
năm các tác giả viết bài khảo sát này - năm 1973 - chứ
năm 1980, khi chúng tôi đến khảo sát thì không sao nhận
ra hình dáng và qui mô này. Đặc biệt là về địa điểm
xóm Nội thì ở Hạ Lôi ngày nay, ngay cả những người
cao tuổi cũng không ai chỉ ra rõ được. Đó chỉ là địa
danh huyền thoại.
VỀ
ĐỊA DANH
Ở Hạ Lôi còn một số địa điểm
mà tên gọi có liên quan đến hoạt động của Hai Bà:
- Con đường đi từ đền ra đến đường liên
thôn được gọi là đường Trống quân hoặc Trung
quân, tương truyền là đường trẩy quân của Hai Bà.
- Ngoài đồng có những vùng đất mang tên như Đồng
Vỡ chỉ nơi quân Hán bị tan vỡ. Đồng Đống
là nơi xác quân Hán chết chất thành đống. Đồng Dai
là nơi quân hai bên giao chiến dai dẳng suốt ngày. Đồng
Đỗi là nơi một cánh quân tiếp ứng được lệnh
đỗi lại tức dừng lại v v...
Tất cả cũng
là do lời truyền ngôn kể lại và cũng chỉ có giá trị
là những chứng tích huyền kỳ.
VỀ
NHỮNG DI VẬT KHẢO CỔ
Theo ông Vũ Kim Biên ở
Ty Văn hóa Vĩnh Phú - là cơ quan phụ trách khai quật di
chỉ Hạ Lôi. những năm 70 - thì ở Hạ Lôi có nhiều mộ
thời Bắc thuộc (quen gọi là mộ Hán) tập trung ở ba
khu vực ở Đồng Si, xóm Đường và phía nam đền Hai Bà.
Ở những khu này ngoài các nấm mộ xây gạch cuốn có
nhiều đồ dùng bằng gốm, hoa văn kiểu dáng phương
Bắc3.
Một cán bộ khác của ty này
- ông Lê Tượng - có nhận xét về di chỉ Hạ Lôi như
sau: “Qua xem xét những hiện vật đào được ở mộ cổ
hiện để ở đền Mê Linh và rải rác trong làng, chúng
tôi thấy những hiện vật này đa số là thuộc thời Tùy
- Đường”4.
Như vậy xét về mặt
tư liệu khảo cổ học, sơ bộ có thể coi Hạ Lôi từng
là nơi có nhiều người Hán tộc cư trú – có thể là
một huyện lỵ, quận lỵ hoặc nơi đóng quân - nhưng
không phải là người thời Tây Hán - Đông Hán (thời Hai
Bà Trưng) mà là người thời Tùy - Đường (thế kỷ thứ
VII, thứ VIII)5.
____________________________________
1.
Mỗi mẫu bằng 3600m2.
2.
“Đi tìm dấu vết thời kỳ Hai Bà Trưng trên miền đất
đóng đô của Hai Bà” – Nghiên
cứu Lịch sử số
150.
3. Những phát
hiện mới khảo cổ học năm 1978
- trang 301 - Viện Khảo cổ học xuất bản.
4. Những
phát hiện mới khảo cổ học năm 1975
- trang 24 - Viện Khảo cổ học xuất bản.
5. Thực ra
di chỉ này chưa được khảo sát kỹ càng, còn phải xác
minh tầng văn hóa, nghiên cứu địa tầng và các di vật,
xác định niên đại một cách cụ thể hơn... thì mới
trở thành một cứ liệu khoa học.
Tóm lại, ở Hạ Lôi có nhiều
dấu vết cổ, liên quan đến Hai Bà Trưng cũng không phải
ít. Theo ngọc phả, đây là nơi có hành cung của Trưng
Vương. Theo lời truyền miệng, đây là làng quê của Hai
Bà, Hai Bà đóng đô tại đây, thành đất cũng do Hai Bà
cho xây đắp, nhiều địa điểm là chiến trường thời
Hai Bà và đền Hai Bà là nền nhà cũ v.v… Chính căn cứ
trên những dấu vết đó - dù là đều do truyền miệng -
mà lâu nay các nhà chép sử đã coi Hạ Lôi là quê của
Hai Bà. Từ khẳng định này dẫn tới những khẳng định
khác: làng Hạ Lôi ấy tất là thuộc đất huyện Mê Linh
đời Hán, là lỵ sở của huyện này đồng thời là quận
trị quận Giao Chỉ và trị sở của bộ Giao Chỉ. Theo
đấy, huyện Mê Linh đời Hán chủ yếu nằm bên tả ngạn
sông Hồng.
Chủ trương đó lại được một số
thư tịch cổ hỗ trợ, Toàn thư của Ngô Sĩ Liên
(hoàn thành năm 1479) là sách đầu tiên ghi về điều này:
“Thời Tây Hán trị sở của thái thú (Giao Châu) tại
Long Uyên tức Long Biên. Thời Đông Hán tại Mê Linh tức
Yên Lãng”1.
Ba thế kỷ sau, sách
Vân đài loại ngữ của Lê Quí Đôn (hoàn thành năm
1773) có đoạn ghi: “Mê Linh nay là Yên Lãng” (phần Khu
vũ, điều 53)2.
Gần năm chục năm
sau đó, Phan Huy Chú ghi trong Lịch triều hiến chương -
Dư địa chí (hoàn thành năm 1821): “Huyện Mê Linh nay
là Yên Lãng. Trưng Vương đóng đô ở đấy”3.
Ý kiến của ba nhà bác học trên làm cho chủ
trương Mê Linh đời Hán ở bên tả ngạn sông Hồng mà
trung tâm là huyện Yên Lãng (từ năm 1977 đổi là Mê
Linh) thêm vững vàng.
Tuy thế, chủ trương này vẫn
chưa đủ sức thuyết phục vì trong những truyền thuyết
được lấy làm căn cứ suy luận thực ra mang nhiều mâu
thuẫn, chứa đựng những chỉ dẫn ngược nhau; các dấu
vết vật chất (thành trì và các cánh đồng - chiến
trường) thì nguồn gốc chưa sáng tỏ và nhất là lại
có những thư tịch khẳng định ngược lại, coi Mê Linh
là dải đất bên hữu ngạn sông Hồng.
Về thư
tịch thì trước khi Ngô Sĩ Liên hoàn thành Toàn thư
44 năm, tức vào năm 1434, Nguyễn Trãi đã soạn pho sách
địa lý đầu tiên của nước ta: Dư địa chí và các
nhà Nho uyên bác đương thời là Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn
Thiên Túng và Lý Tử Tấn đã làm phần diễn giải, chú
thích: Trong sách này, điều IX có ghi: “Mê Linh là Hát
Môn thuộc huyện Phúc Lộc bây giờ”, tới điều XIX lại
nhắc lại: “huyện Phúc Lộc là Mê Linh ngày xưa”4.
Huyện Phúc Lộc đời Lê tới năm 1822 đổi lại
Phúc Thọ và tồn tại đến ngày nay (tất nhiên địa
giới có xê xích đôi chút). Làng Hát Môn vẫn còn đó,
trên bờ phải sông Hồng.
Ngoài ra, cũng ở diều
IX và điều XIX Dư địa chí còn ghi: “Chu Diên là
huyện Yên Lãng ngày nay” và “huyện Yên Lãng là Chu
Diên ngày xưa”.
Như vậy là vào đầu thế kỷ
XV, theo những tác giả uyên bác nhất đương thời - và
rất có thể họ cũng đã đặt chân tới nhiều miền của
đất nước - thì huyện Mê Linh ở bên hữu ngạn sông
Hồng và Yên Lãng chưa bao giờ là Mê Linh.
Cho nên
sau Nguyễn Trãi ba thế kỷ, hẳn là bị giằng co giữa Dư
địa chí và Toàn thư5 nên nhà
bác học Lê Quý Đôn thật sự lúng túng khi định vị vị
trí huyện Mê Linh. Như vừa nêu ở trên, Vân đài loại
ngữ, phần Khu vũ, điều 53 có ghi: “Mê Linh nay là
Yên Lãng” nhưng đến điều 85 Lê Quý Đôn lại viết:
“Phong Khê là đất Yên Lãng” rồi “Chu Diên nay là Yên
Lãng”. Thật là lúng túng, đầy mâu thuẫn vì từ đời
Tây Hán, Chu Diên và Mê Linh đã là hai huyện song song tồn
tại trong số mười huyện họp thành quận Giao Chỉ. Vậy
nếu Yên Lãng đã là Mê Linh thì không thể là Chu Diên và
ngược lại. Ngoài ra Phong Khê là một huyện do Mã Viện
lập vào năm 43 bằng cách tách ra một phần huyện Tây Vu
(phần còn lại được đặt tên là huyện Vọng Hải) vốn
cũng là một trong số mười huyện của quận Giao Chỉ,
nghĩa là Tây Vu cũng song song tồn tại với Chu Diên và Mê
Linh. Tóm lại, Yên Lãng không thể trong một lúc mà lại
thuộc về ba huyện được.
____________________________________
1.
Bản dịch của Cao Huy Giu, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Tập 1, trang 89.
2. Bản dịch của Trần Văn Giáp, Nhà
xuất bản Văn hóa, Tập 1 trang 111.
3. Bản dịch của
Viện Sử học. Nhà xuất bản Văn sử địa - Tập 1,
trang 97.
4. Bản dịch của Phan Huy Tiếp - Nhà xuất bản
Sử học.
5. Thực ra, Toàn
thư của Ngô Sĩ
Liên hoàn thành năm 1479 nhưng sau đó nhiều người đã
viết thêm, bổ sung, chú thích. Nội dung của sách này như
ta thấy ngày nay là mới cố định từ cuối thế kỷ
XVII. Cho nên lời chú “Mê Linh tức là Yên Lãng” trong
sách này có thể không phải của Ngô Sĩ Liên mà là của
những sử thần các đời sau.
Tới thế kỷ XIX, chia sẻ
quan điểm của Dư địa chí, các tác giả bộ Cương
mục khi chú thích địa điểm Mi Linh (tức Mê Linh) với
tư cách là trị sở bộ Giao Chỉ thì ngoài việc trích
dẫn Dư địa chí, Toàn thư, Vân đài loại ngữ,
còn dẫn cả một câu trong Văn hiến thông khảo là
sách của Mã Đoan Lâm (1245-1325): “Các đất Gia Ninh, Thừa
Hóa, Tân Xương thuộc Phong Châu đều là đất huyện Mê
Linh đời Hán”. Sau đó các tác giả kết luận: “Vậy
Mi Linh là phong Châu mới phải”. Rõ ràng Cương mục
đã chấp nhận ý kiến của Dư địa chí vì theo
sách Thái bình hoàn vũ ký (do Nhạc Sử soạn trong
khoảng các năm 984-998 ) thì ở huyện Gia Ninh có núi Tản
Viên (q.170). Điều này có nghĩa là huyện Mê Linh đời
Hán bao gồm cả khu vực có núi Tản Viên, tức khu vực
hữu ngạn sông Hồng (núi Tản Viên cách huyện Phúc Lộc
không quá 20km đường chim bay).
Ngoài ra Cương
mục còn dẫn thêm một dẫn chứng rất có ý nghĩa:
“Theo Địa lý chí trong Đường thư thì Mi
Linh ở địa phận hai huyện Phúc Lộc và Đường Lâm”.
Huyện Phúc Lộc như đã nêu ở trên, nay là huyện
Phúc Thọ. Còn huyện Đường Lâm ở vào quãng huyện Hoài
An và huyện Mỹ Lương1. Hai huyện này
tương ứng với các huyện Quốc Oai, Mỹ Đức, Ứng Hòa
của tỉnh Hà Tây.
Ra đời cũng thời gian với
Cương mục, bộ sách địa lý Đại Nam nhất
thống chí, ở phần tỉnh Sơn Tây, khi nói về huyện
Phúc Thọ có ghi cụ thể: “Đời Hán là đất huyện Mê
Linh”2. Còn khi nói về huyện Yên Lãng thì
cũng ghi cụ thể: “Đời Hán là đất quận Giao Chỉ, có
lẽ là huyện Phong Khê. Đời Nam Tề tách ra đặt làm
huyện Bình Đạo... Đời Đường đổi làm châu Nam Đạo,
lại đổi làm Tiên Châu. Từ đời Đinh đời Lý về sau
đặt tên huyện hiện nay”3.
Vậy
là theo những ghi chép của các thư tịch trên thì huyện
Mê Linh đời Hán nếu có phần đất nào nằm bên tả
ngạn sông Hồng thì là ở khu vực tỉnh Phú Thọ, một
thời là nửa phía tây của tỉnh Vĩnh Phú, chứ không hề
ăn lấn sang đất Vĩnh Yên - Phúc Yên cũ (trong đó có
huyện Yên Lãng). Và đại bộ phận đất đai huyện Mê
Linh đời Hán là nằm bên hữu ngạn sông Hồng. Theo đó,
làng Hạ Lôi thuộc huyện Yên Lãng không thể nào là đất
huyện Mê Linh đời Hán được!
Đó là về thư
tịch. Còn về tòa thành ở Hạ Lôi thì không phải là
các nhà nghiên cứu đều nhất trí coi đó là công trình
đắp từ thời Hai Bà Trưng. Ngay hai ông Nguyễn Lộc - Văn
Lang tuy tin theo truyền thuyết tòa thành ấy là do Hai Bà
xây đắp cũng có lúc tỏ ý nghi ngờ: “Chứng tích đích
thực của việc này (việc Hai Bà xây đô thành - N.V.P)
hiện nay chưa thấy nhiều. Chưa tìm được dấu vết có
hệ thống của nơi cư trú cổ nào thuộc về niên đại
đầu Công nguyên ở dưới lớp đất cư trú hiện nay
trong thành”4.
Và ông Lê Tượng
cũng có ý kiến: “Còn vết tích thành Mê Linh theo bản
đồ địa lý và khảo sát bước đầu thì khó có thể
kết luận một cách chắc chắn thuộc giai đoạn nào.
Nhất là đặt trong mối quan hệ với thành Dền, thành
Vượn và diễn biến chiến trận Lãng Bạc thì Mê Linh
(nay thuộc Hạ Lôi) khó là kinh đô của Hai Bà
Trưng”5.
Riêng chúng tôi thì cho rằng
di tích thành ở làng Hạ Lôi này là thuộc về thành Bình
Đạo. Vì Đại Nam nhất thống chí đã chỉ dẫn
khá rõ ràng. Trong sách đó ở phần tỉnh Sơn Tây, mục
Cổ tích có đoạn chép: “Thành cổ Bình Đạo:
Theo An Nam chí thì thành cổ Bình Đạo ở phía tây
bắc phủ Giao Châu, tức là đất huyện Yên Lãng bây giờ.
Hồi thuộc nhà Hậu Hán, năm Kiến Vũ thứ 15, Mã Viện
đặt huyện Phong Khê thuộc quận Giao Chỉ. Thời Tam Quốc
huyện này thuộc quận Vũ Bình. Nhà Tấn vẫn theo như
thế. Nhà Tống vẫn để thuộc quận Vũ Bình. Nhà Tề
tách ra đặt huyện Bình Đạo. Khoảng đời Lương, đời
Trần bỏ huyện Phong Khê cho nhập vào Bình Đạo. Quảng
Châu ký chép Thục Vương kiêm tính lấy Phong Khê tự
xưng là An Dương Vương, sau bị Triệu Đà cướp mất.
Nay phía đông thành Bình Đạo có thành chín lớp chu vi
chín dặm, có lẽ thành này là chỗ ở của An Dương
Vương, có người cho đấy là thành cũ Phong Khê”.
Phân
tích đoạn sách trên có một số điểm đáng chú ý:
-
Phủ Giao Châu nói trong An Nam chí là thành Thăng Long
tức nội thành Hà Nội (An Nam chí soạn đời Minh), vậy
thành cổ Bình Đạo ở tây bắc nội thành Hà Nội.
- Thành cổ Bình Đạo ấy lại được Đại Nam
nhất thống chí chỉ định là ở trên đất Yên Lãng.
- Thành chín lớp của An Dương Vương nói trong
Quảng Châu ký chỉ có thể là thành Cổ Loa. Vậy
mà thành Cổ Loa được chỉ định ở về phía đông
thành Bình Đạo vậy.
Như vậy, một tòa thành nằm
trên đất huyện Yên Lãng mà là ở về phía tây bắc nội
thành Hà Nội và về phía đông lại có thành Cổ Loa thì
chỉ có thể là tòa thành ở Hạ Lôi. Điều này phù hợp
với ký ức của người dân Hạ Lôi về một huyện lỵ,
huyện đường Chu Diên ở nơi đây. Thực tế là không
thể có huyện Chu Diên ở đây, vậy chỉ có thể là
thành Bình Đạo. (Và như vậy ký ức cũng khá là bền,
vì thành Bình Đạo có từ thời Tề tức thế kỷ thứ
VI).
Cho nên nếu muốn dùng những vết tích thành
cổ ở làng Hạ Lôi để chứng minh nơi đây là quê hương
hoặc kinh đô của Hai Bà Trưng thì sẽ không đạt kết
quả vì thiếu chứng cớ xác thực.
____________________________________
1.
Dẫn trong Đại Nam
nhất thống chí -
bản dịch tập IV - Nhà xuất bản Khoa học xã hội -
tr.178.
2. Bản dịch của Phạm Trọng Điềm - Tập IV -
Nhà xuất bản Khoa học xã hội - tr.178.
3. Bản đã
dẫn, tr.184.
4. Bài đã dẫn.
5. Bài đã dẫn.
PHỤ
CHÚ
- Về loại hình kiến trúc “Thành ống” của
tòa thành Hạ Lôi thì ông Đỗ Văn Ninh từng có nhận xét
như sau:
“Chúng tôi cũng đã đi điều tra thực
địa. Phải nói rằng những vết tích thành cổ còn lại
hiện nay không sao cho phép dựng lại được một bình đồ
kiến trúc. Chúng tôi tỏ ý hoài nghi về những bình đồ
đã được mô tả trong một số bài in ở các tạp chí,
báo và họa báo trước đây.
Loại hình kiến trúc
“thành ống” cũng là điều đáng bình luận. Đông Tây
kim cổ chưa hề có một tòa thành xây dựng theo cách này.
Hai tường thành, một ngoài một trong cách nhau chỉ từ
1-3 mét sẽ phát huy tác dụng gì trong chiến đấu?
Tường
ngoài tất nhiên là chống địch đánh từ ngoài vào, thế
còn tường trong? Chẳng lẽ lại để chống với ta? Nếu
quân ta hoạt động dưới con đường giữa hai tường thì
tường trong chính là vật chướng ngại cho sự quan hệ
tiếp viện của ta với phía trong thành, tức hậu phương
của ta. Nếu tường trong cũng là vòng tường thứ hai để
ngăn quân giặc vào trong, xây dựng theo kiểu những tòa
thành có nhiều lớp tường thì khoảng cách một mét sẽ
là vô nghĩa đối với quân giặc khi chúng đã phá được
thành ngoài.
Thực tế không có kiểu xây dựng thành
như thế này. Khái niệm “thành ống” không có trong
kiến trúc quân sự. Sử cũ không có nói, kiến trúc thành
cổ không thấy còn. Như trên đã viết, đây là một
thuật ngữ chỉ thấy có ở Hạ Lôi - Yên Lãng. Nói đúng
ra thì nhân dân địa phương cũng không rõ nội dung thuật
ngữ này, chỉ nói theo một nguồn mà xuất xứ cũng không
rõ nốt.
Trong khi đó, cũng có người ở đây lại
cho biết là riêng đoạn có hai lớp lũy đất ở phía sau
đền Hai Bà - vẫn được một số người coi là điển
hình của “thành ống” - chính là giao thông hào của du
kích thời kháng chiến chống Pháp!
… “Thành ốc”
Cổ Loa đúng là độc đáo song “Thành ống” Hạ Lôi
không độc đáo vì rằng không có cái gọi là “Thành
ống”.”.
(Về tòa thành cổ ở xã Mê Linh -
Tham luận tại Hội nghị khoa học về Hai Bà Trưng do Sở
Văn hóa Hà Nội tổ chức tháng 3-1982).
Còn như về
nguồn truyền thuyết thì cũng có lắm mâu thuẫn, không
thể lấy làm sử liệu được:
Lời truyền miệng
bảo Hạ Lôi là quê của Hai Bà - tức Hạ Lôi phải là
đất huyện Mê Linh - nhưng lại nói Hạ Lôi là đất
huyện Chu Diên, lại chỉ định cụ thể cả huyện đường
của huyện này!
Trong khi ngọc phả chỉ định dứt
khoát Hạ Lôi là thuộc huyện Chu Diên và không có một
dòng nào nói về quê quán của Hai Bà cũng như về huyện
hoặc đất Mê Linh. Cũng ngọc phả chỉ công nhận Hạ
Lôi là nơi Hai Bà lập một hành cung (nơi ở tạm của
vua khi đi ra ngoài cung điện) chứ không phải lập kinh đô
- kinh đô là ở đất Phấn Lộ nào đó!
Thế là
về quê của Hai Bà cũng như kinh đô thời ấy trong lời
truyền miệng và ngọc phả có nhiều mâu thuẫn, rối
ren, do đó nguồn truyền thuyết này thật không thể coi
là sử liệu được, nhất là nó lại mâu thuẫn với
chính sử. (Toàn thư: “Bà Trưng... đóng đô ở Mê
tinh”. Tư trị thông giám cũng chép: “Trưng Trắc...
đóng đô ở Mê Linh”). Cho nên đặt huyện Mê Linh đời
Hán ở về tả ngạn sông Hồng mà phần đất chủ yếu
là huyện Yên Lãng (tức nay là huyện Mê Linh) với trung
tâm là làng Hạ Lôi - được coi là gốc quê của Hai Bà
Trưng - chủ trương đó có nhiều điểm chưa ổn đáng.
Từ năm 1972, căn cứ vào sự khảo sát và phân tích địa
hình, địa mạo, ông Đinh Văn Nhật - một nhà nghiên cứu
địa lý lịch sử - thấy rằng làng Hạ Lôi đó và cả
dải đất ven sông Hồng từ Vĩnh Tường đến Yên Lãng
vào thời đầu Công nguyên - khi chưa có đê - là một khu
vực mùa mưa thường bị ngập nước. Từ đó ông có
nhận xét vùng Yên Lãng (trong đó có Hạ Lôi) dù là một
điểm dân cư cổ cũng không thể là nơi sinh cơ lập
nghiệp của một dòng họ lạc tướng bao đời thế tập,
càng không thể là một trung tâm kinh tế, chính trị của
một quận lớn là quận Giao Chỉ (tương đương với Bắc
bộ Việt Nam) và hơn thế của cả bộ Giao Chỉ (gồm các
tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam của Trung
Quốc và miền Bắc Việt Nam)!
Mặt khác, qua khảo
cứu thư tịch, Đinh Văn Nhật có một nhận xét là đất
đai huyện Mê Linh đời Hán không ăn sang đất Vĩnh Yên -
Phúc Yên cũ bên tả ngạn sông Hồng, vì đó là địa hạt
huyện Tây Vu và từ năm 43 là địa hạt huyện Phong Khê.
Trên cơ sở những nhận xét như vậy, tác giả đi
tìm huyện Mê Linh đời Hán và trị sở của nó ở vùng
đất mà Dư địa chí đã chỉ dẫn.
Đó chính
là chủ trương thứ hai nhằm lý giải về vị trí của
làng Hạ Lôi tương truyền là quê của Hai Bà Trưng và vị
trí của huyện Mê Linh đời Hán.
LÀNG
HẠ LÔI Ở HUYỆN THẠCH THẤT
Với những luận văn nghiên
cứu công phu, công bố trên tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử các số 148, 149, 172, 190, 1911, Đinh
Văn Nhật lần lượt chứng minh rằng huyện Mê Linh đời
Hán so với ngày nay là khu vực bao gồm tỉnh Phú Thọ và
phía tây của Hà Tây.
Từ chỗ xác định huyện Mê
Linh như vậy, tác giả đưa ra một chủ trương mới về
quê hương Hai Bà: vùng Hạ Lôi mà phần đất chủ yếu
nay là xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất gần như nằm ở
trung tâm huyện Mê Linh đời Hán mới là quê của Hai Bà
Trưng. Trị sở của huyện Mê Linh ấy cũng như của
quận Giao Chỉ tất cũng ở khu vực đó. Những kiến giải
của ông có thể tóm tắt như sau:
1. Vùng Hạ Lôi
ấy có tên Nôm là Kẻ Lói. Từ tên Nôm đó mà thành ra
tên Hán - Việt là Cổ Lôi2, tên gọi của
làng Hạ Lôi này đồng thời cũng là trùng với tên cũ
của làng Hạ Lôi bên Yên Lãng.
Ngày trước, đây
là một vùng trù phú nên tục ngữ có câu “Đói thì vào
Lói mà ăn”3. Thực ra Kẻ Lói không chỉ
là một làng Hạ Lôi ngày nay mà bao gồm cả khu vực nay
là các làng ở gần nhau, tên gọi có cùng một từ gốc
là Lôi: Văn Lôi, Vân Lôi, Trạch Lôi v.v... Đây là
một vùng bậc thềm ổn định - gọi theo tên địa lý
học là bậc thềm Ba Vì - mà thập niên 70, 80 của thế
kỷ trước, ngành khảo cổ đã tìm thấy trong lòng đất
những hiện vật thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn tức
thời gian dăm bảy thế kỷ sát mốc Công nguyên. Năm
1975, ở xã Lại Thượng cũng thuộc huyện Thạch Thất có
đào được 14 chiếc rìu đồng và một ngọn giáo đồng.
Điều này nói lên rằng Kẻ Lói và lân cận là những
trung tâm cư dân thời đầu Công nguyên tức thời kỳ Hai
Bà Trưng.
2. Dự đoán này được truyền thuyết
ủng hộ: ở đây có những lời kể về những dấu tích
thuộc về Hai Bà như xóm Nội Nhà được kể là nơi Hai
Bà cất tiếng chào đời, tức cũng là nơi có dinh cơ của
lạc tướng Mê Linh, hoặc dải đất sau lưng chùa Cao được
kể là nơi Hai Bà tổ chức khao quân. Lại còn những địa
điểm được coi là dinh xưa, là tàu voi, là chiến trường
v.v...
3. Ngoài ra nhìn dưới góc độ quân sự sẽ
thấy vị trí trọng yếu của vùng được giả định là
trung tâm huyện Mê Linh này về mặt chiến lược: ba mặt
tây, bắc và đông được vào vệ bằng ba dải sông lớn
là sông Đà, sông Hồng và sông Đáy, còn mặt nam thì có
núi rừng Hòa Bình che chở. Từ trung tâm này có thể
“tiến khả dĩ công” tỏa ra vùng đồng bằng, mà
“thoái khả dĩ thủ” rút về giữ vùng núi rừng hiểm
trở. Hoặc gặp khó khăn hơn thì sẵn có con đường hành
lang Miếu Môn - Chi Nê - Nho Quan len lỏi giữa hai bên triền
núi đá vôi mà rút vào Cửu Chân (như năm 43, sau khi thất
thủ Cấm Khê thì tướng của Hai Bà là Đô Đương - Chu
Bá đã theo đường này mà vào lập căn cứ kháng chiến
ở các huyện Vô Công, Dư Phát trong quận Cửu Chân).
4.
Để hoàn chỉnh chủ trương trên (huyện Mê Linh đời Hán
ở bên hữu ngạn sông Hồng và quê của Hai Bà là Hạ
Lôi thuộc Thạch Thất), Đinh Văn Nhật còn lý giải vấn
đề tại sao lại có làng Hạ Lôi bên Yên Lãng với những
dấu vết được cả một hệ thống truyền thuyết minh
họa.
Ông cho rằng sau khi Mã Viện hoàn thành cuộc
xâm lược hắn đã san bằng vùng Kẻ Lói - Cổ Lôi trù
phú để trả thù dòng họ lạc tướng và nhân dân ở
đây (cũng như đã san bằng đất Chu Diên của Thi Sách).
Để xóa bỏ tận cùng mọi dấu vết, hắn còn dời dân
những vùng này đến nhiều nơi khác nhau trong đó có vùng
bãi sông Hồng và vùng mép bậc thềm Tam Đảo. Những
người Kẻ Lói - Cổ Lôi cũng như những người dân Chu
Diên đã mang theo cả tên làng tên đất cũ sang đặt cho
vùng quê mới. Cho nên bên Yên Lãng quê mới cũng có những
địa điểm, địa danh Cổ Lôi, Văn Lôi, Chu Diên, Đồng
Vỡ, xóm Nội Nhà v.v...
____________________________________
1.
Đất Cấm Khê, căn
cứ cuối cùng của Hai Bà Trưng...
(NCLS số 148- 149). Huyện
Mê Linh thời Hán
(NCLS số 172). Đất
Mê Linh, trung tâm chính trị, quân sự và kinh tế của
huyện Mê Linh...
(NCLS số 190-191).
2. Đúng có một thực tế là để
phiên âm những tên làng có chữ Kẻ đứng đầu thì sách
xưa (Việt Nam cũng như Trung Quốc) đều dùng chữ Cổ,
như Kẻ Chủ = Cổ Loa, Kẻ Du = Cổ Đô, Kẻ Mơ = Cổ Mai,
Kẻ Noi = Cổ Nội (sau mới thêm một nét trên chữ Nội
thành Nhuế) v.v...
3. Ngày trước và cả tới nay, nước
sông Tích rất thất thường, mùa mưa nước từ núi Ba
Vì, núi Vua Bà dồn về hay gây thiên tai thủy hại cho các
làng ở ven sông. Do đó năm nào mất mùa thì dân các làng
này vào Kẻ Lói tìm sự giúp đỡ.
Gần đây tiến hành khảo sát vùng này một cách
chi tiết hơn, chúng tôi thấy thêm nhiều “dữ kiện”:
1. VỀ CẤU TRÚC LÀNG
XÃ
Làng Hạ Lôi - Kẻ Lói nằm bên bờ phải
sông Tích, cách trung tâm nội thành 25km đường chim bay về
phía chính tây. Ngày nay làng Hạ Lôi hợp với làng Bằng
Trù thành xã Hạ Bằng. Trước đây cả hai làng có 12
xóm: 1. xóm Khoang Mè, 2. xóm Cầu, 3. xóm Đầm, 4. xóm
Quán, 5. xóm Cốc, 6. xóm Mương Ốc, 7. xóm Vực Giang, 8.
xóm Trũng Nu, 9. xóm Gò Mận, 10. xóm Cổ Chềm, 11. xóm
Chằm Mỏn, 12. xóm Khu Ba.
Từ năm 1956, hai xóm Khu
Ba và Chằm Món cắt về xã Đồng Trúc. Hai xóm Gò Mận
và Cổ Chềm cũng hợp làm một. Như vậy, hiện xã Hạ
Bằng còn có 9 xóm.
(http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/AnhsachQsu/HaLoiBangTru.jpg)
h. Sơ đồ HẠ LÔI
(BẰNG TRÙ)
Một điều đặc biệt là tuy
trên danh nghĩa có hai làng (Hạ Lôi và Bằng Trù) nhưng
thực thế chỉ là một. Có lẽ ở tỉnh Hà Tây hiếm có
nơi nào giống như ở đây. Về mặt địa lý hành chính
thì đó là hai làng riêng biệt. Ngày trước, trong thời
phong kiến cũng như thời Pháp thuộc, mỗi làng có lý
trưởng riêng, có triện đồng riêng nhưng không có địa
phận riêng. Tự những thời xa xưa, khi mà Hạ Lôi còn có
tên là Cổ Lôi và Bằng Trù là Minh Trù thì cũng đã thế
này, dân hai làng ở xen kẽ với nhau, hai làng chung xóm,
chung đồng, chưng cả đình miếu. Nghĩa là cũng trong một
xóm nhưng nhà này là của người Hạ Lôi thì đó là đất
làng Hạ Lôi, nhà bên cạnh là của người Bằng Trù thì
đó lại là đất làng Bằng Trù và ngôi nhà tiếp theo
nếu chủ là người Hạ Lôi thì đó lại là đất của
làng Hạ Lôi v.v... Đồng ruộng cũng vậy, hễ một thửa
ruộng về người làng nào thì thửa ruộng đó thuộc về
đất của làng ấy. Cho nên hai làng Hạ Lôi và Bằng Trù
không có ranh giới phân chia riêng biệt, tình trạng đó
gọi là hỗn cư hỗn canh.
Sở dĩ có tình trạng
như vậy là do một nguyên nhân lịch sử. Người ở đây
kể rằng xưa kia làng Minh Trù ở phía thấp và làng Cổ
Lôi ở phía cao. Tới một thời - chẳng nhớ là thời nào
- dân Cổ Lôi có mắc míu gì đó với quan trên nên có
lệnh triệt hạ làng, dân bị đuổi đi nơi khác còn đất
đai thì giao cho làng Minh Trù. Mãi sau, một số người Cổ
Lôi tìm về quê cũ, được người Minh Trù nhường đất,
nhường đồng cho, do đó mà hình thành cái thế hỗn cư
hỗn canh cho tới tận ngày nay.
Với hoàn cảnh ăn
ở và làm lụng xen kẽ như vậy nên hai làng chỉ xây
chung một ngôi đình. Khi có việc làng thì dân Hạ Lôi
ngồi bên trái và dân Bằng Trù ngồi bên phải, mọi việc
tế lễ, bổ bán đều làm chung cả.
Liệu ký ức
về một làng Cổ Lôi bị triệt hạ đó có thể chính là
ký ức đã phai nhạt về một sự thực quá xa xưa là Mã
Viện đã san bằng Cổ Lôi trang được không?
2.
VỀ ĐÌNH MIẾU
Hai làng chung nhau một ngôi
đình. Đình vốn ở xóm Quán, đã bị phá. Trên nền đình
nay là trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Ngày trước tại đình
này thờ ba thành hoàng là Cao Hưng, Tuấn Tĩnh và Trung
Liệt. Lời truyền miệng ở đây kể rằng đó là ba
người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Khi ông bà chia
con thì ba vị đó đến ở vùng này, dạy dân cày cấy,
lập thành làng mạc. Dân cảm ơn công đức ấy, lập
miếu thờ. Đến thời Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa,
Hai Bà có kỳ đảo ở miếu, rồi nằm mộng thấy ba ông
lão đầu râu tóc bạc tự xưng là Cao Hưng, Tuấn Tĩnh,
Trung Liệt tới xin âm phù trợ giúp. Sau khi đánh đuổi
được giặc Hán, Hai Bà cho dân Minh Trù dựng đình miếu
nguy nga thờ ba vị đó làm thành hoàng.
Ngoài ngôi
đình ấy, ở Hạ Lôi - Bằng Trù còn có một ngôi đền
thờ Hai Bà Trưng tương truyền là dựng trên chính nơi
Hai Bà tập hợp đại quân. Ở vùng này các làng thường
gọi đền thờ thần là quán, và quán thờ Hai Bà ở trên
một gò cao, bên dưới là ao sen nên quán đó có tên là
quán Ao Sen - (ở Chương năm sẽ trở lại ngôi
quán này).
Về chùa thì có hai ngôi: chùa Cao (Báo
Ân tự) là chùa của Hạ Lôi và chùa Thấp (Thiên Trúc
tự) của Bằng Trù. Chùa Cao thuộc xóm Cốc, ở phía sau
chợ mới. Chùa Thấp thuộc xóm Đầm chỗ có trại chăn
nuôi. Tại chùa Cao có một tấm bia khắc năm Minh Mạng
thứ hai nhưng không liên quan gì tới Hai Bà Trưng.
3.
VỀ TRUYỀN THUYẾT
Ở vùng Kẻ Lói này có
lưu truyền những chuyện kể về Hai Bà Trưng mà gần đây
có người - dường như một ông đồ hoặc ông hương sư
- đã ghi lại thành văn bản. Nhưng văn bản này có lắm
nhầm lẫn, nhất là lại thêm thắt nhiều chi tiết phi
lịch sử, hiện đại hóa1. Dưới đây chỉ
trình bày lại phần cốt lõi:
“Sau khi Thi Sách bị
Tô Định hại, bà Trưng Trắc trở về quê cha là Kẻ
Lói, ở tại xóm Nội Nhà2. Rồi bà vào
vùng núi mộ quân, luyện tập. Sau ba năm tích thảo dồn
lương, bà dựng cờ khởi binh. Nay ở khu vực Khoang Lọng
có cái giếng Cột tương truyền là nơi dựng cột
cờ của nghĩa quân. Hai Bà còn lập một số đồn trại
ở quanh Kẻ Lói: phía Bắc có một đồn quân ở làng Cố
Thủ (còn gọi là Hương Trung), phía nam có một đồn
tượng binh đóng ở làng Trúc Voi v.v... Giữa cánh đồng
có Đồng Kho vốn là nơi tích lương thực, vũ khí. Bà
Trưng Nhị đóng ở bên bờ trái sông Tích, chỗ Bến Nghệ
nhìn sang, nơi đó nay còn một tên gọi là xóm Nhà Bà.
Vào một ngày mùng 6 tháng Mười Một, Hai Bà khao
quân ở Ao Sen (nơi đó, sau dân lập quán thờ Hai Bà).
Quân đông không đủ nồi nấu cỗ, phải làm cỗ thịt
lột, tức là trâu lột xong da thì đặt thịt lên trên da
mà nấu. Do đó cho tới trước Cách mạng tháng Tám, hàng
năm vào ngày 6 tháng Mười Một làng vào đám vẫn có lệ
làm tiệc trâu lột”.
Bấy nhiêu lời kể có từ
xa xưa hẳn không phải là hoàn toàn bịa đặt, chắc chắn
là một cơ sở thực tế. Khắp đồng bằng sông Hồng
không có làng nào tự nhận là quê hương của Hai Bà
Trưng, trừ làng Hạ Lôi - Kẻ Lói này và Hạ Lôi bên Yên
Lãng. Vậy mà Hạ Lôi - Kẻ Lói đích thực thuộc huyện
Mê Linh, theo sử sách là huyện quê của Hai Bà.
Cho
nên chủ trương của Đinh Văn Nhật (coi Hạ Lôi - Kẻ Lói
là quê gốc của Hai Bà) có một giá trị nhất định.
(Thực ra Đinh Văn Nhật không hoàn toàn phủ định Hạ
Lôi bên Yên Lãng mà ông cho rằng Hạ Lôi đó là “hậu
thân” của Hạ Lôi - Kẻ Lói tức là cũng đã có tới
non hai nghìn năm lịch sử).
____________________________________
1.
Ông cụ Hai Tấn ở xóm Khoang Mè đã tìm cho chúng tôi đọc
tài liệu này. Xin cảm ơn nhiệt tình giúp đỡ ấy. Nhưng
tài liệu có nhiều sự lầm lẫn, như chép rằng Thi Sách
làm tri phủ Vĩnh
Tường, lạc tướng
cha của Hai Bà Trưng làm thứ
sử Vĩnh Yên, rồi
khi Hai Bà khởi nghĩa có nằm mộng thấy thần cho một
bài thơ Đường
luật thất ngôn bát cú,
hoặc Trưng Nhị là thứ
hậu của Thi Sách
v.v… Về niên đại thì đối chiếu âm lịch với dương
lịch một cách tùy tiện, sai nhiều. Ví như khi kể về
việc Tô Định sang làm thái thú Giao Chỉ tài liệu này
viết: “Năm Giáp Ngọ - 11 trước Tây lịch, Tô Định
sang Giao Chỉ, cho Thi Sách làm thứ sử (!!)”.
2. Xóm
Nội Nhà nay không phải là khu dân cư mà là khu đất canh
tác bên đường từ Cổ Chềm sang Trúc Voi.
4.
VỀ ĐỊA DANH
Ở Hạ Lôi - Kẻ Lói có những
địa điểm tương truyền là dấu vết của cuộc đấu
tranh chống giặc Hán mà tên gọi gắn với sự tích chiến
đấu. Như xóm Mương Ốc được coi là nơi có hào sâu,
có vọng gác, mỗi khi giặc kéo đến thì thổi ốc, thổi
tù và làm hiệu. Hoặc có khu đất mang tên Ao Xâu, tương
truyền là nơi giặc xâu tay người lại rồi lấy mã tấu
dóc một loạt thủ cấp. Lại có chỗ gọi là Đấu Đống
tức nơi mà giặc giết dân làng rồi vun thành một đống
đầu chôn chung vào một hố. Sự việc này xảy ra ngày
mùng 1 tháng Tư nên trước đây, hàng năm làng có lệ làm
cỗ chay vào ngày đó để cúng cô hồn.
Nếu nói ra
khỏi địa giới Hạ Bằng thì chỉ vài trăm mét về phía
đông thì có xóm Trúc Voi tương truyền là nơi nuôi voi
của nghĩa quân Hai Bà, có xóm Đồng Kho tương truyền là
kho lương thảo và vũ khí, có xóm Đồng Táng là nơi an
táng nghĩa quân tử trận. Cả ba xóm này nay thuộc xã
Đồng Trúc, xã láng giềng của Hạ Bằng, cũng thuộc về
huyện Thạch Thất.
Về xã láng giềng phía tây là
xã Tân Xã (cũng thuộc huyện Thạch Thất) có thôn Rộc
Vừa (Mục Uyên) ở sát ngày địa giới Hạ Lôi, thờ Lý
Minh theo thần tích là một tướng của Hai Bà Trưng.
Ở
cạnh bờ sông Tích nay thuộc Tân Xã có khu đất gọi là
Quán nhà vươn (vương?) tương truyền có dấu vết thành
lũy cổ, hiện còn những mô đá được coi là móng thành.
Xa hơn một chút, cách địa giới Hạ Lôi khoảng
3km về phía đông nam, ở xã Phú Mãn thuộc huyện Quốc
Oai, Hà Tây, có khu vực tên là Đồng Vỡ, tương truyền
là nơi quân Hán bị quân Hai Bà đánh tan vỡ, lại có xóm
Thắng Đầu tương truyền là nơi nghĩa quân Hai Bà đánh
thắng quân Hán trận đầu.
Thực ra, cũng như ở
bên Hạ Lôi - Yên Lãng, các địa danh, địa điểm được
gắn vào các sự kiện lịch sử cũng chỉ là những chứng
tích huyền kỳ, chưa phải trường hợp nào cũng là cứ
liệu chắc chắn. Chưa có hoàn cảnh và phương tiện để
giám định tư liệu này, chúng tôi ghi lại ở đây chỉ
với mục đích bảo tồn tư liệu.
5.
VỀ NHỮNG DI VẬT CỔ
Tháng 6 năm 1979, ở xã
Hạ Bằng phát hiện một số vật cổ bằng đồng thau.
Nơi phát hiện là một gò đất cao ở giữa cánh đồng
về phía tây khu dân cư. Gò ấy tên là gò Giếng Sãi. Đây
là sự phát hiện tình cờ, nhân đào đất có người
nhận ra các hiện vật này ở sườn gò. Tất cả gồm
một ngọn giáo và 44 rìu to nhỏ khác nhau. Hầu hết là
rìu lưỡi xéo, được xếp đặt theo một thứ tự nhất
định, cán quay lên trên cùng về một phía, rìu lớn và
ngọn giáo được xếp ở giữa tất cả như được bó
gọn trước khi chôn.
Theo nhận xét sơ bộ của
giới khảo cổ thì các công cụ sản xuất kiểu vũ khí
này thuộc về thời kỳ đồng thau, muộn nhất cũng là
tương đương thời kỳ Hai Bà Trưng1.
Hiện
nay ở khu Dồi De cạnh bờ sông Tích trong một hố sâu có
hai con voi đá đục dở (chưa có chân). Theo lời kể
truyền miệng thì đây là đôi voi mà dân làng Hạ Lôi -
Kẻ Lói định đem sang làm quà cho huyện Chu Diên, nơi quê
cũ của ông Thi Sách. Nhưng tạc chưa xong thì Hai Bà thất
trận nên mọi việc ngừng lại. Kể ra bằng chất liệu
đá ong mà tồn tại hai nghìn năm thì e cũng khó, cho nên
trong khi chưa xác định được niên đại cụ thể thì
chỉ có thể coi đôi voi này là một chứng tích huyền
thoại.
Nói rộng sang vùng lân cận thì năm 1977,
tại xã Đồng Trúc láng giềng của xã Hạ Bằng, có đào
được một trống đồng, trống để ngửa, bên trong có
một thanh kiếm sắt (đã rỉ và gầy). Nơi đào trống
cách địa giới Hạ Bằng khoảng 1000 mét. Theo nhận xét
sơ bộ của giới khảo cổ thì đây là trống đồng dạng
trung gian giữa loại II và loại IV Hêgơ, tức là sản
phẩm đầu Công nguyên2.
Ngoài ra,
ông Nguyễn Danh Phiệt trong luận văn Khôi phục và
nghiên cứu lịch sử chân thực cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng (lưu tại Ban Sử - Viện Thông tin khoa học xã
hội) cho biết rằng ở xã Tuyết Nghĩa nay thuộc huyện
Quốc Oai (Hà Tây), cách Hạ Bằng không quá 2km đường
chim bay, nơi đây có phát hiện nhiều mộ Hán trên các gò
gọi là Tam Tinh, Thất Tinh... cùng với nhiều mũi tên
đồng, giáo mác và cả gương đồng nữa. Tại đồi
Giáp, xã Đồng Yên còn có ngôi đền thờ bà Mai Thị
Trang tương truyền là tướng của Hai Bà. Cạnh đền vẫn
còn ngôi mộ bà Trang. Cách mộ một đoạn là nơi chôn
yên cương của con ngựa chiến của bà. Cách đây gần
một thế kỷ có người đào được ở chỗ này một
thanh kiếm sắt và khoảng bảy chục cái lục lạc bằng
đồng.
Như vậy thì bằng vào tư liệu khảo cổ
học, vùng Kẻ Lói và lân cận vào đầu Công nguyên là
những khu vực dân cư có cả người Việt và người Hán
cư trú. Điều này có thể gợi ý về một đô úy trị
hoặc trị sở của một huyện hay một quận thời đó.
Tóm lại, chủ trương của Đinh Văn Nhật đặt
huyện Mê Linh đời Hán ở bờ phải sông Hồng - từ các
huyện Hạ Hòa, Cẩm Khê của tỉnh Phú Thọ, qua các huyện
phía tây của Hà Nội, tới Chương Mỹ, Hoài Đức - là
dựa trên các thư tịch xưa của những tác giả có uy
tín. Đóng góp mới của Đinh Văn Nhật chính là sự
chỉ định trung tâm của huyện Mê Linh ấy là vùng Kẻ
Lói với một loạt các làng Hạ Lôi, Vân Lôi, Trạch
Lôi.. nơi giáp ranh các huyện Thạch Thất, Quốc Oai, Lương
Sơn. Nơi đó đồng thời cũng là quê hương của Hai Bà
Trưng. Sự chỉ định này, chủ yếu là bằng phương pháp
địa lý học lịch sử có kết hợp phương pháp sử học,
ngay từ khi mới phát biểu (năm 1972) đã được giới
nghiên cứu chú ý. Đành rằng việc kiểm nghiệm tính
chính xác của một phát hiện hoàn toàn mới mẻ về cổ
sử đòi hỏi một thời gian đáng kể và tuy trong chủ
trương trên cũng có một vài sơ xuất, rõ nhất là việc
tác giả quá nệ vào các địa danh Hán - Việt nên ở đôi
chỗ lập luận có giảm tính thuyết phục3,
nhưng nói chung, cho đến nay những kết quả khảo sát
thực địa, những truyền thuyết, ngọc phả mới được
tìm ra những di vật khảo cổ, những dấu vết vật chất
v.v... ở vùng này đã bổ sung, hỗ trợ không ít cho chủ
trương đó, khiến nó trở nên một giả thuyết khoa học
có nhiều khả năng tiếp cận với chân lý lịch sử.
____________________________________
1.
“Phát hiện một
số đồ đồng ở Hạ Bằng huyện Thạch Thất”
Nguyễn Thị Dơn - “Những phát hiện mới về khảo cổ
học năm 1979” – tr. 100.
2. Phát
hiện trống đồng Đồng Chúc
- Nguyễn Văn Huyên - Hà Văn Thắng - “Những phát hiện
mới về khảo cổ học năm 1978” tr.154.
3. Như trường
hợp tác giả cho rằng những làng có chữ Trưng trong tên
gọi như Vĩnh Trưng, Vân Trưng, Thế Trưng... (huyện Yên
Lạc) là có liên quan đến tộc danh Trưng. Thực ra những
tên Hán - Việt xuất hiện rất muộn. Các làng trên vốn
có tên Nôm là Kẻ Dưng, như vậy tất không liên quan gì
tới họ Trưng của Hai Bà. Hoặc do dựa vào một thông
tin sai của Cl. Madrôn - là ở Hạ Lôi (Yên Lãng có đầu
Đầu Bằng Thượng, ông Đinh Văn Nhật cho đó là ký ức
về hai làng cổ Thắng Đầu và Bằng Lộ. Thực ra ở Hạ
Lôi là đất Đầu Bàng
Thượng!)
Chương Ba
CUỘC
KHỞI NGHĨA
NGUYÊN NHÂN
Giải thích về nguyên nhân
cuộc khởi nghĩa, một số sử sách cho rằng do Tô Định
giết Thi Sách mà Hai Bà dấy binh, như Đại Việt sử
Kí tiền biên (q.3) chép: “Chồng bà Trắc bị (Tô
Định) giết, bà Trắc sinh thù”, hoặc như Cương mục
chép: “Thái thú Tô Định là người tham bạo, giết
chồng bà (Trưng Trắc), bà cùng em là Nhị cử binh đánh
châu trị”.
Thực ra, không thể cắt nghĩa nguyên
nhân của một cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn như cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng bằng việc thù hận cá nhân. Đành
rằng ở đây việc Tô Định giết Thi Sách còn có nghĩa
là đánh vào giai cấp quý tộc bản địa, với âm mưu
tiêu diệt các lạc tướng là hình tượng tiêu biểu cho
sự tồn tại của ý thức tự lập dân tộc Việt nhưng
nếu không phải là sự vươn mình của cả một dân tộc
nhằm giải quyết mối mâu thuẫn cơ bản giữa dân tộc
mình và chính quyền đô hộ đã đến độ chín thì cuộc
khởi nghĩa khó mà thành công. Vả cũng có những sách ghi
là bà Trưng Trắc đã cùng chồng mưu việc lớn. Như Thủy
kinh chú (q.37) còn chép: “Trắc cùng Thi (Sách) khởi
nghĩa”. Hoặc như Thiên Nam ngữ lục có kể rằng
Trưng Trắc khi ấy còn ở nhà đã căm giận “Tô Định
gian manh”, tới lúc lấy Thi Sách thì cả hai vợ chồng
“toan đường mở nước dựng nên nghiệp nhà”, do đó
Tô Định cất binh đàn áp. Như vậy lại là bà Trưng
Trắc trù tính việc khởi binh khi Thi Sách còn sống.
Cho
nên việc Thi Sách bị giết hại, nếu đúng, chỉ là cái
cớ, cải nguyên nhân trực tiếp. Cuộc khởi nghĩa còn có
những nguyên nhân sâu xa hơn.
Một số sử sách có
đưa ra những cách lý giải khác. Như Toàn thư ghi:
“Vua (bà Trưng Trắc) khổ vì Tô Định dùng pháp luật
trói buộc (nguyên văn: thằng dĩ pháp), lại thù
Định giết chồng, bèn cùng em là bà Nhị khởi binh”1.
Linh Nam chích quái cũng chép tương tự: “Bấy
giờ thứ sử Giao Châu (thực ra là thái thú Giao Chỉ) là
Tô Định, tham lam tàn bạo, người trong châu quận khổ
vì hắn. Bà chị giận, rủ em cất quân đánh hãm Giao
Châu”2.
Sử Trung Quốc cổ cũng ghi
như vậy. Hậu Hán thư (q. 86) ghi: “Trưng Trắc là
con gái lạc tướng Mê Linh, gả làm vợ Thi Sách, người
huyện Chu Diên, rất hùng dũng. Thái thú Giao Chỉ Tô Định
dùng pháp luật trói buộc (dĩ pháp thằng chi). Bà oán
giận nên làm phản”.
Tư trị thông giám
(q.43): “Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng pháp luật
trói buộc. Trưng Trắc oán giận”.
Việt kiệu
thư (q.3): “Thái thú Tô Định tham lam độc ác dùng
pháp luật trói buộc, Trưng Trắc giận, cùng em là Nhị
làm phản”.
An Nam chí (q.2): “Định tham bạo
đến nỗi người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc, Trưng
Nhị làm phản”.
Theo các tài liệu trên thì nguyên
nhân cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là do Tô Định tham lam
bạo ngược, dùng pháp luật (của chính quyền ngoại tộc
Đông Hán) trói buộc dân Giao Chỉ, có ý nghĩa là đánh
vào truyền thống của dân Việt.
Tuy nhiên nguyên
nhân chủ yếu của cuộc khởi nghĩa này, như đã sơ bộ
đề cập tới ở Chương một chính là chính sách
áp bức bóc lột và đồng hóa của nhà Đông Hán tới
những năm đầu Công nguyên đã trở nên quá tàn tệ,
thâm độc, đẩy nhân dân Giao Chỉ đến chỗ khốn cùng.
Thảm họa bị diệt vong, diệt chủng là điều mọi người
đều cảm nhận thấy và không thể cam chịu mà phải
vùng lên tự cứu! Đó chính là đáp số mà người Giao
Chỉ đã tìm ra qua thực tế cuộc sống. Cho nên những
hành vi bạo ngược của Tô Định chỉ là mồi lửa làm
bùng cháy cái bể dầu đang âm ỉ sôi.
Thật ra thì
Tô Định là một gã khét tiếng tham lam. Ngay Mã Viện
cũng có nhận xét “Tô Định giương mắt mà trông tiền”.
Câu nói hình ảnh đó đã khái quát tính cách của Tô
Định. Đã “giương mắt trông tiền” thì còn từ một
thủ đoạn nào mà chẳng dùng để bóp nặn, đục khoét
cướp đoạt tài sản của dân, trấn áp
dân.
____________________________________
1.
Bản dịch đã dẫn - tr.91.
2. Bản dịch đã dẫn -
tr.62.
Việc mà sử cũ gọi là “dùng
pháp luật trói buộc” người dân thì hẳn là chỉ việc
Tô Định áp dụng luật Hán để trị người Việt. Thực
tế đương thời là luật Hán khác luật Việt. Mã Viện
sau đó từng “tâu hơn mười việc về luật người Việt
khác với luật người Hán”. Rõ ràng là giữa hai hệ
thống luật pháp của hai nước có khác nhau1.
Bất chấp phong tục, tập quán và truyền thống của
người Việt, Tô Định đã sử dụng luật Hán làm công
cụ trấn áp, khủng bố và trên hết là nhằm phủ định
sự tồn tại của người Việt. Như vậy không chỉ là
“trói buộc” người dân Việt mà cả tầng lớp quý
tộc bản địa (lạc hầu, lạc tướng) cũng bị đụng
chạm, quyền hành của họ bị hạn chế lại.
Tuy
nhiên, Tô Định dù tham bạo, hà khắc như thế thì cũng
chỉ góp phần đẩy sự bất mãn thêm mâu thuẫn giữa
nhân dân và chính quyền đô hộ vốn nảy sinh từ lâu và
trở thành nghiêm trọng ít ra là từ thời Tích Quang.
Như
đã nêu ở Chương một, Tích Quang làm thái thú Giao
Chỉ từ đời Hán Bình đế (1 đến 5 s.c.n) và ở tới
năm 34. Theo ghi chép của sử Trung Quốc thì Tích Quang đã
đón nhận các quý tộc sĩ phu Hán tộc ồ ạt lánh nạn
Vương Mãng (8 đến 23 s.c.n) và tìm cách cướp ruộng đất
của các làng xóm Lạc Việt, Âu Việt để cấp cho bọn
đó lập trang trại riêng. Theo sau sự việc này là một
loạt người dân bản địa bị biến thành nông nô, nô
tì cày ruộng và hầu hạ các “chủ nhân” Hán tộc.
Như vậy, người lao động ở Giao Chỉ bị mất
đất, bị nô lệ hóa mà các lạc tướng cũng thấy phạm
vi quyền hành của mình bị thu hẹp. Tích Quang còn phối
hợp với các sĩ phu Hán tộc mở trường dạy học,
truyền bá lễ giáo phong kiến Nho gia, hình thành một hệ
tư tưởng hoàn toàn xa lạ đối với người Việt và làm
nảy sinh một tầng lớp Nho sĩ bản xứ trực tiếp giao
thiệp, phục vụ chính quyền đô hộ. Điều này cũng
khiến các lạc tướng bất bình vì một bộ phận dân
chúng tuột ra khỏi vòng kiểm soát của họ. Có tài liệu
còn nói trước đó số quân lính đồn trú tại các thành
huyện, thành quận và vài chốt khác toàn là người Hán
thì bấy giờ Tích Quang tuyển thêm cả người bản địa
vào. Điều này có thể tin được vì năm 30, nhà Hán bãi
bỏ chức đô úy và đô úy thừa (là hai chức trưởng và
phó chỉ huy quân đội, coi việc canh phòng trị an), cho
thái thú kiêm giữ cả. Được toàn quyền, lại có chủ
trương “dĩ Man trị Man” Tích Quang rất có thể tạo ra
một cơ cấu lính ngụy tay sai để tiếp tay đàn áp dân
Việt có hiệu quả hơn2.
Như thế,
ách trực trị dưới thời Tích Quang đã thêm xiết chặt,
cuộc sống nhân dân Giao Chỉ càng bị bóp nghẹt mà quý
tộc bản địa cũng thêm nhiều bất mãn. Ngoài ra, như đã
nêu ở trên, đây là thời điểm mà Hán Quang Vũ rất
muốn đồng hóa nước Âu Lạc để bước đường bành
trướng xuống phương nam đỡ bị trở ngại.
Cho
nên, đến thời Tô Định, với chủ tâm thực hiện ý đồ
cuồng vọng của “hoàng đế”, với tính cách tham bạo,
độc ác tên thái thú này chỉ là kẻ cuối cùng đem lửa
đến cho dầu. Bằng quyền lực và pháp luật hà khắc,
hắn thẳng tay vơ vét, đàn áp nhân dân, đồng thời chèn
ép, ràng buộc các lạc tướng huyện lệnh. Những ai có
ý chống đối đều bị hắn trừng trị hoặc thủ tiêu.
Chính sử chỉ ghi có vụ Tô Định sát hại Thi Sách.
Nhưng ở nguồn thần tích ngọc phả của Hà Tây và Vĩnh
Phúc thì khá nhiều bản ghi tội trạng này của Tô Định
như thần tích làng Nghĩa Lộ (xã Yên Nghĩa, huyện Hoài
Đức) kể rằng Tô Định đã giết Nguyễn Viên là
trưởng doanh Cổ Châu (vùng Thanh Oai), vì ông này không
chịu phục tùng. Thần tích làng Cổ Ngõa (xã Phương
Đinh, huyện Đan Phượng) cho biết Tô Định đã giết
Nguyễn Anh là quan doãn ở Đan Phượng vì ông không
chịu nộp thuế cho thái thú. Rồi nào là Đinh Đạm
là trưởng bộ hộ Vũ Ninh (theo thần tích làng Bạch Trữ,
xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh), Hùng Linh lạc tướng
ở Hạ Trì (theo thần tích làng Hạ Trì, xã Liên Hà,
huyện Đan Phượng), Cao Cự là lại viên ở Thiên
Trường (theo thần tích làng Tháp Thượng, xã Đồng Tháp,
huyện Đan Phượng) v.v... đều là những nạn nhân của
chính sách khủng bố của Tô Định.
Nhưng trong
thực tế, sự xiết chặt ách thống trị đã không thể
làm cho người Việt sợ hãi mà chỉ làm cho mâu thuẫn
giữa người Việt và chính quyền Hán thêm sâu sắc. Cuối
cùng, sự căm phẫn chứa chất của quần chúng đã trào
dâng tạo thành nhiều cuộc nổi dậy lớn nhỏ ở nhiều
địa phương để rồi quy tụ lại ở cuộc khởi nghĩa
do Hai Bà Trưng lãnh đạo.
____________________________________
1.
Sẽ nói rõ hơn ở phần sau.
2. Dưới thời Tích Quang
thực đã có hoặc chưa có bộ phận ngụy quân thì cần
có thêm tài liệu gốc, nhưng dưới thời Tô Định - theo
truyền thuyết - thì đã có và không phải là ít. Thiên
Nam ngữ lục có kể
là sau khi phá tan quận thành thì Hai Bà có công bố một
số chính sách, trong đó có chính sách với ngụy quân:
bao nhiêu sĩ tốt ngày trước bị Tô Định bức vào lính
thì bây giờ ai muốn về quê sẽ cho về, ai muốn theo
khởi nghĩa thì cho theo.
NHỮNG CUỘC NỔI DẬY
Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG
Tới thời Tô Định cầm quyền, người dân Việt
do cống nạp, lao dịch, thuế má... quá nặng nề nên rất
mực cơ cực. Ách cai trị của chính quyền đô hộ thêm
trực tiếp và xiết chặt hơn trước khiến các lạc
tướng và quý tộc địa phương cũng bị chèn ép hơn.
Thực tế đó đã làm nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của
nhân dân ở nhiều vùng khác nhau. Sử Trung Quốc không ghi
các trường hợp này nhưng nếu như ở thời Tây Hán,
nhân dân ta đã từng nổi dậy chống bọn đô hộ - điều
này sử Trung Quốc có ghi1 - thì tới thời
Tích Quang, Tô Định tất không bao giờ chịu bó tay.
Sử
Việt Nam thì bộ ra đời sớm nhất cũng là sau Công
nguyên mười bốn thế kỷ nên không ghi được gì về
những cuộc nổi dậy tất phải có này (Ngay cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà mà cũng còn chép rất sơ lược). Chỉ
có truyền thuyết dân gian, kho bảo lưu những ký ức về
lịch sử của người đời xưa là còn giữ được một
vài hình ảnh của thời kỳ ấy: thần phả, thần tích
(một hình thức văn bản hóa của truyền thuyết) của
một số làng vùng trung châu còn ghi lại sự tích đánh
giặc Hán trước khi Hai Bà Trưng dấy nghĩa của một số
thủ lĩnh nghĩa quân. Đành rằng thần tích, ngọc phả có
nhiều chi tiết hoang đường, hư cấu nhưng vẫn chứa một
cốt lõi lịch sử, vẫn có một nguyên mẫu trong thực
tế. Có điều là tách lọc được cái cốt lõi, cái
nguyên mẫu ra khỏi mớ hỗn độn của những sự việc
do đời sau bịa đặt, gán ghép thì lại không phải đơn
giản mà là một công phu giám định nghiêm túc phối hợp
những phương pháp khảo sát khác nhau của nhiều bộ môn
khoa học. Ở đây chưa làm được việc đó nhưng để
khỏi mai một nguồn tư liệu đáng quan tâm nên những
trang dưới đây sẽ là phần tóm tắt sự tích một số
nhân vật truyền thuyết đứng đầu trong những phong trào
nổi dậy của quần chúng ở châu thổ sông Hồng trước
khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa.
CHÀNG
HỐI
Làng Thịnh Kỷ ở huyện Yên
Lãng nay thuộc xã Tiền Châu, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh
Phúc có chuyện kể về Đông Hối đại vương. Sự tích
như sau:
Ở động Bích Uyển thuộc huyện Đông
Triều, phủ Kinh Môn, bộ Hải Dương có ông Nguyễn Huyên
từng làm quan ở Ái Châu. Bị giặc Hán đè nén, ông bỏ
chức về ẩn ở động Bích Nham mưu việc cứu nước.
Nhưng ý nguyện chưa đạt thì ông bị bệnh qua đời. Con
trai ông tên là Hối nguyện nối chí cha. Hối tìm kết
bạn với những người cùng chí hướng.
Chàng lập
được một đội quân gồm năm trăm người. Sau một thời
gian luyện tập, họ tiến đánh đồn giặc. Nhưng có tới
hàng chục trận mà không thắng. Chàng Hối thấy cần
phải có một kế sách khác. Chàng bàn với nghĩa quân tạm
ngừng hoạt động để chàng đi tìm một phương lược
mới.
Hối lên đường, đến với cậu ruột là
ông Phạm Côn Huyền ở trang Ký Hợp (Trang này sau đổi
ra là làng Yên Lãng - tên làng này được mượn để đặt
cho huyện Yên Lãng - nhưng rồi làng Yên Lãng lại đổi
ra là Lý Hải và cắt về huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh
Phúc ngày nay).
Lúc này ông Huyền cũng đang mưu
việc cứu nước, đã chiêu mộ được một nghìn nghĩa
sĩ. Nhưng Hối bàn rằng cần mở rộng căn cứ, quân số
cũng cần đông hơn. Thế là hai cậu cháu chia nhau đi cổ
động nhân dân quanh vùng. Hối đến trang Ngọc Kỷ (nay
là làng Thịnh Kỷ), thấy thế đất có thể dụng võ,
liền cùng nhân dân ở đây bàn cách đắp đồn trại
chống giặc Hán.
Trai gái quanh vùng được tin, rủ
nhau tới gia nhập nghĩa quân. Các nghĩa sĩ bên Đông Triều
cũng kéo sang tu hội. Ông Huyền cũng thuyết phục được
bà con vùng khe động ở chân núi Tam Đảo lập đồn
chống lại quân Hán. Thế là từ đó hình thành một căn
cứ kéo dài từ sông Cà Lồ đến giáp Tam Đảo mà hai
đại đồn là Ngọc Kỷ và Ký Hợp.
Biết tình
hình đó, thái thú Hồ Điển (?) tới đánh nhưng không
sao phá nổi. Sau nhiều phen hao lính tổn quân. Hồ Điển
bị cách chức. Tô Định sang thay. Tên này cũng có đôi
ba lần tới đánh Ký Hợp và Ngọc Kỷ nhưng không thắng.
Hắn phải thu quân chờ một cơ hội...
Chàng Hối
về Đông Triều trù liệu lập lại căn cứ ở quê nhà.
Lợi dụng thời cơ này, Tô Định thúc quân đánh Ký Hợp
và Ngọc Kỷ. Ở Ký Hợp, ông Huyền chết trong chiến
đấu. Nhưng ở Ngọc Kỷ thì tuy vắng chủ tướng song do
đã có phòng bị nên Tô Định không hạ nổi. Khi Hối
trở lại, đồn trại vẫn vững vàng.
Cho tới
khoảng một năm sau, được tin Hai Bà Trưng khởi binh,
chàng Hối liền đưa hai nghìn quân bản bộ tới Hát Môn
tụ nghĩa. Chàng được giao chỉ huy tiến quân đi đánh
quận thành... Thành công rồi, theo lời tâu trình của
Hối, Trưng Vương định đô tại Ký Hợp.
Khi Mã
Viện sang xâm lược, chàng Hối lập công ở Nam Hải môn
cự chiến. Quân Hán đánh ba trận thua cả ba. Mã Viện
gửi biểu tấu về vua Hán xin viện binh. Vua Hán ra lệnh
phải dùng mưu. Mã Viện làm ra vẻ sẽ chuyển sang đánh
chính ở thượng đạo qua các đất Côn Lôn, Tụ Long, Bảo
Lạc... Trưng Vương điều chàng Hối lên trấn thủ mạn
Bắc. Thế là Mã Viện lọt được vào trung châu, đánh
Lãng Bạc rồi tới Cấm Khê. Hai Bà tử trận. Chàng Hối
rút vào Cửu Chân. Giặc Hán chiếm nơi này. Hối lại trở
ra Ngọc Kỷ. Lúc này chàng chỉ còn có hai trăm thủ túc.
Chàng vẫn quyết tiếp tục chiến đấu. Nhưng chỉ ít
ngày sau đó, quân giặc ập tới. Không kịp trở tay, Hối
chỉ đủ một ngựa một gươm lao vào quân giặc. Cuối
cùng bị thương nặng, Hối thúc ngựa đi xuống sông Cà
Lồ mà hóa. Đó là ngày mùng 10 tháng Chín.
Qua sự
tích trên, có thể lọc ra một cốt lõi là trước khi Hai
Bà Trưng truyền hịch, đã có một cánh nghĩa quân hoạt
động ở khư vực từ sông Cà Lồ đến chân núi Tam Đảo.
____________________________________
1.
Đã nói ở Chương
một.
THIÊN
BẢO - TRẦN NANG
Làng Thái Lai tên Nôm là Kẻ Sải nay thuộc xã Tiến
Thắng, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Làng Phú Mỹ xưa
là trang Toàn Liệt, tên Nôm là Kẻ Sặt nay thuộc xã Tự
Lập cùng huyện. Ở hai làng này có câu chuyện về vợ
chồng Hùng Thiên Bảo và Trần Nang. Trần Nang theo mặt
chữ trong thần tích thì là Trần Nương nhưng dân làng
gọi kiêng là Trần Nang. Cô là con gái ông Trần Hậu
người làng Thái Lai. Khi đó có một hào trưởng ở địa
phương tên là Đinh Công Dũng tới hỏi Trần Nang làm vợ.
Thấy Dũng là người tham bạo nên ông Trần Hậu không
gả. Từ đấy Dũng sinh thù. Ít lâu sau, có ông Hùng
Trọng, người trang Toàn Liệt, làm bộ chủ ở Hải
Dương, nhân về thăm quê thấy Trần Nang đẹp người đẹp
nết liền dạm hỏi cho con trai là Thiên Bảo. Và sau đó
ít lâu đám cưới được tổ chức. Nhưng giữa lúc đón
dâu thì Đinh Công Dũng đem thủ hạ tới đốt phá trang
ấp. Thiên Bảo liền xuất trận, chém chết Dũng.
Bọn
thủ hạ của Dũng sau đấy theo quân Hán. Chúng ton hót
tâu nạp, dẫn bọn này về tàn phá Thái Lai và Toàn Liệt,
giết ông Trần Hậu.
Thế là thù riêng hòa với
thù chung, Hùng Thiên Bảo - Trần Nang cùng nhân dân hai
làng Toàn Liệt, Thái Lai dựng cờ khởi nghĩa chống giặc
Hán.
Trần Nang lập đồn ở Kẻ Sải. Thiên Bảo
đóng ở Kẻ Sặt. Hai bên làm thế ỷ dốc cho nhau. Dân
chúng các nơi cũng kéo tới hội tụ. Bên Toàn Liệt có
tám trăm tráng sĩ. Bên Thái Lai có hai trăm năm chục nữ
binh. Họ đánh đồn quân Hán, làm lũ giặc nhiều phen
khốn đốn.
Khi biết tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa,
Thiên Bảo và Trần Nang đưa nghĩa sĩ tới Hát Môn hội
quân... Sau khi đánh đuổi Tô Định, Hai Bà ủy cho họ về
đóng quân tại trang ấp quê hương. Tới lúc Mã Viện xâm
lược, Trưng Vương cho triệu họ ra chống giặc. Sau ba
tháng chiến đấu Trần Nang bị tử thương trong một trận
ác chiến. Thiên Bảo rút vào Cửu Chân giúp Đô Dương
chống giặc. Cửu Chân thất thủ, ông trở về quê nhà
Kẻ Sặt và mất tại đó. Nhân dân hai làng Thái Lai, Toàn
Liệt lập đền thờ vợ chồng ông để tưởng nhớ
những người anh hùng của quê hương.
Á
LAN - CHÀNC TUẤN
Ở Đường Lâm nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây
có ông Lê Tuân là một thầy thuốc tốt. Trong họ ngoài
làng ai cũng mến trọng. Vợ là bà Đặng Thị chuyên việc
đám tang. Họ sinh được một gái một trai, đặt tên là
Ả Lan và Lê Tuấn. Hai chị em được học cả văn lẫn
võ, bút nghiên và cung kiếm đều thạo.
Năm đó
trời hạn hán, mất mùa. Vậy mà quan lại nhà Hán vẫn
thẳng tay vơ vét, thuế phú và cống phẩm lại còn nặng
hơn những năm trước. Ông Lê Tuân rủ dân làng chống
lại. Lính Hán đã bắt và đánh đập ông rất man rợ,
chỉ ít ngày sau ông thổ huyết, qua đời.
Ả Lan
năm ấy tuổi khoảng mười tám, đã có trí lực và rất
sáng việc. Nhân ngày làm tang, bà con làng xóm tới đông.
Cô liền bày tỏ nỗi khổ nhục của tất cả mọi nhà
và kêu gọi bà con đồng lòng đứng dậy chống bọn đô
hộ. Và thế là sau đó ít lâu, ở Đường Lâm có một
căn cứ của nghĩa quân do Ả Lan và Chàng Tuấn chỉ huy.
Họ đã xuất quân đánh giặc Hán một vài lần.
Được
tin Hai Bà Trưng dấy binh, hai chị em họ Lê cùng các nghĩa
sĩ nam nữ cùng về Hát Môn hội quân. Ả Lan được giao
đưa đoàn quân bản bộ ngược sông lên dẹp các trại
giặc ở Thao Giang. Nghĩa quân đi tới đâu, giặc tan tới
đấy. Cuối cùng hai chị em đóng quân lại ở trang Văn
Lang (nay là xã Văn Lang, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ).
Doanh trại ở cạnh núi Ao Trời. Chỗ khao quân là bến
Cát Lớn.
Tưởng nhớ công lao chị em người anh
hùng, nhân dân Văn Lang đã lập đền thờ, trước đây
có lệ cúng tế vào ngày 13 tháng Giêng (tương truyền là
ngày nghĩa quân tới đóng ở Văn Lang) và ngày 25 tháng
Tám là ngày hóa của hai chị em cô. Điều đáng chú ý là
ở đây có hèm mổ trâu đen, lấy da căng làm nồi nấu
thịt để nhắc lại tiệc thịt trâu lột hôm khao quân
ngày trước.
Bên trên là một vài dẫn
chứng chi tiết - bằng vào thần tích, truyền thuyết - về
những cuộc nổi dậy của quần chúng trước ngày Hai Bà
khởi nghĩa. Dưới đây sẽ nêu vắn tắt những cuộc nổi
dậy khác ở vùng châu thổ sông Hồng (vẫn bằng vào
thần tích). Như về tỉnh Phú Thọ có thể nêu những
cuộc nổi dậy của các nhân vật sau: nàng Vĩnh Hoa cùng
nhân dân trang Tiên Nha (nay thuộc xã Nguyện Đức, huyện
Yên Lạc), nàng Xuân Nương cùng nhân dân các trang Hương
Nộn, Hương Nha (nay là hai xã cùng tên thuộc huyện Tam
Nông), ba anh em Nguyễn Tuấn, Nguyễn Trĩ, Nguyễn Lĩnh cùng
bà con các động vùng núi Tùy Sơn (nay thuộc xã Hợp Lý,
huyện Lập Thạch), hai chị em Ả Chàng, Ả Chạ (tức
Ngọc Thanh và Ngọc Trinh) cùng bà con các trang Lũng Ngòi,
Đàm Luân (nay là xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường)
v.v...
Về tỉnh Bắc Ninh có thể nêu các phong trào
ở vùng Ngọc Lâm và Ký Hợp (huyện Yên Dũng) với Thánh
Thiên và người cậu ruột, phong trào ở Đông Cứu, Lãng
Ngâm (huyện Gia Lương); với vợ chồng Doãn Công và Đào
Nương, phong trào ở Du Tràng (huyện Gia Bình); với Ả Lã,
Rồng Nhị v.v...
Ở tỉnh Hà Tây có bà Ngọc Ba và
năm người con trai khởi nghĩa ở vùng Chương Mỹ mà căn
cứ trung tâm là Kim Cốc nay thuộc xã Hoàng Diệu. Có bà
Vĩnh Hoa tự nghĩa ở Lỗ Sơn nay thuộc xã Đồng Lạc,
huyện Chương Mỹ. Có bà Chu Tước xây thành ở Miếu Môn
thuộc xã Trần Phú, cũng huyện Chương Mỹ. Có anh em
Chiêu Trưng, Đỗ Lý cùng đào hào đắp lũy chống quân
Hán ở hai thôn Yên Trường và Trung Thịnh nay thuộc xã
Trường Thịnh huyện Ứng Hòa. Có ba chị em Chiêu Nương,
Nguyễn Hồng, Nguyễn Tuyền lập trại ở Xà Cầu nay
thuộc xã Quảng Phú Cầu huyện Ứng Hòa. Có hai chị em
Phạm Thông, Phạm Nhu xây dựng hai dinh trại ở Đình
Xuyên, xã Hòa Nam cũng thuộc về huyện Ứng Hòa v.v...
Ở
tỉnh Hải Dương có những cuộc nổi dậy chống quân Hán
ở các địa phương như Mi Thữ (huyện Bình Giang) với
hai chị em Nguyệt Thai, Nguyệt Độ; ở Tống Long (huyện
Kinh Môn) với Tống Phả Công; ở tỉnh Hưng Yên, tại
Dương Liệt (huyện Văn Giang) với Hùng Tướng Công
v.v...
Vùng biển Hải Phòng có phong trào đấu tranh
do bà Lê Chân phát động. Vùng biển Thái Bình có cuộc
nổi dậy của bà Bát Nạn từ Phong Châu lánh nạn về
vùng Tiên La, huyện Duyên Hà v.v...
Ở tỉnh Hà Nam
có cuộc nổi dậy của Quế Hoa và Nữ Hoa ở Tượng Lĩnh
(huyện Kim Bảng...).
Tất cả các nhân vật kể
trên - vẫn theo truyền thuyết - cuối cùng đều tụ hội
ở Hát Môn, đưa cánh quân bản bộ của mình nhập vào
nghĩa quân Hai Bà Trưng để rồi trở nên một lực lượng
hùng hậu “đi tới đâu như lướt gió tới đấy” (lời
Cương mục).
CĂN CỨ PHONG CHÂU VÀ
HỘI QUÂN HÁT MÔN
Về diễn biến của cuộc khởi nghĩa, sử cũ chép
rất sơ lược. Bộ sử cổ nhất của ta - là Việt sử
lược - chỉ ghi: “Tô Định lấy pháp luật trói
buộc. Trắc giận bèn cùng em gái là Nhị đem binh Phong
Châu đánh hãm các quận huyện. Cửu Chân, Nhật Nam đều
hưởng ứng. Bà lược định 65 thành, tự lập làm vua”.
Toàn thư thêm được vài chi tiết: “Bà khổ
vì Tô Định lấy luật pháp trói buộc, lại thù Định
đã giết chồng mình, cùng em là Nhị nổi binh đánh lấy
trị sở của châu. Định chạy về Nam Hải. Cửu Chân,
Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lấy được 65
thành, tự lập làm vua”.
Như vậy tư liệu chính
sử thật là ít ỏi. Nhưng ở các thần tích thì có thêm
ra nhiều chi tiết. Một chi tiết phù hợp giữa chính sử
và thần tích là sự việc mà chính sử chép là Hai Bà
“đem binh Phong Châu đánh hãm các quận huyện”.
Thần tích hai làng Hạ Lôi (Yên Lãng) và Hát Môn chép:
“Trưng Vương khởi binh được một năm, tướng sĩ nam
nữ có tới ba vạn người, hội tại thành Phong Châu...
Cử binh đến cửa sông Hát, đại hội ở bãi Trường
Sa”.
Thần tích làng Tuấn Xuyên (thờ Phùng Thị
Chính) chép: “Trưng Vương từ Phong Châu kéo về Hát
Môn”.
Thần tích làng Thịnh Kỷ (thờ Chàng Hối),
làng Đông Cao (thờ Ả Lự), làng Cư An (thờ Trưng Nhị)
đều chép giống nhau: “Trưng Vương khởi binh ở thành
Phong Châu”.
Như vậy có thể nghĩ rằng trong quá
trình chuẩn bị khởi nghĩa, việc đầu tiên Hai Bà phải
làm là xây dựng một khu căn cứ để bước đầu có nơi
chốn tập hợp lực lượng. Khu căn cứ ấy là thành
Phong Châu.
Thực ra thì ngày ấy chưa có địa danh
Phong Châu. Đó chỉ là tên một châu mới đặt từ đời
Tùy, năm 598. Châu này là một phần của huyện Mê Linh
đời Hán nên các sử sách cữ dùng tên Phong Châu để
chỉ khu vực Mê Linh cũ. Do vậy, có thể khẳng định
rằng Hai Bà Trưng đã từng xây dựng một căn cứ địa
ở phần đất huyện quê hương mình (huyện Mê Linh). Căn
cứ địa ấy về sau được sử sách và thần tích gọi
là Phong Châu thành. Có điều là “thành” ấy cụ thể
ở vào nơi nào thì chưa thể biết, có thể đó là kinh
đô cũ của các vua Hùng mà cũng có thể đó là làng quê
Hạ Lôi của Hai Bà.
Cũng có thần tích có chép là từ Phong Châu, Hai Bà
ban bố lời hiệu triệu hào kiệt bốn phương cùng đứng
lên đánh đuổi giặc Hán rồi đem binh về hội ở Hát
Môn.
Chính sử thì không nhắc gì tới địa điểm
hội quân này. Đành rằng Toàn thư cũng như Việt
điện u linh và Lĩnh Nam chích quái có nhắc tới
Hát Môn nhưng với tư cách là một nơi mà sau này “thổ
nhân lập miếu thờ Hai Bà” chứ không phải là địa
điểm mà đương thời nghĩa quân tập kết.
Nhưng
theo sự ghi chép của nhiều thần tích và cả theo truyền
thuyết dân gian thì Hát Môn là địa điểm đại hội
quân sĩ, anh hùng hào kiệt bốn phương quy tụ về đây
đứng dưới lá cờ của Trưng Vương trước khi xuất
phát đánh quận thành Giao Chỉ. Tại đây Hai Bà lập đàn
tế cáo trời đất rồi đưa đại quân đi đánh Tô thành
(thành Tô Định, tức trị sở quận Giao Chỉ).
Thiên
Nam ngữ lục còn chép cụ thể hơn: Hai Bà theo lời
bàn của Thi Sách rời Chu Diên về Hát Môn lập đồn
trại. Song Thi Sách đã bỏ mình trong khi giao chiến với
Tô Định ở Chu Diên thành. (Như vậy là thêm một dị
bản về cái chết của Thi Sách). Thế là:
Chị em truyền hịch
xa gần
Làm trai ai chí vị dân giúp đời...
Cùng
nhau họp tại Hát Môn
Cắt tay lấy máu lên đàn thề
nhau.
Và chính ở làng Hát Môn,
trước đây hàng năm có hai ngày làm lễ Hai Bà Trưng đó
là ngày mồng 4 tháng Chín được coi là ngày Hai Bà tế
cáo thiên địa và ngày mùng 6 tháng Ba được coi là ngày
Hai Bà tuẫn tiết.
Như vậy là từ nhiều nguồn
truyền thuyết dân gian khác nhau, một điều có thể tin
được là quả có cuộc hội quân ở Hát Môn.
Hát
Môn, cứ theo tên gọi thì là “cửa sông Hát”. Nhưng
thực tế ngày nay thì không là như vậy. Từ đấy tới
cửa sông Hát (chỗ sông Hát tách từ sông Hồng ra) còn
cách cả một xã Vân Nam. Song xã này, cũng như xã Vân
Phúc láng giềng chỉ mới có từ đời Lê. Vì theo lời
truyền khẩu từ xưa - được ghi lại trong khoán ước -
thì khu vực hai xã này chính là một cụm gồm sáu làng
Vĩnh Phúc, Vĩnh Thọ, Vĩnh Khang, Vĩnh Ninh, Vĩnh Thuận và
Vĩnh Lộc. Sáu làng này nguyên là trang Vân Thủy ở bên
tả ngạn sông Hồng thuộc đất huyện Yên Lạc. Đời
Lê, do đất bị lở nên cả trang rời sang sinh sống bên
hữu ngạn, cư trú trên vùng bãi mới bồi và biệt lập
thành sáu làng có gốc Vĩnh như hiện nay.
Như thế,
trước đời Lê, chỗ các xã Vân Nam, Vân Phúc còn là
lòng sông. Vậy Hát Môn phải ở ngay cạnh sông Hồng và
là chỗ sông Hát tách từ sông mẹ ra. Con sông Hát ấy,
nay là một lạch nhỏ, chỉ từ cầu Phùng đổ xuôi mới
ra dáng một con sông và từ đấy có thêm một tên gọi
khác là sông Đáy. Nhưng theo lời kể của nhân dân các
làng ven sông thì thời xưa cửa sông Hát rất rộng. Thuở
ấy ở chỗ đền thờ Hai Bà trên là đê mà dưới đã
là dòng sông. Và có một thời, dọc bên hữu ngạn, dòng
sông Hát dâng sát lên tới tận đê Hương Tảo, Ngọc
Tảo. Vết tích nay còn lại là vạt đầm hồ có tên là
sông Cùng, bến Chúa. Sông bến này đã đi vào ca dao:
Tiễn nhau bến Chúa
ven sông
Nên vợ nên chồng tỏ rõ khúc nhôi
Hát Môn vào thời đầu Công
nguyên tất phải là cửa sông. Thần tích của những làng
thờ Hai Bà và các tướng lĩnh, dù ở Gia Lâm hay Phúc
Thọ, ở Thanh Trì hay Hoài Đức, ở Yên Lãng, ở Kim Anh
hay Đa Phúc v.v... đều kể là có cuộc hội quân lớn tại
đây.
Hai Bà thì từ thành Phong Châu tới, đem ba
vạn quân. Anh hùng hào kiệt bốn phương cũng tấp nập
kéo đến. Có người dẫn theo quân bản bộ đông tới
hàng nghìn, như cô Vĩnh Gia ở bãi Quân Thần Châu (nay là
các làng Thượng Cát - Đại Cát, huyện Từ Liêm) với
hai nghìn nghĩa sĩ, như hai chị em Ả Nương, Ả Nang ở
Yên Mạc (nay là xã Liên Mạc, huyện Mê Linh) với một
nghìn quân, như Lý Minh ở Mục Uyên (nay thuộc xã Tân Xã,
huyện Thạch Thất) cũng đưa tới một nghìn trai tráng...
Có người lại chỉ cùng với vài chục bạn hữu
tới tụ hội như ba anh em Cả, Hai, Ba ở làng Trung Hậu
(nay thuộc xã Tiền Phong, huyện Mê Linh) đến với ba chục
bạn trẻ, như Xa Lai ở Cao Quang (nay là xã Cao Minh, huyện
Mê Linh) đem theo ba mươi lăm người thủ túc, như ba cô Ả
Tú, Ả Huyền, Ả Cát ở trang Vân Thủy (nay là các xã
Vân Nam, Vân Phúc, huyện Phúc Thọ) đến với năm mươi
hai bạn gái...
Cũng có người tay trắng tới đầu
quân và sau đã trở thành tướng lĩnh như Lũ Lũy ở
trang Văn Lôi (nay thuộc xã Tam Đồng, huyện Mê Linh),
Nguyễn An ở Cao Xá (nay thuộc xã Đức Giang, huyện Hoài
Đức), Lôi Chấn ở Tháp Thượng (nay là xã Đồng Tháp,
huyện Đan Phượng) v.v...
Tuy nhiên, do chỗ thần
tích có nhiều hư cấu, thêm thắt nên con số về lực
lượng nghĩa quân nêu ở trên có thể tin được mà cũng
có thể không. Có thể nêu nghi vấn: đương thời dù quận
Giao Chỉ sản xuất phát triển nhiều hơn các quận khác
nhưng liệu đã đủ điều kiện để thành hình một đạo
quân đông tới bốn năm vạn người? (Riêng quân của Hai
Bà là ba vạn).
Kể ra cũng khó giải đáp vì không
có một tài liệu thư tịch nào để làm chỗ dựa chắc
chắn. Có điều là nếu quan niệm rằng các cánh quân
tham gia khởi nghĩa không phải hoàn toàn là chính quy thì
quân số đó có thể chấp nhận được. Có thể coi nghĩa
quân là những nông nô, nô tì vừa trốn khỏi các trang
ấp dinh cơ của quan lại Hán tộc, là những người dân
khổ về thuế má và không muốn chết mòn chết mỏi dưới
đáy biển hoặc trong rừng sâu, là những nạn nhân của
một chế độ cai trị tàn bạo đã gieo bao tai họa xuống
từng làng xóm, thậm chí xuống từng mái nhà Giao Chỉ,
những tầng lớp người ấy khi nghe tin có một dòng họ
danh vọng - là lạc tướng Mê Linh - nổi lên chống lại
nhà Hán thì tất cả đã tìm đến với hy vọng và niềm
tin đánh đuổi được giặc thù. Họ tự nguyện và có
thể là phần nào tự túc tham gia chiến đấu, chẳng nài
gì quân trang, quân dụng. Các thủ lĩnh, chỉ huy hẳn cũng
không phải bận lòng nhiều về hậu cần. Và sự căm hờn
cộng với ý chí diệt thù đã khiến cho đạo quân mới
tập hợp từ nhiều phương lại và có nhiều thiếu thốn
đó trở thành có sức mạnh chiến đấu hơn hẳn quân
cướp nước.
Ngoài ra, so với dân số quận Giao
Chỉ thời ấy là trên 74 vạn nhân khẩu thì con số bốn,
năm vạn người vũ trang nổi dậy cũng không phải là quá
đáng.
Đó là về lực lượng nghĩa quân.
Về
các chỉ huy thì có người - vẫn theo thần tích và truyền
thuyết - trước đây đã từng nổi dậy chống quân Hán
như Chàng Hối, Thiên Bảo, Thánh Thiên... Có người vì
mang nặng thù nhà như Hải Diệu, Sa Lương, Ả Lã Nàng
Đê... 1. Cũng có người - và đây là số
đông chỉ vì nợ nước, thấy nỗi khổ nhục của bà
con làng xóm mà đứng lên chống giặc.
Điều đáng
lưu ý là các chỉ huy ấy cùng quân sĩ của họ tới đây
từ nhiều miền đất khác nhau. Kể những người ở xa
nhất thì về phía bắc có Nguyệt Điện ở Tây Cốc,
Trần Tuấn và Vương Đạo ở Phương Trung đến thuộc
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Về phía tây có Ả Nàng
ở Kim Phượng nay thuộc Thanh Sơn cùng tỉnh Phú Thọ. Về
phía đông có bà Lê Chân ở An Biên nay là thành phố Hải
Phòng, bà Thánh Thiên ở Ngọc Lâm nay thuộc huyện Yên
Dũng tỉnh Bắc Giang, bà Thánh Hậu ở Hạ Phán nay thuộc
huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình. Về phía nam có bà Chu
Tước ở Miếu Môn, huyện Chương Mỹ, bà Trinh Thục ở
Ngọ Xá huyện Mỹ Đức, ba chị em Chiêu Nương ở Xà Cầu
huyện Ứng Hòa v.v... tất cả thuộc tỉnh Hà Tây.
Những
nhân vật này nếu không hoàn toàn là thực thì chắc cũng
có những nguyên mẫu trong thực tế và như vậy, với
nguồn tư liệu truyền thuyết, có thể kết luận rằng
đúng là bốn phương hào kiệt đã tụ hội tại Hát Môn
để thống nhất lực lượng mưu việc cứu nước cứu
nhà.
______________________________________
1.
Sẽ nói tới các nhân vật này ở Chương
năm.
Theo truyền thuyết của làng
Hát Môn thì ngày mùng 4 tháng Chín là ngày đại hội binh
mã. Quân sĩ bạt ngàn, đứng kín cả cánh bãi dài mênh
mang Trường Sa châu. Thuyền chiến cũng thành hàng thành
dãy kín cả cửa Hát. Đàn tế dựng giữa trung quân.
Rất nhiều thần tích, ngọc phả chép rằng tại
đàn này bà Trưng Trắc đã đọc một bài văn tế cáo
trời đất. Nguyên văn như sau:
“Thiên sinh nhất
nhân vi thiên địa vạn vật chi tông chủ. Sinh linh sở
hệ, thảo mộc sở quan. Lịch lịch triều đại đế
vương thiên tử thánh minh, triều đình hữu đạo, ái dân
ưu quốc, đức hóa hoằng phu, thiên hạ thanh bình, quốc
gia vô sự.
Kim hữu dị tộc nhân Tô Định, khuyển
dương thường thái, tứ lộng xướng cuồng, ngược chính
tàn dân, thiên địa thần nhân công phẫn.
Thiếp
thiểm dĩ tiền Hùng dư diệt, nhất cá nữ nhân thuyết
đáo sinh linh hoàng thiên hữu lệ. Kim nhật thống tâm
thương xích trượng nghĩa, trừ tàn, nguyện bách vị chư
tôn thần linh hội đàn giám thệ lực hộ thiếp Trung nữ
đề binh thảo tặc, hộ quốc, an dân, trí sinh linh vu nhẫm
tịch chi thượng, xuất sinh linh vu thủy hỏa chi trung, thứ
vô phụ hoàng thiên chi ý, an tiên hoàng miếu tự chi linh,
ủy tổ phụ cửu tuyền chi hạ1.”
Tạm dịch:
“Trời sinh con người là tông
chủ của muôn loài, sinh linh cây cỏ thảy đều quan hệ.
Các đời đế vương trước, vua sáng tôi hiền, yêu dân
lo nước, đức hóa rộng khắp, thiên hạ thanh bình, nước
nhà vô sự.
Nay có người khác giống là Tô Định,
thực loài dê chó bạo ngược hại dân, trời đất thánh
thần và con người ta đều giận.
Thiếp tôi là
một người con gái dòng dõi vua Hùng, nghe nói tới sinh
linh, trời xanh cũng rơi lệ. Nay nghĩ tới dân mà lòng
đau, dấy nghĩa trừ kẻ bạo tàn, nguyện các vị tôn
thần về hội đàn chứng giám lời thề, giúp cho thiếp
tôi đem quân đánh giặc, giúp nước yên dân, đặt sinh
linh lên trên nơi chiếu đệm, đưa mọi người ra khỏi
cơn nước lửa, để khỏi phụ ý của trời, giữ yên
miếu mạo vua xưa, an ủi ông cha nơi chín suối!”.
Nếu
đúng là lời văn từ đời Hai Bà truyền lại thì thật
sự đáng quý. Nhưng chưa hẳn! Vì ngay sự tình chiến đấu
lở đất long trời - cuộc khởi nghĩa và cuộc kháng
chiến ngày ấy - đương thời ai cũng biết mà truyền lại
cũng chẳng được là bao, huống chi một bài văn làm sao
có thể bảo lưu trọn vẹn như vậy được? Nhất là ở
thời Hai Bà đã có trong tư duy người Giao Chỉ những
khái niệm lịch đại đế vương, thiên tử, cửu
tuyền... ?
Đây chỉ là sáng tác của người
biên soạn thần tích. Đáng kể chăng là tác giả đã
nhìn thấy ý nghĩa xã hội của cuộc khởi nghĩa do Hai Bà
lãnh đạo là vì dân, vì nước, vì sự tồn tại của
dân tộc chứ không phải đơn thuần chỉ vì thù chồng.
Ngoài bài văn tế cáo thiên địa này liên quan tới
những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa Hai Bà còn có một
áng văn khác. Đó là một bài hịch có nhan đề là “Thảo
Tô Định hịch văn”. Bài này được chép trong ngọc phả
của hai làng Hạ Lôi (Yên Lãng) và Hát Môn. Dưới đây
là phiên âm theo bản Hạ Lôi:
“Nguyên ác đại
đỗi cửu tàng lang dã chi tâm. Đôn đức nhân nhân dung
đại nghiệt trừ chi cử. Tinh trì thốn giản, lôi động
tam quân.
“Quyến ngôn: Ngã Việt khai cơ, thực tự
Hùng Vương phủ trụ. Quan an dân lạc nhân đa túc hạ
sinh mao, vũ thuận phong điều, mạch tận nhất hành lưỡng
tuệ. Bốc thế tuần tuần hiệu thập, lịch niên vĩnh
vĩnh kế thiên. Viên cập An Dương, duật canh Triệu Vũ,
tương truyền chính thống. Thánh hiền chi quân diệt tác
hưng, kế trị bảo an dân sự chí tâm hàm ái đới. Tự
thời quyết hậu, thời vận tương phùng. Hi Tái, Chu
Chương, Ngụy Lãng chi đồ, canh tương thú quận. Đặng
Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục chi bối, kế tác mục châu.
Cố tuy hữu tham liêm bất đồng, nhiên vị hữu hà ngược
chí thậm. Nại tư Tô nghiệt vọng tứ tham tàn. Tiện
thương sinh nhi quy tượng tê. Khinh hiền sĩ nhi trọng
khuyển mã. Khai kim trường tắc hàn xâm nhân cốt, dịch
sắc triết bì. Thái minh châu tắc mô trích ly đầu, bách
hành nhất phản. Hậu liễm nhi úng khuynh thương tảo.
Phiên binh nhi ốc tí hương liên, dân bất liệu sinh, vật
giai thất sở.
Dư dĩ Thiên hoàng dư phái, Hùng
tướng hậu côn. Mẫn xích tử chi hãm họa khanh, bất
năng an chẫm. Hiệp dân vọng nhi hưng nghĩa lữ, chính
thiết trừ hung.
Nhĩ đẳng quân đắc tính linh, hệ
xuất tị tổ. Quốc thù đương phục, phấn tí trương
phồn nhược chi cung; dị chủng tất trừ, tẩy qua vãn
thiên hà chi thủy. Hồng nghiệp dĩ chí tái tạo. Nhạn
trạch dĩ chi tức ngao. Vệ xã tắc, chấp can qua, duy kỳ
trường dã. Lập công danh, thùy trúc bạch, cố bất vĩ
tai.
Thảng hoặc thượng chấp hồ nghi, dãn sinh do
dự, khởi đặc thất sự cơ chi hội, ức diệc nghiêm
hình phạt chi tru. Hịch trí như phương, nhĩ đương tự
miễn!
Tạm dịch:
“Kẻ đầu sỏ tội
lớn lòng lang chứa chất từ lâu. Người nhân đức cao
dày công lớn dấy lên trừ bạo. Lời truyền như sao
băng, ba quân sấm động.
Nghĩ rằng nước Việt mở
cõi, thực từ đời Hùng Vương chăn dắt. Quan yên, dân
vui, người người nhàn hạ, gió hòa mưa thuận lúa một
dé hai bông. Nối tiếp kế đời hàng chục. Dài lâu tính
năm mấy nghìn. Kịp đến An Dương, lại qua Triệu Vũ,
truyền nền chính thống. Vua thánh thay nhau, nối trị giữ
an, lòng dân đều quý trọng. Từ đó về sau, thời vận
cùng gặp, Hi Tái (?), Chu Chương, Ngụy Lãng nối nhau làm
thái thú. Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục kế tiếp
làm châu mục. Tham liêm tuy có khác song bạo ngược chưa
thái quá. Đến nay, giặc Tô rất mực tham tàn. Rẻ dân
đen mà quý voi tê. Khinh hiền sĩ mà trọng chó ngựa.
Người tìm vàng rét buốt thấu xương, nứt da, đổi sắc.
Kẻ mò ngọc va chạm thuồng luồng, đi trăm về một.
Thuế má nặng nề, bồ lẫm sạch trơn. Hình phạt khốc
liệt, xóm làng xơ xác. Dân chẳng được yên mà súc vật
cũng đều mất chốn dung thân.
Ta vốn dòng dõi
thần thiêng, cháu con Hùng tướng. Thương con đỏ bị hãm
dưới hầm sâu ăn nằm không yên. Hợp lòng dân dấy cờ
khởi nghĩa, chính lo trừ bạo.
Các người đều có
tính thiêng, cùng một tổ tiên. Thù nước báo xong, thẳng
tay giương cung ứng. Trừ giặc ngoài rồi, kéo nước Ngân
Hà rửa ngọn giáo.
Nghiệp lớn đã tái tạo, dân
khỏi kêu than. Giữ non sông, cầm giáo gậy cốt được
dài lâu. Lập công danh tên ghi sử sách há chẳng quý sao?
Nếu như còn hồ nghi sinh ra do dự, đã bỏ mất thời cơ,
lại chuốc lấy hình phạt nặng.
Lời hịch truyền
đến, hãy đều cố gắng2.
______________________________________
1.
Đây là phiên âm theo bản thần tích ba anh em “Đức Cả,
Đức Hai, Đức Ba” thành hoàng làng Trung Hậu nay thuộc
xã Tiền Phong, huyện Mê Linh.
2. Trong cuốn Một
số truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng của
Ty Văn hóa Hà Sơn Bình cũng có in bài hịch này với lời
dịch của Ngô Thế Long, Nguyễn Hữu Chế (tr. 120) và ghi
xuất xứ là chép từ trong một cuốn sách tìm thấy ở
một gia đình nông dân làng Hát Môn. Ở bản đó có một
số chữ khác với bản ghi thần tích của chính làng này
nhưng cũng không sai biệt gì lớn và xét cả hai đều
không có giá trị sử liệu nên chúng tôi không so sánh
khảo dị.
Dù rằng Hai Bà Trưng rất có thể sử dụng thành
thạo chữ Hán, vì tới thời Hai Bà, nền đô hộ của
người Hán đã trên 100 năm (nếu tính từ thời Triệu Đà
thì là 200 năm). Việc dạy và học chữ Hán đã phổ
biến, nhất là các gia đình lạc hầu lạc tướng thì
tất phải biết chữ Hán để giao dịch. Song cũng như
trường hợp bài văn tế cáo trời đất đã dẫn bên
trên, bài hịch này có tư duy thuộc phạm trù trung thế
kỷ chứ không thể là cổ đại. Thể văn biền ngẫu chỉ
mới phát sinh từ đời Đường (thế kỷ thứ IX). Một
vài điển tích dùng trong bài rõ ràng không thể là của
đời Hán, như câu “Tẩy qua vãn thiên hà chi thủy”
nghĩa là: “lấy nước sông trời - Ngân Hà - để rửa
giáo” là rút từ thơ Đỗ Phủ: An đắc tráng sĩ vãn
thiên hà. Tĩnh tẩy giáp binh trường bất dụng (Ước
gì được người tráng sĩ kéo sông Ngân xuống. Rửa sạch
binh khí, mãi mãi không dùng nữa).
Hoặc vào thời
Hai Bà Trưng, không thể có loại tư duy đặc phong kiến:
lập công danh, tên ghi sử sách. Ngoài ra, Chu Chương
không phải là thú quận và Tích Quang không phải là
châu mục. Ngược lại mới đúng. Vì thú quận tức
là thái thú, coi một quận. Còn châu mục coi một bộ tức
một châu, chức này còn gọi là thứ sử. Người đời
sau có thể lầm chứ đương thời Hai Bà Trưng thì không
thể lầm lẫn như vậy được. Nhất là Ngụy Lãng làm
đô úy quận Cửu Chân vào đời Hoàn Đế, (147-167) tức
là sống sau Hai Bà Trưng hơn một thế kỷ!
Cho nên
bài “Thảo Tô Định hịch văn” này cũng chỉ là một
sản phẩm của đời sau1.
Tuy nhiên,
sự có mặt của nó cũng có một giá trị là góp phần
chứng minh một quy luật của sáng tác văn học dân gian
là: cùng với thời gian, nhân dân thường sáng tác thêm
những giai thoại, những tình tiết để cho hoàn chỉnh
hơn pho truyền thuyết về những người anh hùng mà mình
hằng yêu dấu.
Truyền thuyết về cuộc hội quân và lễ ăn thề
Hát Môn còn có một dị bản lược ghi trong Thiên Nam
ngữ lục:
Nàng bản bước
thẳng lên đàn
Vái chưng thiên địa, giang san, quỉ
thần
Tôi là con gái phụ nhân
Thời loạn ơn chúng,
lập thân giúp đời.
Do thằng Tô Định rẻ người
Trước
khoa (?) các vạc, sau sôi lửa lò
Một xin rửa sạch
nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo
oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này.
Thế là theo Thiên Nam ngữ
lục, ở đàn thề Hát Môn, bà Trưng Trắc có bốn lời
thề với trời đất và ba quân: thứ nhất là rửa sạch
mối thù mất nước, thứ hai là khôi phục cơ nghiệp vua
Hùng, thứ ba là trả thù cho chồng và thứ tư là quyết
giành thắng lợi.
Như vậy là ở các truyền thuyết
trên có những chi tiết khác nhau nhưng cơ bản thống nhất
ở một số điểm chính: có cuộc tập kết quân sĩ ở
Hát Môn, lúc này Thi Sách không còn, tại đây bà Trưng
Trắc với tư cách là thủ lĩnh tối cao đã tuyên bố mục
đích cuộc khởi nghĩa là đuổi giặc Hán đô hộ và nêu
quyết tâm thực hiện bằng được mục đích trên. Đó
là vào khoảng cuối năm (tháng Chín âm lịch), theo sử
thì là năm Kỷ Hợi tức năm 39.
Sau đó, đại quân
thao luyện trong khoảng vài ba tháng2 rồi
tiến “đánh hãm các quận huyện” và “đánh lấy trị
sở của châu”. Theo sử đấy là vào “năm Canh Tý (40),
tháng Hai, mùa xuân, người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc
khởi binh đánh đuổi thái thú Tô Định tự lập làm
vua”. (Cương mục)
______________________________________
1.
Đọc kỹ sẽ còn thấy là có những câu như: Mẫn
xích tử hãm họa khanh
hoặc Khai kim trường... Thái minh châu v.v... đồng dạng
với những câu Hãm
xích tử ư họa khanh
(vùi con đỏ dưới hầm tai vạ). Khai
kim trường túc mạo tam chướng, Thái minh châu tắc xúc
giao long (người
tìm vàng xông pha lâm chướng, kẻ mò ngọc va chạm giao
long) trong bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi.
2.
Thần tích Cống Sơn đại vương của làng Thái Lai (xã
Tiến Thắng, huyện Mê Linh) kể rằng sau khi Hai Bà khởi
binh ở Hát Môn, bà Trưng Nhị thân chinh về động Hoa Lư
mời ông Cống Sơn ra để “thao luyện binh mã, huấn diễn
binh thư”.
GIẢI PHÓNG ĐẤT NUỚC
Mùa xuân năm Canh Tý, Hai Bà đưa đại quân đi đánh
các quận huyện. Sử cũ của ta như Toàn thư và
Cương mục chỉ ghi là lược định được 65 thành
chứ không ghi cụ thể là những thành nào1.
Về diễn biến của chiến dịch thì lại không có lấy
một dòng!
Chỉ có thể đoán định rằng trước
tiên, nghĩa quân tiến công các đồn trại quân Hán cũng
là các thành huyện thuộc quận Giao Chỉ. Tin tức về
chiến cuộc này truyền đi bốn phương và nhân dân ba
quận láng giềng là Hợp Phố, Cửu Chân và Nhật Nam cũng
nắm thời cơ mà nổi dậy. Hậu Hán thư có ghi:
“Người Man, người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố
đều hưởng ứng theo”2. Cứ như câu văn
này thì có lẽ đại quân của Hai Bà Trưng không tiến
đến ba quận trên. Tại các nơi đó, cơ bản là quần
chúng hưởng ứng, tự động nổi dậy đánh bọn quan lại
nhà Hán.
Tất nhiên không loại trừ khả năng là
trước đó có những phái viên của Hai Bà đã tới những
nơi này tổ chức nhân dân, liên kết các lạc tướng...
Và khi cuộc khởi nghĩa được triển khai ở Giao Chỉ thì
có thể có một vài cánh quân được điều từ đây tới
các quận láng giềng để phối hợp. Như truyền thuyết
về bà Man Thiện có kể là bà đã đi nhiều nơi, từ
vùng núi tới vùng biển để liên kết các lạc hầu, lạc
tướng, huyện lệnh, hào trưởng... Hoặc thần tích làng
Cổ Ngõa (xã Liên Minh, huyện Đan Phượng) có chép Hải
Diệu, một tướng của Hai Bà quê ở làng này, ngay sau
hội thề Hát Môn đã lên đường vào Cửu Chân.
Nhưng
nói chung là đại quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp
của Hai Bà chỉ tập trung đánh lỵ sở các huyện ở
Giao Chỉ (như thế, phạm vi chiến đấu cũng đã là rất
rộng) và mũi chủ công là nhằm tiêu diệt đô úy trị
Mê Linh cùng quận trị Liên Lâu. Rất có thể ngay ở quận
Giao Chỉ, nghĩa quân chủ lực cũng không đi khắp mười
huyện mà ở một số nơi quần chúng cùng các huyện lệnh
cũng nổi dậy lật đổ chính quyền nhà Hán. Thần tích,
ngọc phả nhiều làng còn ghi sự tích các nhân vật đã
tổ chức và lãnh đạo những cuộc nổi dậy ở nhiều
địa phương trên lưu vực sông Hồng. Như ba chị em họ
Đào (thờ ở đình làng Thổ Quan, quận Đống Đa) đã
tập hợp bà con đứng lên đánh bọn đô hộ ngay ở vùng
đất nay là nội thành Hà Nội. Hay như Khỏa Ba Sơn (thờ
ở làng Xuân Đỗ Hạ, xã Cự Khối, huyện Gia Lâm) đã
đem hai trăm tráng đinh đánh đồn quân Hán tại chính
làng này. Rồi bà Chu Tước ở Miếu Môn (huyện Chương
Mỹ, Hà Tây), bà chúa Bầu ở Đạo Trù (huyện Lập
Thạch, Phú Thọ), vợ chồng Đào Nương - Doãn Công ở
Đông Cứu (huyện Gia Bình, Bắc Ninh) v.v... đều chủ động
khởi binh đánh bọn xâm lược tại đất bản bộ.
Như
vậy, theo sự bảo lưu trong truyền thuyết thì tinh thần
chỉ đạo cuộc chiến tranh giải phóng ngày ấy là kết
hợp sự tiến công của quân chủ lực với sự nổi dậy
của nhân dân ở các địa phương.
Về các hướng tiến công của nghĩa quân thì chính
sử chẳng có ghi chép gì, chỉ truyền thuyết là có ghi
chút ít. Ngọc phả hai làng Hát Môn và Hạ Lôi (Yên Lãng)
cho hay là nghĩa quân từ Hát Môn tiến về Cổ Lôi trang
rồi sau đó đánh “Tô Định thành”. Cũng ở hai ngọc
phả này có chép là quân Hai Bà đánh tan quân Hán ở Cổ
Lôi, chém trên một nghìn đầu giặc khiến “máu thành
sông có thể đi thuyền, xương cốt chất cao như như
núi”. (Huyết khả hành thuyền, cốt hài sơn tích)3.
Thực ra ở hai ngọc phả trên có nhiều chi tiết
lộn xộn rối ren. Nhưng việc xảy ra chiến sự ở Cổ
Lôi thì có thể tin là đúng. Vì vào thời gian này quận
trị huyện (trụ sở hành chính) quận Giao Chỉ đã chuyển
từ huyện Mê Linh (mà trung tâm là Cổ Lôi) về huyện
Liên Lâu nhưng Mê Linh vẫn là đô úy trị (trụ sở quân
đội) của quận Giao Chỉ. Viên đô úy - chỉ huy lực
lượng vũ trang chiếm đóng - vẫn đóng tại đây. Đành
rằng theo Hậu Hán thư, từ năm Kiến Vũ thứ 6 (30
sau c.n.) đã bỏ chức đô úy, cho thái thú kiêm nhưng cũng
Hậu Hán thư còn ghi thêm là: “Hễ quận nào có
biến loạn thì lâm thời đặt lại chức ấy”. Có thể
ở Giao Chỉ trong những năm Tô Định cầm quyền, sự
phẫn nộ của quần chúng lên cao tới mức đô úy được
đặt lại và đóng ở quận trị cũ tức trị sở của
huyện Mê Linh mà theo chủ trương của ông Đinh Văn Nhật
thì là vùng Cổ Lôi - Kẻ Lói nay thuộc khu vực giáp ranh
các huyện Thạch Thất, Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, còn theo
quan niệm phổ biến thì đó là làng Hạ Lôi, huyện Yên
Lãng nay gọi là Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.
Và điều
này đã nói lên sự chuẩn bị chu đáo của nghĩa quân vì
dám đánh ngay vào đô úy trị, tức lỵ sở về quân sự,
rõ ràng lực lượng phải khá mạnh. Còn về lỵ sở
huyện Liên Lâu thì tất cả các thần tích, ngọc phả,
truyền thuyết đều không hề chỉ định cụ thể địa
điểm này. Nếu như mấy năm gần đây, trên các sách báo
kể về truyền thuyết Hai Bà cũng như những tướng lĩnh
của Hai Bà có chỉ định cụ thể đó là thành Liên Lâu
(hay Luy Lâu) thì chính là đã tham khảo các sách sử để
lắp cái tên lịch sử ấy vào truyền thuyết. Ngoài ra,
có một thời gian dài, rất nhiều người cho rằng Tô
Định đóng ở Long Biên và Hai Bà đã đưa đại quân tới
đánh thành này. Như Quốc sử diễn ca của Lê Ngô
Cát - Phạm Đình Toái có viết:
Ngàn tây nổi áng
phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng
quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên
Biên thành
Đó là một sự lầm lẫn. Vì mãi tới năm Vĩnh Hòa
thứ nhất (136) trị sở quận Giao Chỉ mới dời từ Liên
Lâu về Long Biên. Trước đó, từ cuối đời Tây Hán,
trị sở ấy là vùng Lũng Khê nay thuộc xã Hạnh Phúc,
huyện Thuận Thành tỉnh Hà Bắc. Thực ra gọi là Liên
Lâu cũng là gọi tạm. Vì các nhà nghiên cứu đời trước
(cả ở Trung Quốc và Việt Nam) từng gọi là La Lũ, Liên
Thụ, Liên Lâu, Luy Lâu. Rất có thể đó là những cách
người Hán đã dùng để phiên âm một từ Việt cổ hoặc
là phiên âm chính cái tên gọi nôm na hiện vẫn phổ biến
ở địa phương này: làng Dâu.
Đây là một làng
châu thổ màu mỡ, có sông Dâu chảy qua. Sông này nay đã
cạn nhưng thời xưa là một sông khá lớn thông với sông
Đuống. Thuyền bè các nơi vẫn qua lại bến này. Ca dao
cổ ở đây còn nhắc:
Lênh đênh ba bốn
thuyền kề
Thuyền ra Kẻ Chơ, thuyền về sông Dâu.
Tại đây còn vết tích một
thành lũy cổ. Cương mục có ghi chú: “Liên Thụ
là tên huyện thuộc quận Giao Chỉ, nay ở xã Lũng Khê,
huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh, còn có vết cũ thành
xưa”. Huyện Siêu Loại nay là huyện Thuận Thành. Vết
cũ thành xưa đó ở ngay bên bờ trái sông Dâu. Cứ
theo dấu vết thì thành được đắp theo hình chữ nhật,
chiều dài khoảng 300 mét, chiều rộng hơn 100 mét. Những
mảnh thành còn sót vẫn cao tới 4-5 mét. Hẳn là các đời
sau có bồi đắp thêm (vì như vào thế kỷ thứ X, một
sứ quân là Lý Lãng Công đã đóng ở đây) thì vết tích
mới lưu lại được như vậy. Chứ từ đời Hán tới
nay đã hai chục thế kỷ, thành lũy đất làm sao mà chống
chọi được với gió mưa!
______________________________________
1.
Hậu Hán thư, Mã
Viện truyện thì
ghi là “lược định trên 60 thành”. Tư
trị thông giám
(q.43) thì ghi “lược định 65 thành”. Cả hai sách đều
không chỉ định cụ thể là những thành nào.
2. Nguyên
văn: “Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố Man Lý giai ứng
chi”. Man, Lý
- chỉ những tộc người không phải là Hán, như vậy tức
là nhân dân ở ba quận nói chung, vì nơi đây là khu vực
của các bộ tộc Việt.
3. Xem toàn văn lời dịch hai
ngọc phả này ở phần Phụ
lục.
Mùa xuân năm Canh Tý (40), nghĩa quân Hai Bà Trưng đi
đánh Liên Lâu. Dường như đi cùng với đại quân (có
tới ba bốn vạn người) là một khối lượng khá đông
đảo các tướng lĩnh, chỉ huy, già có trẻ có mà đa số
là trẻ và nữ. Vẫn theo thần tích, Phùng Thị Chính (thờ
ở Tuấn Xuyên, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì) làm nhiệm vụ
trinh sát, Sa Lương (thờ ở Hạ Trì, xã Liên Hà, huyện
Đan Phượng) chỉ huy thủy binh, Ả Lã Nàng Đê (thờ ở
Yên Lộ - Nghĩa Lộ, xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức) chỉ
huy tả quân v.v... Rồi nào là Vĩnh Hoa, Vĩnh Gia, Chàng
Hối, Lôi Chấn, Đào Khang, Nguyễn Nga, Ngọc Trinh... đều
là đang độ tuổi hai mươi. Đặc biệt trong đại quân
đi đánh quận trị có một đội nam binh cải trang thành
lính nữ do Vương Cai chỉ huy (ông này cũng cải trang
thành nữ tướng)1. Thật là sự kiện có
một không hai trong lịch sử. Ở các nước khác, để
được tham gia chiến đấu, nữ phải cải trang thành nam
giới - như Mộc Lan ở Trung Quốc đời Nam Bắc triều
chẳng hạn. Đằng này thì ngược lại, nam cải trang
thành nữ. Phải chăng sự kiện này là ảnh xạ của một
thời đại mà vai trò người phụ nữ trong xã hội còn
đặc biệt quan trọng, uy tín của họ còn khá cao.
Một
điều đặc biệt nữa là trong đại quân của Hai Bà có
cả người Hán: Thần tích đền Càn ở xã Kê Sơn, huyện
Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc có kể rằng “Đô Thiên và
Minh Giang là hai quan chức người Hán. Vì căm giận triều
đình nên chạy sang Giao Chỉ, chống lại nhà Hán. Khi Hai
Bà Trưng dấy binh, hai ông mang quân theo”. Thì ra không
đợi đến nhà Tống mới có Từ Bá Tường và đời Minh
mới có Thái Phúc là những quan lại Trung Quốc nhìn ra lẽ
phải, đã đứng về phía nhân dân Việt Nam chống lại
bọn cầm quyền nước họ mà từ đời Hán đã có những
người Hán đứng về phía người Việt chống lại vua
Hán hung bạo2.
Nghĩa quân điệp điệp trùng
trùng kéo tới bao vây Tô thành. Có lẽ chỉ mới trông
thấy cảnh tượng này thái thú Tô Định đã hết hổn!
Tới khi nghĩa quân tấn công bốn phía thì đúng là Tô
Định chỉ còn biết tìm đường mà chạy trốn.
Truyền
thuyết kể rằng Tô Định phải cắt râu, vứt bỏ cả
ấn tín mà chạy. Cương mục chép là “Tô Định
chạy về quận Nam Hải”. An Nam chí lược và Thiên
Nam ngữ lục thì chép Tô Định tử trận. Dù sao thì
thành Liên Lâu đã được giải phóng. Hang ổ của bọn
quan cai trị đại Hán đầu sỏ ở Giao Chỉ bị đập
tan. Trên đà ấy nhân dân các quận láng giềng là Cửu
Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cũng hưởng ứng mà vùng lên
đánh đuổi các thái thú cùng bè lũ quan lại Hán tộc.
Hậu Hán thư (q.86) có ghi: Thứ sử Giao Chỉ và các
thái thú chỉ còn giữ được mình mà thôi”. Đúng là
“quân đi đến đâu như gió lướt đến đấy” (Cương
mục).
Thế là ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam và cả Hợp Phố nữa, chính quyền đô hộ của
người Hán đã bị lật đổ. Sau một thời gian không
dài, cùng nổi dậy chiến đấu liên tục tiến công kẻ
thù, nhân dân Bách Việt nói chung, Âu Việt, Lạc Việt
nói riêng, dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng đã
giành lại tự do. Nước Âu Lạc sau hai trăm năm bị đô
hộ nay trở lại độc lập. Chính vì vậy mà nhân dân
các tộc Việt ai ai cũng mang ơn Hai Bà, không chỉ người
Lạc Việt (sau là người Kinh và người Mường) mà người
Âu Việt (sau là người Tày, người Nùng) cũng coi Trưng
Vương là lãnh tụ của mình, nhất là do đặc biệt tôn
quý nên ai cũng muốn coi Trưng Vương là người thuộc dân
tộc mình.
Viết đến trang sử khởi nghĩa oanh liệt
này, sử gia Lê Văn Hưu đã có những dòng đầy tự hào:
“Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà
các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành ở
Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng
vương dễ như trở bàn tay, đủ biết tình thế đất
Việt ta có thể dựng được nghiệp bá vương”.
Bộ
Lịch sử việt Nam - Tập I của ủy ban Khoa học xã
hội Việt Nam (1971) - khi phân tích ý nghĩa của cuộc khởi
nghĩa này đã có nhận xét: “Cuộc khởi nghĩa của Hai
Bà là kết tinh của cả một quá trình đấu tranh,
khi âm thầm, khi công khai của nhân dân Việt Nam. Đây là
một phong trào nổi dậy của toàn dân vừa quy tụ
vào cuộc khởi nghĩa ở Hát Môn do Hai Bà Trưng đề
xướng, vừa tỏa rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ.
Khởi nghĩa đã thắng lợi vì đó là một phong trào có
tính chất quần chúng rộng rãi chứ không phải là một
hành động tự phát của một tù trưởng, một bộ lạc
riêng lẻ”.
______________________________________
1.
Sự tích các tướng lĩnh này sẽ được trình bày ở
Chương năm.
2.
Từ Bá Tường, tiến sĩ, đã gửi thư cho triều đình nhà
Lý tố cáo âm mưu của Vương An Thạch xâm lược nước
ta.
Thái Phúc, đô đốc, đã dâng thành
Nghệ An cho nghĩa quân Lam Sơn và theo Lê Lợi ra hạ thành
Đông Quan.
Cuộc khởi nghĩa mùa xuân năm 40 do Hai Bà Trưng lãnh
đạo quả là bằng chứng hùng hồn của tinh thần yêu
nước, yêu tự do cũng như khí phách “tấn công cả
trời” của tổ tiên ta thời đó, đồng thời nó lại
còn định ra một loại hình chiến tranh trước đấy chưa
hề có và sau đấy dân tộc ta thường phải sử dựng:
chiến tranh giải phóng dân tộc.
Khi ấy cả nước
đang ở dưới ách thống trị của giặc Hán. Từng huyện
đều có quân thù, mà là quân thù đang trong thế cường
thịnh. Nổi dậy chống lại cả một lực lượng ngoại
tộc đô hộ có dư hai trăm năm kinh nghiệm cai trị là
một việc làm thật sự phi thường. Lại không chỉ dám
nổi dậy mà còn đánh thắng, quét sạch chúng ra ngoài bờ
cõi thì quả là vĩ đại.
Làm được như vậy tất
phải là phong trào của quần chúng, của toàn dân. Nhân
dân Âu Lạc ngày ấy đã ý thức được quyền làm chủ,
thiết tha với tự do và độc lập, đã vươn mình đứng
lên đấu tranh với một ý chí kiên cường, dám hy sinh xả
thân. Có thế mới đủ sức quật ngã kẻ thù hung bạo.
Mặt khác, cũng dễ nhận ra ngay là tập hợp và tổ
chức được nhân dân lại thành một lực lượng để mà
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù thì đó chính là tài
năng và công lao của những người lãnh đạo phong trào,
đứng đầu là Hai Bà Trưng. Suốt hai nghìn năm trở lại
đây là những người phụ nữ mà lãnh đạo nhân dân
khởi nghĩa thành công thì không chỉ ở nước ta mà ngay
cả trên thế giới cũng không có ai. Tiếc rằng rất
thiếu tài liệu nên chưa thể tìm hiểu về thiên tài
quân sự của Hai Bà. Chỉ có thể khẳng định một sự
thực là chính Hai Bà Trưng đã định ra một phương thức
tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc chưa từng có
trong lịch sử: cùng nổi dậy ở mọi nơi. Bên cạnh
những mũi tiến công của nghĩa quân chủ lực, Hai Bà đã
vận động nhân dân và lạc tướng ở các địa phương
đồng loạt khởi nghĩa. Cùng trong một thời gian, tất cả
nổi dậy tiến công những cứ điểm của quân thù. Như
thế, kẻ địch ở chỗ nào cũng bị đánh và quân khởi
nghĩa không chỉ còn là vài ba vạn người mà là toàn
dân: mọi người dân Âu Lạc đều trở thành nghĩa sĩ.
Định ra được loại hình chiến tranh ấy và đích
thân tổ chức nên chiến thắng, đó chính là nghệ thuật
quân sự tuyệt diệu, đầy sáng tạo của Hai Bà.
Nếu nhìn rộng ra xung quanh thì ý nghĩa của cuộc
khởi nghĩa này còn có một tầm vóc khác. Thời đó không
phải người Hán chỉ đô hộ có một nước Âu Lạc. Về
phía bắc, họ chiếm Triều Tiên, cũng chia ra thành quận
huyện. Phía tây họ thần phục các bộ tộc ở Tây Vực
(Tân Cương, Tây Tạng...). Phía tây - nam họ thôn tính các
nước Dã Lang (Quý Châu), Điền (Vân Nam), Cùng Đô (Tứ
Xuyên) v.v... Phía đông - nam họ hoàn thành công cuộc
chinh phạt các tộc Mân Việt, U Việt, Đông Việt, Nam
Việt... (vùng các tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, Lưỡng
Quảng).
Nhưng rõ ràng là chỉ có người Lạc Việt
và Âu Việt tức nhân dân ta ngày ấy, nhân dân Âu Lạc,
đã dám đứng lên đánh lại chính quyền đô hộ nhà Hán
và đánh thắng.
Nếu lại đặt ở bình diện nhân
loại thì vào thời kỳ đầu Công nguyên, trên thế giới
chỉ mới xảy ra ba cuộc khởi nghĩa của nhân dân bản
địa chống chính quyền ngoại tộc đô hộ. Đó là cuộc
khởi nghĩa của nhân dân xứ Gôlơ (nước Pháp thời cổ)
do Vécxanhgiêtôric lãnh đạo nổ ra năm 52 tr.c.n chống
chính quyền đô hộ La Mã của Xêda, cuộc khởi nghĩa của
dân Do Thái ở Giêrudalem năm 66 s.c.n chống chính quyền đô
hộ La Mã của Tituýt và cuộc khởi nghĩa của dân
Cáctagiơ (Bắc phi Châu) do Goócđiên lãnh đạo năm 68
s.c.n cũng chống chính quyền Tituýt. Nhưng cả ba phong trào
đấu tranh giải phóng đó đều thất bại!
Cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng đúng là niềm tự hào chính đáng
của dân tộc Việt Nam ta.
PHỤ CHÚ - Về những
việc làm của nghĩa quân Hai Bà sau khi giải phóng Liên
Lâu, sách Thiên Nam ngữ lục chép:
Trưng binh vào đến
Tô dinh
Chiêu an sĩ tốt, dỗ dành quan quân
Ai đâu ở
đấy yên thân
Đợi chờ xá si, dời chân về nhà
Ta
thời giữ ở nước ta
Người Ngô cho nó về nhà nước
Ngô
Bao nhiêu sĩ tốt ngày xưa
Phải Tô Định hiếp
bay giờ được yên
Truyền ra đứng cửa viên môn
Ai
nguyền phu phụ, ai nguyền lại quê
Dầu ai hết súc trợ
thì
Tòng quân ra chí nam nhi mặc mình
Của Tô Định
tích để dành
Phân chia thảy thảy, một manh chẳng hề.
Như vậy là đối với ngụy
quân ai muốn về nhà, cho về; ai muốn theo nghĩa quân, cho
theo. Đối với quân Hán thì tha cho về nước. Còn của
cải của Tô Định thì chia đều cho mọi người.
Chưa
chắc đấy đã là việc làm thực sự của Hai Bà nhưng
rõ ràng ý đồ của tác giả là muốn nói lên tính chất
chính nghĩa và tinh thần nhân đạo của cuộc khởi nghĩa
Hai Bà Trưng.
NHỮNG NĂM ĐỘC LẬP
Chính sử đều ghi là sau khi
đánh đuổi Tô Định, bà Trưng Trắc “tự lập làm vua,
đóng đô ở Mê Linh”. Như vậy, hạ được quận trị
Liên Lâu nhưng bà Trưng không đóng tại đó, cũng không
đóng ở quê chồng là huyện Chu Diên mà trở về định
đô tại quê cha, tại đất bản bộ của lạc tướng Mê
Linh, dòng dõi của các vua Hùng.
Có điều là huyện
Mê Linh thì rất rộng (đã nêu ở Chương hai), không
rõ kinh đô ngày ấy đặt ở nơi nào. Lâu nay do chỗ coi
làng Hạ Lôi ở Yên Lãng là làng quê của Hai Bà mà rất
nhiều người - nếu không nói là tất cả coi nơi ấy là
đất huyện Mê Linh, từ đó suy ra kinh đô trong thời gian
Bà Trưng cầm quyền cũng là ở đấy1.
Nhưng như đã nêu ở Chương hai, theo những
luận văn của ông Đinh Văn Nhật lần lượt công bố từ
năm 1972 đến 1978 thì quê của Hai Bà lại là vùng Hạ
Lôi - Kẻ Lói ở huyện Thạch Thất, nơi đó là kinh đô
trong ba năm Bà Trưng ở ngôi vua. Nay huyện Thạch Thất
thuộc về tỉnh Hà Tây.
Thần tích làng Hát Môn
còn cho biết là sau khi lên ngôi vua, Trưng Vương đặt
quốc hiệu là Triệu. “Dư địa chí” của Nguyễn
Trãi, điều thứ IX lại chép: “Bà Trưng gọi nước
là Hùng Lạc”. Nhưng ông Hà Văn Tấn trong lời chú
giải sách này cho biết là “không có sách nào ghi như
thế”. Vậy, có lẽ Trưng Vương chưa đặt quốc hiệu.
Danh xưng Triệu cũng như Hùng Lạc chỉ là sản
phẩm của các đời sau.
Trưng Vương ở ngôi ba
năm. “Ba năm gánh vác sơn hà. Một là báo phục, hai
là bá vương” (Quốc sử diễn ca). Nhưng tư liệu về
những năm tháng độc lập này thì quá ít. Cho tới nay,
chỉ tìm thấy một dòng trong Thủy kinh chú (dẫn
Giao Châu ngoại vực ký): “Trưng Trắc vi vương,
trị Mê Linh huyện, đắc Giao Chỉ, Cửu Chân nhị quận
dân nhị tuế điệu phú” (q.37) nghĩa là: “Trưng Trắc
làm vua, đóng ở huyện Mê Linh, thu được hai năm thuế
của dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân”. Nhưng một bản
in Thủy kinh chú khác (do Đái Chấn làm hiệu đính)
thì ở chỗ chữ đắc (nghĩa là thu được) lại là
chữ phục với nghĩa là tha. Tất nhiên thu thuế
và tha thuế nghĩa khác hẳn nhau nhưng dù là chữ
nào thì cũng đều nói lên rằng chủ quyền đất nước
đã thuộc về Trưng Vương. Nếu là tha thuế thì
hợp nhân tâm hơn. Đó là việc thường thấy sau mỗi lần
thay đổi triều đại, nhất là sau mỗi cuộc khởi nghĩa
thành công. Tha thuế là đáp ứng nguyện vọng của quần
chúng bao năm khốn đốn vì tai họa thuế khóa nặng nề.
Nhưng một vấn đề căn bản là: vậy thuế nói ở
đây là loại thuế gì? Có thể hiểu đây là thuế ruộng
đất đánh vào các công xã mà cũng có thể là thuế đánh
vào đầu người. Vì nguyên văn ở Giao Châu ngoại vực
ký chép là “điệu phú”. Đương thời (thời Hán
Quang Vũ) ở Trung Quốc người dân cũng đã phải gánh
chịu nhiều thứ thuế phú như toán phú, canh phú,
khẩu phú v.v...
Nguyên phú là tên gọi một
loại thuế có từ đời Lỗ Ai Công (thế kỷ thứ V
tr.c.ri) đánh vào hoa lợi ruộng đất và thu bằng tiền.
Đến đời Hán Quang Vũ thì phú là thuế đánh vào
đầu người. Thời ấy mỗi người dân từ 15 tuổi đến
56 tuổi mỗi năm phải nộp thuế 120 đồng tiền gọi là
toán phú. Trẻ em từ 7 tuổi đến 14 tuổi hàng năm
phải nộp 23 đồng tiền gọi là khẩu phú. Ngoài
ra, mỗi người dân từ 23 tuổi trở lên, mỗi năm phải
luân phiên phục dịch việc binh một tháng, muốn được
miễn thì phải nộp 3000 đồng tiền gọi là canh phú. Lại
còn hộ phú đánh vào từng hộ gia đình, quân
phú (thuế cung cấp cho binh lính), tạp thuế, diêu
dịch thuế v.v... 2.
Như vậy bản
thân người dân Trung Quốc thời đó cũng phải chịu bao
thứ thuế đánh vào đầu người! Có lẽ người dân Âu
Lạc cũng phải gánh chịu không kém! Nhất là quan lại
nhà Hán đã điều tra dân số - dù con số không lấy gì
làm chính xác lắm - thì sự thống kê tới tận từng
nhân khẩu, từng nhà cũng cho phép suy đoán là rất có
thể đã có thuế phú đánh vào đầu người.
Còn
thuế điệu thì là thuế đánh vào các thổ sản tơ
lụa, vải vóc, đay gai v.v... Tuy nhiên tài liệu nói là
tới đời Đường (thế kỷ thứ VII) mới có thuế điệu.
Nhưng câu văn trên nằm ở sách Giao Châu ngoại vực ký
là sách soạn hồi thế kỷ IV hoặc thứ V. Vậy có thể
điệu đã có từ trước, đến đời Đường mới
sửa đổi lại và điển chế hóa.
Dù sao thì nhân
dân Âu Lạc dưới ách thống trị của nhà Đông Hán đã
phải đóng nhiều thứ thuế, ít nhất cũng nặng nề
không kém người dân Trung Quốc.
______________________________________
1.
Theo thần tích của chính làng Hạ Lôi này - đã nêu ở
Chương hai
- thi kinh đô của Trưng Vương lại là đất Phấn Lộ nào
đó thuộc huyện Chu Diên, và theo Lĩnh
Nam chích quái thì
“Hai Bà... đóng đô ở Ô Diên thành”. Hai chi tiết này
mâu thuẫn với chính sử (như Toàn
thư: Bà Trưng...
đóng đô ở Mê Linh) nên chúng tôi không kể tới.
2.
Trung Quốc thông sử
giản biên - Phạm
Văn Lan - Tân Hoa thư điếm - năm 1949 - Tập I - tr.199.
Về tổ chức nhà nước thời
Trưng Vương có vấn đề pháp luật cũng đáng lưu ý. Hậu
Hán thư, Mã Viện truyện có kể rằng sau khi bình định
Âu Lạc, Mã Viện có tâu về vua Hán rằng: “Luật Việt
khác luật Hán hơn mười điều”. Như vậy là ở thời
Trưng Vương (và có lẽ là cả trước đó) nước ta đã
có pháp chế. Có thể đó là một thứ luật tập quán
lưu hành từ thời các vua Hùng. Gọi là luật tập quán
vì đây chưa phải là một hệ thống luật pháp như ngày
nay quan niệm mà là một hệ thống những tục lệ, những
quy định của cộng đồng về tổ chức và về các quan
hệ giữa mọi thành viên trong cộng đồng. Luật ấy
thường là truyền miệng. Hiện nay ở khu vực Tây Nguyên,
một số dân tộc vẫn bảo lưu những pho luật tập quán
được đặt thành vần vè, luật ấy ở người Ê-đê
gọi là Biduê, ở người Srê gọi là Nri v.v... 1.
Luật tập quán của người Việt ngày ấy hẳn mang tinh
thần dân chủ khác với luật Hán là luật của chính
quyền phong kiến chuyên chế.
Ngoài việc pháp luật
này và việc thu (hoặc tha) thuế nói ở trên - là những
việc thuộc về công tác chính quyền thời Trưng Vương -
thì sử sách không cho biết gì hơn nữa. Cho nên không thể
biết được tổ chức nhà nước bấy giờ ra sao, hoạt
động của nó như thế nào, do đó cũng không có điều
kiện để xác định tính chất của nhà nước ấy. Nhưng
nếu căn cứ vào các ngọc phả, thần tích thì dù
đất nước đã được giải phóng, bà Trưng Trắc vẫn
rất chú trọng về quân sự, rất quan tâm tới việc
phòng thủ, bảo vệ lãnh thổ. Bà đã phân phong các tướng
lĩnh đi trấn các miền đất khác nhau. Nếu hệ thống
hóa lại sẽ thấy mạng lưới bố phòng được hình
thành như sau:
Ở biên giới phía bắc có bà Thánh
Thiên quản lĩnh mười sáu châu, đồn trại chính là ở
làng Ngọc Lâm (nay thuộc huyện Yên Dũng, Bắc Giang).
Ở
mạn tây, các cô Ả Nương, Ả Nang và các tướng Cả
Lợi, Hai Lợi, đặc trách tuần du “tây bắc nhị lộ”.
Ở vùng biển, bà Lê Chân đóng ở An Biên (nội
thành Hải Phòng ngày nay), bà Bát Nàn đóng ở Tiên La
(nay thuộc huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình).
Ven
sông Lô có Trần Tuấn đóng ở Phương Trung, có Hùng Dũng
đóng ở Quế Lâm, có Mạnh Đạo và Nguyệt Diện đóng ở
Tây Cốc, tất cả đều thuộc đất huyện Đoan Hùng ngày
nay (tỉnh Phú Thọ).
Ven sông Hồng có Ả Lan đóng
ở Văn Lang (huyện Hạ Hòa, Phú Thọ), có Xuân Nương ở
Hương Nha - Hương Nộn, có Thiều Hoa ở Hiền Quan, đều
thuộc huyện Tam Nông tỉnh này. Có Ngọc Trinh ở Lùng
Hòa, có Đổng Vịnh ở Thượng Lập, đều thuộc huyện
Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc. Có Hồ Đề ở Tráng Việt,
có Vĩnh Gia ở Chu Phan, đều thuộc huyện Yên Lãng nay đổi
là Mê Linh, Vĩnh Phúc. Riêng bà Phật Nguyệt ở Phương
Lĩnh (huyện Thanh Ba, Phú Thọ) được cử “quản lĩnh
thượng Thao Giang” (chắc là vùng Lào Cai, Yên Bái).
Xuống phía hạ lưu sông Hồng, có Khỏa Ba Sơn đóng
ở Xuân Đỗ Hạ (huyện Gia Lâm - Hà Nội), có Hùng Công
ở Dương Liệt (huyện Văn Giang - Hưng Yên), có Phạm Thị
Hồng ở Tức Mặc (ngoại thành Nam Định) v.v...
Đặc
biệt ở vùng ven sông Đáy các đồn trại của nghĩa quân
khá là dày. Bên tả ngạn có Hải Diệu ở Ngõa Thượng
và Lôi Chấn ở Tháp Miếu (đều thuộc huyện Đan
Phượng), có Ả Lã Nàng Đê ở Yên Lộ - Nghĩa Lộ (huyện
Hoài Đức) có Vương Cai ở Thượng Thanh (huyện Thanh
Oai), Chiêu Trung ở Yên Trường (huyện Ứng Hòa). Bên hữu
ngạn có Hoàng Đạo ở Hạ Hiệp (huyện Phúc Thọ), Ngọc
Ba ở Kim Cốc (huyện Chương Mỹ), Nguyễn Lai ở Tuy Lai
(huyện Mỹ Đức), Cao Thị Lỗ ở Thạch Tổ (huyện Thanh
Liêm, Hà Nam)...
Còn ven sông Đuống cũng có đồn
trại của các tướng lĩnh như ông Đống, ông Hựu ở
Kim Hồ (huyện Gia Lâm - Hà Nội), Ả Tắc, Ả Dị ở Văn
Quan (huyện Thuận Thành - Bắc Ninh), A Lã - Rồng Nhị ở
Du Tràng và Tĩnh Trai ở Lai Hạ (đều thuộc huyện Gia
Lương - Bắc Ninh).
Ngoài ra, cũng các thần tích
ngọc phả cho biết là bà Man Thiện, mẹ của Hai Bà, có
lập một đồn riêng ở Nam Nguyên, vừa là quê bà, vừa
là ngưỡng cửa đi vào Hạ Lôi - Kẻ Lói. Bà Trưng Nhị
thì tới Cự Triền (huyện Yên Lãng, nay là huyện Mê
Linh, Vĩnh Phúc) xây đắp thành lũy2 Thầy
dạy của Hai Bà là ông Đỗ Năng Tế vào đóng tận Cư
Phong (Thanh Hóa). Cùng đi vào hướng này có cả Đô Dương,
một võ tướng thân tín của Hai Bà v.v...
Nếu
những ghi chép trên của các thần tích là đúng thì quả
là chính quyền Trưng Vương rất quan tâm đến việc bảo
đảm an ninh và quốc phòng. Âu đó cũng là một tổng kết
rút ra từ thực tế đấu tranh suốt hai trăm năm chống
bọn bành trướng phương Bắc đô hộ.
______________________________________
1.
Dambo – Les
Populations montagnardes du Sud - Indochine. France
- Asie No 49-50. Chương VI.
2. Như đã nêu ở Chương
hai, đây là theo
thần tích của làng Cư An, tên gọi sau này của Cự
Triền. Còn theo thần tích làng An Duyên, huyện Thường
Tín (Hà Tây) thì bà Trưng Nhị cùng chồng là Hùng Nguyên
về lập đồn trại tại làng An Duyên này.
Chương Bốn
CUỘC
KHÁNG CHIẾN
QUÂN HÁN MỞ ĐƯỜNG
XÂM LƯỢC
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
làm rung động đế chế Hán. Vì đất Âu Lạc, căn cứ
để nhà Hán dùng làm bàn đạp thực hiện âm mưu bành
trướng xuống phương nam, đã bị tách ra khỏi đế chế
này. Đó là điều làm cho Hán Quang Vũ rất không yên tâm.
Cho nên dù đang phải lo đối phó với những cuộc khởi
nghĩa của nhân dân nhiều nơi trên đất Trung Quốc1,
Quang Vũ vẫn tích cực thực hiện dã tâm xâm lược trở
lại Âu Lạc. Hậu Hán Kỷ (q.7) có chép rằng năm
Kiến Vũ thứ 17 (tức năm 41), một năm sau thắng lợi của
cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Quang Vũ đã ra lệnh cho các
quận từ Trường Sa trở xuống sắm sửa xe cộ, thuyền
bè, sửa sang cầu đường, khơi thông khe lạch, trữ lương
thực để chuẩn bị đánh Giao Chỉ.
Như vậy là
vua Hán đã huy động cả khu vực đông nam Trung Quốc vào
công việc chuẩn bị chiến tranh. Tới tháng Chạp cùng
năm ấy (tức tháng 1 năm 42), hắn xuống chiếu cho Mã
Viện làm Phục Ba tướng quân. Đoàn Chí làm Lâu Thuyền
tướng quân cùng nhau đem quân bộ và quân thủy ở bốn
quận Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô đi
đánh Giao Chỉ. Thủy kinh chú có ghi lời tấu của
Mã Viện gửi lên Quang Vũ khi hắn đã hoàn thành việc
xâm lược: “Kẻ hạ thần đã cùng một vạn hai nghìn
tinh binh hợp với đại binh thành hai vạn người và
thuyền xe lớn nhỏ hai nghìn cỗ, tự vào đất Giao Chỉ,
đến nay đã thành công”.
Một vạn hai nghìn tinh
binh mà Mã Viện nói tới có lẽ là quân lính lấy ở bốn
quận trên. Còn đại binh - là phần còn lại gồm tám
nghìn tên - có thể là quân lính từ lâu được đặt
dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Mã Viện. Dù sao thì
quân chủ lực dùng vào cuộc xâm lược, theo như lời thú
nhận trên đây của giặc, là hai vạn tên. Ngoài ra, để
phục dịch cho hai nghìn cỗ xe trận và thuyền chiến hắn
phải có thêm dăm bảy nghìn dân binh. Điều đáng lưu ý
là tất cả lũ lính tráng này, thủy cũng như bộ, đều
là người Hoa Nam, dễ thích ứng với thủy thổ Giao Chỉ.
Bọn chỉ huy thì đều là tướng gian ác. Mã Viện khi ấy
56 tuổi2, là một tướng có nhiều kinh
nghiệm trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân
dân Trung Quốc cũng như các dân tộc bị đô hộ. Chính
hắn vừa dẹp xong cuộc nổi dậy của nông dân Hoãn
Thành thì được phong ngay làm Phục Ba tướng quân lãnh
trách nhiệm đi đánh Giao Chỉ. Phó tướng là Lưu Long vốn
là thái thú Nam Quận (tỉnh Hồ Bắc) nhưng đã bị cách
chức vì gian dối trong việc đo đạc ruộng đất, nay
được gọi ra cho làm phụ tá Mã Viện để lập công
chuộc tội. Phụ trách thủy quân là Đoàn Chí cũng vừa
mới tham gia đàn áp nông dân Hoãn Thành cùng với Mã
Viện.
Quân tướng ấy nhận được lệnh xuất
quân đánh Giao Chỉ vào tháng Chạp năm Kiến Vũ 17 (tháng
1 năm 42). Địa điểm tập kết của hai đạo quân này là
Hợp Phố (nay thuộc tỉnh Quảng Tây). Nhưng vừa đến
đây thì Đoàn Chí bị bệnh chết. Quang Vũ lệnh cho Mã
Viện kiêm lĩnh cả thủy quân. Trong Hậu Hán thư
(q.24) có một đoạn ngắn tóm tắt quá trình hành quân
của tên tướng giặc này: “Quân đến Hợp Phố thì Chí
ốm chết, vua xuống chiếu cho Viện kiêm lĩnh cả quân
của Chí. Bèn ven theo biển mà tiến, dựa núi, mở đường
hơn ngàn dặm. Mùa xuân năm 18 (tức năm 42), quân đến
trên Lãng Bạc, đánh với giặc, phá được, chém mấy
nghìn đầu, kẻ xin hàng hơn vạn. Viện đuổi bọn Trưng
Trắc đến Cấm Khê, đánh bại họ mấy lần. Tháng Giêng
năm sau (tức năm 43) chém Trắc và Nhị, đệ đầu về
Lạc Dương”.
Căn cứ vào ghi chép đó, có thể
đoán định hướng tiến quân ban đầu của Mã Viện như
sau:
Sau khi nắm toàn quyền chỉ huy, Mã Viện tất
là cho thuyền chiến đi nương theo ven biển, qua vịnh Hạ
Long để vào sông Bạch Đằng. Còn quân bộ thì cũng “ven
biển mà tiến” tức là phải từ Hợp Phố qua Khâm
Châu, Phòng Thành, vượt qua biên giới ở Đông Hưng, Móng
Cái rồi qua Tiên Yên, Hoành Bồ, Hòn Gai mà cùng tới sông
Bạch Đằng. Sau đó, tất cả thủy bộ kéo tới tụ hội
ở Lục Đầu Giang - Phả Lại. So với đường sá ngày
nay thì đại để tuyến hành quân đó gần trùng với
đoạn khởi đầu đường số 4 (Móng Cái - Tiên Yên) và
hầu hết đường số 18 (Tiên Yên - Phả Lại). Dặm đường
ấy cách đây 2000 năm hẳn là còn hiểm trở nhiều, phải
vượt qua lắm rừng, lắm núi nên quân giặc dù “ven
theo biển mà đến” nhưng vẫn phải “dựa núi, mở
đường hơn ngàn dặm”3.
____________________________________
1.
Năm 40, cùng thời gian với cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
các họ lớn ở bón châu Thanh, U, Từ, Ký (tương đương
với hai tỉnh Sơn Đông và Hà Bắc ngày nay) khởi binh
chống chính quyền Hán trung ương. Năm 41, nông dân ở
Hoãn Thành (nay thuộc tỉnh An Huy) cũng nổi dậy chống
lại triều đình Hán.
2. Theo H.A.Giles trong A
Chinese biography dictionary.
Mã Viện sinh năm 14 trước Công nguyên, mất năm 49. (Nhưng
theo Hậu Hán kỷ (q.8 ) thì Mã Viện chết năm Kiến Vũ
thứ 26 tức năm 50).
3. Hợp phố - Đông Hưng: 180km;
Móng Cái - Tiên Yên: 86km; Tiên Yên - Phả Lại: 180km. Vậy
cả đoạn đường này dài 446km. Một dặm gồm 360 bộ.
(một bộ khoảng 0,8m) tức khoảng 400m. Như thế thì 446km
rất ứng với con số hơn ngàn dặm ghi trong đoạn sử
nói trên.
Thần tích một số tướng
lĩnh của Hai Bà Trưng như thần tích bà Thánh Thiên, thần
tích Chàng Hối đại vương... có kể là Hai Bà cử Thánh
Thiên đem quân lên chặn Mã Viện ở biên ải. Trưng
Vương lịch sử của Hoàng Thúc Hội chép cụ thể là
bà Thánh Thiên chặn Mã Viện ở Quỉ Môn quan. Do quan niệm
rằng Quỉ Môn quan là Chi Lăng (huyện Ôn Châu, tỉnh Lạng
Sơn) và coi Mã Viện tiến theo đường Bằng Tường - Đồng
Đăng - Chi Lăng nên có người cho rằng chi tiết đó là
hoang đường. Đành rằng rất có thể Thánh Thiên không
đón đánh Mã Viện ở Quỉ Môn quan nhưng trong thực tế
Mã Viện không hành quân theo đường qua Chi Lăng. Tài liệu
thư tịch dẫn ở trên đã nói lên điều đó (Mã Viện
tiến theo đường ven biển). Vả theo lý mà suy ra thì cũng
là như vậy: Mã Viện một mình thống lĩnh cả thủy bộ,
không thể đưa quân bộ đi tách ra xa, cách quân thủy
hàng mấy trăm dặm với bao núi rừng cách trở, không
tiện liên lạc một bề nào cả. Nhất là từ Hợp Phố
sang Giao Chỉ thì chỉ có con đường qua Đông Hưng - Tiên
Yên là gần nhất. Nếu muốn vào Giao Chỉ bằng nẻo Bằng
Tường - Đồng Đăng thì từ Hợp Phố phải đi ngược
lên Nam Ninh (vì vướng dãy Thập vạn đại sơn), tới đây
mới có đường đi xuống Bằng Tường. Như vậy đường
sẽ dài ra gấp đôi, thêm lên hàng nghìn dặm nữa, lại
bị cách biệt hoàn toàn với đạo quân thủy. Hẳn không
có một viên tướng nào lại chọn một con đường hành
quân vòng vèo tốn nhiều công sức và không tiện cho việc
chỉ huy của mình. Vả lại, vào thời ấy con đường
Bằng Tường - Đồng Đăng - Chi Lăng, cửa ngõ mở ra để
vào Giao Chỉ về mặt đường núi thì chưa được mở.
Thời ấy chỉ mới có đường sông Bạch Đằng và đường
bộ đi ven biển là cửa ngõ ra vào Giao Chỉ thuận tiện
hơn cả.
Ngoài ra, theo Lê Quý Đôn thì có một Quỉ
Môn quan ở mạn Tiên Yên và Mã Viện đã hành quân qua
đó. Sách Vân đài loại ngữ của nhà bác học này
có viết: “Sách Hoàn vũ ký chép rằng Quỉ Môn quan ở
phía nam huyện Bắc Lưu, cách huyện 30 dặm, có hai tảng
đá đối nhau. Đời Hán, Mã Viện đi đánh Lâm Ấp có
lập bia tại đó”. Lại chép rằng: “Đời Tấn,
ai sang Giao Chỉ đều phải đi qua Quỉ Môn quan, ở về
phía nam cửa quan ấy lại càng nhiều chướng lệ. Nay xét
huyện Bắc Lưu ở gần châu Tân Yên (nay là Tiên Yên).
Quỉ Môn quan nói ở trên có lẽ là nơi đấy. Nay tục
truyền bảo Quỉ Môn quan ở làng Quang Lang thuộc Ôn Châu,
Lạng Sơn thì không phải. Sách sử chép Phục Ba Mã Viện
tiến quân đi ven biển, gặp núi thì đẵn cây làm đường
đi, hơn ngàn dặm mà dấu chân chưa thấy đến Lạng
Sơn”1.
Vậy nếu Mã Viện có đi
qua Quỉ Môn quan thì là Quỉ Môn quan này.
Dựa theo
các thần tích mà đoán định thì chưa vượt quá biên
giới bao xa, Mã Viện đã đụng độ với nghĩa quân Hai
Bà (do Thánh Thiên chỉ huy?). Cuộc đụng độ này làm
chậm lại bước tiến của hắn. Và có lẽ không chỉ
một trận ở Quỉ Môn quan mà quân Hán còn phải chống
chọi với những cánh nghĩa quân từ trước đã đóng ở
dọc hành lang Tiên Yên - Phả Lại hoặc cả những đội
quân vừa mới tập hợp khi đất nước lâm nguy.
Có
một vài tài liệu lại nói rằng Thánh Thiên đưa quân
tới tận Hợp Phố (Trung Quốc) tập kích Mã Viện. Nói
vậy e không đúng: vì Thánh Thiên - theo thần tích đóng
căn cứ ở khu vực này là làng Ngọc Lâm thuộc xã Tân
Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Sau khi đánh đuổi
Tô Định, bà được Trưng Vương phái về đóng tại căn
cứ đó và quản lĩnh công việc tuần phòng biên giới.
Thực ra cũng không rõ đường biên giới ngày ấy như thế
nào. Quận Giao Chỉ tiếp giáp với quận Thương Ngô hay
quận Hợp Phố? Nhiều tài liệu lịch sử cũ nói Hợp
Phố thuộc tỉnh Quảng Đông, nhưng đến thời Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa thì Hợp Phố lại thuộc tỉnh Quảng
Tây. Nếu từ Ngọc Lâm mà sang Hợp Phố thì Thánh Thiên
phải đưa quân vượt một đoạn đường dài tới năm
trăm km, mà lại rất khó đi. Cụ thể là quân lính của
Mã Viện đã phải vừa hành quân vừa phát cây, đánh đá,
mở lấy đường mà đi. Cho nên khó có chuyện Thánh Thiên
đánh tới Hợp Phố. Vả Hợp Phố lúc đó là nơi bè lũ
Mã Viện tập trung hai vạn quân thủy và bộ, nếu bị
tấn công thì sử Trung Quốc đã ghi.
Sự nhầm nhặt
này có lẽ là trong thần tích có nói tới một địa điểm
căn cứ của người cậu bà Thánh Thiên mà khi thì gọi
là Ký Hợp, khi lại gọi là Hợp Phố. Nhưng Ký Hợp (tức
Hợp Phố) này thuộc địa phận huyện Yên Dũng (tỉnh
Bắc Giang) chứ không phải ở Trung Quốc. Bài “Thánh
Thiên công chúa” của Nhật Nham in trên tạp chí Tri Tân
số 38 (tháng 3-1942) viết theo thần tích của xã Ngọc Lâm
có ghi cụ thể là Hợp Phố ở huyện Yên Dũng và sau khi
người cậu bị Tô Định giết, Thánh Thiên coi sóc cả
hai doanh Ngọc Lâm và Hợp Phố.
Như vậy Thánh Thiên
không đánh tới quận Hợp Phố bên tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc. Nhưng nói thế không có nghĩa là nhân dân Hợp
Phố (Trung Quốc) không chống lại quân Hán. Vì mới hai
năm trước đó nhân dân quận Hợp Phố đã hưởng ứng
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nổi dậy đánh đuổi
thái thú (đã nêu ở Chương ba). Do vậy lúc này Hợp
Phố có thể cũng là đối tượng đàn áp trả thù của
Mã Viện và để khỏi bị tiêu diệt thì nhân dân ở đây
tất phải chống lại quân
Hán.
_____________________________________
1.
Bản dịch đã dẫn - tr.128.
TRẬN TÂY VU
Trận này không được chép
trực tiếp trong thư tịch. Sử Việt Nam ghi vắn tắt nên
đã đành là không có, nhưng sử Trung Quốc ghi có chi tiết
hơn mà cũng không có. Vì trận này quân Hán thua.
Như
đã nêu ở trên, quân bộ và quân thủy của giặc tụ
họp lại ở Lục Đầu Giang - Phả Lại rồi sau đấy mới
tỏa đi đánh các nơi. Riêng Mã Viện thì trước khi đến
Lãng Bạc, y đã tới tấn công huyện Tây Vu mà khi đó
trung tâm là Cổ Loa, kinh đô cũ của nước Âu Lạc. Vì
Thủy kinh chú (q.37) có một câu cho phép suy luận,
đoán định như vậy: “Mã Viện thấy miền Lãng Bạc
đất cao, bèn từ Tây Lý (Vu) kéo quân đến đóng đồn ở
đó”. Rõ ràng trước khi tới Lãng Bạc thì Mã Viện đã
đóng ở Tây Vu. Đó là sự thực, vì Hậu Hán thư
(q.86) có ghi một câu của Mã Viện nói với thuộc hạ:
“Lúc ta đang ở giữa miền Lãng Bạc và Tây Lý (Vu),
quân giặc chưa dẹp được, dưới thì nước lụt, trên
thì mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt, trông lên thấy
diều hâu đang bay bỗng sa xuống nước chết...”.
Như
vậy là Mã Viện từng ở Tây Vu, hẳn là chỉ huy cuộc
tấn công thành huyện Tây Vu tức thành Cổ Loa. Nhưng y đã
thất bại, vì “quân giặc chưa dẹp được”. Ông Đào
Duy Anh có phán đoán: “Có lẽ Mã Viện nhằm thẳng tới
Mê Linh kinh đô của ta bấy giờ nhưng có thể đến Tây
Vu là căn cứ của An Dương Vương xưa kia và bấy giờ
hẳn cũng là một căn cứ dụng binh quan trọng của nghĩa
quân, Mã Viện bắt đầu gặp sự kháng cự kịch liệt
nên phải lui quân về Lãng Bạc”1.
Có
thể như vậy lắm. Vì như đã nêu ở trên, sau khi đánh
đuổi Tô Định, Hai Bà Trưng vẫn quan tâm đến việc đề
phòng giặc Hán trở lại xâm lược, đã phân phong các
tướng lĩnh đi trấn giữ các địa bàn xung yếu. Cổ
Loa, kinh đô của nước Âu Lạc, đất thánh của những
chủ nhân ngành sản xuất “nỏ thần” và mũi tên đồng
lợi hại, một căn cứ thủy bộ kết hợp kiên cố, kiểm
soát cả một vùng trũng Lãng Bạc nên chắc chắn là phải
được xây dựng thành một chốt chủ yếu của phòng
tuyến bảo vệ Mê Linh từ phía tả ngạn sông Hồng -
sông Đuống.
Dĩ nhiên chính sử không ghi cụ thể
như vậy nhưng theo truyền thuyết và thần tích thì chiến
cuộc có diễn ra ở vùng Cổ Loa. Như truyền thuyết ở
làng Gia Lộc, một làng ở phía đông bắc thành Cổ Loa
(nay thuộc xã Việt Hùng, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà
Nội) có kể rằng tại Gia Lộc này có một đồn nghĩa
quân Hai Bà và là đồn ngoại vi của Cổ Loa. Tướng chỉ
huy là ông Đông Bảng. Ông này đã hy sinh ngay từ thời
kỳ đầu khi quân Mã Viện mới tới. Ngày hóa là mùng 10
tháng Hai. Nếu ngày hóa là chính xác thì đó chính là
khoảng trung tuần tháng 3 năm 42, ứng với thời gian Mã
Viện đánh thành Cổ Loa.
Hoặc như thần tích Đức
Bà ở làng Dâu (tức làng Cổ Châu nay thuộc xã Vân Hà,
huyện Đông Anh, cũng ở phía đông - bắc Cổ Loa) có kể
rằng Đức Bà tên là Vĩnh Huy cũng đã hy sinh ngay trên
đất làng này trong một trận chiến đấu chống quân Mã
Viện.
Cho nên rất có thể có trận quân Mã Viện
đánh thành huyện Tây Vu (thành Cổ Loa) và đó là trận
mở màn cho cuộc chiến mùa xuân năm 42. Ở trận này, Mã
Viện chịu bó tay nên sau gần (hoặc hơn) một tháng đánh
phá, hắn phải chuyển sang Lãng Bạc. Đó là vào tháng 4
năm 42.
_____________________________________
1.
Cổ đại Việt Nam
- Tập IV - tr.64.
TRẬN LÃNG BẠC
Các nhà viết sử thời xưa coi Lãng Bạc là nội
thành Hà Nội. Như Toàn thư thì chú rằng Lãng Bạc
ở phía tây Tây Nhai của La Thành. Cương mục thì
gọi đích danh Lãng Bạc là Hồ Tây. Quốc sử diễn ca
cũng nói như vậy:
Uy danh động đến
Bắc phương
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công
Hồ
Tây đua sức vẫy vùng...
Sang thế kỷ XX, một số nhà
nghiên cứu đã đặt lại vị trí Lãng Bạc.
H.Maxpêrô,
năm 1918, trong bài “Cuộc viễn chinh của Mã Viện”1
đã chỉ định Lãng Bạc là vùng đồi núi huyện Tiên Du
(nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
CI.
Madrôn, năm 1937, trong bài “Xứ Bắc kỳ cổ”2
cũng công nhận như vậy.
Ông Đào Duy Anh, năm 1957,
trong Cổ đại Việt Nam Tập IV - cũng tán thành kiến
giải đó. Tới năm 1964, trong Đất nước Việt Nam qua
các đời, ông bổ sung thêm: “Lãng Bạc hẳn là miền
đồng sâu ở xung quanh huyện Từ Sơn ngày nay, xưa kia có
lẽ còn sâu như hồ nên tên gọi là như thế. Ở phía
nam huyện lỵ Từ Sơn có nhiều đồi là miền cao ráo
nhất trong cả vùng ấy, có lẽ Mã Viện đóng quân ở
vùng đó”. (Huyện Từ Sơn nay thuộc tỉnh Bắc Ninh).
Ông Đinh Văn Nhật, năm 1974, trong bài “Vùng Lãng
Bạc thời Hai Bà Trưng” in trên tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử hai số 154, 155 đã phân biệt rõ Lãng Bạc
“ở vào vùng hai bên bờ sông Cầu, ngay cạnh thị xã
Bắc Ninh ngày nay” và “chiến trường Lãng Bạc gồm ba
khu vực: một là vùng đồi thấp và bãi sông mà sau này
gọi là vùng Tiên Du, hai là vùng đồi thấp trên bậc
thềm có tên là Lãng Sơn nằm giữa ngã ba sông Thương -
sông Lục Nam, ba là bậc thềm Cổ Loa. Trận đánh có tính
chất quyết định có lẽ đã xảy ra ở vùng Tiên Du”.
Như vậy, cho tới nay các nhà nghiên cứu đã nhất
trí với nhau là nơi diễn ra trận chiến lớn giữa nghĩa
quân Hai Bà và quân Hán mà bấy lâu quen gọi là trận
Lãng Bạc chính là vùng đồi núi xen lẫn đồng trũng
thuộc huyện Tiên Du, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Ngày
ấy, Tiên Du thật là một vùng chiến lược. Điều dễ
nhận thấy ngay là vùng này nằm trên trục giao thông
đường bộ chính của thời bấy giờ, nối hành lang Móng
Cái - Tiên Yên - Phả Lại với cố đô Cổ Loa. Trục này
lại được tả phù hữu bật bằng hai con sông đi kèm
hai bên và cũng đều dẫn tới Cổ Loa là sông Thiếp ở
phía bắc và sông Đuống ở phía nam. Thật là tiện lợi
trong việc phối hợp tác chiến giữa quân bộ và quân
thủy.
Đây cũng là con đường mà theo văn học dân
gian vào thời đại Hùng Vương nhân vật thần thoại
Chàng Dóng đã hành quân đánh đuổi lũ giặc Ân, truy
kích chúng tới tận bản doanh của chúng là núi Vũ Ninh
tức núi Trâu Sơn (nay ở sườn núi này còn có một nửa
tượng ngựa đá và cây cột đá gắn với chuyện Chàng
Dóng).
Đây còn là con đường hành quân của Triệu
Đà mà bản doanh của y cũng lại là núi Vũ Ninh và chính
Triệu Đà cũng lại đã đóng quân ở vùng Tiên Du sau lần
bại trận ở Cổ Loa. Cương mục có chép: “Khi
Triệu Đà sang xâm lược, đóng ở núi Tiên Du. Thục
Vương đem quân chống cự... Triệu Đà dời quân doanh đến
núi Vũ Ninh”. Lĩnh Nam chích quái cũng chép: “Quân
Triệu Đà thua to. Đã trú quân ở núi Trâu Sơn”.
Ngoài
ra, vùng Tiên Du còn là nơi giáp ranh của nhiều huyện:
bản thân vùng này là đất huyện Long Biên, lên mạn bắc
là huyện Tây Vu, xuống phía nam qua sông Đuống đã là
huyện Liên Lâu, sang phía tây là Chu Diên. Cho nên đóng ở
Tiên Du, gặp thời cơ thì có thể tiến đánh các huyện
lân cận một cách thuận lợi mà thất bại thì sẵn
đường rút chạy về Trung Quốc cũng nhanh (như Tô Định
đã từng rút chạy).
Thứ nữa, địa hình Tiên Du
cũng phù hợp với yêu cầu hành quân của Mã Viện. Vì
đối với một đạo quân xâm lược đi vào miền Bắc
nước ta qua nẻo sông Bạch Đằng và hành lang bậc thềm
ven biển thì đây là một vị trí có giá trị chiến lược
lớn. Với những đồng trũng là những ruộng lúa nước
mầu mỡ, vùng này là một kho của cải rất tiện cho
việc cướp bóc của quân xâm lược. Ngoài ra, bên những
đồng trũng lại là những đồi núi rải rác khắp chốn,
như núi Chè 127m, núi Bát Vạn 98m, núi Phật Tích 83m, núi
Lạn Kha 85m, núi Đông Sơn 67m, núi Long Khám 79m, núi Vân
Khám 73m, núi Bất Lự 10m, núi Dạm 171m, núi Lim 23m... Đóng
ở đây có thể phát huy lợi thế của cao điểm, dễ bề
khống chế đối phương.
Thủy kinh chú có
ghi cụ thể là: “Mã Viện thấy miền Lãng Bạc đất
cao bèn từ Tây Lý (Vu) kéo quân đến đóng đồn ở đó”.
Có thể Mã Viện đã rải quân khắp vùng này và có một
thời gian án binh bất động, vừa để củng cố lại đội
ngũ bị sứt mẻ ở Cổ Loa, vừa để thăm dò đối
phương. Nhưng thời gian này không dài, vì vào tháng Ba âm
lịch từ tháng 4 năm 42, nghĩa quân Hai Bà đã kéo tới
giao chiến.
_____________________________________
1.
L’expédition de
Mayuan - trong BEFEO
tập XVIII.
2. Le
Tonkin ancien - trong
BEFEO tập XXXVII.
Theo hai ông Nguyễn Văn Dị,
Thanh Ba thì “Trưng Vương đã đem đại quân tổ chức
thành trận thế phòng ngự sẵn ở Lãng Bạc, khi quân
Đông Hán tiến đến thì đại quân của Trưng Vương chặn
đánh. Như vậy trận đánh của Trưng Vương ở vùng Lãng
Bạc là trận phòng ngự chặn đánh đại quân Đông Hán
đang tiến công.”1.
Nhưng ông Trương
Hữu Quýnh thì quan niệm ngược lại, coi đây là một
trận tấn công của nghĩa quân Hai Bà: “Bấy giờ vào
khoảng cuối xuân đầu hạ năm 43 (chính ra là năm 42 -
N.V.P.). Quân Hai Bà đang được tập hợp và xem xét tình
hình địch vì biết rằng thế giặc đang mạnh, chưa thể
đánh ngay được. Hai Bà cũng muốn dựa vào thủy thổ
của nước ta để đưa giặc vào thế bí và sau đó kéo
quân đánh đồn. Quả thực những điều kiện thời tiết
của nước ta cũng gây nhiều khó khăn cho giặc... Giữa
lúc ấy Hai Bà Trưng kéo quân chủ động tiến công vào
doanh trại giặc.”2.
Ý kiến của
ông Trương Hữu Quýnh có phần hợp lý hơn. Bởi nếu bảo
rằng Hai Bà đã đem đại quân tổ chức thành trận thế
phòng ngự sẵn ở Lãng Bạc thì Mã Viện gặp đại quân
này trước khi tới Tây Vu. Vì từ mạn biển đi vào thì
qua Lãng Bạc rồi mới tới Tây Vu. Lãng Bạc nằm trên
đường hành quân của giặc, nếu có nghĩa quân tại đây
thì chiến sự đã phải xảy ra. Đằng này, như Thủy
kinh chú đã ghi - Mã Viện thấy Lãng Bạc đất cao bèn
từ Tây Vu kéo quân đến đóng tại đó - như thế có
nghĩa là trong lần đầu đi qua Lãng Bạc để đến Tây
Vu, Mã Viện không gặp đại quân Hai Bà. Mà cho tới sau
trận Tây Vu (Cổ Loa), ở Lãng Bạc vẫn không có nghĩa
quân nên Mã Viện mới kéo tới đóng đồn ở đó (và
hắn sẽ đóng ở đấy khá lâu, trong suốt mùa mưa - tức
mùa hè - năm 42).
Cho nên có thể là sau thắng lợi
ở Cổ Loa, Hai Bà đã chủ động đưa đại quân tới
Lãng Bạc tiến công giặc Hán.
Lúc ấy là cuối
xuân, đầu hạ. Thời tiết đang chuyển. Trời nóng lên
và mùa mưa bắt đầu. Khí trời oi bức và ẩm ướt, Mã
Viện khốn đốn vì các bệnh thời khí phát sinh trong
quân lính. Ngay một viên đại tướng là Bình Lạc hầu
Hàn Vũ cũng đã chết vì bệnh ở Lãng Bạc. (Hậu Hán
kỷ q.7).
Mã Viện có lúc đã tỏ ra khá mỏi
mệt. Hậu Hán thư q.42 còn ghi lời của viên tướng
già này nói với thuộc hạ sau khi ở Giao Chỉ về: “Ngày
trước, khi ta còn hàn vi hăng hái muốn lập nghiệp lớn.
Em họ ta là Thiếu Du thấy ta vất vả, thương hại can ta
mà bảo rằng: “Người ta ở đời miễn được cơm no,
áo ấm, cưỡi xe êm, đi bước chậm, làm duyện lại ở
quận nhà, giữ phần mộ tổ tiên, được tiếng khen
trong làng xóm thế là đủ lắm rồi. Ham giàu sang, thích
công nghiệp là tự mình làm khổ mình”.
“Ta không
cho lời ấy là lẽ phải. Tới khi phụng mệnh ra quân,
lúc đang ở giữa miền Lãng Bạc và Tây Lý (Vu), quân
giặc chưa dẹp được, dưới thì nước lụt, trên thì
mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt, trông lên thấy
diều hâu đang bay bỗng sa xuống nước chết, nằm nghĩ
đến lời Thiếu Du mới thấy là chí lý”.
Khi đó,
thấy lời khuyên của Thiếu Du là chí lý tức là Mã Viện
đang rất nản lòng. Cùng với những khó khăn do thời
tiết bày ra là sự lúng túng về chiến lược. Mã Viện
hẳn chưa tìm được một cách đánh có hiệu quả.
Giữa
lúc đó nghĩa quân kéo tới tiến công. Đây là một sai
lầm về chiến lược của những người lãnh đạo nghĩa
quân! Vì quân Hán sang đánh Giao Chỉ với phương châm
đánh nhanh để thắng nhanh, là phương châm quen thuộc của
mọi đạo quân xâm lược. Với ưu thế về kỹ thuật
chiến đấu, chúng rất mong sớm gặp đối phương để
tác chiến nếu không nói là phải tìm cho ra ngay đối
phương để tổ chức trận đánh. Cụ thể là Mã Viện
đã xông thẳng đến Tây Vu. Chỉ vì không hạ được
thành này (do sức kháng cự mạnh mẽ của nghĩa quân thạo
cung nỏ, lại có thành lũy vững bảo vệ) nên hắn phải
lui sang Tiên Du.
Để chống lại một đạo quân mà
bộ phận nòng cốt đã từng chinh chiến nhiều năm lại
có một chỉ huy dạn dày, từng trải, có nhiều kinh
nghiệm tác chiến ở những hoàn cảnh, môi trường khác
nhau như đạo quân Mã Viện mà Hai Bà lại dàn quân đánh
theo trận địa chiến thì là thất sách. Nhất là quân
đội của Hai Bà mới thành hình trong bão táp của khởi
nghĩa chưa quá hai năm, còn thiếu nhiều kinh nghiệm.
Cho
nên có thể nói rằng việc nghĩa quân tới đánh Lãng Bạc
đã gỡ thế bí về chiến lược cho Mã Viện! Tên giặc
già này tổ chức phản công với mọi sự thành thạo,
quen tay và cuối cùng giành được thắng lợi!3
Theo Hậu Hán thư (q.24) trong trận Lãng Bạc này quân
Hán đã chém hơn nghìn đầu và bắt hàng hơn một vạn.
Những con số này tất có phần phóng đại, nhưng trận
đánh hẳn là khá dữ dội. Quân Hán chết cũng không phải
ít.
Bàn về sự thất bại của Hai Bà ở Lãng Bạc,
ông Dương Minh có nhận định khá xác đáng: “Năm 43
(chính ra là năm 42 - N.V.P.), nếu Hai Bà Trưng không mang
quân chủ lực đến Lãng Bạc mà lại tránh cuộc tấn
công của Mã Viện, chờ cho Viện phải rải quân ra để
chiếm giữ các nơi, nhất là rải quân ra để bảo vệ
đường liên lạc tiếp tế từ Trung Quốc sang Việt Nam,
rồi mới mang quân tỉa dần quân Hán, làm cho quân Hán
càng ngày càng hao mòn, mỏi mệt, mất hết ý chí chiến
đấu rồi cuối cùng mới tổng phản công tiêu diệt quân
Hán hay đuổi chúng ra khỏi đất nước thì một tình
hình khác sẽ có thể xảy ra. Chí ít Mã Viện cũng không
có cơ hội tiêu diệt nghĩa quân, chiến tranh Việt - Hán
sẽ kéo dài và một khi chiến tranh kéo dài thì thắng lợi
cuối cùng chưa chắc đã là phía quân xâm lược.”4.
Nhưng dù sao thì trận Lãng Bạc, một trận đánh
rất lớn so với mức độ phát triển của lịch sử bấy
giờ đã khẳng định bản lĩnh và làm sáng tỏ truyền
thống của dân tộc chúng ta: thà hy sinh tất cả chứ
không để mật độc lập tự
do.
_____________________________________
1.
Bài “Tìm hiểu thêm về cuộc chiến tranh chống quân xâm
lược Đông Hán của nhân dân ta thời Hai Bà Trưng” trên
tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử số
173.
2. Trương Hữu Quýnh – Lịch
sử Việt Nam -
Quyển 1 - Tập 1 - trang 92 - năm 1977.
3. Có thể lúc này
Mã Viện còn nhận được cả viện binh - Vì Ch. Patris
trong Essai d’historie
d’Annam (lmp. Đắc
Lập - Huế - 1922) cung cấp một chi tiết là ban đầu Mã
Viện chỉ có hai vạn quân, sau được bổ sung thêm năm
vạn quân. Theo Thủy
kinh chú (q.37) thì
Tây Thục cũng đưa quân xâm lăng nước ta hỗ thợ Mã
Viện.
4. Dương Minh – Thử
xét xem nguyên nhân gì khiến cuộc kháng chiến của Trưng
Trắc và Trưng Nhị phải thất bại
- Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử số
36.
TRẬN CẤM KHÊ
Hậu Hán thư, mục Mã Viện truyện
(q.24) có ghi: “Viện đuổi bọn Trưng Trắc đến Cấm
Khê, đánh bại họ mấy lần. Tháng Giêng năm sau (tức
Kiến Vũ thứ 19, dương lịch là khoảng tháng 2 năm 43 -
N.V.P.) chém Trưng Trắc, Trưng Nhị nộp đầu về Lạc
Dương”.
Cũng Hậu Hán thư, mục Nam Man
truyện (q.86) lại viết: “Tháng Tư năm Kiến Vũ thứ
19 (tức khoảng tháng 5 năm 43 - N.V.P.) Viện phá Giao Chỉ,
chém Trưng Trắc, Trưng Nhị”.
Thủy kinh chú
(q.37) dẫn Giao Chân ngoại vực ký: “... Mã Viện
sang đánh, Trắc và Thi chạy vào Kim Khê cứu, ba năm mới
bắt được”.
Cũng ở Thủy kinh chú (q.37)
còn có câu: “Theo sách Việt chí thì Cấm Khê là
Kim Khê ở phía tây-nam huyện Mê Linh. Theo Nam Việt chí
thì Trưng Trắc chạy vào Kim Khê huyện hai năm mới bắt
được”.
Qua các tài liệu trên, có hai vấn đề
cần làm sáng tỏ: địa danh, địa điểm Cấm Khê và
thời gian chiến sự diễn ra ở nơi ấy.
VỀ
ĐỊA DANH, ĐỊA ĐIỂM CẤM KHÊ
Các tài liệu trên đều khẳng
định Cấm Khê là căn cứ kháng chiến cuối cùng của
Hai Bà. Đất Cấm Khê ấy còn có tên là Kim Khê và được
coi là cứu hoặc huyệt. Cứu có nghĩa là khe,
động. Huyệt có nghĩa là chỗ khe núi nước chảy
xói vào. Vậy cứu và huyệt nghĩa cũng na ná như nhau.
Kể ra bản thân chữ khê cũng đã có ý nghĩa là
một cái khe núi vì ở các tài liệu nói trên, chữ khê
được viết theo bộ cốc, chữ ấy có nghĩa là một
khe nước ở vùng núi non (chứ không phải ở đồng
bằng).
Như vậy Cấm Khê hoặc Kim Khê - có thể
hiểu là Khe Cấm hoặc Khe Vàng - phải là một vùng có
khe có suối tức cũng là một vùng đồi núi, mà là một
vùng đồi núi không hẹp, lại hiểm trở, để nghĩa quân
có thể trú ẩn an toàn và chiến đấu trong một thời
gian dài ít nhất là từ một năm trở lên.
Vậy
Cấm Khê cụ thể là ở chỗ nào? Từ đời nhà Đường,
cuối thế kỷ thứ VII, thái tử Lý Hiền làm công việc
chú giải Hậu Hán thư, đã ghi chú về Cấm Khê như
sau: “Quận Giao Chỉ, huyện Mi Linh (có âm khác là Mê
Linh) có Kim Khê cứu, người đời gọi lầm là Cấm Khê.
Đó là nơi Trưng Trắc cố thủ. Nay thuộc huyện Tân
Xương, Phong Châu”.
Như thế thì cũng có thể hình
dung ra vị trí Cấm Khê được rồi. Song từ trước đến
nay đã có nhiều ý kiến khác nhau chỉ định vị trí
này. Các tác giả bộ Cương mục thì cho rằng: “Cấm
Khê ở về địa hạt Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây” (Tiền
biên - q.2). Vĩnh Tường nay là một huyện thuộc tỉnh
Vĩnh Phúc. Ông Đào Duy Anh lại đoán định Cấm Khê là
xã Cẩm Khê hay còn gọi là Cẩm Viên ở huyện Yên Lạc
cũng thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (Cổ đại Việt Nam - Tập
IV - tr.65)1.
Thế là cả hai thuyết
trên đều đặt Cấm Khê ở trên một dải đồng bằng
hẹp nằm ngay bên tả ngạn sông Hồng mà hàng năm về
mùa mưa lũ thường bị ngập nước (vì ngày đó chưa có
đê). Như vậy không phù hợp với sự ghi chép của các
thư tịch đã nêu ở trên. Vả nếu đúng là dải đồng
bằng ấy thì làm sao mà Hai Bà tổ chức kháng chiến được
tới hàng năm (hoặc hai hay ba năm) chống lại cuộc bao
vây càn quét của hai vạn quân giặc đang nắm ưu thế
quân sự? Để làm được như vậy, nghĩa quân Hai Bà phải
có một căn cứ hiểm yếu, có giá trị phòng ngự tốt
nhưng lại cũng không phải hoàn toàn khép kín mà có thể
và cần phải liên lạc được với các căn cứ khác, với
nhân dân hậu phương (có thế mới duy trì được cuộc
chiến đấu).
Năm 1972, ông Đinh Văn Nhật trong luận
văn Đất Cấm Khê, căn cứ cuối cùng của Hai Bà Trưng
trong cuộc khởi nghĩa Mê Linh năm 40 – 43 in ở tạp
chí Nghiên cứu Lịch sử các số 148-149, đã đưa
ra một giả thuyết mới. Nội dưng cơ bản của thuyết
này là coi trung tâm Cấm Khê, căn cứ kháng chiến cuối
cùng của Hai Bà Trưng, chính là khu vực thung lũng Suối
Vàng, nơi có con Suối Vàng từ sườn đông núi Tản Viên
nam chảy về rồi vòng qua Hạ Lôi - Bằng Trù ở huyện
Thạch Thất để đổ vào sông Tích. Thung lung Suối
Vàng được coi là tên Nôm của Kim Khê cứu. Tác giả
mô tả: “Con suối này bắt nguồn từ núi Xổ có đỉnh
cao 178m, gần thôn Cổ Cửa trên đất các xã Đào Lãng và
Bằng Lộ cũ, thuộc huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình, sau
đó chảy qua xóm Suối Vàng rồi vào địa hạt xã Hạ
Bằng, huyện Thạch Thất, thành suối Hạ Bằng; suối này
chảy qua chân núi Tu Hú, qua xã Hạ Bằng rồi sau cùng đổ
vào sông Con ở ngang Dã Cát và Phú Vinh thuộc huyện Quốc
Oai, Hà Sơn Bình”. (Nghiên cứu Lịch sử, số 148
).
Giả thuyết này được nhiều nhà nghiên cứu
chấp nhận. Ông Văn Tân vừa tán thành lại vừa cung cấp
thêm một giả thiết về mặt ngữ âm: “Kim Khê hay Cấm
Khê đều đọc là gin xi hay chín xi. Đầu tiên người ta
đã dịch Suối Vàng ra gin xi (chín xi) tức Kim Khê.
Sau khi truyền miệng cho nhau, người ta chỉ nói là gin
xi. Rồi từ gin xi người ta viết ra Cấm Khê
hoặc Cẩm Khê”2.
Thung lũng Suối
Vàng đó có nhiều dấu hiệu tỏ ra là một căn cứ của
Hai Bà Trưng. Ngoài tên gọi ra (Kinh Khê - Suối Vàng) nơi
đây còn là một vừng rừng núi kín đáo rất phù hợp
với việc xây dựng căn cứ địa: sông Đáy là vòng hào
phòng thủ tự nhiên thứ nhất của vùng này, sông Tích
là vòng hào thứ hai, còn rừng cây bạt ngàn của dãy Ba
Vì - Viên Nam là tấm áo giáp che chở hiệu nghiệm đồng
thời là nguồn cung ứng phần nào lương thực và thực
phẩm. Căn cứ này lại có lối thông vào Cửu Chân qua
hành lang Miếu Môn - Nho Quan.
Ngoài ra, thung lũng
Suối Vàng lại gần kề Hạ Lôi - Kẻ Lói, được coi là
quê hương của Hai Bà và như vậy trở thành chỗ dựa về
vật chất và nhất là về tinh thần cho hoạt động kháng
chiến.
Một dấu hiệu khác nữa là thung lũng này
ở ngay dưới chân núi Vua Bà, ngọn núi cuối cùng của
dãy Tản Viên nam. Cái tên gọi ấy phải chăng liên quan
tới Bà Trưng? Đành rằng trong tục lệ thờ phụng và
tín ngưỡng dân gian của chúng ta có nhiều “vua bà”.
Song ở đây, bên cạnh núi Vua Bà lại có cả núi Mã Viện
tương truyền là nơi đóng quân của tên giặc già này.
Vậy thung lũng Suối Vàng với núi Vua Bà, núi Mã Viện
càng có khả năng là có liên quan tới sự kiện Hai Bà
Trưng và là một chiến trường cổ thời
đó3.
_____________________________________
1.
H. Maxpêrô trong L’expédition de Mayuan - BEFEO XVIII - cho rằng
Cấm Khê là Cẩm Khê và coi đó là huyện Cẩm Khê, Yên
Bái. Nhưng cũng chính ông tìm ra cái tên huyện Cẩm Khê
thực tế chỉ mới có từ năm 1841, trước đó là huyện
Hoa Khê. Cho nên ông không nghiên cứu tiếp vấn đề Cấm
Khê nữa, coi như chưa biết là ở đâu.
2. Văn Tân –
Công tác nghiên cứu
Hai Bà Trưng và cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo trong
mấy năm gần đây
- Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử số
161.
3. Nếu sau này ngành khảo cổ đào được ở khu
vực đó những vũ khí bằng đồng, bằng sắt và phát
hiện những bãi táng tập thể thì đích thực đây là
Cấm Khê.
VỀ
THỜI GIAN VÀ DIỄN BIẾN CỦA CHIẾN SỰ Ở CẤM KHÊ
Như đã nêu ở trên, vẫn một
bộ Hậu Hán thư mà ở mục Mã Viện truyện
thì ghi: “Tháng Giêng năm Kiến Vũ thứ 19 (tức khoảng
tháng 2 năm 43) chém Trưng Trắc, Trưng Nhị đệ đầu về
Lạc Dương.” Tới mục Nam Man truyện lại ghi:
“Tháng Tư năm Kiến Vũ thứ 19 (tức khoảng tháng 5 năm
43), Viện phá Giao Chỉ, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị”.
Như vậy theo Hậu Hán thư, Hai Bà duy trì cuộc
kháng chiến ở Cấm Khê được khoảng từ tám tháng đến
một năm.
Nhưng cũng như đã nêu ở trên, theo Nam
Việt chí thì thời gian đó là hai năm và theo Giao
Châu ngoại vực ký thì thời gian đó lại là ba năm.
(Sử Việt Nam như Toàn thư và Cương mục đều
chép giống như mục Mã Viện truyện).
Thế
là tài liệu về thời gian có chiến sự ở Cấm Khê khá
là phân tán. Tuy nhiên, sự sai biệt về khoảng thời gian
đó thật không đáng bận lòng. Vì dù là bảy tám tháng,
một năm, hay hai ba năm thì cuộc kháng chiến ở Cấm Khê
rõ ràng là nối tiếp cuộc khởi nghĩa mùa xuân năm 40 đã
góp phần làm sáng tỏ thêm truyền thống bất khuất của
dân tộc ta, đã nói lên cho kẻ thù biết rằng người
Việt ở phương nam này không dễ gì chịu khuất phục
thiên triều, mọi người sẵn sàng hy sinh ngay cả
bản thân mình để bảo vệ độc lập và tự do!
Còn
một vấn đề nữa mà chính sử cũng không có ghi chép
gì, đó là vấn đề diễn biến của chiến sự tại Cấm
Khê. Tuy vậy trong Hậu Hán thư, Mã Viện truyện, có
một câu đáng chú ý: “Viện đuổi bọn Trưng Trắc đến
Cấm Khê, đánh bại họ mấy lần”. Chi tiết này gián
tiếp nói lên rằng tại Cấm Khê hai bên đã giao chiến
nhiều trận. Đúng thế! Trong trận Lãng Bạc nghĩa quân
chết tới mấy nghìn. (Hậu Hán thư, q.24). Quân Hán
bị chết hẳn cũng không kém. Có thể Hai Bà đã thấy
thế mạnh của quân xâm lược nên nghĩ đến việc phải
rút về một căn cứ có đủ điều kiện “địa lợi,
nhân hòa”. Căn cứ ấy phải là Cấm Khê, là thung lũng
Suối Vàng vì như đã nêu ở trên, nơi đó địa thế
rừng núi hiểm yếu có thể dựa vào “hình khe thế núi”
để chiến đấu lâu dài. Nơi đó được bảo vệ bằng
hai cái hào thiên tạo là sông Đáy và sông Tích nhất là
sông Tích, một con sông chảy trên mép của một bậc thềm
nên có khúc thì đôi bờ thoáng đãng nhưng cũng có khúc
thì hai bên sông là những đồi gò vách thẳng đứng, rất
thuận tiện cho việc bố trí phòng ngự. Nơi đó lại có
lối ăn thông vào quận Cửu Chân, một hậu phương đáng
tin cậy, bằng con đường qua hành lang Miếu Môn - Nho Quan
tức con đường “thượng đạo” sau này. Sau hết, Cấm
Khê đó lại kề sát Hạ Lôi - Kẻ Lói, có thể là đất
bản bộ của lạc tướng Mê Linh, quê hương thân thuộc
của Hai Bà.
Với giá trị chiến lược lợi hại
như vậy, căn cứ Cấm Khê thực sự đã làm thất bại
âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Mã Viện. Tên giặc
già này kết thúc trận Lãng Bạc vào mùa xuân năm 42
nhưng mãi tới mùa xuân (hoặc mùa hạ) năm 43 mới thắng
được Hai Bà ở Cấm Khê. Trận Cấm Khê ấy - theo Hậu
Hán thư - nếu chỉ kể mùa khô 42 - 43 thì chiến sự
kéo dài trên sáu tháng. Theo Giao Châu ngoại vực ký
và Nam Việt chí thì chiến sự còn dai dẳng kéo tới
hai hoặc ba năm sau, tức là sau khi Hai Bà tử trận, nghĩa
quân vẫn chiến đấu tiếp tục ở những chốt hiểm
yếu, ở những triền núi, bìa rừng hiểm trở... Với
khoảng thời gian ấy cùng với số người bị giết, bị
bắt - của cả hai bên - có tới vài ba vạn, trận Cấm
Khê quả là một trận chiến lớn thời đó. (Chỉ nói
riêng cánh quân do Lưu Long chỉ huy cũng đã giết hơn một
nghìn nghĩa quân và bắt sống hơn hai vạn người). Hẳn
là Hai Bà Trưng đã huy động vào trận bảo vệ căn cứ
Cấm Khê này hầu hết các tướng lĩnh danh tiếng và đại
bộ phận nghĩa quân. Tất nhiên điều này không thấy
chép trong chính sử nhưng hoàn toàn phù hợp với sự ghi
chép của các thần tích, ngọc phả. Theo như thần tích
những làng thờ các tướng lĩnh của Hai Bà thì đa số
những vị này đã chiến đấu anh dũng và hy sinh tại Cấm
Khê. Có thể nêu vài ví dụ:
Như ở huyện Đan
Phương có sáu làng thờ mười vị (Vĩnh Gia, Vĩnh Hoa,
Hải, Trực, Út, Ả Tú, Ả Huyền, Ả Cát, Hải Diệu, Lôi
Chấn) thì có tới bốn vị hy sinh ở Cấm Khê (Ả Tú, Ả
Huyền, Ả Cát, Hải Diệu). Hay ở huyện Hoài Đức có
năm làng thờ hai vị (Ả Lã Nàng Đê và Nguyễn An) thì
cả hai đều tử trận tại Cấm Khê... Nói chung, theo ghi
chép của các ngọc phả, thần tích thì huyện nào cũng
có những tướng lĩnh chiến đấu ở Cấm Khê rồi hoặc
chết tại đó, hoặc mở đường máu thoát ra ngoài vòng
vây của giặc. Như ở Từ Liêm có Quách Lãng (làng Thượng
Cát), ở Gia Lâm có Thành Công (làng Cổ Dinh), ở Đông
Anh có vợ chồng Đào Kỳ, Phương Dung (làng Cói), ở Phúc
Thọ có vợ Đỗ Năng Tế là Tạ Cẩn Nương (làng Khánh
Hợp), ở Yên Lãng có Chàng Hối (làng Thịnh Kỷ), ở Sóc
Sơn có Đổng Nghị (làng Ninh Bắc) v.v... Thần tích ở
các làng thuộc những tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên
cũng sẵn các “mô-típ” đó.
Nhưng tổn thất lớn
nhất đối với nghĩa quân ở mặt trận Cấm Khê là sự
hy sinh của Hai Bà. Tất cả các tài liệu lịch sử của
Trung Quốc cũng như của Việt Nam đã dẫn ở trên đều
thống nhất là Hai Bà tử trận tại Cấm Khê1.
Các sách sưu tầm truyền thuyết cũng đều chép
như vậy.
Việt điện u linh: “Hai Bà lui giữ
Cấm Khê... thua trận và cùng mất”.
Lĩnh Nam
chích quái: “Bà (Trưng Vương) lui giữ Cấm Kê. Viện
đem quân đến đánh... Bà thế cô, bị hại trong trận”.
Ngay ở làng Hát Môn, nơi có đền chính thức thờ
Hai Bà cũng có hèm kiêng là tất cả các đồ thờ phụng
đều sơn màu đen, tuyệt đối không có màu đỏ là màu
máu. Khi cúng tế cũng không ai được mang trang phục màu
đỏ. Như vậy cũng là phản ánh tín ngưỡng Hai Bà đổ
máu hy sinh ở chiến trường.
Song cũng chính ở đền
Hát Môn này, bản ngọc phả lại kể là Hai Bà tự trầm
mình trong dòng Hát Giang. Và từ bao đời rồi lời truyền
miệng phổ biến trong dân gian cũng kể như vậy. Năm
1840, khi soạn văn bia Trưng Vương sụ tích bi ký cho
đền Đồng Nhân (xem Phụ lục), tiến sĩ Vũ Tông
Phan hẳn cũng theo lời truyền miệng mà kể rằng: “Đến
lúc việc chẳng chiều lòng, (Hai Bà) cùng nhau xắn tay
nhảy xuống sông Hát”.
Thật ra, đây chỉ là nhân
dân không muốn người anh hùng của mình lại có một
chung cục thảm khốc (bị chết vì gươm đao) nên đã
tưởng tượng ra một cách chết nhẹ nhàng hơn, thi thể
được bảo toàn. Đó cũng là một nét đặc biệt trong
lý tưởng thẩm mỹ của người bình dân Việt Nam thời
xưa.
PHỤ CHÚ - Về chung cục của Hai Bà, ở các
thần tích, ngọc phả có khá nhiều dị bản:
1-
Ngọc phả làng Hạ Lôi (Yên Lãng): Hai Bà hóa ở một
ngọn núi huyện Thạch Thành thuộc phủ Kinh Môn.
2-
Thần tích làng Thịnh Kỷ (xã Tiền Châu, huyện Mê Linh)
nơi thờ Đông Hối đại vương: Hai Bà hóa ở huyện
Thạch Thành, thuộc phủ Thiệu Thiên, Ái Châu.
3-
Thần tích làng Cư An (xã Tam Đồng, huyện Mê Linh) nơi
thờ riêng Trưng Nhị: Bà Trưng Trắc tự ải ở một ngọn
núi huyện Thạch Thành, Ái Châu. Còn bà Trưng Nhị thì
chết ở An Cư.
4- Thần tích làng Nại Tử Xã (xã
Chu Phan, huyện Mê Linh) thờ riêng Thi Sách: Hai Bà đều
chết trận ở Cấm Khê.
5- Thần tích làng Tuấn
Xuyên (xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì) thờ Phùng Thị Chính:
Hai Bà hóa tại núi Hy Sơn.
6- Thần tích làng Thanh
Lãng (xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) thờ
Triệu Khoan Hòa: Bà Trưng Nhị bị tử thương ở bên sông
Nguyệt Đức (tức sông Cà Lồ, theo cách gọi ở địa
phương này).
7- Đặc biệt Thiên Nam ngữ lục
kể về chung cục của Hai Bà khác hẳn mọi tài liệu
quen thuộc: Được tin Mã Viện kéo sang, Hai Bà điểm binh
lên Man thành đón đánh. Sau một vài trận, liệu thế
không thắng, Trưng Vương đề nghị giảng hòa. Mã Viện
y theo, lấy Man thành tức là Tư Minh làm mốc chia hai nước.
Nhưng khi vừa kéo binh trở về thì cả Hai Bà “Chị em
nhuốm bệnh yên hà. Nửa đêm bỏ đất lối ra lên
giời”.
_____________________________________
1.
Hậu Hán thư
q.24: Tháng Giêng năm Kiến Vũ 19, chém Trưng Trắc, Trưng
Nhị...
Cũng sách này, q.86: Tháng Tư năm
Kiến Vũ 19, Viện phá Giao Chỉ, chém Trưng Trắc, Trưng
Nhị. Q.22: Lưu Long đuổi đến Cấm Khê, bắt được
Trưng Nhị, chém hơn nghìn đầu.
Nam
Việt chí: Trưng
Trắc chạy vào Kim Khê huyệt, hai năm mới bắt được.
Toàn
thư: Trưng Vương
và em gái... thế cô, đều thua chết.
Cương
mục: Trưng Vương
và em gái... thế cô, đều bị thất trận chết.
NHỮNG TRẬN ĐÁNH KHÁC
TRÊN ĐẤT GIAO CHỈ
Hai Bà hy sinh rồi (tháng Giêng
hoặc tháng Tư năm Kiến Vũ 19 tức tháng 2 hoặc tháng 5
năm 43) nhưng tại Cấm Khê các tướng lĩnh của Hai Bà
vẫn cầm cự kháng chiến tới hai hoặc ba năm sau. Một
số không ít tướng lĩnh và nghĩa quân khác đã chạy vào
Cửu Chân - như Đô Dương, Chu Bá - tiếp tục chiến đấu.
Song như thế không có nghĩa là Mã Viện đã kiểm soát
được toàn bộ quận Giao Chỉ. Ý thức tự chủ của
người Giao Chỉ không thế lực nào tiêu diệt nổi. Chắc
chắn là nhiều nơi không chịu phục tùng quân xâm lược.
Thủy kinh chú (q.37) có chép: “Tháng Mười năm Kiến
Vũ 19 (tháng 11 năm 43) Mã Viện tiến vào quận Cửu
Chân...”. Như vậy là suốt mùa hè và mùa thu năm 43 Mã
Viện ở lại Giao Chỉ. Hẳn là để lo đối phó với các
cánh nghĩa quân còn hoạt động ở nhiều địa phương
khác nhau.
Tuy chính sử không có chép các sự kiện
này nhưng qua các thần tích, ngọc phả thì quả là sau
trận Cấm Khê, các tướng lĩnh của Hai Bà đóng ở những
địa phương khác nhau vẫn tiếp tục kháng chiến chống
quân Hán. Cũng theo các thần tích có thể kể tới hàng
chục những cuộc chiến đấu như vậy. Thực tế này tất
gây cho giặc nhiều tổn thất.
Ở huyện Phúc Thọ
(Hà Tây) có Đỗ Năng Tế, Tạ Cẩn Nương và Hoàng Đạo.
Đỗ Năng Tế ngụ tại trang Khánh Hợp (nay thuộc
xã Tam Hiệp). Vợ là Tạ Cẩn Nương. Bà Man Thiện từng
đã đón vợ chồng ông về dạy cho hai cô con gái là Hai
Bà Trưng. Khi Hai Bà khởi nghĩa, vợ chồng Năng Tế đứng
đầu hàng tướng lĩnh. Tới lúc Mã Viện xâm lược, bà
Cẩn Nương chiến đấu bên cạnh Hai Bà, sau tuẫn tiết ở
Hát Giang. Còn ông Năng Tế thì về Khánh Hợp cùng bà con
làng xóm tiếp tục chống giặc Hán cho đến hơi thở
cuối cùng. Ngày ông hy sinh là 17 tháng Bảy1.
Hoàng Đạo ngụ tại làng Hạ Hiệp (nay thuộc xã
Liên Hiệp), theo Hai Bà từ ngày tụ nghĩa Hát Môn. Khi Mã
Viện xâm lăng, Hoàng Đạo lên chặn giặc ở Long Biên,
sau trở về xây dựng căn cứ ở Quán Dâu gần bờ sông
Đáy. Được gần một năm, Mã Viện đem quân tới đánh.
Ông chiến đấu với giặc đến cùng và hy sinh ngay tại
Quán Dâu.
Ở huyện Yên Lãng (nay gọi là huyện Mê
Linh, Vĩnh Phúc) có chàng Hối và Lũ Lũy.
Chàng Hối
từng dấy binh đánh giặc Hán trước khi Hai Bà khởi
nghĩa (đã nói ở Chương ba). Sau này khi Mã Viện
đánh thắng ở Cấm Khê, Hối vào châu Ái, rồi lộn trở
về căn cứ cũ ở làng Thịnh Kỷ (nay thuộc xã Tiền
Châu) tổ chức bà con chống giặc. Nhưng giặc Hán đã
đem một lực lượng lớn tới đánh. Hối cuối cùng tự
tử ở sông Nguyệt Đức (Cà Lồ) vào ngày 10 tháng Chín.
Lũ Lũy ở làng Văn Lôi (nay thuộc xã Tam Đồng),
là cháu ngoại một lạc tướng. Chàng theo Hai Bà từ ở
Hát Môn. Sau khi đuổi Tô Định, chàng về đóng đồn ở
Văn Lôi. Khi Mã Viện tới vây, Lũ Lũy phá được trùng
vây nhưng chạy tới đầu làng thì giặc đuổi kịp.
Không để sa vào tay giặc, chàng lấy kiếm quyên sinh.
Ở
huyện Đông Anh có Khổng Chúng, người trại Hà Hào (sau
đổi là Hà Vĩ, nay thuộc xã Liên Hà). Khổng Chúng từng
theo hai người cùng làng là Thủy Hải, Đăng Giang đi đánh
giặc Hán. Hai vị này hy sinh ở vùng biển. Khổng Chúng
về tổ chức chiến đấu tại Hà Hào. Trong một trận
đánh, ông bị ngã ngựa và hóa. Đó là ngày 12 tháng
Chín.
Ở huyện Gia Lâm có ba tướng họ Đào ở
Ngọc Động (nay thuộc xã Đa Tốn). Đó là Đô Thống,
Chiêu Hiển và Tam Lang, theo Hai Bà từ Hát Môn. Sau này,
khi Hai Bà đã hy sinh, ba chàng họ Đào về trang Đa Tốn
lập căn cứ kháng chiến. Họ đều hóa vào ngày 12 tháng
Bảy.
Ở huyện Thanh Trì có nàng Tía và Tam Trinh.
Nàng Tía ở trang Vĩnh Hưng (sau đổi là Vĩnh Ninh,
thuộc xã Vĩnh Quỳnh), cô gái anh hùng này được gặp
Trưng Vương ngay tại làng quê, được Vua Bà thu nhận. Cô
dự nhiều trận đánh lại quân Mã Viện. Sau khi Hai Bà
tuẫn tiết, nàng Tía vẫn tiếp tục chiến đấu. Trong
một trận đánh ở bến Thần Phù, cô hy sinh. Đó là ngày
13 tháng Mười Một.
Triệu Tam Trinh ở thôn Mai Động
(nay thuộc xã Hoàng Văn Thụ). Khi Mã Viện xâm lăng, ông
đang trấn giữ Sơn Nam. Quân Hán uy hiếp mạnh, ông rút
về làng Mai Động lập căn cứ kháng chiến. Sau đó ông
mất ở xứ Khu Đống ngày 10 tháng Hai.
Ở quận
Đống Đa cũng có thôn Thổ Quan tương truyền là nơi ba
anh em họ Đào lập đồn chống lại Mã Viện sau khi Hai
Bà thất trận. Về sau, cả ba anh em hy sinh cùng ngày mùng
2 tháng Chạp.
_____________________________________
1.
Về sự tích nhân vật này, cũng như các nhân vật kế
tiếp theo sẽ được nêu đầy đủ hơn ở Chương
năm.
Nếu nói rộng ra vùng lân cận
Hà Nội thì cũng sẽ gặp những nhân vật tương tự:
Ở
thôn An Sơn, xã Đông Sơn, huyện Chương Mỹ (Hà Tây) có
ba anh em họ Đặng tên là Cả, Hai, Ba đều là tướng của
Hai Bà. Sau trận Cấm Khê, ba người trở về An Sơn lập
đồn ở gò Đồng Lang tiếp tục kháng chiến. Trong một
trận phá vây, ba chàng hy sinh ngay bên dòng Tích Giang. Ngày
hóa là mùng 10 tháng Mười Một.
Hoặc các nhân vật
Vương Cai ở làng Thượng Thanh (xã Thanh Cao, huyện Thanh
Oai); Chiêu Trung và Đỗ Lý ở làng Yên Trường (xã Trường
Thịnh, huyện Ứng Hòa), Nguyễn Nga ở làng Tuy Lai (xã Tuy
Lai, huyện Mỹ Đức) v.v... đều là những nhân vật tiếp
tục tổ chức kháng chiến ở vùng quê mình sau khi Hai Bà
đã hy sinh.1
Tỉnh Vĩnh Phúc cũng
không hiếm các nhân vật như thế. Thôn Nghênh Tiên ở
huyện Yên Lạc có bà Vĩnh Hoa vẫn tiếp tục chiến đấu
tại trang Tiên Nha (tên cũ của vùng Nghênh Tiên, Xuân Đài,
Tiên Đài) và tử trận ngày 14 tháng Chín. Hoặc ở Hướng
Lai (?) xã Tân Tiến, huyện Vĩnh Tường có hai anh em là Cả
Lợi và Hai Lợi cũng lập căn cứ chống Mã Viện. Ngày
họ hy sinh là mùng 8 tháng Mười.2 Ở các
tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên cũng không thiếu các
trường hợp tương tự (xem Chương năm).
Tất
nhiên với các nhân vật trên thì ngay cả họ tên của họ
cũng còn là vấn đề phải tìm hiểu nghiên cứu chứ
chưa nói gì đến hành trạng. Nhưng có điều đáng lưu ý
là trong những năm gần đây, nhát cuốc của các nhà khảo
cổ đã lần lượt nói lên rằng vào thời kỳ hoạt động
của các nhân vật truyền thuyết đó thì những địa
điểm được coi là quê hương hoặc địa bàn chiến đấu
của họ đã thực sự là những điểm tụ cư. Thực tế
là ở những địa điểm ấy, ngành khảo cổ đã phát
hiện những di vật có tuổi trước Công nguyên, muộn lắm
cũng là vào đầu Công nguyên.
Huyện Phúc Thọ:
ở Tam Hiệp quê Đỗ Năng Tế, Tạ Cẩn Nương) đã phát
hiện những di vật thuộc văn hóa Đông Sơn3.
Huyện
Yên Lãng (Mê Linh): ở Tháp Miếu là làng láng giềng
của Thịnh Kỷ (đồn binh của Chàng Hối) có di chỉ
thuộc văn hóa Phùng Nguyên. Ở Thành Dền, tiếp giáp làng
Văn Lôi (quê Lũ Lũy) cũng là di chỉ văn hóa Phùng Nguyên.
Huyện Đông Anh: ở Việt Hùng (Xuân Kiều) xã
láng giềng của Hà Vĩ (quê Khổng Chúng) có di chỉ văn
hóa Phùng Nguyên. Một xã khác ở cạnh Hà Dĩ là Dục Tú
(Đình Tràng) có đủ di chỉ của ba nền văn hóa Đồng
Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.
Huyện Thanh Trì:
Chính ở xã Vĩnh Quỳnh (quê Nàng Tía) có di chỉ Gò Chùa
Thông, thuộc văn hóa Gò Mun. Ở làng Mai Động, căn cứ
của Tam Trinh cũng có di chỉ khảo cổ đồ đá mới.
Huyện Ứng Hòa: Hai xã gần gũi với xã
Trường Thịnh (quê Chiêu Trung, Đỗ Lý) là xã Phương Tú
và Quảng Phú Cầu đều có những di vật khảo cổ thuộc
văn hóa Đông Sơn.
Huyện Mỹ Đức: Làng Tuy
Lai (xã Tuy Lai) quê của Nguyễn Nga ở cạnh thôn Hoành,
nơi trước đây đã đào được hai trống đồng Đông
Sơn đặt tên là trống Miếu Môn I và II.
Huyện
Chương Mỹ: Chính ở xã Đông Sơn, quê của ba chàng
họ Đặng cũng có di chỉ văn hóa Đông Sơn.
Còn
tỉnh Vĩnh Phúc, ở hai huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường - quê
của Vĩnh Hoa và hai chàng Lợi - thì có tới tám di chỉ
văn hóa Phùng Nguyên, một di chỉ văn hóa Đồng Đậu,
một di chỉ Gò Mun. Chính tên gọi của văn hóa Đồng Đậu
là mượn của di chỉ Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân,
huyên Yên Lạc, là xã láng giềng của xã Nguyệt Đức,
có thôn Nghênh Tiên quê của Vĩnh Hoa. Điều đặc biệt
là ở thôn Xuân Đài (thôn cùng với Nghênh Tiên và Đinh
Xá họp thành xã Nguyệt Đức) năm 1975 có phát hiện một
ngôi mộ có niên đại đầu Công nguyên. Xem xét các đồ
tùy táng thì đây là thi hài của một võ tướng4.
Thi hài này, đặc biệt hơn nữa, lại chỉ có nửa người
phía trên. Phải chăng đây là một tướng lĩnh bị chết
trận trong cuộc chiến tranh Việt - Hán ngày ấy?
Như
vậy là bằng vào nguồn tư liệu khảo cổ học, có thể
nói một cách khẳng định rằng: vào thời kỳ Hai Bà
Trưng, những làng xóm nêu ở trên đều là những điểm
cư dân, những nơi có người ở đông đúc. Và nếu những
người dân này có theo sự chỉ huy của một thủ lĩnh
nào đó đứng lên chống quân Mã Viện thì cũng là điều
tất nhiên. Vì họ đều là những người Giao Chỉ từng
bị quân Hán chà đạp, vùi dập trong trên một thế kỷ!
Có điều là những phát hiện khảo cổ học giúp
chuyển thông tin huyền thoại (thần tích) thành thông tin
khoa học (sử liệu) đến mức nào thì còn cần phải
tiếp tục nghiên cứu. Dù sao đó cũng là những dấu vết
vật chất có dồi dào khả năng liên kết huyền thoại
thành một sự thật lịch sử. Và rõ ràng là Mã Viện đã
bị cản lại ở Giao Chỉ cho tới mùa thu năm 43 mới có
thể đánh vào Cửu Chân. Nhân dân Giao Chỉ đã kìm lại
bước tiến của Mã Viện, cho hắn biết thế nào là nghị
lực và khí phách của người Việt phương nam.
PHỤ
CHÚ - Một số nhà nghiên cứu có hình dung ra một số
trận đánh khác. Như hai ông Nguyễn Văn Dị - Thanh Ba
(trong bài đã dẫn) cho rằng có cuộc chiến ở vùng “quốc
đô Mê Linh thuộc huyện Yên Lãng, Vĩnh Phú” và là
“những trận ác chiến”.
Hoặc ông Vũ Kim Biên
trong bài “Về vấn đề Cấm Khê” in ở tập “Những
vấn đề lịch sử Vĩnh Phú” - Ty Văn hóa Vĩnh Phú - năm
1975 - có quan niệm rằng:
- Bà Trưng đóng ở Hạ
Lôi - Yên Lãng.
- Cấm Khê là làng Cẩm Khê, huyện
Yên Lạc, Vĩnh Phú
- Mã Viện sau khi qua ải Lạng
Sơn thì tách một toán quân đi vòng qua sườn bắc núi
Tam Đảo sang Tuyên Quang rồi theo tả ngạn sông Phó Đáy
tiến về xuôi, quặt lại đánh Hạ Lôi.
Từ quan
niệm đó, tác giả cho rằng các trận đánh ngày ấy xảy
ra dọc theo lối hành quân trên.
Hai giả thiết trên
sẽ có ý nghĩa trong trường hợp quốc đô ngày ấy đích
thị là Hạ Lôi ở Yên
Lãng.
_____________________________________
1.
Về sự tích các nhân vật này xem thêm các thần tích
hoặc sách Một số
truyền thuyết về các tướng anh Hai Bà Trưng
của Ty Văn hóa Hà Sơn Bình – 1979.
2. Về sự tích các
nhân vật này xem thêm các thần tích hoặc sách Truyền
thuyết Trưng Vương
của Chi hội Văn nghệ Vĩnh Phú - năm 1975.
3. Thời đại
kim khí ở lưu vực sông Hồng - sông Mã được tạm thời
chia ra bốn giai đoạn (hoặc văn hóa) kế tiếp nhau:
- Giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên cách đây khoảng
bốn nghìn năm.
- Giai đoạn văn hóa Đồng
Đậu cách đây khoảng trên ba nghìn năm.
-
Giai đoạn văn hóa Gò Mun cách đây khoảng ba nghìn năm.
- Giai đoạn văn hóa Đông Sơn cách đây
khoảng hai nghìn rưởi năm.
4. Ngôi
mộ lạ Xuân Đài, Yên Lạc, Vĩnh Phú
- Nguyễn Lộc - “Những phát hiện khảo cổ học năm
1975” - tr.272.
MÃ VIỆN KẾT THÚC
CUỘC XÂM LƯỢC
Thủy kinh chú (q.37)
chép: “Tháng Mười năm Kiến Vũ 19 (43) Mã Viện vào quận
Cửu Chân ở phía nam. Đến huyện Vô Công, tướng giặc
đầu hàng, lại tiến đến huyện Dư Phát. Cừ súy là
Chu Bá bỏ quận vào rừng sâu là nơi tê tượng tụ tập,
bò tưng bày hàng mấy nghìn con. Thỉnh thoảng thấy hàng
mấy chục đến trăm con voi. Mã Viện lại chia binh đến
huyện Vô Biên là Cửu Chân đình ở đời Vương Mãng.
Lại đến huyện Cư Phong. Tướng giặc không hàng đều
bị chém tới trăm người. Cửu Chân bèn yên”.
Lại
theo sách Sơ học ký dẫn tài liệu trong Nam Việt
chí thì Mã Viện đào một đường sông thông qua dải
núi Cửu Chân và xếp đá làm đê ngăn sóng biển để đi
từ Giao Chỉ vào Cửu Chân. Chỗ núi đào đó gọi là Tạc
Sơn, chỗ cửa biển ngăn sông đó gọi là Tạc Khẩu.1
Ngày nay, chưa rõ Tạc Sơn là núi nào nhưng Tạc
Khẩu thì khá nhiều nhà nghiên cứu cho là cửa Thần Phù.
Căn cứ vào những chỉ dẫn thư tịch trên, ông Đào Duy
Anh đã phác họa ra con đường tiến quân của Mã Viện
như sau:
Theo sông Đáy, Mã Viện đến địa đầu
Cửu Chân là huyện Vô Công (nay là vùng Gia Viễn, Nho Quan
của tỉnh Ninh Bình). Từ đây, vẫn theo sông Đáy và sông
Vân Sàng, Mã Viện đến cửa Thần Phù nhưng hắn không
dám vượt cửa này ra biển. Hắn cho đào “ngả thông ở
giữa núi Cửu Chân”, “xếp đá làm đê ngăn sóng
biển”. Như vậy Mã Viện tất đi vào sông Tống, sang
cửa Lạch Trường. Đó là địa điểm có thành Dư Phát,
huyện lỵ huyện cùng tên (tương ứng với vùng Nga Sơn,
Hậu Lộc của tỉnh Thanh Hóa ngày nay).
Từ Dư
Phát, Mã Viện ngược sông Mã, đánh quận trị quận Cửu
Chân ở khu vực làng Dương Xá (tức làng Ràng). Sau đó
hắn chia quân tiến đánh huyện Vô Biên (vùng Vĩnh Lộc,
Thạch Thành) và huyện Cư Phong (vùng Quảng Xương, Đông
Sơn, Nông Cống, Thọ Xuân).2
Thực
ra vị trí các huyện ở quận Cửu Chân cũng như đường
hành quân của Mã Viện vào quận này là những vấn đề
cần thảo luận thêm (như ông Đinh Văn Nhật và ông
Nguyễn Đình Thực đã làm trên tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử các số 159, 170). Nhưng có một điều chắc
chắn là tại núi Trịnh ở huyện Thiệu Hóa, gần di chỉ
đồ đồng nổi tiếng Thiệu Dương, đã xảy ra một trận
đánh lớn. Vì mới đây, một khai quật khảo cổ đã cho
những tư liệu cụ thể. Ông Lê Văn Lan đã nhận định
về địa điểm này như sau: một trường hợp điển hình
đã xảy ra ở địa điểm núi Trịnh. Khảo cổ học đã
phát hiện được ở đây, trên một triền núi rộng,
những đầu tên đồng cắm vùi theo một hướng gần
thống nhất. Và rải rác khắp nơi là những di cốt và
tàn tích chiến tranh khác. Việc xác định niên đại của
nhũng đầu tên đồng là mạt kỳ thời đại đồng thau,
khoảng trước sau Công nguyên, đã đưa địa điểm khảo
cổ học này vào thời kỳ Hai Bà Trưng. Và việc đặt
núi Trịnh vào vị trí trung chuyển giữa miền đồng bằng
Thanh Hóa, gần khu vực quận trị Cửu Chân đầu thời
Bắc thuộc với miền núi rừng phía tây, đối chiếu với
những thư tịch về cuộc hành quân của Mã Viện truy
kích “dư đảng” Hai Bà Trưng do các tướng Đô Dương
và Chu Bá chỉ huy ở miền này, cuối cùng đã cho phép
xác định một di tích chiến trường lớn ở thời Hai Bà
Trưng tại địa điểm khảo cổ học được phát
hiện”.3
Có thể đó là nơi đụng
độ giữa Mã Viện và Chu Bá. Vì theo tinh thần câu văn
Thủy kinh chú đã dẫn ở trên thì Chu Bá là cừ
súy phụ trách quận Cửu Chân, ông đóng tại quận trị
khi đó là Tư Phố. Tư Phố theo ông Đào Duy Anh là làng
Ràng ngày nay, cách núi Trịnh không quá 5km. Vậy có thể
núi Trịnh là nơi giao chiến giữa Mã Viện và Chu Bá. Do
thế yếu nên Chu Bá phải rút chạy về ngàn rừng phía
tây.
Mã Viện sau đó còn tiến đánh huyện Vô Biên
rồi huyện Cư Phong. Tại đây Đô Dương phải ra hàng,
như Toàn thư và Cương mục đã ghi. Vì như
vậy là Mã Viện đã hoàn thành cuộc viễn chinh xâm lược
kéo dài tới hai năm.
Đành rằng các chính sử
không ghi chép gì về cuộc đấu tranh của nhân dân Cửu
Chân chống giặc Hán nhưng Mã Viện truyện trong Hậu
Hán thư có ghi về số quân và dân Cửu Chân bị giặc
Hán chém giết: “Viện đem lâu thuyền lớn bé hơn hai
nghìn chiếc, binh lính hơn hai vạn, tiến đánh dư đảng
của Trưng Trắc ở Cửu Chân là bọn Đô Dương từ Vô
Công đến Cư Phong, chém giết bắt bớ hơn năm nghìn
người”.
Ở đoạn Thủy kinh chú dẫn bên
trên cũng có một chi tiết liên quan tới vấn đề này:
“Tướng giặc không hàng đều bị chém tới hàng trăm
người”. Hẳn là nhân dân ở đây chống cự cũng rất
mãnh liệt, có thế Mã Viện mới đàn áp dã man, đem chém
hàng trăm tướng lĩnh. Và cùng với hàng trăm chỉ huy ấy
thì số nghĩa quân bị tàn sát cũng phải tới hàng dăm
bảy nghìn.
Trong số này theo sự ghi chép của thần
tích có cả nhũng người từ Giao Chỉ rút vào đây phối
hợp chiến đấu. Như Chàng Hối ở Thịnh Kỷ (huyện Mê
Linh) từng chiến đấu bên cạnh Đô Dương ở Cửu Chân.
Hay tướng Thành Công ở Cổ Linh (huyện Gia Lâm) sau thất
trận Cấm Khê đã rút vào Cửu Chân và hy sinh ở trang
Tâm Quy, huyện Tống Sơn. Điều đáng chú ý là ở Thanh
Hóa đúng là có trang này thật, nay thuộc huyện Hà Trung
(nguyên là đất huyện Tống Sơn) cách ga Đò Lèn độ 6km
về phía tây bắc.
Nhưng cũng là thần tích mà lại
phù hợp rất khít khao với lịch sử thì là trường hợp
Nàng Tía. Nàng Tía ở làng Vĩnh Ninh (huyện Thanh Trì, Hà
Nội). Sau khi Hai Bà tuẫn tiết, cô đã rút vào Cửu Chân
và hy sinh trong một trận ác chiến ở Thần Phù ngày 13
tháng Mười Một. Theo Thủy kinh chú thì thời gian
Mã Viện từ Giao Chỉ tiến quân vào Cửu Chân là tháng
Mười (năm Kiến Vũ 19). Như thế thì trận ác chiến ở
Thần Phù xảy ra sau đó một tháng là điều hợp lý!
_____________________________________
1.
H. Maxpêrô dẫn trong L’expédition de Ma Yuan - BEFEO XVIII.
2.
Xem “Đất nước Việt Nam qua các đời” tr.41-43.
3.
“Tài liệu Khảo cổ học và nghiên cứu thời kỳ Hai Bà
Trưng” - Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử số
148.
Theo những đoạn sách đã dẫn ở trên thì Mã Viện
dừng lại ở Cư Phong. Đây là chặng cuối cùng của hành
trình tiến quân của Mã Viện. Nhưng cũng còn một số
sách Trung Quốc khác như Quảng Châu ký, Lâm Ấp ký,
Ngô lục... lại ghi rằng Mã Viện từng đến vùng
Tượng Lâm, Tượng Phố ở gần biên giới nước Tây Đồ
dựng cột đồng để ghi chiến công, đồng thời làm
cương giới cho nhà Hán. Nhà du lịch Du Ích Ký (do Thủy
kinh chú dẫn) có nói cụ thể nơi dựng cột đồng là
đối diện với sông Thọ Linh tức sông Gianh ngày nay ở
Quảng Bình.
Song nhiều nhà nghiên cứu (như
H.Maxpêrô, Đào Duy Anh) đã kết luận đó là chuyện hoang
đường, do đời sau bịa đặt ra.1
Vùng
huyện Thạch Hà tỉnh Nghệ An có một truyền thuyết liên
quan tới cuộc kháng chiến của nghĩa quân Hai Bà Trưng.
Truyền thuyết đó kể rằng ở Thạch Hà có khe Đá Mài,
nơi ấy có những hòn đá mài to, với những vết mài lõm
hẳn đi. Tương truyền đấy là nơi lính của Hai Bà đã
mài kiếm trong thời gian chống Mã Viện tại vùng này.2
Truyền thuyết ấy thực hư ra sao, chưa thể xác
định. Ghi lại đây để thêm tài liệu tham khảo.
Điều
chắc chắn là Mã Viện chỉ tiến đến Cư Phong. Nếu có
quân Hán tiến vào vùng Nghệ Tĩnh (khi đó là huyện Hàm
Hoan) và cả quận Nhật Nam nữa thì đó là những cánh
quân do bọn phó tướng của Mã Viện chỉ huy. Vì nếu
đích thân Mã Viện cầm đầu cuộc hành quân này thì Mã
Viện truyện tất đã ghi chép.
Đàn áp được cuộc kháng
chiến, Mã Viện còn ở lại Âu Lạc tới gần một năm.
Hắn dùng thời gian này để tổ chức lại việc cai trị.
Hậu Hán thư, Mã Viện truyện có chép: “Viện qua
chỗ nào là đặt quận huyện, xây thành quách, đào mương
dẫn nước tưới ruộng làm lợi cho dân. Lại tâu hơn
mười điều luật Việt khác luật Hán, thi hành pháp chế
cũ với người Việt để ràng buộc họ”. Câu sách đó
cho ta hiểu rằng Mã Viện xóa bỏ chế độ lưu dùng các
lạc tướng mà áp dụng hoàn toàn chế độ quận huyện
y như nguyên mẫu Trung Quốc để cai trị trực tiếp, tức
là tại các cấp hành chính huyện cũng như quận, các
quan lại đều do triều đình bổ nhiệm và thuyên chuyển.
Do đó sự kiểm soát của chính quyền đô hộ trở nên
chặt chẽ hơn, vươn tới tận từng làng, từng xóm. Và
như vậy thì rõ ràng là các quý tộc bản địa (lạc
hầu, lạc tướng) bị gạt bỏ ra khỏi bộ máy chính
quyền. Trong thực tế thì tầng lớp này đã bị Mã Viện
đánh tan tác trong quá trình tiến hành chiến tranh xâm
lược. Trong trận Lãng Bạc, Mã Viện “chém mấy nghìn
đầu, bắt hàng hơn vạn”. Đến trận Cấm Khê, Lưu
Long cũng “chém hơn nghìn đầu bắt hàng hai vạn”.
Trong số này không ít là các thủ lĩnh các địa phương
Giao Chỉ tức các lạc tướng, lạc hầu cũ. Rồi đến
Cửu Chân, Mã Viện cũng đã chém giết bắt bớ hơn năm
nghìn người” và “tướng giặc không hàng, bị chém
tới hàng trăm người”.
Những người không bị
giết thì cũng bị bật khỏi đất bản bộ của mình,
hoặc buộc phải dời tới những vùng đất hoang hóa,
hoặc bị đưa hẳn sang Trung Quốc như trường hợp ghi ở
Nam Man truyện trong Hậu Hán thư: “Dời cừ
súy hơn ba trăm người sang Linh Lăng” (nay là huyện Linh
Lăng thuộc tỉnh Hồ Nam).
Ngoài việc củng cố lại
chế độ quận huyện, Mã Viện còn “thi hành pháp chế
cũ” tức là phế bỏ pháp luật truyền thống của người
Việt, đem luật nhà Hán có từ đời Hán Cao Tổ, Hán Văn
Đế mà áp dụng vào xã hội Âu Lạc để gò người Việt
vào khuôn khổ dân nô lệ.
Song song với việc “tháo
dỡ” chế độ dung dưỡng lạc tướng, Mã Viện phân
chia lại các khu vực hành chính. Trước đây mỗi huyện
là một bộ lạc thuộc quyền một lạc tướng cha truyền
con nối. Cho nên có huyện lớn, huyện nhỏ. Bây giờ
không còn lạc tướng nữa, nên huyện nào rộng thì Mã
Viện chia nhỏ ra và nếu là một huyện nhỏ thì hắn đem
sáp nhập vào huyện lân cận. Đó là trường hợp huyện
Tây Vu, huyện Dư Phát, huyện Đô Lung... Hậu Hán thư
ghi: “Huyện Tây Vu có 32.000 nhà mà biên giới thì ở
cách xa huyện trị đến hơn nghìn dặm nên (Mã Viện) xin
chia ra làm hai là huyện Phong Khê và huyện Vọng Hải”.
Còn hai huyện Dư Phát và Đô Lung thì không có tư liệu
trực tiếp song ở Tiền Hán thư thì chép quận Cửu
Chân có bảy huyện: Tư Phố, Cư Phong, Dư Phát, Vô Biên,
Đô Lung, Vô Thiết và Hàm Hoan. Đến Hậu Hán thư
thì chỉ còn ghi có năm huyện, mất Đô Lung và Dư
Phát.
_______________________________________
1.
Xem thêm mục “Cột đồng Mã Viện” trong Cổ
đại Việt Nam -
Tập IV - Đào Duy Anh.
2. Bùi Thiết – Tình
hình tư liệu và nghiên cứu cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
thời gian gần đây -
Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội - Tháng 3-1981.
Như vậy là Mã Viện đã phá vỡ các tổ chức bộ
lạc cũ, đưa tổ chức hành chính ở Âu Lạc theo sát
cách tổ chức quận huyện của nhà Hán. “Đây cũng là
đòn đáng kể đánh vào tàn dư công xã nguyên thủy”1.
Mặt
khác, để tăng cường bảo vệ các quận trị và nhất
là huyện trị, Mã Viện đã cho xây thêm thành quách, như
xây thành mới cho huyện Vọng Hải, xây Kiển thành (thành
hình cái kén) ở huyện Phong Khê...
Về mặt kinh
tế, Mã Viện cho “đào mương dẫn nước tưới ruộng
làm lợi cho dân” thì có thể hiểu dân ở đây là
các địa chủ Hán tộc từng bao chiếm đất đai của
công xã Âu Lạc làm trang trại riêng hoặc cũng có thể
là một phần số quý tộc bản địa đã đầu hàng.
Ở
những vùng biên giới, Mã Viện để lại một số quân
lính cho chúng khai khẩn đất đai, lập làng ấp. Một dẫn
chứng cụ thể là trên ba trăm năm sau, Du Ích Ký đi du
lịch có thấy ở bờ nam sông Thọ Linh (tức sông Gianh ở
tỉnh Quảng Bình ngày nay) một làng trên 200 hộ đều là
họ Mã. Người Giao Châu (tức người Việt chúng ta) gọi
họ là dân Mã lưu. Hỏi ra thì đó là con cháu của
những gia đình binh lính mà Mã Viện đã lưu lại ở vùng
này. Cái tên Mã Lưu (do Mã Viện lưu lại) bắt nguồn từ
đó. (Dẫn trong Thủy kinh chú).
Sử Trung Quốc
lại còn ghi một “chiến tích” khác của Mã Viện mà
thực tế là một tội ác đối với nhân dân Âu Lạc. Đó
là việc tên giặc già này đã vơ vét trống đồng ở
các địa phương lại, cho đúc thành một con ngựa để
dâng Quang Vũ. (Hậu Hán thư q.24: Viện thích cưỡi
ngựa, giỏi phân biệt ngựa tốt, bắt được trống đồng
Lạc Việt ở Giao Chỉ, bèn đúc thành hình ngựa đem về
dâng vua... Ngựa cao 3 xích 5 thốn, vòng thân 4 xích 5 thốn,
được đặt tại dưới điện Tuyên Đức).
Rõ
ràng là một tội ác phá hoại di sản văn hóa của dân
tộc ta ngày ấy. Nhưng không chỉ có thế mà việc làm
này của Mã Viện còn nhằm đánh vào truyền thống dân
tộc ta. Vì trống đồng là tiêu biểu cho nền văn minh
Lạc Việt, là chứng tích của tâm hồn, tư duy và tài
năng kỳ diệu của người Việt. Hủy hoại trống đồng
ở Giao Chỉ là Mã Viện tính đến chuyện xóa đi dấu
vết cụ thể của một nền văn minh, biểu tượng sức
mạnh sáng tạo của cộng đồng người Việt đương
thời.
Tới mùa thu năm Kiến Vũ 20 (năm 44), Mã Viện thu
quân về nước. Số quân còn lại - như Hậu Hán thư có
ghi - chỉ bằng năm sáu phần mười lúc ra đi. Nghĩa là
ít nhất cũng có hàng vạn tên lính Hán gửi xác lại ở
các nẻo đường Giao Chỉ, Cửu Chân. Nhưng Mã Viện không
quên chở theo một xe châu báu ngọc vàng cướp được ở
Âu Lạc và nói phao lên rằng đó là xe chở quả ý dĩ
dùng làm thuốc trị lam chướng! Mã Viện đã làm giàu
trên xương máu của nhân dân Âu Lạc và cả trên xương
máu của quân lính Hán.
Về những nguyên nhân thất bại của cuộc kháng
chiến này, lâu nay nhiều sách báo đã đề cập tới. Do
tư liệu gốc quá ít ỏi nên tất cả đều là suy đoán.
Có những suy đoán dễ có thể chấp nhận như: “Quân
đội của Mã Viện hơn hẳn quân của Hai Bà về mặt tổ
chức, mặt vũ khí, mặt kỹ thuật chiến đấu và mặt
vận dụng chiến lược chiến thuật... Năm 43, nếu Hai Bà
Trưng không mang quân chủ lực đến Lãng Bạc mà lại
tránh cuộc tấn công của Mã Viện, chờ cho Viện phải
rải quân ra để chiếm giữ các nơi rồi mới mang quân
tỉa dần quân Hán, làm cho quân Hán ngày càng hao mòn mỏi
mệt, mất hết ý chí chiến đấu rồi cuối cùng mới
tổng phản công tiêu diệt quân Hán hay đuổi chúng ra
khỏi đất nước thì một tình hình khác có thể xảy
ra”2 hoặc: “Thời gian xây dựng đất
nước, củng cố lực lượng phòng giữ đất nước của
triều Trưng Vương còn quá ngắn. Quân đội nhà nước
Hùng Lạc (chỉ nhà nước của Trưng Vương - N.V.P) chính
là các đơn vị nghĩa quân chuyển lên, hợp thành, số
lượng tuy đông hàng mấy vạn, tinh thần đánh giặc cứu
nước rất cao nhưng mới tổ chức, trang bị, võ khí còn
thô sơ và thiếu thốn, thời gian huấn luyện quân sự
còn ít, chưa quen đánh lớn, đánh tập trung”3.
Cũng có những suy đoán cần trao đổi thêm:
“Nhà
nước tự chủ do Trưng Vương xây dựng với sự tập hợp
các bộ lạc, trong ấy về kinh tế thì quan hệ sản xuất
thị tộc còn nặng, về chính trị thì xu hướng phân tán
tự lập còn mạnh, chưa có cơ sở và tổ chức vững
chắc, cho nên trước sự phản công mạnh mẽ của quân
Mã Viện, là lực lượng quân sự của một nhà nước
hùng cường thì nó không thể duy trì nổi. Vì thế mà sự
thất bại cũng mau chóng và dễ dàng”4.
Hoặc:
“Nguyên nhân tất bại căn bản của cuộc khởi nghĩa có
hai điều. Thứ nhất là chế độ chiếm hữu nô lệ (chỉ
thời kỳ Hai Bà Trưng - N.V.P) và giai cấp chủ nô (đại
diện là Hai Bà Trưng - N.V.P) đã quá thời, không còn sứ
mạng lịch sử nữa. Thứ hai là chế độ chiếm hữu nô
lệ quá thời ở một nước nhỏ bé (Âu Lạc - N.V.P) phải
đương đầu với chế độ phong kiến đang lên ở một
nước rộng lớn và nằm sát nách”5.
Thực ra, để tìm nguyên nhân, cần có nhiều dữ
kiện xác thực Ở đây tư liệu quá ít ỏi. Quân số của
Hai Bà, việc đào luyện quân đội đó, sự chỉ đạo
chiến tranh, địa điểm đích thực của các chiến
trường... những vấn đề đó hoàn toàn không có một tư
liệu thư tịch! Rồi lại còn một loạt vấn đề khác:
chế độ xã hội đương thời, tình hình kinh tế và
chính trị thủa ấy, bản chất và tổ chức chính quyền
của Hai Bà v.v... Quả thật là còn thiếu nhiều điều
kiện để có thể kết luận một cách khoa học về cuộc
chiến tranh giữ nước do Hai Bà lãnh đạo.
Chỉ có một điều có thể
khẳng định dứt khoát được là:
Sau trên hai trăm
năm bị đô hộ, chính quyền độc lập dân tộc
chỉ mới được xây dựng trong có hai năm; vậy mà chính
quyền đó đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống một
đạo quân xâm lược - đông và mạnh hơn - được tới
trên hai năm nữa. Đạo quân thiện chiến kia lại do những
viên tướng khét tiếng gian ác và rất giàu kinh nghiệm
chỉ huy, vậy mà phải chật vật lắm mới giành được
thắng lợi. Và như đã nêu ở trên, có lúc bản thân
tướng tổng chỉ huy là Mã Viện thấy hoang mang (không
định ra nổi đường lối chiến lược) và ân hận đã
chót làm tướng sang đánh Giao Chỉ!
Cuộc kháng
chiến như thế rõ ràng là đã nói lên ý chí chống ngoại
xâm và khí phách ngoan cường của toàn thể nhân dân ta
ngày ấy.
_______________________________________
1.
Trương Hữu Quýnh - Sách đã dẫn - tr.95
2. Dương Minh.
Bài đã dẫn – Nghiên
cứu lịch sử số
36.
3. Nguyễn Văn Dị - Thanh Ba. Bài đã dẫn – Nghiên
cứu Lịch sử số
173.
4. Đào Duy Anh – Cổ
đại Việt Nam -
Tập IV - tr.68.
5. Duy Hinh – Tính
chất cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
- Trên Nghiên cứu
Lịch sử số 72.
Chương Năm
CÁC
TƯỚNG LĨNH
Về tướng lĩnh của Hai Bà,
chính sử của ta như Toàn thư, Cương mục chỉ ghi
tên có một người là Đô Dương. Sử Trung Quốc như Hậu
Hán thư cũng chỉ ghi có Đô Dương. Riêng Thủy kinh
chú chép thêm tên Chu Bá. Và cả sử ta lẫn sử Trung
Quốc đều không cho biết gì về lai lịch hai nhân vật
ấy.
Nhưng như chứng ta đều rõ, cuộc khởi nghĩa
cũng như cuộc kháng chiến của Hai Bà lãnh đạo có tính
chất toàn dân. Chắc chắn là anh hùng nghĩa sĩ ở nhiều
miền đất nước đã quy tụ dưới ngọn cờ đại nghĩa
của Hai Bà. Có điều là sử sách bác học xuất hiện
quá muộn nên không ghi chép được nhiều. Ngay sự nghiệp
cứu nước vĩ đại của Hai Bà mà Toàn thư cũng
chỉ ghi được có vài chục dòng sơ lược!
Song
như đã nêu trong Lời nói đầu, người bình dân có
cách ghi chép lịch sử riêng của mình. Đó là tục lệ
thờ cúng các anh hùng, suy tôn làm thành hoàng. Lập đền
miếu để làm chứng tích truyền lại cho các đời sau.
Xung quanh những chứng tích ấy là một hệ thống những
tục lệ hèm húy và những câu chuyện được kể truyền
miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Những truyền
thuyết này tới một thời điểm nào đó đã được ghi
lại thành văn, thành những ngọc phả, thần tích.
Cho
nên, qua những văn bản này tuy là những tác chẩm văn
học dân gian nhưng chúng ta vẫn cũng có thể tìm hiểu
được quá khứ, tìm hiểu về sự tích các nhân vật anh
hùng. Có điều là từ cuộc đời thực, bước vào truyền
thuyết, nhân vật đã ít hoặc nhiều được tiểu thuyết
hóa, nhất là với đặc trưng của nghệ thuật sáng tác
văn học dân gian và với thế giới quan thần linh chủ
nghĩa của người xưa thì sự tích các anh hùng rất dễ
bị thêm vào những chi tiết tưởng tượng, hư cấu hoặc
hoang đường, quái dị.
Ngoài ra trong các văn bản
ấy lại còn có những chi tiết như thật nhưng
không thật vì đó là sự gán ghép - vô tình hoặc
cố ý - tùy theo sở thích, quan niệm, tình cảm và cả
trình độ của người kể chuyện cũng như người biên
soạn ở các thời đại sau. Cho nên ở thần tích, ngọc
phả nói chung cũng như riêng của những làng có thờ
tướng lĩnh của Hai Bà Trưng đều đầy rẫy những
mô-típ huyền thoại: đầu thai, báo mộng, thần thánh âm
phù, cưỡi mây về trời, rẽ nước xuống biển... cùng
những thứ chức tước công chúa, phó vương, đại tướng
quân, chưởng lĩnh, đô đốc v.v… là những sản phẩm
của hàng nghìn năm sau.
Hoặc ngay các địa danh,
phần lớn là những tên châu, tên trấn, tên đạo, tên
phủ huyện chỉ mới có từ thời Đinh, Lê trở về sau.
Nhưng dù sao chúng tôi nghĩ rằng ở các văn bản trên vẫn
có một cốt lõi lịch sử, vẫn có những con người
thật. Nhất là xét về mặt tài liệu khảo cổ học.
phần lớn những địa điểm mà thần tích, ngọc phả
chỉ định là quê hương của các tướng lĩnh của Hai Bà
Trưng thì lại cũng là những địa điểm từ trước công
nguyên đã có người trú ngụ. Tức là vào thời kỳ Hai
Bà Trưng thì những nơi đó thật sự ở vào phạm vi các
điểm tụ cư mà tên gọi có thể là những chạ
hoặc những kẻ. Và tại những địa điểm ấy mà
có những cá nhân, những tập thể nổi dậy chống giặc
Hán thì cũng không có gì là hoang đường. Cho nên dưới
đây là sự tích một số tướng lĩnh của Hai Bà Trưng
viết theo các thần tích, ngọc phả mà chúng tôi tìm đọc
được trong những lần đi khảo sát các di tích lịch sử
ở các địa phương. Những văn bản này đem so với kho
thần tích ngọc phả hiện lưu trữ ở Thư viện Khoa học
xã hội mang ký hiệu Q.4o18 nói chung là không có khác biệt
gì. Vì kho của thư viện chính là do hương lý các làng
sao từ thần tích ngọc phả được giữ gìn ở các đền
miếu từ bao đời. Nói chung, các văn bản này được
soạn vào khoảng niên hiệu Hồng Phúc (1572-1573) và có
tác giả là Nguyễn Bính - một quan Lễ bộ phụ trách
việc cấp sắc phong cho các thần. Rất có thể là Nguyễn
Bính đã dựa vào các sách sưu tầm chuyện cổ có từ
trước và cả những câu chuyện thời bấy giờ còn lưu
hành trong dân gian mà sắp xếp, biên soạn lại. Trong quá
trình “áng tác” tất là ông có thêm bớt, uốn nắn
các tình tiết để cho phù hợp với quan điểm đạo đức,
thẩm mỹ và chính trị của mình.
Bởi chỉ muốn
nêu cái cốt lõi, cái cơ bản nên dưới đây sẽ hạn
chế tối đa thuật lại những việc hoang đường, gán
ghép và chỉ giữ ở mức độ tối thiểu những chi tiết
thuộc về sự tích đánh giặc của các nhân vật đó
theo đúng như các thần tích đã chép. Nghĩa là
chúng tôi không “sáng tác thêm”, không cả ghép thần
tích này vào thần tích kia, đan cuộc đời nhân vật này
vào cuộc đời nhân vật nọ v.v... vì như vậy là tạo
ra một truyền thuyết mới, dù hoàn toàn là thiện chí
muốn tô điểm cho sự nghiệp đánh giặc thời đó thì
cũng vẫn là có hại về phương diện học thuật.
Do đó, phần này có khác ít hoặc nhiều so với những
tài liệu về các tướng lĩnh của Hai Bà đã công bố
trước đây.
THÀNH PHỐ
HÀ NỘI
QUẬN BA ĐÌNH
ĐÀO KỲ
Phường
Phúc Xá vốn xưa là làng Cơ Xá châu. Làng này thờ bảy
thành hoàng, trong số này có Đào Kỳ - tướng của Hai Bà
Trưng. Đào Kỳ vốn được thờ chính tại năm làng Cói
bên huyện Đông Anh. Sự tích vị này được nêu ở phần
huyện Đông Anh.
QUẬN ĐỐNG ĐA
HIỀN HỰU - QUÝ
MINH - PHƯƠNG DUNG
Đó là ba anh em họ Đào.
Hai người đầu là anh em sinh đôi, sinh ngày 12 tháng Hai.
Cô em gái sinh ngày 15 tháng Bảy. Họ vốn người ở Cửu
Chân (Thanh Hóa) nhưng di cư sinh sống ở làng Thổ Quan,
nay là khu vực trong ngõ Thổ Quan đằng sau phố Khâm
Thiên.
Tương truyền ba anh em đã chiêu mộ dân binh
theo Hai Bà đi đánh Tô Định. Sau này khi Mã Viện xâm
lược, ba anh em chiến đấu ở Hát Môn rồi rút về Thổ
Quan dựng ba đồn liên tiếp để chống quân Hán. Cuối
cùng cả ba đã chết trong một trận giao tranh ác liệt
vào ngày mùng 2 tháng Chạp.
BẢO
HOA
Làng Xã Đàn nay là phường Xã Đàn ở
phía trong Ô Chợ Dừa, thờ công chúa Bảo Hoa từng là nữ
tướng của Hai Bà.
Bảo Hoa họ Trần là người đã
chiêu tập dân binh lập ra làng này. Bà đã chống lại Tô
Định, lập đồn binh tại Xã Đàn. Khi Mã Viện sang, bà
đã già yếu nên cử Lã Nam (?) chỉ huy quân sĩ thay mình.
Ngày kỵ là ngày mùng 2 tháng Hai.
Hiện nay, ở Xã
Đàn còn miếu thờ bà, tương truyền là lập ở nơi
luyện võ ngày xưa.
Làng Thịnh Hào và làng Hào
Nam, nay là hai phường cùng tên, thuộc quận Đống Đa,
cũng có đền thờ Bảo Hoa.
HUYỆN ĐÔNC ANH
ĐÀO KỲ - PHUƠNG
DUNG
Trang Cối Giang ngày trước bao gồm
suốt dọc đất ven bờ bắc sông Đuống. Sau trang ấy
chia ra làm mười hai thôn, trong số đó có năm thôn đều
thờ hai vợ chồng Đào Kỳ - Phương Dung. Năm thôn đó là
Đông Trù, Hội Phụ, (nay thuộc xã Đông Hội) và Lê Xá,
Lộc Hà, Thị Thôn (nay thuộc xã Mai Lâm).
Thần
tích kể rằng: ông Nguyễn Trát người trang Vĩnh Tế
huyện Lang Tài (nay là Gia Lương - Hà Bắc), lấy vợ là
người Cối Giang. Tô Định muốn thu phục ông nhưng ông
không thuận. Hắn liền tàn sát cả nhà. Chỉ có bà vợ
và con gái là Phương Dung do về thăm quê ngoại nên thoát
chết. Và thế là họ ở luôn lại bên Cối Giang.
Cũng
thời gian đó, tại đây có chàng Đào Kỳ, chính gốc ở
Nông Cống (Thanh Hóa) nhưng cha mẹ đã dời ra ở tại đất
Cối Giang làm ăn sinh sống từ khá lâu. Đó là một chàng
trai văn võ đều giỏi, lại cũng có ý chí muốn đánh
đuổi giặc Hán. Thế là Đào Kỳ đẹp duyên cùng Phương
Dung.
Ít lâu sau, Hai Bà Trưng khởi binh. Vợ chồng
Đào Kỳ tìm đến quân doanh xin ứng nghĩa. Họ cùng địa
binh đi đánh đuổi Tô Định. Sau đó, Trưng Vương cử họ
về trông nom vùng đất Đông Ngàn.
Ba năm sau, Mã
Viện xâm lược. Vợ chồng họ được cất lên chống
giữ ở Lạng Sơn (hay Lãng Sơn?). Có tới một năm không
phân thua được. Nhưng lúc đó Hai Bà Trưng lâm nguy ở
Cấm Khê, Đào Kỳ, Phương Dung kéo binh về đây ứng cứu.
Thế giặc mạnh, Hai Bà hy sinh. Vợ chồng Đào Kỳ lạc
nhau. Đào Kỳ tuy bị vết chém ở ngang cổ “vẫn ôm đầu
chạy về đến Cổ Loa mới chịu ngã”. Phương Dung sau
cũng vượt được vòng vây, định về Đông Ngàn nhưng
khi qua Cổ Loa, cô nhận ra mộ chồng, liền tự sát. Đó
là ngày 16 tháng Tám.
(Xã Đông Hội này
có di chỉ văn hóa Đồng Đậu ở Tiên Hội).
ĐÔNG BẢNG
Thôn
Gia Lộc nay thuộc xã Việt Hùng, thờ Đông Bảng. Truyền
thuyết kể rằng Đông Bảng từng giúp Hai Bà thu lại 65
thành trong đó có thành ở thôn Gia Lộc, cách thành Cổ
Loa một cánh đồng. Ông được cử giữ thành này. Khi Mã
Viện tới, Đông Bảng hy sinh ngay từ trận đánh đầu
tiên, ngày hóa là mùng 10 tháng Hai.
(Xã Việt Hùng này
có di chỉ văn hóa Phùng Nguyên
và văn hóa Đông Sơn ở
Xuân Kiều).
THỦY
HẢI - ĐĂNG GIANG - KHỔNG CHÚNG.
Làng Đại
Vĩ, xã Liên Hà thờ ba vị tướng của Hai Bà là Thủy
Hải, Đăng Giang và Khổng Chúng. Hai người trên là anh em
sinh đôi, con ông Trương Long quê quán ở Đường Lâm, ngụ
cư tại trại Hà Hào (tức nay là làng Hà Vĩ). Họ đã
theo Hai Bà đi đánh Tô Định, sau trở về đóng đồn ở
Hà Vĩ.
Lúc này ở Hà Vĩ có chàng Khổng Chúng mới
lớn lên nhưng tỏ ra tài ba thao lược. Hai anh em họ
Trương liền tiến cử Khổng Chúng với Hai Bà. Khi Mã
Viện kéo sang, cả ba người được lệnh ra chặn giặc ở
cửa bể. Thủy Hải và Đăng Giang đã hy sinh tại đó,
ngày hóa là ngày mùng 10 tháng Bảy. Khổng Chúng thu tàn
binh quay về Hà Vĩ. Mã Viện đuổi theo. Khổng Chúng bị
ngã ngựa và hy sinh ngày 12 tháng Chín.
VĨNH
HUY
Làng Cổ Châu tên Nôm là làng Dâu, nay
thuộc xã Vân Hà, thờ công chúa Vĩnh Huy.
Vĩnh Huy
họ Tống quê ở vùng núi Yên Tử. Cha mẹ chết sớm, cô
rời quê, đi lưu lạc kiếm ăn. Đến trại Tế Áng - tên
cũ của Cổ Châu - cô ở lại. Dần dà được dân yêu
mến tôn làm trùm trưởng. Khi Hai Bà dấy binh, Vĩnh Huy mộ
hơn một ngàn tinh binh tới Hát Môn tụ nghĩa, theo Hai Bà
đi hạ thành Tô. Sau này khi chống Mã Viện, cô bị giặc
bắt. Nhưng cô đã trốn thoát trở lại Tế Áng. Song vừa
về đến nơi, trời đất bỗng tối sầm và Vĩnh Huy “bay
lên trời mà hóa”.
HUYỆN GIA LÂM
THÀNH CÔNG
Thôn Sài Đồng thuộc xã Gia Thụy, ba thôn Tư Đình,
Nha Thôn, Trạm Thôn thuộc xã Long Biên và thôn Ô Cách,
nay thuộc xã Việt Hưng đều thờ Thành Công.
Cả
năm thôn này xua là hương Cổ Linh. Ông vốn họ Nguyễn
quê ở Hải Dương. Nghe tin Hai Bà khởi nghĩa, ông mộ
được năm trăm trai tráng tới Hát Môn xin gia nhập nghĩa
quân. Sau khi đánh đuổi Tô Định, ông đền Cổ Linh đóng
đồn binh. Mã Viện xâm lăng, Thành Công lên chặn địch
ở Lạng Sơn. Sau ông rút về Cấm Khê. Cấm Khê thất
thủ, Thành Công chạy vào châu Ái, đến trang Tâm Quy
thuộc huyện Tống Sơn (nay là huyện Nga Sơn) thì hóa.
ĐÔ - HIỀN - LANG
Đó là ba anh em ruột đồng thời là các thành
hoàng làng Ngọc Động, nay thuộc xã Đa Tốn. Họ là con
một người họ Đào, nguyên quán ở Sơn Nam. Ba anh em Đô
Thống, Chiêu Hiền, Tam Lang đã mộ được trên ba nghìn
nghĩa sĩ về tụ nghĩa ở Hát Môn. Khi Mã Viện kéo tới
ba anh em dàn quân trên bến Bồ Đề (?) chống cự nhưng
thế yếu cuối cùng cả ba anh em đã hy sinh.
(Ngay cạnh Nghè ông
Hai - nơi thờ Chiêu Hiền - đã đào được một rìu đồng
và một ngọn giáo đồng cùng một số mảnh gốm
thuộc văn hóa Đông Sơn.
Ngoài ra, cũng ở xã Đa Tốn
này, bên thôn Đào Xuyên còn đào được thạp đồng Đông
Sơn).
KHỎA
BA SƠN
Xuân Đỗ Hạ là một trong ba thôn
của làng Xuân Đỗ nay thuộc xã Cự Khối. Ngày xưa đó
là ấp Hoa Động.
Khỏa Ba Sơn vốn gốc người
châu Ái. Ông được Hai Bà cử tới Hoa Động lập một
đồn giả để lừa quân Hán, nhờ đó mà đánh bại được
Tô Định. Sau khi lên ngôi, bà Trưng cho ông trở về đóng
đồn tại nơi này. Song ông đã hóa ngay giữa tiệc khao
thưởng dân làng. Đó là ngày rằm tháng Mười. Tục
truyền khu vườn Hồng chính là nơi ông đóng quân.
NÀNG
QUỐC
Thôn Hoàng Xá nay thuộc xã Kiêu Kỵ
có đền thờ Nàng Quốc. Mẹ cô người làng Kiệt Đặc
(nay thuộc huyện Chí Linh, Hải Hưng) tu hành (?) ở núi
Thiên Thai bên bờ sông Đuống (nay thuộc huyện Gia Lương,
Hà Bắc). Nhân đi tắm sông bị giao long quấn người, có
mang. Xấu hổ, bà bỏ chùa ra đi. Tới Hoàng Xá, thấy có
cây đào đẹp, bà ở lại và rồi sinh một gái, đặt
tên là Quốc. Lớn lên nàng Quốc theo Hai Bà Trưng khởi
binh, lập nhiều công. Sau này cô hy sinh ở núi Hy Sơn.
ĐỐNG - HỰU
Đống
và Hựu là hai anh em sinh đôi quê ở Thanh Hóa. Được bà
dì đem về nuôi ở thôn Kim Đường, nay là Kim Hồ thuộc
xã Lệ Chi. Lớn lên hai anh em theo Hai Bà Trưng đánh giặc
Hán. Khi Mã Viện xâm lược, hai ông được lệnh lên cản
địch ở Lạng Sơn. Song thế yếu hai ông phải lùi về
Kim Đường rồi bị trọng thương mà hóa (ngày 11 tháng
Ba). Chỗ hóa là xứ đồng Mả Cả.
HUYỆN SÓC SƠN
(Kim
Anh + Đa Phúc)
ĐỔNG NGHI
Làng
Ninh Bắc nay thuộc xã Quang Tiến, thờ Đổng Nghi. Nghi là
con ông Đổng Long và bà Trương Thị Hoằng. Chàng đã mộ
vài nghìn dân đinh theo Hai Bà khởi nghĩa. Sau trận Cấm
Khê, chàng phi ngựa vào sơn động mà hóa.
BÀ
Y
Làng Kim Lũ nay thuộc xã Kim Lũ, thờ bà
Y là một nữ tướng của Hai Bà nhưng sự tích thất
truyền.
HUYỆN THANH TRÌ
NÀNG TÍA
Làng Vĩnh Ninh xưa có tên là Kẻ Đặng nay thuộc
xã Vĩnh Quỳnh, có truyền thuyết về Nàng Tía. Truyền
thuyết kể rằng Trưng Vương sau khi đánh đuổi Tô Định,
định đô ở Mê Linh, có lần đi qua đất Vĩnh Ninh này.
Tại đây Vua Bà gặp một cô gái trẻ đang gánh nước.
Đó là Nàng Tía. Vua Bà gọi lại hỏi chuyện, biết được
tài chí của Nàng Tía, liền đưa về triều, phong làm
tướng.
Sau này, khi Hai Bà đã hy sinh, Nàng Tía vẫn
tiếp tục chiến đấu tại cửa biển Thần Phù. Cuối
cùng người nữ tướng này hy sinh ở đó ngày 13 tháng
Mười Một.
(Xã Vĩnh Quỳnh có
di chỉ văn hóa Gò Mun
và Đông Sơn ở Gò Chùa Thông).
TAM TRINH
Làng Mai Động, nay thuộc xã Hoàng Văn Thụ, thờ
Tam Trinh làm thành hoàng. Thần phả kể rằng:
Ở
Long Biên có nhà ông Triệu Cẩn lấy vợ là bà Tạ Thị
Thành mãi năm 60 tuổi mới sinh ra Tam Trinh. (Như vậy Tam
Trinh họ Triệu chứ không phải họ Nguyễn và quê gốc
là Long Biên chứ không phải Thanh Hóa như một số tài
liệu đã nêu). Tam Trinh sau làm nghề dạy học, tới làng
Mai Động mở trường ở bên sông Kim Ngưu.
Khi nghe
tin Hai Bà dấy nghĩa, Tam Trinh mộ được ba nghìn người,
theo Hai Bà đi dẹp giặc.
Sau này Mã Viện kéo tới
vây đánh Mai Động. Tam Trinh cùng sĩ tốt phá được vòng
vây nhưng ông bị trọng thương và khi tới xứ Khu Đống
thì hóa. Đó là ngày 10 tháng Hai. Tuy vậy hàng năm, làng
Mai Động lại mở hội vật vào những ngày mùng 5 mùng 6
tháng Giêng tương truyền là môn võ mà quân lính của Tam
Trinh ưa tập luyện.
(Làng Mai Động có
những di vật khảo cổ thuộc thời đại Đá
mới).
HUYỆN TỪ LIÊM
QUÁCH
LÃNG - ĐINH BẠCH NƯƠNG - ĐINH TĨNH NƯƠNG
Hai
thôn Đống Đa, Thượng Cát nay thuộc xã Thượng Cát và
thôn Đại Cát (xưa nay là Hạ Cát) nay thuộc xã Liên Mạc
vốn có tên gọi chung là làng Kẻ. Cả ba thôn đều thờ
Quách Lãng, Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh Nương là ba anh em
cháu cô đồng thời họ hai bề: Mẹ Quách Lãng là chị
của bố Bạch và Tĩnh, còn mẹ của hai cô này là em của
bố Quách Lãng.
Cả ba đều quê ở động Hoa Lư và
tinh thông võ nghệ. Riêng hai cô Bạch và Tĩnh lại thạo
nghề sông nước.
Khi nghe tin Hai Bà Trưng khởi
binh, họ tìm đến Hát Môn ứng nghĩa. Trên đường đi,
họ dừng lại ở Thượng Cát để chiêu mộ nghĩa binh.
Hai cô gái họ Đinh tập hợp được một cánh quân thủy
và dông thuyền ngược lên cửa Hát. Quách Lãng ở lại
Thượng Cát ít lâu để luyện cho toán quân bộ thêm
thành thục rồi cũng lên Hát Môn.
Sau khi dẹp được
Tô Định, ba anh em được lệnh về Thượng Cát lập đồn
binh. Hai cô Bạch và Tĩnh tổ chức lại thủy quân, mở
những cuộc thi bơi thuyền để binh sĩ có dịp tập
luyện. Nhưng mới được vài tháng thì cả hai chị em
chết trong một chuyến đắm đò. Còn Quách Lãng thì về
sau hy sinh trong trận Cấm Khê.
Ngày trước, những
năm được mùa nhân ngày giỗ hai cô gái họ Đinh (mùng
10 tháng Ba) các làng Kẻ thường mở hội được coi là
diễn lại tích luyện binh ngày trước. Làng Thượng Cát
tổ chức chạy quân, làng Hạ Cát tổ chức bơi chải
trên sông Hồng.
VĨNH
GIA
Cánh bãi nằm giữa hai thôn Thượng
Cát và Hạ Cát có tên là Quân Thần châu (bãi vua tôi).
Tên đó có từ đời Triệu Việt Vương, do tích là vị
vua này chia một phần đất cho Lý Phật Tử lấy bãi này
làm ranh giới. Từ đó trở về đông là đất của vua
(Triệu Việt Vương), trở về tây là đất của bề tôi
(Phật Tử).
Nhưng trước đấy năm trăm năm tại
cánh bãi này đã có dân cư và một cô gái anh hùng đã
ra đời. Đó là Vĩnh Gia mà sự tích sẽ nêu ở phần
huyện Mê Linh.
Ả
LÃ NÀNG ĐÊ
Làng Trung Văn nay thuộc xã
Trung Văn, thờ Ả Lã Nàng Đê là nhân vật được thờ
chính tại Yên Lộ - Nghĩa Lộ, huyện Hoài Đức, sự tích
nhân vật này có ở phần huyện Hoài Đức.
TỈNH
BẮC NINH
HUYỆN GIA BÌNH
TRUNG TRIỀU CÔNG
THẦN, TƯỚNG CÔNC LINH ỨNG ĐẠI VƯƠNG:
Thành
hoàng làng Đông Cao, tổng Xuân Lai, nay thuộc xã Xuân Lai,
huyện Gia Bình. Chưa rõ sự tích.
CÔN
NƯƠNG CÔNG CHÚA:
Thôn Phùng Xá, nay thuộc
xã Bình Dương, huyện Gia Bình, có nàng Côn Nương, văn võ
tinh thông. Căm ghét giặc Hán đô hộ, nàng cắt tóc làm
ni sư, ăn mặc nâu sồng, tập hợp được trăm cô gái ở
Ngũ Phùng trang cùng giả danh ni sư, ngày ngày luyện tập
võ nghệ. Nghe tin, Hai Bà Trưng liền triệu Côn Nương đến
hội quân ở Hát Môn. Sau khi đánh thắng Tô Định, Trưng
Vương đã phong cho nàng là Côn Nương công chúa.
DOÃN
CÔNG VÀ ĐÀO NƯƠNG:
Đây là hai vợ chồng
cư ngụ tại làng Bảo Tháp, nay thuộc xã Đông Cứu,
huyện Gia Bình. Ông bà đã chiêu tập nghĩa binh, thiết
lập doanh trại khu Đầu Rồng, núi Thiên Thai. Lực lượng
tới hàng vạn quân. Hai Bà Trưng đã mời Doãn Công và
Đào Nương cùng khởi binh. Doãn Công được cử là đại
tướng quân kiêm quản hai đạo thủy bộ. Sau đó ông bà
cùng đại quân tiến đánh thành Tô Định. Khi khải hoàn,
Doãn Công và Đào Nương được phong thực ấp ở Bảo
Tháp.
CHIÊU HỮU
ĐẠI VƯƠNG:
Làng Nhân Hữu nay thuộc xã
Nhân Thắng huyện Gia Bình thờ Chiêu Hữu đại vương húy
là Chiêu Phúc nguyên là tướng công thần của Trưng
triều. Chưa rõ sự tích.
Ả
LÃ - RỒNG NHỊ:
Đây là hai nữ tướng
của Trưng Vương và là chị em ruột. Hai vị đã lấp đồn
sở ở làng Du Tràng nay thuộc xã Giang Sơn huyện Gia Bình,
chống quân Hán đã vài năm. Khi khởi binh, Hai Bà Trưng
sai sứ đến mời Ả Lã và Rồng Nhị cùng tham gia khởi
nghĩa. Hai nàng đem theo hai nghìn quân đến Phong Châu hội
binh. Khi vây đánh thành Tô Định, Ả Lã cưỡi ngựa xông
vào giữa trận tiền, chém ngay ba tên tướng giặc và hô
quân tấn công. Xác quân Hán lấp đầy sông. Khi bình
công, Trưng Vương cho lấy Du Tràng làm thực ấp.
HUYỆN LƯƠNC TÀI
TRÌNH
CÔNG VÀ HOÀNG CÔNG:
Làng Đào Xá nay là xã
Đào Xá thuộc huyện Lương Tài thờ hai vị công thần
của Trưng Vương với tước phong là: Trình Công Trợ
Thắng Phụ Quốc đại vương và Hoàng Công Vệ Đạo Tiệp
Phù đại vương. Không còn sự tích.
ĐẠI
ĐÔ ĐẠI VƯƠNG, KHU MẬT ĐẠI TUỚNG QUÂN, ĐỀ THẦN
ĐỊCH LỖI ĐẠI VƯƠNG; NGU CHIÊU TÔN LINH CÔNG CHÚA:
Đó
là các vị công thần triều Trưng Vương được thờ ở
làng Thận Trai nay thuộc xã Trưng Xá, huyện Lương Tài.
Không còn sự tích.
THÁI
LANG VÀ ĐẠI LONG:
Thôn Điện Xuyên nay là
làng Tỳ Điện, xã Phú Hòa, huyện Lương Tài thờ hai vị
tướng của Trưng Vương là Thái Lang và Đại Long. Không
còn sự tích.
ĐÀ
CÔNG - NGUYỆT NƯƠNG:
Thờ ở xã Phú Hòa.
Không còn sự tích
NGA
CÔNG, LANG CÔNG, NGHIÊM CÔNG, DƯƠNG CÔNG:
Thờ
ở xã Minh Tâm. Không còn sự tích.
HUYỆN TIÊN DU
ĐÔNG QUÂN TAM VỊ
ĐẠI VƯƠNG:
Làng Hoài Thượng nay thuộc
xã Liên Bão, huyện Tiên Du thờ 3 anh em Đông Quân. Đó là
3 tướng của Trưng Vương từng lập đồn lũy ở Hoài
Thượng để chống giặc Hán. Sự tích không rõ.
LIỄU
GIÁP:
Xóm Phú Hậu, thôn Lũng Sơn, thị
trấn Lim huyện Tiên Du là quê hương của Liễu Giáp. Nàng
vốn con nhà nghèo ở Kẻ Trũng (tên Nôm của Lũng Sơn).
Căm ghét giặc Hán tàn bạo, nàng ra sức luyện rèn võ
nghệ rồi tập hợp trai tráng trong vùng lập đồn dựng
trại. Khi nhận được hịch của Hai Bà Trưng, Liễu Giáp
dẫn quân bản bộ tham gia khởi nghĩa, lập nhiều công
trạng.
PHƯƠNG
DUNG CÔNG CHÚA:
Xóm Thanh Lê, thôn Lũng Sơn,
thị trấn Lim là quê hương của Phương Dung. Nàng là con
của hai ông bà thuyền chài được Linh Lang thủy thần
giáng sinh tại miếu thiêng bên bờ sông Tiêu Tương.
Phương Dung võ nghệ cao cường, có ý chí chống giặc
Hán, đã tập hợp được một vạn nghĩa quân. Trưng
Vương đã phong nàng là Tiền Đạo tiên phong, tiến đánh
giặc Hán theo sông Tiêu Tương. Sau thắng lợi Trưng Vương
phong là Ả Lự Man Đê Phương Dung công chúa, hưởng thực
ấp ở trang Thiểm Xuyên (nay là thôn Lũng Sơn).
HUYỆN THUẬN THÀNH
TẠ THÔNG VÀ ĐỀ
NƯƠNG:
Làng Đa Tiện nay thuộc xã Xuân
Lâm huyện Thuận Thành thờ tướng Tạ Thông và phu nhân
Đề Nương. Khi Hai Bà Trưng khởi binh. Ông Tạ mộ được
một nghìn hương binh, bà Đề mộ được hai nghìn hương
binh cùng đến dưới cờ Hai Bà Trưng. Ông Tạ Đề Nương
tiến đánh thành Tô Định, lập công lớn.
Ả
TẮC - Ả DỊ:
Làng Văn Quan nay là thôn
Văn Quan thuộc xã Trí Quả, huyện Thuận Thành thờ hai bà
Ả Tắc - Ả Dị. Hai bà vốn quê ở Hồng Châu. Từng
chiêu mộ được hai nghìn hương binh về tụ nghĩa ở Hát
Môn, theo Hai Bà Trưng đi đánh thành Tô Định. Khi dẫn
quân đến làng Văn Quán hai bà làm lễ thần Thổ kỳ nên
được thần trợ giúp, nhanh chóng thắng giặc. Trưng
Vương phong cho hai bà làng Văn Quan là thực ấp. Về sau
dân lập đền thờ hai bà và thần Thổ kỳ.
MỘC
HOÀN:
Làng Thanh Bình tên Nôm là Cảo Hai
nay thuộc xã Xuân Lâm huyện Thuận Thành thờ một vị
tướng của Hai Bà là Mộc Hoàn. Chưa rõ sự tích.
ĐỐNG
CÔNG - HỰU CÔNG:
Làng Đức Hiệp thuộc
xã Xuân Lâm thờ hai vị tướng của Trưng Vương là Đống
Công và Hựu Công. Chưa rõ sự tích.
ĐẶNG
VĂN ĐƯƠNG (ĐƯƠNG HOÀNG):
Là thành hoàng
làng Ngọc Trì (làng Bún) nay thuộc xã Trạm Lộ, huyện
Thuận Thành - là tướng của Trưng Vương. Trong đình có
sắc phong nhưng không ghi rõ sự tích.
HUYỆN TỪ SƠN
TAM QUANG:
Làng
Hồi Quan nay thuộc xã Tương Giang, Từ Sơn, thờ Tam Quang
là người làng này đã chiêu mộ được ba nghìn quân
theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Ông được phong là chỉ huy
sứ, theo cánh quân của bà Trưng Nhị đi hạ thành Tô
Định.
DIỆU TIÊN
THẦN NỮ - QUẢNG KHÁNH ĐẠI VƯƠNG - PHÁP HẢI ĐẠI
VƯƠNG:
Là ba vị công thần triều Trưng
Vương được thờ ở làng Xuân Thụ, xã Đồng Nguyên, Từ
Sơn. Riêng làng Cẩm Giang cùng xã chỉ thờ Pháp Hải đại
vương.
Thần tích kể rằng: Diệu Tiên là mẹ của
Quảng Khánh và là cô của Pháp Hải. Ba mẹ con cô cháu
đều theo Hai Bà Trưng đi hạ thành Tô Định.
TAM
NGỌ:
Làng Bính Hạ, trước thuộc tổng
Phù Lưu huyện Đông Ngàn nay thuộc thôn Bính Hạ, xã Đồng
Quan, huyện Từ Sơn. Ở đây thờ Tam Ngọ Thiên Linh Ứng
đại vương, tương truyền ông vốn người làng này song
đi khắp xứ Bắc mưu việc chống quân Hán. Đến làng
Sặt, thấy đất đẹp, dân tốt, ông ở lại mở trường
dạy học và ngầm chiêu mộ trai tráng luyện tập việc
quân. Khi Hai Bà Trưng khởi binh. Ông đã đi theo và đánh
thắng nhiều trận.
HUYỆN YÊN PHONG
TỪ MẪU HUỆ NƯƠNG
TRINH THỤC HOÀNG THÁI HẬU:
Làng Đồng Mật
vốn là thuộc xã Xuân Ái, trước thuộc huyện Võ Giàng,
nay thuộc xã Xuân Đồng huyên Yên Phong, thờ thần Từ
mẫu được gọi là Trưng Vương triều nhất vị đại
vương. Chưa rõ sự tích.
(Tư liệu do ông Lê
Viết Nga cung cấp)
TỈNH
HÀ NAM
HUYỆN BÌNH LỤC
CAI CÔNG ĐẠI VƯƠNG:
Ở phủ Lý Nhân, huyện Nam Xang có ông
Nguyễn Mưu, vợ là Ma Thị Tố sống hiền lành sinh được
một con trai đặt tên là Cự, tự là Cai Công. Chàng thông
minh xuất chúng, 8 tuổi đi học, vài năm văn võ kiêm toàn
thông minh tài trí. Năm chàng 16 tuổi, bố mẹ lần lượt
qua đời. Sau khi lo xong việc hiếu, chàng tích thảo dồn
lương tập hợp được khoảng năm mươi người. Kịp
nghe tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, chàng cùng năm mươi gia
thần đến Hát Môn tụ nghĩa. Bà Trưng phong cho chàng là
Thừa Thiên đại tướng quân dẫn quân đánh thẳng vào
thành quân Hán. Thắng trận chàng về thôn Nhân Dực, xã
Đồn Xá, huyện Bình Lục lập hành cung an điện. Ba năm
sau Mã Viện xâm lăng. Cai Công theo Hai Bà Trưng đến thành
Long Sơn cự địch. Nhưng thế yếu phải lui về Cấm Khê
và cuối cùng hóa ở núi Sài Sơn. Người dân Nhân Dực
lập đền thờ phụng Cai Công.
ĐỨC
LÁI VUA BÀ:
Bà người làng Tái Kinh, nay
thuộc xã Đinh Xá. Nổi tiếng xinh đẹp, Thái thú Tô Định
đem sính lễ đến xin cưới. Bà chối từ, Tô Định liền
giết cả bố mẹ. Bà liền chiêu binh về Hát Môn theo Hai
Bà Trưng. Sau khi đuổi được Tô Định bà được phong
thực ấp ở Bình Lục... Khi Mã Viện xâm lăng bà đem
quân chống cự và hóa ở núi Phật Tích, xứ Bắc.
BA
CHỊ EM HỌ TRƯƠNG:
Ở thôn Cát, xã Đình
Xá có ba chị em nàng Cả, nàng Hai, nàng Ba. Ba nàng theo
Hai Bà Trưng khởi binh và đều được phong là công chúa.
Sau được thờ ở đền Minh Linh.
BA
VỊ CHÍ SĨ ĐẠI VƯƠNG, QUẠT NGÀ CỬA NGÒI CÔNG CHÚA,
HỒNG VÂN CÔNG CHÚA:
Ở bộ Vũ Ninh, đạo
Kinh Bắc có Dương Trực, còn gọi là Học. Ông Học đã
hứa hôn với hai chị em Nga Nương và Hồng Nương họ Đào
ở thôn Xanh thuộc làng Ngô Khê. Tô Định định cướp
hai cô gái họ Đào. Ông Học liền kết hôn với hai cô
rồi tập hợp được sáu nghìn người theo Hai Bà Trưng
khởi nghĩa. Sau khi đánh đuổi được Tô Định, giữa
hôm Trưng Vương đến chợ nhà Học Công thì trời nổi
gió và Học Công cùng Nga Nương, Hồng Nương vụt biến.
Trưng Vương phong cho Học Công là Chí Sĩ đại vương và
hai vợ là Quạt Ngà Cửa Ngòi công chúa và Hồng Vân công
chúa.
TẠ HƯNG LONG
VÀ ĐỖ LINH ỨNG:
Vào thời Tô Định cai
trị, ở phủ Trường Yên, động Hoa Lư có ông Tạ Hưng
Long và con người cậu là Đỗ Dưỡng Công. Hai anh em theo
gia đình đến sống ở thôn Cao Dương, xã Yên Đổ. Được
tin Hai Bà Trưng dấy binh ở Hát Môn. Hai anh em đến bái
yết xin đi đánh giặc. Đánh thắng Tô Định nhưng hai
ông đã hy sinh. Trưng Vương thương tiếc cho an táng hai
người ở núi Hạc Trình và truy phong là Tạ Hưng Long đại
vương và Đỗ Linh Ứng đại vương.
HUYỆN DUY TIÊN
NGUYỆT
NGA PHU NHÂN:
Nguyệt Nga con ông Nguyễn Bình
quê làng Dưỡng Thọ. Tô Định ép ông Bình phải dâng
Nguyệt Nga. Ông không nghe, Tô Định liền sát hại. Nguyệt
Nga chiêu nạp mấy nghìn người tìm lên Hát Môn hội quân
cùng Hai Bà Trưng. Nàng có công lớn trong việc đánh đuổi
Tô Định, sau chiến thắng được hưởng lộc xã Dưỡng
Thọ. Ba năm sau Mã Viện đem quân sang. Nguyệt Nga bị giặc
bắt, nhưng khi sắp bị hành hình thì có chiếc thuyền
rồng nổi trên dòng sông đón nàng về Dưỡng Thọ. Sau
đó bà hóa tại thực ấp này. Dân lập miếu thờ nay là
thôn Dưỡng Thọ xã Tiên Phong. Thôn bên cạnh là thôn An
Mông thuộc xã Châu Sơn cũng thờ bà.
HÀN
QUỲNH NƯƠNG:
Bà là con gái một huyện
lệnh ở châu Ái và là vợ chủ bộ Hải Dương Lê Công
Bình. Bà sinh được hai người con gái là Lê Minh Nương
và Lê Đậu Nương. Tô Định đã giết ông Bình nên bà
Hàn cùng hai con gái đến trang Văn Bút, huyện Nam Xang, phủ
Lý Nhân hội cùng các cháu gọi bằng cô là Hàn Sanh, Hàn
Hãn, Hàn Già chiêu tập binh mã chờ thời cơ. Khi Trưng
Vương khởi nghĩa bà cùng các con cháu đến hội quân ở
Hát Môn rồi cùng đại quân đi đánh Tô Định. Sau đó
bà hóa tại Ninh Xá. Hai con gái là Minh Nương và Đậu
Nương sau này phò Trưng Vương lên đánh Mã Viện ở Lạng
Sơn rồi rút về Cấm Khê. Sau đó vua tôi cùng tuẫn tiết.
Bà Hàn được phong là Quốc mẫu Hàn Quỳnh Nương cùng
với hai con gái Minh Nương, Đậu Nương được thờ tại
thôn Văn Bút, xã Trác Văn.
HUYỆN KIM BẢNG
BẠCH HOA CÔNG CHÚA:
Nàng là con gái ông Trần Công Phương và
bà Đinh Thị Thái. Từ nhỏ đã giỏi cầm kỳ thi họa
lẫn cung kiếm. Năm 18 tuổi, nàng theo Hai Bà Trưng khởi
binh đánh thắng Tô Định. Sau đó, lại bảo vệ Hai Bà
Trưng ở chiến trận Cấm Khê và hóa tại đó. Được
lập đền thờ ở thôn An Lạc, xã Kim Bình.
NGUYỆT
NGA CÔNG CHÚA:
Nàng là con ông Trần Công
Vi và bà Phạm Đào Nương. Nàng dấy binh theo Trưng Vương,
được phong là Thanh Tĩnh Chinh Thục Nguyệt Nga công chúa,
nay được thờ ở thôn Lương Đống, xã Kim Bình.
QUẾ
HOA CÔNG CHÚA VÀ NỮ HOA CÔNG CHÚA:
Hai nàng
quê thôn Phúc Trung, nay thuộc xã Tương Lĩnh, đã nhiều
năm nổi dậy chống Tô Định. Sau theo giúp Trưng Vương
đánh giặc Tô Định và hy sinh tại trận tiền. Trưng
Vương cho lập miếu thờ ở quê hương. Đến thời Trần,
hai nàng có công âm phù Hưng Đạo Vương dẹp giặc Nguyên
nên được sắc phong Hằng Nga Uyển Mị Diệu Hạnh Thuần
Hòa công chúa và Yểu Điệu Tiên Cung công chúa.
NGUYỄN
PHÚC TÍNH:
Ông quê ở Ái Châu ra dạy học
tại làng Phương Đàn (nay thuộc xã Lê Hồ). Cậu ruột
của ông là Trương Công làm tri phủ (?) Lý Nhân bị Tô
Định giết chết. Nguyễn Phúc Tính đã theo Hai Bà Trưng
khởi nghĩa, sau thắng lợi, được lập đền thờ tại
làng quê Phương Đàn.
THỊ XÃ PHỦ LÝ
THỦY
TINH CÔNG CHÚA:
Tại thôn Trịnh Xuân,
phường Lê Hồng Phong thuộc thị xã Phủ Lý vốn có đền
thờ bà Thủy Tinh công chúa, tương truyền đã theo Hai Bà
Trưng khởi nghĩa.
CHÂN
UY:
Thôn Châu Xá, nay thuộc phường Lê
Hồng Phong, thị xã Phủ Lý có thờ Chân Uy. Ông người
An Định, huyện Thụy Anh, Thái Bình đến dạy học tại
thôn này. Mới sinh ra trên trán ngài có chữ thiện,
học một biết mười, tinh thông binh pháp. Năm 14 tuổi,
ông theo Hai Bà Trưng dấy binh. Sau Trưng Vương phong cho ông
làm đại tướng coi cánh quân tiên phong đem bảy vạn
quân đi đánh Tô Định. Đánh đuổi được giặc, Trưng
Vương phong cho ông là Chân Uy Nghi Vũ Chính Thiện đại
vương, lập đền thờ tại Châu Xá1.
NGUYỆT NGA PHU NHÂN:
Thôn Hòa Lạc nay thuộc xã Nam Hạ, thị
xã Phủ Lý còn thờ bà Nguyệt Nga phu nhân tương truyền
đã khởi binh theo Hai Bà Trưng đánh quân Hán.
CẨN
THIỆN:
Nay thôn Phờ Vân thuộc xã Phù
Vân, thị xã Phủ Lý còn thờ Cẩn Thiện cư sĩ. Tương
truyền thân phụ là Thuần Công Sách và thân mẫu là Trần
Quang Nương. Năm ông 20 tuổi thân phụ bị Tô Định giết,
thân mẫu thương chồng rồi lâm bệnh qua đời. Cẩn
Thiện theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Khi tan giặc ông về
Phù Vân cùng dân xã lập ấp. Ba năm sau ông đã hy sinh ở
Cấm Khê. Dân ấp nhớ ơn lập đền thờ.
___________________________________
1.
Mười bốn tuổi mà là đại tướng thì đúng là huyền
thoại.
HUYỆN LÝ NHÂN
BÁT NẠN PHU NHÂN:
Phu nhân là con gái ông Vũ Chất và bà
Hoàng Cầu quê xã Phượng Lâu, huyện Bạch Hạc, thành
Phong Châu nay là huyện Phù Ninh, linh Phú Thọ. Bà tên húy
là Thục Nương, khi trưởng thành gặp lúc Tô Định hoành
hành ngược bạo, bà tự xưng là Bát Nạn tướng quân
theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Khi Mã Viện sang tiến đánh,
bà lui quân về xã Tiên La, huyện Duyên Hà nay thuộc tỉnh
Thái Bình, rồi bỗng nhiên sấm chớp và bà hóa ở gốc
cây tùng. Dân ba thôn Chanh, Nội, Hà nay thuộc xã Nhân Mỹ
đã thờ bà làm thành hoàng.
MỸ
HẠO ĐẠI VƯƠNG, CHƯƠNG HỘ TẤU ĐẠI VƯƠNG, QUẬN CHÚA
PHU NHÂN:
Ở trang Mỹ Lộc, huyện Hoằng
Hóa, Ái Châu có vợ chồng ông Thành Công và bà Trần Thị
Ngoạn. Một hôm bà ra sông tắm thì có con giao long bao
quanh mình ba vòng rồi biến. Từ ấy bà thụ thai, sau sinh
ra một bọc nở hai trai và một gái, đặt tên là Mỹ
Hạo, Chương Hộ Tấu và Quận Nàng. Đến tuổi trưởng
thành thì bố mẹ đều qua đời, ba anh em kéo nhau ra cư
trú tại làng Đại Hoàng (nay thuộc xã Hòa Hậu). Kịp
lúc đó Trưng Vương truyền hịch, ba anh em liền tới Hát
Môn tụ nghĩa. Sau khi đánh thắng Tô Định, Trưng Vương
cho ba anh em về đóng tại Đại Hoàng, phong là tam vị đại
vương. Ít lâu sau, trong một lần xuống sông tắm, ba anh
em biến thành ba con rắn rồi biến mất. Dân Đại Hoàng
lập miếu thờ làm thành hoàng.
PHẤN
HÙNG THẦN CẢ, CƯƠNG NGHỊ THẦN CẢ:
Hai
vị con nhà họ Dương là anh em sinh đôi, anh tên húy là
Đa, em tên húy là Si. Hai anh em theo Bà Trưng khởi nghĩa.
Sau được phong thực ấp ở huyện Nam Sang (nay là Lý
Nhân). Dạy cho dân nghề nông tang, canh cửi và không rõ
hóa vào lúc nào. Nay các thôn Hải Long I và Hải Long II
thuộc xã Nguyên Lý đều thờ hai vị.
TRẦN
MÃ CHÂU CÔNG CHÚA:
Ở Lam Sơn huyện Lương
Giang (Ái Châu) có vợ chồng ông Trần Thành và bà Trương
Thị Hoan, sinh được con gái đặt tên là Trần Mã Châu.
Cô lớn lên thông minh tài trí giỏi cả văn lẫn võ. Nghe
tiếng, Trưng Vương mời cô ra giúp nước. Cô đóng quân
ở trên bờ sông Cái thuộc đất Bảo Châu (nay là thôn
An Châu, xã Đạo Lý) lập 18 doanh trại. Cô theo Trưng
Vương đi đánh đuổi Tô Định được phong là công chúa.
Sau đó lại đi chống Mã Viện. Trong một trận đánh,
công chúa bị thương nặng, đã hóa. Thôn An Châu thuộc
xã Đạo Lý đã lập đền thờ công chúa.
NGA
NÀNG:
Ở đạo Nam Sơn thuộc huyện Mỹ
Lương, xứ Đoài có vợ chồng ông Trần Lực và bà
Nguyễn Thị Luân sinh được một gái đặt tên là Nga
Nàng. Lớn lên Nga Nàng rất xinh đẹp. Tô Định sai lính
đến bắt về làm vợ. Trần Công không chịu nộp. Tô
Định cho quân đến đánh phá trang trại họ Trần và
giết Trần Công. Bà Nguyễn Thị đem con gái chạy đến
trú tại làng Thượng Châu, huyện Nam Sang. Sau đó Nga Nàng
theo Trưng Vương khởi nghĩa dự nhiều trận đánh. Tới
khi Mã Viện xâm lăng, Nga Nàng lui về trấn giữ ở Thượng
Châu rồi hóa trong một trận đánh. Nay ở thôn Thượng
Châu, xã Hợp Lý Còn đền thờ Nga Nàng.
HUYỆN THANH LIÊM
VẠN
PHÚC PHU NHÂN:
Phu nhân họ Đặng người
làng Cổ Đế, phủ Trường Yên. Bà theo anh giúp Trưng
Vương đánh Tô Định có công được vua Trưng phong cho là
Vạn Phúc phu nhân và trở thành thành hoàng thôn Kênh Cạn
nay thuộc xã Thanh Lưu.
NGỌC
NHAN CÔNG CHÚA:
Công chúa xuất thân trong
một gia đình hào cường họ Nguyễn. Khi Hai Bà Trưng khởi
nghĩa, Ngọc Nhan liền tới đại dinh đầu quân. Sau khi
đánh đuổi Tô Định được vua phong là Ngọc Nhan công
chúa làm chức phụ chính. Ba năm sau khi Mã Viện đem quân
sang, phu nhân đã hóa ở sông Hát. Nay thôn Nội Trình, xã
Thanh Hương tôn phu nhân là thành hoàng.
CAO
BÀ VĂN TỔ:
Ở làng Thạch Tổ (nay thuộc
xã Thanh Hà) đời Hán có ông Cao Thọ và bà Lê Thị Đán
sinh một gái đặt tên là Liên Hương. Căm giận Tô Định
đã giết cả bố lẫn mẹ nên Liên Hương mộ binh đánh
trả Tô Định. Tới khi Trưng Vương khởi nghĩa, Liên
Hương theo nghĩa binh đánh Tô Định. Sau này, khi chống
lại Mã Viện, cô đã tử trận ở Cấm Khê. Nay thôn
Thạch Tổ, xã Thanh Hà vẫn thờ bà là thành hoàng.
CHÂU
Y CÔNG CHÚA:
Công chúa là con ông Nguyễn
Quang và bà Trương Mỵ quê ở Đọi Trung, huyện Duy Tiên.
Năm 18 tuổi, cha mẹ lần lượt qua đời. Cùng lúc đó
Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Châu Y lĩnh một đội quân đi
đánh Tô Định thắng lợi, được Vua Bà phong cho là Châu
Y công chúa. Nhưng ba năm sau công chúa đã hy sinh trong một
trận chiến đấu chống Mã Viện.
TỈNH
HÀ TÂY
HUYỆN BA VÌ
MAN THIỆN
Làng
Nam An (xưa gọi là Nam Nguyễn) nay thuộc xã Cam Thượng,
thờ bà Man Thiện.
Theo thần tích làng Hát Môn
(huyện Phúc Thọ) và làng Hạ Lôi (huyện Mê Linh) thì bà
mẹ của Hai Bà tên là Trần Thị Đoan. Nhưng thần tích
làng Nam An thì lại ghi tên bà là Man Thiện. Làng Nam An
lại chính là quê hương của bà, do đó cái tên Man Thiện
có “uy tín” riêng của nó. Man Thiện, người làng này,
vốn là cháu chắt ngoại của vua Hùng. Bà làm bạn với
lạc tướng Mê Linh, sinh hai gái là Trưng Trắc, Trưng Nhị.
Khi Trưng Trắc dấy binh, bà từng đi nhiều nơi
liên kết các quan làng, phụ đạo hưởng ứng đại
nghĩa. Đánh đuổi được Tô Định, bà lui về quê Nam
Nguyễn lập đồn binh. Sau này khi hay tin hai con gái bị
nguy khốn ở Cấm Khê, bà đưa quân bản bộ theo ngả
đường sông định để cứu viện nhưng quân Hán đuổi
theo đánh tập hậu. Trước nguy cơ thất bại, bà đã
gieo mình xuống sông tìm cái thác trong. Đó là ngày mừng
10 tháng Chạp. Quân lính tìm vớt được thi hài bà đem
về an táng ở khu đất cao trong đồn Nam Nguyễn cũ. Khu
đất đó từ đây gọi là gò Mả Dạ, tức là mả của
một bà mẹ cao cả.
(Xã Cam Thượng này
có di chỉ văn hóa Đồng Đậu ở Đồi Dà).
PHÙNG THỊ CHÍNH
Làng Tuấn Xuyên nay thuộc xã Vạn Thắng
thờ cô Phùng Thị Chính. Thần tích kể rằng ở trang Phú
Nghĩa (láng giềng của Tuấn Xuyên) có nhà ông Phùng Bổng
gốc ở Hoan Châu, nhập cư đã hai đời. Phùng Bổng lấy
bà Hùng Thị Tuyết ở Phong Châu là người có họ với
Hai Bà Trưng. Vợ chồng Phùng Bổn sinh được một gái
đặt tên là Chính. Chính lấy Đinh Lượng là cháu bên họ
ngoại ông Thi Sách.
Khi Hai Bà khởi nghĩa, Phùng Thị
Chính được cử đi dò xét tình hình quân Tô Định. Cô
cải trang làm người ăn mày, đi vào đất giặc. Cô nắm
biết mọi đồn sở, địa giới, đường đi lối lại.
Nhờ đó mà nghĩa quân nhanh chóng hạ được Tô thành1.
Khi Mã Viện xâm lược, Phùng Thị Chính theo bà
Trưng Nhị làm tiên phong đi cản giặc. Lúc này Chính đang
có mang. Giữa trận đánh cô trở dạ sinh con trai. Cô liền
buộc con ở trước bụng rồi cầm song kiếm tiếp tục
đánh bọn giặc Hán, mở đường máu phi ngựa ve thành
(?). Sau khi Hai Bà thất trận, cô về sống ở Tuấn Xuyên.
Song tên thái thú Hồ Điển (?) dò biết cho môi giới ép
cô phải về làm tì thiếp cho hắn. Phùng Thị Chính không
thuận, Hồ Điển dẫn quân tới vây bắt. Không chịu
nhục, cô ra sông tự trầm. Đó là ngày mùng 6 tháng Chín.
Dân Tuấn Xuyên thương cảm, lập đền thờ người con
gái anh hùng và tiết liệt này.
(Xã Vạn Thắng này
có di chỉ văn hóa Phùng Nguyên ở Gò Hện.
Còn ở xã
láng giềng - xã Phú Phương - thì từng đào được
hai
trống đồng Đồng Sơn và có di chỉ văn hóa Phùng Nguyên
ở Đồng Chỗ).
_____________________________________
1.
Ví dụ ở những tài liệu đó khi chép việc các nhân vật
đi đánh Tô Định thì đều ghi là đánh thành Luy Lâu.
Thực ra trong trên một trăm thần tích mà chúng tôi đã
đọc không hề thấy có chữ Luy Lâu mà chỉ thấy chép
là hạ Tô thành (thành Tô Định) hoặc Tô dinh (dinh Tô
Định).
HUYỆN ĐAN PHƯỢNG
HẢI DIỆU
Thôn
thượng làng Cổ Ngõa, tục danh là làng Thón nay thuộc xã
Phương Đình thờ Hải Diệu. Cha ông tên Nguyễn Anh, người
gốc Hoan Châu, làm quan doãn ở Đan Phượng. Vợ ông
Nguyễn Anh là bà Lê Thị Hành. Họ có một trai đặt tên
là Diệu. Nguyễn Anh tuy làm quan với nhà Hán nhưng có
lòng thương dân, ông giảm nhẹ thuế cống cho dân. Tô
Định hay biết điều đó, liền tìm cách giết hại
Nguyễn Anh. Bà Hành đem con về ngụ ở làng Thón, lần
lữa qua ngày.
Diệu lớn lên, nuôi chí trả nợ
nước, báo thù nhà. Khi Hai Bà xướng nghĩa, Diệu cùng
mười bạn trong làng chiêu tập được một nghìn nghĩa
sĩ, cùng nhau đến Hát Môn bái yết Hai Bà. Hai Bà phát
binh đi đánh các châu quận thì Diệu được cử đi tiễu
trừ giặc ở vùng Cửu Chân.
Khi Mã Viện xâm lược,
chàng Diệu chiến đấu trong đạo tiền quân. Sau chàng hy
sinh ở Cấm Khê vào ngày 28 tháng Sáu. Các đời vua sau
phong là Hải Diệu đại vương.
LÔI
CHẤN
Làng Tháp Thượng nay thuộc xã Đồng
Tháp thờ Lôi Chấn. Cha là ông Cao Cự người Thiên
Trường, mẹ là bà Nguyễn Thị Phương. Ông Cao Cự tuy
giữ một chức quan ở vùng Đan Phượng này nhưng có tinh
thần chống đối Tô Định. Thế là tên cáo già quỉ
quyệt đó đã tìm cách giết ông. Bà vợ đem con về sống
nhờ ở Tháp Thượng. Năm Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Lôi
Chấn 20 tuổi. Trong trận đánh đuổi Tô Định, chàng có
đóng góp nhiều công trạng.
Dân làng Tháp Thượng
thờ Lôi Chấn làm thành hoàng.
SA
LƯƠNG
Làng Hạ Trì có bốn thôn Thượng,
Trung, Hạ, Đoài Quý nay là hai xã Liên Hà, Liên Trung thờ
bà Sa Lương1.
Trưởng bộ Nam Hải họ
Hùng có một trai và một gái, đặt tên là Hùng Ninh (hoặc
Linh) và Sa Lương. Thái thú Tô Định muốn lấy Sa Lương
làm tì thiếp nhưng Sa Lương không thuận. Tô Định liền
giết Hùng Ninh. Sa Lương ra ẩn náu ở vùng bãi sông Cái
tức làng Hạ Trì rồi tụ tập một số bè bạn cùng căm
ghét giặc Hán, mưu việc lớn.
Cách đấy ít lâu,
tin Hai Bà truyền hịch sang tới Hạ Trì. Sa Lương cùng
chúng bạn về Hát Môn tụ hội. Cô được giao chỉ huy
một cánh quân thủy cùng đại quân đi hạ thành Tô Định.
Sau khi thắng lợi cô về đóng quân tại căn cứ
Hạ Trì.
Nhưng đáng tiếc cô qua đời quá sớm,
giữa lúc đang ở tuổi hai mươi. Ngày hóa là 15 tháng
Bảy, ngày sinh là 8 tháng Ba.
Thủa trước, vào ngày
7 tháng Ba, cả bốn thôn chung nhau tổ chức hội trống
(đánh và đi theo nhịp trống) và hội bơi chải được
coi như là lặp lại cách luyện quân của Sa Lương.
(Cách Hạ Trì 4km về
phút tây bắc có di chỉ Hà Nội,
thuộc thời kỳ
cuối của đá mới).
VĨNH
HOA
Làng Trung Hà nay thuộc xã Trung Châu
thờ Vĩnh Hoa làm thành hoàng vì thần tích kể rằng Trung
Hà là “thứ đồn” của cô. Còn “chính đồn” là ở
Tiên Nha đối diện qua sông Hồng nay thuộc huyện Yên Lạc
tỉnh Vĩnh Phúc. Nguyên là ở trang Mao Điền thuộc Hồng
Châu (vùng Hải Dương sau này) có Phùng Vĩnh Hoa là một
cô gái nhan sắc tuyệt vời và rất thạo nghề cung kiếm.
Năm cô 18 tuổi, bố mẹ kế tiếp qua đời. Vĩnh Hoa giao
cửa nhà lại cho ông cậu rồi ra đi tìm bạn đồng tâm
mưu việc chống quân Hán. Thấy trang Tiên Nha (nay thuộc
xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) ở ngay cửa
sông Nguyệt Đức (tức sông Cà Lồ), có địa thế thuận
lợi cho việc tụ nghĩa nên cô ở lại đấy, mở một
hàng nước để có cơ hội chiêu tập anh tài. Dần dà,
dân trang nhận thấy Vĩnh Hoa không phải là người tầm
thường, mới tôn làm trưởng trang. Từ đó Tiên Nha thành
một đồn trại. Quân Hán kéo đến đánh phá nhưng không
thắng nổi. Kịp khi Hai Bà khởi binh, Vĩnh Hoa đưa quân
bản bộ đi theo, lập công lớn trong trận đánh dinh Tô
Định. Sau đấy, Hai Bà lệnh cho Vĩnh Hoa về án ngữ nơi
ngã tư sông hiểm yếu là vùng cửa sông Nguyệt Đức và
sông Hát. (Bên hữu ngạn, chỗ sông Hồng đổ vào sông
Hát có tên là cửa Hát thì đối xứng với nó ở bên tả
ngạn cũng là nơi sông Hồng chia nước cho sông Nguyệt
Đức - nay đã bị lấp). Vâng lệnh, Vĩnh Hoa về lập
chính đồn ở trang Tiên Nha và thứ đồn ở bãi Trung Hà
bên bờ hữu ngạn sông Hồng. Sau này trong một trận
chống Mã Viện, Vĩnh Hoa tử tiết ở cửa sông Nguyệt
Đức, ngày 14 tháng Chín.
NHẬT
TRỰC - HẢI THÂN - CHÀNG ÚT
Làng Chu Phan,
nay thuộc xã Trung Châu có đến thờ ba người trên, là
anh em ruột đã theo Hai Bà đánh giặc Hán nhưng sự tích
thất truyền.
Ả
TÚ - Ả HUYỀN - Ả CÁT
Làng Hưu Trưng,
nay thuộc xã Trung Châu có đền thờ ba cô gái Ả Tú, Ả
Huyền, Ả Cát đều là tướng của Hai Bà. Nhưng đây là
thờ vọng. Nơi ở chính là ở sáu thôn Vĩnh Phúc, Vĩnh
Thọ, Vĩnh Khang, Vĩnh Ninh, Vĩnh Thuận, Vĩnh Lộc nay là
hai xã Vân Phúc, Vân Nam, huyện Phúc Thọ.
VĨNH
GIA
Làng Yên Châu, nay thuộc xã Trung Châu
thờ cô Vĩnh Gia, nữ tướng của Hai Bà. Nhưng đây là
thờ vọng. Nơi thờ chính là làng Nại Tử Châu thuộc xã
Chu Phan, huyện Mê Linh. (Sẽ nêu ở phần nói về huyện
này).
_______________________________________
1.
Đây là theo thần tích làng Hạ Trì. Ở quyển “Một số
truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng” của Ty Văn
hóa Hà Sơn Bình - năm 1979 - lại chép tên vị này là Sa
Lãng.
HUYỆN HOÀI ĐỨC
Ả LÃ NÀNG ĐÊ -
CHÀNG QUỐC
Ven sông Đáy có nhiều làng
thờ hai tướng này.
Ghi chép về sự tích của cô
có tới năm bản thần tích của năm làng khác nhau: làng
Vân Côn nay thuộc xã Vân Côn huyện Hoài Đức, làng Nghĩa
Lộ và làng Yên Lộ nay là xã Yên Nghĩa thuộc Hoài Đức,
làng Trung Văn tức Dộc Bé nay thuộc xã Trung Văn huyện
Từ Liêm, làng Phú Hạng thuộc xã Tân Phú huyện Quốc
Oai, Hà Tây.
Giữa năm bản này có đôi ba chỗ sai
biệt, đó là điều phổ biến trong các thần tích, ngọc
phả. Căn cứ vào bản sao của làng Nghĩa Lộ là làng chỉ
thờ có hai chị em Ả Lã làm thành hoàng1
thì sự tích như sau:
Ông Nguyễn Viên quê ở hạt
Hoằng Hóa, châu Ái (nay là Thanh Hóa), giữ chức trưởng
doanh ở Cổ Châu, huyện Thanh Oai. Ông lấy bà Trần Thị
Lâm người làng Nghĩa Lộ làm vợ. Hai ông bà sinh một
gái đầu lòng, đặt tên là Lã, sau đổi là Đê, do đó
mọi người gọi là Ả Lã Nàng Đê. Sau lại sinh một
trai, đặt tên là Quốc. Tuy là một quan chức nhưng Nguyễn
Viên không a tòng bọn xâm lược nên bị Tô Định sát
hại. Bà Lâm đưa hai con về sống ở làng quê Nghĩa Lộ.
Tới năm Ả Lã tròn hai mươi tuổi và chàng Quốc
mười chín tuổi thì có tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở
Phong Châu. Hai chị em Ả Lã liền tập hợp thanh niên nam
nữ trong vùng có tới năm trăm người, đi theo Hai Bà đuổi
giặc.
Ba năm sau, Mã Viện xâm lược. Ả Lã và em
trai theo dự nhiều trận, cuối cùng đều hy sinh tại Cấm
Khê. Thi hài Ả Lã trôi theo dòng Hát, đến Phú Hạng thì
được nhân dân ở đó vớt lên chôn cất và lập đền
thờ.
(Ở làng Yên Lộ, tên gọi của cô là Ả Lã
Làng Đê. Làng cũng là Nàng đọc chệch. Ở
Vân Còn lại gọi là Ả Nữ Lương Lê. Thì Nữ
chính là Lữ (một âm khác của Lã) đọc chệch.
Lương là âm đọc chệch của Nương tức
Nàng. Còn âm Lê thì chưa rõ nguồn gốc. Nhưng trong
thần tích bằng chữ Hán của làng này thì lại chép đúng
là Ả Lã Nàng Đê).
NGUYỄN
AN
Thôn Cao Xá Thượng nay thuộc xã Đức
Thượng và hai thôn Cao Xá Trung, Cao Xá Hạ thuộc xã Đức
Giang vốn xưa là một đơn vị cư dân, gọi tên là Quách
Xá. Ở đây thờ Nguyễn An làm thành hoàng.
Ông
Nguyễn Tuyên là người trang Hoa Khê, phủ Gia Hưng (nay là
huyện Cẩm Khê, huyện Vĩnh Phú). Ông làm bạn với bà
Phạm Thị Lộc, sinh được một trai, đặt tên là Nguyễn
An. Nguyễn An sau di cư tới ở tại Quách Xá. Khi Hai Bà
khởi nghĩa, Nguyễn An đưa hai trăm nghĩa sĩ vùng này đi
theo nghĩa quân. Sau đó họ về đóng đồn ngay tại Quách
Xá. Khi Mã Viện sang, Nguyễn An và cánh quân thủ túc luôn
chiến đấu bên cạnh Hai Bà. Cuối cùng tất cả hy sinh ở
Cấm Khê.
(Xã Đức Giang và
vùng lân cận có nhiều di chỉ khảo cổ
thuộc thời
kỳ trước Công nguyên, đã nêu ở Chương bốn, mục VI).
HOÀNG
ĐẠO
Làng Cát Ngòi nay thuộc xã Cát Quế
thờ Hoàng Đạo. Nhưng đó là thờ vọng. Nơi thờ chính
là làng Hạ Hiệp thuộc xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ.
(Sẽ nêu ở phần nói về huyện
này).
___________________________________
1.
Làng Văn Côn còn thờ cả Lôi Công. Làng Yên Lộ còn thờ
cả Thủy Hải và Tĩnh Quốc tam lang. Làng Trang Văn còn
thờ cả Thủy Hải và Đào Quang Nhiên.
HUYỆN PHÚC THỌ
Ả TÚ - Ả HUYỀN -
Ả CÁT
Thời cổ sơ có 12 họ đến lập
trại bên tả ngạn sông Cái gọi là trại Vân Thủy thuộc
đất huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường. Sau bờ sông này
bị lở, dân trại Vân Thủy di cư cả đình miếu sang hữu
ngạn lập ra sáu xóm, sau thành sáu làng riêng rẽ là Vĩnh
Phúc, Vĩnh Thọ, Vĩnh Khang, Vĩnh Ninh, Vĩnh Thuận, Vĩnh
Lộc. Sáu làng này nay là hai xã Vân Nam, Vân Phúc huyện
Phúc Thọ. Ở đây còn lưu truyền truyện kể và thần
phả về ba người con gái anh hùng, nữ tướng của Hai Bà
Trưng.
Vào thời Vân Thủy còn ở bên tả ngạn, có
nhà ông Phùng Liệt và bà Phạm Thị Tư sinh hai gái là Ả
Tú và Ả Huyền. Chị hơn em ba tuổi. Hai cô kết bạn với
Ả Cát con ông Hoàng Hy và bà Phạm Thị Chí ở bên làng
Nhật Chiểu láng giềng. Ba cô vừa luyện văn luyện võ,
mưu việc đánh đuổi quân Hán.
Khi hay tin Hai Bà
Trưng khởi nghĩa, ba cô tập hợp gia nhân thân thích được
cả thảy năm mươi hai người rồi vượt sông sang Hát
Môn tụ hội.
Sau này cả ba đều chết tại Cấm
Khê vào ngày mùng 2 tháng Chạp1.
Ngoài
Vân Thủy (Vĩnh Thọ) ra, Ả Tú, Ả Huyền, Ả Cát còn
được thờ ở làng Hưu Trưng phía bên hữu ngạn sông
Hát nay thuộc xã Trung Châu huyện Đan Phượng.
ĐỖ
NĂNG TẾ - TẠ CẨN NƯƠNG
Đỗ Năng nguyên
quán ở Khoái Châu (nay thuộc tỉnh Hải Hưng) sau dời
sang cư ngụ ở trang Khánh Hợp (nay thuộc xã Tam Hiệp)
làm nghề bốc thuốc. Đỗ Năng lấy vợ người làng này
là bà Đào Thị Dực và sinh được một trai, đặt tên
là Đỗ Năng Tế. Lớn lên Năng Tế nổi tiếng là thông
tuệ, làm bạn với con gái thầy học là Tạ Cẩn Nương.
Bà Man Thiện nghe thấy tiếng liền cho mời vợ chồng ông
tới dạy bảo cho hai con gái là Trắc và Nhị.
Khi
Hai Bà mưu việc lớn, ông Năng Tế đã đi vận động các
tù trưởng quan lang hưởng ứng.
Đánh đuổi Tô
Định rồi, vợ chồng ông lui về Khánh Hợp. Khi Mã Viện
xâm lược, bà Cẩn Nương chiến đấu bên cạnh Hai Bà
Trưng và hy sinh ở Cấm Khê (hoặc sông Hát). Còn Đỗ
Năng Tế cầm cự với quân Hán ở Cư Phong. Thế yếu,
ông trở về Khánh Hợp và mất tại đây sau một trận
tử chiến với quân thù vào ngày 17 tháng Bảy. Nơi ông
mất ngày ấy là khu rừng rậm ở bìa làng. Sau dân lập
đền thờ gọi là Quán Rậm hoặc Quán Cấm.
HOÀNG
ĐẠO
Hoàng Lãng quê ở Hoan Châu (Nghệ
Tĩnh) nhưng lưu lạc ra Bắc, ở tại làng Hạ Hiệp (nay
thuộc xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ), lấy vợ tại đây
là bà Phùng Thị Tam. Họ sinh một trai, đặt tên là Hoàng
Đạo.
Đạo trở thành một chàng trai tuấn tú. Kịp
khi Hai Bà khởi binh, Hoàng Đạo chiêu tập trai tráng ba
làng Hạ Hiệp, Hiệp Lộc, Yên Dục lập nên một đạo
quân và kéo tới Hát Môn tụ hội.
Sau này khi Mã
Viện xâm lăng, ông đóng đồn ở quê nhà, trấn giữ
khúc sông Đáy. Nhưng cuối cùng không thắng nổi quân
giặc và ông đã hy sinh ngay tại đồn binh vào ngày 13
tháng Hai. Nơi đó nay là Quán Dâu gần bên bờ sông, có
ngôi quán (ngôi đền) thờ Hoàng Đạo. Hai làng Hiệp Lộc
và Yên Dục cũng có thờ người dũng tướng này. Bên kia
sông Đáy là làng Cát Ngòi nay thuộc xã Cát Quế, huyện
Hoài Đức cũng có đền thờ ông.
Ả
LÃ NÀNG ĐÊ
Làng Giáo Hạ nay thuộc xã
Ngọc Tảo có thờ vọng Ả Lã Nàng Đê, một nữ tướng
mà nơi thờ chính là làng Yên Lộ - Nghĩa Lộ, huyện Hoài
Đức (xem phần huyện Hoài Đức)
HUYỆN THẠCH THẤT
LÝ
MINH
Làng Mục Uyên nay thuộc xã Tân Xã,
là nơi đóng quân của Lý Minh.
Lý Minh gốc người
trang Cổ Pháp, quận Vũ Ninh, đạo Kinh Bắc, nghe tin Hai Bà
khởi binh liền mộ hai nghìn dũng sĩ tới Hát Môn tụ
hội. Ông được cử đem quân đi tuần phòng vùng Đông
và vùng Bắc. Qua làng Mục Uyên, nhân chiêm bao thấy thần
âm phủ liền lấy đây làm đại doanh. Sau ông mất cũng
tại đây, ngày 10 tháng Chạp. Tương truyền đền thờ
ông gọi là Quán Trăm nay ở thôn Hương Trung là lập trên
khu doanh trại xưa.
ĐÀO
KHANG
Làng Phú Hòa xưa là Phú Đa, tên Nôm
là làng Gia nay thuộc xã Bình Phú. Nơi đây thờ Đào
Khang.
Ông vốn là người trang Kiệt Đặc bên Hồng
Châu (nay là tỉnh Hải Hưng). Sau khi cha mẹ chết, ông dời
quê, đi lưu lạc kiếm sống. Đến Phú Đa, ông ở lại
cấy cày lập nghiệp. Nghe tin Hai Bà truyền hịch đánh
giặc Hán ông đứng ra chiêu mộ trai tráng trong vùng, được
trên nghìn người. Và tất cả lên đường theo Hai Bà ra
trận. Chiến thắng trở về, ông lập đồn binh ở Phú
Đa và mất tại đây ngày mùng 3 tháng
Tư.
___________________________________
1.
Đây là thần tích của sáu làng Vĩnh nói trên. Ở quyển
“Một số truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng”
của Ty Văn hóa Hà Sơn Bình - năm 1979 - lại chép ba vị
này tự tự hoặc chết ở giếng làng Vĩnh Thuận.
TỈNH
HƯNG YÊN
THỊ XÃ HƯNG YÊN
TRẦN
LŨU:
Thôn Đào Đặng, xã Trung Nghĩa, thị
xã Hưng Yên thờ Trần Lữu, người đã phù Hai Bà Trưng
đánh giặc.
Ông có bảy người con, đều có sức
khỏe hơn người, thạo võ nghệ, giỏi văn chương. Nghe
tin Hai Bà dấy binh ở Hát Giang, cha con ông Trần Lữu đến
bái yết xin được đi đuổi giặc. Đuổi xong Tô Định,
tám cha con đều được phong là đại tướng và về lập
doanh trại ở bản quán. Sau này tất cả đều hi sinh ở
Cấm Khê.
TRẦN MÃ
CHÂU:
Thôn Bảo Châu, xã Quảng Châu thị
xã Hưng Yên thờ bà Trần Mã Châu, nữ tướng của Hai Bà
Trưng. Cô là con bộ chủ Trần Thành và bà Trương Thị
Hoan, vốn quê ở huyện Lương Giang phủ Thiệu Thiên, châu
Ái. Cô mồ côi mẹ khi chưa đầy một tuổi, được bà
nhũ mẫu là Sơn Lạc nuôi dưỡng. Đến tuổi trưởng
thành theo học Lý tiên sinh.
Thuở đó, ông Trần
Thành là bộ chủ huyện Nam Xương, đã cùng ông Thi Sách
là chồng bà Trưng Trắc khởi binh chống Tô Định song cả
hai đều bị giặc Tô giết hại. Mã Châu căm hờn, cắt
tóc cải trang làm ni cô đến chùa Bảo Châu trụ trì. Cô
ngầm chiêu tập binh mã. Gái trai khoảng hai trăm người
đến xin làm gia thần, luyện tập binh pháp tinh nhuệ. Kịp
khi Bà Trưng khởi nghĩa, Mã Châu liền đem gia thần nhập
vào đại binh của Bà Trưng. Sau nhiều trận, Tô Định
đại bại phải bỏ trốn.
Ba năm sau, Mã Viện kéo
quân sang. Trong một trận đánh không ngang sức, Mã Châu
một mình một ngựa phá vòng vây chạy về đến Bảo
Châu thì hóa. Nhân dân thương tiếc lập đền thờ.
VŨ
THỊ THỤC:
Đền Tân La, thuộc xã Bảo
Khê, thị xã Hưng Yên, thờ bà Vũ Thị Thục, là một nữ
tướng của Hai Bà Trưng. Tương truyền khu vực đền là
nơi bà đóng quân. Nơi đây đã diễn ra trận thứ bảy
trong tám trận mà nghĩa quân Hai Bà Trưng giao chiến với
quân Mã Viện. Bà đã hi sinh tại trận tiền.
Thực
ra bà Vũ Thị Thục được thờ chính ở quê là làng
Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ và đặc biệt
là ở làng Tiên La, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình, đền
miếu hoành tráng, tương truyền là địa bàn chiến đấu
chính của bà và thánh hiệu của bà là Bát Nàn công
chúa.
Có thể ở Bảo Khê, Hưng Yên là nơi bà có
đóng trại một thời gian, có xảy ra chiến sự.
TRẦN
XUÂN HỒI VÀ TRẦN HỮU THIỆN:
Thôn Đặng
Cầu, xã Trung Nghĩa, thị xã Hưng Yên có hai ngôi đền
thờ hai vị tướng của Hai Bà Trưng. Đền Cây Đa thờ
ông Trần Xuân Hồi và đền Đức Đại Vương thờ ông
Trần Hữu Thiện. Chưa rõ sự tích.
HUYỆN ÂN THI
QUÁCH NGỌC CHI VÀ
HAI NGUỜI CON:
Ở Thôn Nhân Vũ, xã Nguyễn
Trãi, huyện Ân Thi thờ bà Ngọc Chi và hai người con cùng
tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Bà là con gái ông
Quách Đình Hổ, làm tri phủ Thiên Thi. Chồng bà là ông
Hoàng Văn Ân quê ở Hoan Châu. Một thời gian, ông Hổ già
yếu nhường quyền cho vợ chồng Ngọc Chi. Họ sinh được
hai trai là Hoàng Văn Miệng và Hoàng Văn Long, thông minh
tài bộ, học văn học võ tinh thông. Khi hai người con đến
tuổi 14, 15 thì cha chết. Cũng lúc đó Hai Bà Trưng khởi
nghĩa ở Phong Châu. Ngọc Chi và hai con chiêu tập được
sáu nghìn quân, đến bái yết Hai Bà Trưng. Sau đó họ
theo Hai Bà đi đánh 65 thành. Đất nước thanh bình chưa
lâu thì Mã Viện sang xâm lược. Trong trận đánh ở Hát
Môn, hai chàng Miệng và Long đều hi sinh. Bà Ngọc Chi trở
về quê nhà rồi cũng từ trần.
TÍN
YẾT:
Thôn Tiêu Kiều, xã Bãi Sậy, huyện
Ân Thi thờ ông Tín Yết. Nguyên thân mẫu chàng là bà
Phương Dung đi tắm ở đầm rồi về mang thai sinh hạ ra
chàng. Tín Yết thông minh, tuấn tú, năm 17 tuổi văn võ
đã kiêm toàn. Khi Hai Bà tụ nghĩa ở Hát Môn, Tín Yết
tới ra mắt, được phong chức Chỉ huy sứ tiền đạo
tướng quân. Sau trận Cấm Khê, Tín Yết cũng tự trầm
trên sông Hát.
HƯƠNG
THẢO:
Làng Bích Tràng, xã Tiền Phong,
huyện Ân Thi thờ một người có công trong cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng. Đó là cô Hương Thảo. Cô chỉ là một
người giỏi đồng áng, đặc biệt có tài cắt cỏ,
tương truyền cô cắt nhanh tới mức châu chấu bay không
kịp, chết hàng loạt. Vì vậy mọi người gọi cô là
Thảo. Khi Hai Bà Trưng phất cờ nổi dậy, cô Thảo xin
gia nhập đoàn nghĩa binh do bà Thánh Thiên chỉ huy, cô
được giao nuôi đội quân voi ngựa. Cô Thảo về quê
dựng nhiều trại cỏ, rủ các cô gái trong vùng đi cắt
cỏ phục vụ đoàn voi chiến, ngựa chiến. Sau khi đuổi
Tô Định, bà Trưng Trắc lên ngôi vua phong cô là Hương
Thảo tướng quân. Ba năm sau Mã Viện sang, cô vẫn ở tại
Bích Tràng lo cung cấp cỏ cho voi ngựa. Khi giặc kéo đến,
bắt Hương Thảo giao toàn bộ trại cỏ cho chúng, cô giả
vờ đồng ý hẹn ngày giao trại. Nhưng cô đã cho đốt
trại và giặc trở tay không kịp đều bị chết thiêu.
Hương Thảo cũng hy sinh, được dân thờ ở trong chùa Cỏ,
tương truyền là nền nhà cũ của cô.
LÔI
LÂU CÔNG CHÚA - NGUYỆT HOA CÔNG CHÚA
Cũng
ở thôn Bích Tràng có ngôi nghè thờ Lôi Lâu công chúa -
Nguyệt Hoa công chúa. Tương truyền là tướng của Hai Bà.
Chưa rõ sự tích.
HUYỆN KIM ĐỘNG
BÀ
HỒNG NƯƠNG VÀ HAI CON LÀ PHỔ HỘ THƯỢNG SĨ, LINH LÔI.
Thôn Bồng Châu, xã Phú Cường, huyện Kim Động
thờ ba mẹ con bà Hồng Nương. Hồng Nương chính gốc quê
huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, Sơn Nam hạ đạo, lấy
chồng ở thôn Bồng Châu. Sau khi sinh con thứ hai là Linh
Lôi thì chồng mất, bà nuôi dạy hai con khôn lớn rồi
theo nghĩa quân Hai Bà Trưng diệt giặc. Sau khi đuổi giặc
Tô, ba mẹ con bà ở lại kinh đô. Trong một lần về quê
Thiên Bản thì gặp cơn giông. Một con rồng vàng từ trên
trời sa xuống và rước ba mẹ con bà lên trời.
NƯỚC
CÔNG VÀ ĐÌNH CÔNG
Thôn Mai Viên, xã Song
Mai, huyện Kim Động thờ hai vị trên, vốn là con quan tri
phủ họ Dương tên Đào, người Xích Đằng. Năm hai chàng
lên 5 tuổi, Dương tri phủ bị Tô Định giết. Phu nhân
liền đem hai người con trốn về làng Tư Viên. Nghe tin
Hai Bà dấy binh, hai chàng đến bái kiến. Sau khi dẹp yên
Tô Định, hai chàng trở về Tư Viên thăm mẹ. Trên đường
đi, gặp trời tối, nước sông dâng cao đón hai người
về thủy cung. Hai Bà Trưng phong Nước Công làm Bến Nước
đại vương và Đình Công làm Đang Đình đại vương.
HÙNG DŨNG ĐẠI
VƯƠNG VÀ Ả NÀNG CÔNG CHÚA:
Làng Phú Khê,
xã Thọ Vinh, huyện Kim Động thờ hai tướng của Hai Bà
Trưng là hai vị trên. Hùng Dũng là con ông Hùng Đức ở
làng Bồng Lai, huyện Từ Liêm, đạo Sơn Tây. Hùng Dũng
đến thụ giáo với Đào tiên sinh ở phường Thịnh
Quang, huyện Thọ Xương. Thấy thông minh tài bộ, tiên
sinh bèn gả con gái là Ả Nàng cho chàng. Bấy giờ Tô
Định đã nhiều lần tới cầu hôn Ả Nàng nhưng đều
bị từ chối nên hắn lập mưu giết ông Đào. Vợ chồng
Hùng Dũng nghĩ kế báo thù, ngầm chiêu mộ binh sĩ, lập
thành một đội quân. Cũng lúc đó Hai Bà Trưng khởi
nghĩa, vợ chồng Hùng Dũng liền tới hội quân, lập công
lớn. Ông Dũng được phong là Trấn Quốc đại vương và
Ả Nàng được phong là công chúa. Sau này trong trận Cấm
Khê, hai ông bà đều hy sinh.
HUYỆN PHÙ CỪ
NGUYỄN VIẾT QUANG,
VIẾT CƯ, VIẾT VÕ:
Đình Nghĩa Vũ, xã
Minh Tân, huyện Phù Cừ, thờ ba anh em họ Nguyễn là Viết
Quang, Viết Cư, Viết Võ. Họ là con ông Nguyễn Huy Thành
và bà Đào Thị Ánh, vốn quê ở châu Bố Chính sau rời
ra sinh sống ở Khoái Châu. Lúc đó Hai Bà khởi binh, ba
anh em họ Nguyễn tới đầu quân lập nhiều chiến công.
Nhưng đến trận Cấm Khê thì cả ba đều hi sinh.
ĐỖ
QUỐC UY
Thôn Tân Tiến, xã Minh Tân, huyện
Phù Cừ thờ một vị tướng của Hai Bà là Đỗ Quốc
Uy. Chưa rõ sự tích.
HUYỆN TIÊN LỮ
ĐỘNG TẦN HỒNG
LOAN CÔNG CHÚA:
Thôn Bái Khê, xã Cương
Chính, huyện Tiên Lữ thờ nữ tướng này. Tương truyền
thân phụ của bà là phủ quan ở Hải Dương bộ đã cùng
ông Thi Sách dấy binh chống Tô Định song đều bị sát
hại. Bà Động Tần liền theo Trưng Vương khởi binh. Được
Trưng Vương phong là Động Tần Hồng Loan công chúa. Về
sau bà hy sinh tại trận tiền.
LƯU
THÁI HIỀN, THÁI THANH, THÁI THUẦN, THÁI SƠN, THỊ CHINH,
THỊ CHÂU:
Thôn Trí Thiện, xã Đức Thứng,
huyện Tiên Lữ thờ tứ vị đại vương và nhị vị công
chúa là sáu anh em họ Lưu. Chưa rõ sự tích. Thôn An Lạc
cùng xã thì thờ riêng hai bà Lưu Thị Chinh và Lưu Thị
Châu.
TRẦN MINH
TÔNG VÀ THÔI NƯƠNG:
Thôn Quyết Thắng xã
Tân Hưng, huyện Tiên Lữ thờ hai ông bà Trần Minh Tông
và Thôi Nương. Tương truyền là tướng của Hai Bà Trưng.
Chưa rõ sự tích.
HUYỆN VĂN LÂM
TRẦN CÔNG, MINH CÔNG
Thôn Phả Lê, xã Việt Hưng, huyện Văn Lâm, thờ
hai vị tướng của Hai Bà là Trần Công và Minh Công. Sự
tích chưa rõ.
TAM
GIANG:
Thôn Đại Đồng, xã Đại Đông,
huyện Văn Lâm thờ Tam Giang tương truyền là tướng của
Hai Bà. Sự tích chưa rõ.
PHƯƠNG
DUNG CÔNG CHÚA:
Đây là một tướng của
Hai Bà, được thờ ở thôn Ngọc Đà, xã Tân Quang, huyện
Văn Lâm. Sự tích chưa rõ.
HUYỆN YÊN MỸ
TRƯƠNG CÔNG ĐẠI
VÀ LÝ CÔNG MẪN
Thôn Lạc Cầu, xã Giai
Phạm, huyện Yên Mỹ thờ hai vị tướng của Hai Bà. Đó
là Trương Công Đại, con trai của Trương Công Nghiệp và
bà Lý Thị Vị. Lý Công Mẫn là con nuôi của ông bà
Trương.
Ông Công Nghiệp làm huyện quan huyện Tế
Giang, đạo Kinh Bắc. Ông sinh được một trai là Công Đại
và nuôi thêm Công Mẫn. Hai con nổi tiếng tài giỏi, thông
minh xuất chúng. Tô Định lập kế giết cả nhà họ
Trương nhưng bà Trương kịp cùng hai con trốn thoát về
Lạc Cầu. Sau họ theo Hai Bà khởi nghĩa, vừa trả được
thù nhà lại trả được nợ nước. Sau cả hai hy sinh
trong một trận đánh lại Mã Viện.
(Theo tư liệu của
Vũ Nguyên Lý)
TỈNH
VĨNH PHÚC
HUYỆN BÌNH XUYÊN
ĐẠM NƯƠNG - HỒNG
NƯƠNG - THANH NƯƠNG:
Đình làng Quất Lưu,
nay thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, thờ ba vị
nữ tướng của Trưng Vương.
Đó là ba chị em ruột
Đạm Nương, Hồng Nương và Thanh Nương, là con gái huyện
lệnh huyện Tam Dương, họ Lê. Huyện Bình Xuyên khi đó
là một bộ phận của Tam Dương. Lúc này, Trưng Vương đã
phất cờ khởi binh. Ba chị em họ Lê cũng nổi dậy hưởng
ứng, đóng đại doanh ở Quất Lưu, đắp lũy đào hào,
chiêu mộ được nhiều nghĩa sĩ, lập thêm ra sáu đồn
trại ở quanh vùng quê. Cả ba cô từng theo Trưng Vương
đi hạ thành Tô Định. Nhưng khi chống Mã Viện thì cả
ba đều hy sinh ở trận tiền.
HUYỆN MÊ LINH
(Yên
Lãng)
THIÊN
BẢO - TRẦN NANG
Làng Thái Lai nay thuộc xã
Tiến Thắng và làng Phú Mỹ nay thuộc xã Tự Lập đều
thờ hai vợ chồng Thiên Bảo - Trần Nang làm thành hoàng.
Sự tích hai tướng này đã nêu ở Chương ba.
LỰ
NƯƠNG - BẠCH TRẠCH
Xã Tráng Việt ngày
nay gồm ba thôn: Điệp Thôn tên Nôm là làng Đẹp, Tráng
Việt tên Nôm là làng Tráng và Đông Giao (không có tên
Nôm). Ở hai thôn đầu đều thờ hai chị em Lự Nương và
Bạch Trạch làm thành hoàng.
Thần tích của cả
hai làng đều kể:
Tại Quy Hóa động, châu Bố
Chính có vị tôn trưởng tên là Hùng Hiên, dòng dõi vua
Hùng. Vợ ông là bà Mai Thị Triết. Gần năm chục tuổi,
họ sinh một gái, trên đỉnh đầu có chữ Thiên Sớ Lự
Nương. Hùng Hiên liền đặt tên cho là Lự, hiệu là Ả
Nàng. Đó là ngày mùng 3 tháng Giêng. Năm năm sau, họ sinh
thêm một trai, trên đỉnh đầu có chữ Bạch Trạch nên
dùng ngay chữ đó làm tên. Đó là ngày 10 tháng Sáu.
Lớn
lên, hai chị em văn võ toàn tài. Lự Nương thay cha làm
tôn trưởng rồi làm vua cõi đất Thiên Sớ. Một lần,
hai chị em về thăm quê tổ là núi Nghĩa Lĩnh (nơi có đền
thờ các vua Hùng, tỉnh Vĩnh Phú), thuyền đi đến huyện
Chu Diên thì gặp Trưng Nhị. Hai bên thông tỏ họ tên,
nguồn gốc và nhận ra là có họ hàng với nhau. (Hai Bà
Trưng cũng là dòng dõi vua Hùng). Thế là hai chị em Lự
Nương theo Hai Bà khởi nghĩa. Chị về đóng ở Tráng
Việt, khi đó mới có ba chục nhà dân. Em về đóng ở
Điệp Thôn khi đó cũng không quá hai chục mái nhà. Họ
chiêu thêm dân lập thêm trại và sau trở thành những
tướng tài của Hai Bà.
Ả
LỰ - HÁC THẦN
Làng Đông Cao láng giềng
của hai làng trên cũng thờ một cặp hai chị em tên gọi
là Quốc Vương Thiên Sớ Ả Lự Đề Nương và Hác Thần
cửa ải. Sự tích hai vị này cũng na ná như hai chị em
Lự Nương, Bạch Trạch của hai làng Tráng Việt, Điệp
Thôn. Ngọc phả Đông Cao kể rằng:
Người con thứ
18 của Lạc Long Quân về làm vua nước Thiên Sớ ở địa
phận Thái Nguyên. Truyền đến đời thứ 27 là Hồ An
(đổi từ họ Hùng sang họ Hồ). Vợ ông là bà Bạch Thị
Phương. Năm Nhâm Tuất, ngày 4 tháng Giêng sinh một gái
đặt tên là Đề Nương. Năm sau họ lại sinh ra một bọc
trứng, nở ra một trai, đặt tên là Hác. Đề Nương thay
cha làm quốc vương Thiên Sớ. Lúc đó Hai Bà Trưng bị Tô
Định truy bắt, đã lánh đến ở nhờ nhà Đề Nương.
Sau đó họ khởi binh đánh quân Hán. Thắng lợi rồi, Đề
Nương cải tên là Ả Lự, lập cung phủ đồn binh ở
Đông Cao. Nhưng sau lễ khao quân ngày mùng 1 tháng Hai thì
Đề Nương thúc ngựa đi ra sông Nguyệt Đức bến Tiên
Tân, “thét lên một tiếng, nước rẽ đôi đón bà về
thủy cung”.
Còn chàng Hác thì sau hy sinh ở cửa
bể Nam Hải trong lần ngăn chặn quân Mã Viện.
Như
vậy phải chăng Ả Lự - Bạch Trạch của hai làng Tráng
Việt, Điệp Thôn cũng là Đề Nương - Hác Thần của
làng Đông Cao?
Thần tích ngọc phả vốn không ít
những lầm lẫn về lịch sử.
LŨ
LŨY
Thần tích làng Văn Lôi (nay thuộc xã
Tam Đồng) kể như sau: Làng Văn Lôi xưa là trang Cổ Lôi.
Trong làng có nàng Tứ là con gái một lạc tướng nhân
nằm mơ thấy đám mây sà xuống mà có mang. Nàng sinh một
trai, đặt tên là Lũ Lũy.
Khi Hai Bà Trưng khởi
nghĩa, Lũ Lũy tìm đến đại doanh đầu quân. Sau khi dẹp
xong Tô Định, Lũ Lũy về Văn Lôi lập đồn. Lúc quân Mã
Viện kéo sang, chúng bao vây đồn này gọi hàng. Nhưng Lũ
Lũy nhất định không đầu hàng. Giặc công phá. Biết
không giữ nổi đồn trại, Lũ Lũy phá vây nhưng không
sao thoát ra ngoài được. Chàng bèn rút gươm đâm cổ mà
hóa (cũng có thuyết nói ông bị giặc lấy mất đầu).
Đó là ngày mùng 3 tháng Ba. Nay ở xóm Trại có cánh đồng
Dinh tương truyền là dinh trại xưa. Thuở trước, tới
ngày kỵ, dân làng làm cỗ chay (để không đụng chạm
tới dao) và làm một thủ cấp bằng giấy đặt trên bàn
thờ.
PHỤ CHÚ - Làng Văn Lôi ở về phía tây-bắc
làng Hạ Lôi và cách làng này tới ba làng: Liễu Trì, Đại
Bái, Nội Đồng. Nhưng Văn Lôi vẫn nhận là thuộc trang
Cổ Lôi xưa - như Hạ Lôi cũng vẫn thường nhận. Vậy
có một thời đây hẳn chỉ là một đơn vị cư dân, sau
đó một bộ phận mới tách ra đi lập nên một làng mới
nhưng vẫn giữ cái gốc Lôi (Kẻ Lói?) để tưởng nhớ
nguồn gốc.
Ả
NƯƠNG - Ả NANG
Làng Yên Mạc nay thuộc xã
Yên Mạc có vợ chồng ông Vương Hinh và bà Tạ Thị Long
làm nghề trồng dâu nuôi tằm. Họ sinh được hai gái,
đặt tên là Ả Nương, Ả Nang. Khi bà Trưng truyền hịch,
hai chị em họ Vương chiêu tập được gần một nghìn
dũng sĩ, tới hội quân ở Hát Môn. Hai cô được cử đi
tuần du hai bộ Tây và Bắc. Tới núi Trâu Sơn ở huyện
Tiên Du (nay núi này thuộc huyện Quế Võ, Bắc Ninh), hai
cô đồn trú lại. Sau đó cả hai chị em góp công lớn
trong việc hạ dinh Tô Định. Thắng lợi rồi, hai cô về
khao thưởng quân gia tại làng quê Yên Mạc. Nhưng sau tiệc
mừng là hai chị em đều hóa cùng lúc.
CỐNG
SƠN
Làng Bạch Trữ nay thuộc xã Tiến
Thắng vốn là thực ấp của Cống Sơn đại vương.
Nguyên tại châu Ái, phủ Trường Yên, động Hoa Lư
có vợ chồng ông Hoàng Công Tạo và bà Đinh Thị Điền
là người hiền, mấy đời làm nghề thuốc. Họ sinh có
một trai đặt tên là Cống. Năm Cống 22 tuổi thì bố mẹ
kế tiếp qua đời. Cống dời Hoa Lư ra bắc tìm đến ở
với cậu ruột là Đinh Đạm làm trưởng bộ hộ Vũ
Ninh. Nhưng chỉ ít lâu sau ông Đạm bị Tô Định giết
hại. Đinh Cống trở về Hoa Lư dạy học. Là một người
thày có đức độ lại có tài giáo dưỡng nên môn sinh
đến rất đông, tiếng tăm của thầy vang đi xa.
Khi
Hai Bà khởi nghĩa, bà Trưng Nhị thân hành đến Hoa Lư
mời Đinh Cống ra hành doanh “thao luyện binh mã, huấn
diễn binh thư”. Sau thắng lợi, Đinh Cống được cấp
thực ấp ở Thủy Trung châu tức nay là Bạch Trữ. Các
đời vua sau phong là Cống Sơn đại vương1.
ĐỨC CẢ ĐỨC HAI
- ĐỨC BA
Họ là anh em sinh ba, con ông
Trương Long và bà Phùng Thị Loan, nguyên quán hương Lưu
Xá, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam. Nghe tin Hai Bà khởi
nghĩa, ba anh em rủ thêm ba mươi bạn hữu đến Hát Môn
đầu quân. Tất cả đều dự trận đánh Tô Định. Nhưng
khi đã hạ được thành thì ba anh em đều hóa cùng một
lúc. Làng Trung Hậu lập đền thờ vì nơi đây có một
tòa cổ miếu mà bà Phùng Thị Loan đã tới cầu tự sau
đó sinh ra ba chàng trai dũng sĩ ấy.
XA
LAI
Ba làng Yên Điềm, Cao Quang, Đức Cung
nay hợp thành xã Cao Minh (trước thuộc huyện Kim Anh nay
thuộc huyện Mê Linh) và đều thờ Xa Lai, một tướng của
Hai Bà Trưng. Thực ra, đời cổ cả ba làng chỉ là một
đơn vị cư dân thuộc huyện Bình Tuyền, đạo Thái
Nguyên. Ban đầu gọi là trại Linh Sơn, sau đổi thành
Linh Quang. Cuối cùng thành ba làng như hiện nay.
Thần
tích kể rằng ở đất Long Biên có cô Đặng Huệ Nương
tính thích du ngoạn. Lần đó, cô đến trại Linh Sơn nơi
làng Cao Quang ngày nay thấy có chùa (?) đẹp liền ở lại
tu hành. Rồi một hôm qua tòa cổ miếu ở chân núi Thằn
Lằn có đám mây xà vào người. Thế là cô có mang, sinh
ra Xa Lai.
Xa Lai sau rủ được ba mươi lăm bạn bè
theo cánh quân bà Trưng Nhị đi đánh Tô Định. Xong việc,
chàng về lập đồn tại Cao Quang. Tới khi Mã Viện xâm
lăng, hắn cho quân tới đánh đồn này và Xa Lai đã chết
trong trận chiến.
____________________________________
1.
Bố họ Hoàng, mẹ họ Đinh, như vậy là ông thần Cống
Sơn này theo về họ mẹ. Điều đó vẫn thường thấy
trong các thần tích. Ví dụ ông thần làng Lệ Mật (Gia
Lâm - Hà Nội) có bố là Nguyễn Quang, mẹ là Hoàng Thị
Tâm vậy mà tên của ông là Hoàng Quý Công.
VĨNH
HOA
Làng Trung Hà nay thuộc xã Tiến Thịnh,
thờ Vĩnh Hoa. Nhân vật nữ tướng này còn được thờ ở
làng Tiên Nha, xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh
Phú, tức là làng đối diện với Trung Hà so với cửa
sông Nguyệt Đức tức Cà Lồ ngày xưa (nay không còn vì
đã bị lấp).
Ngoài ra Vĩnh Hoa còn được thờ ở
làng Trung Hà bên bờ phải sông Hồng thuộc huyện Đan
Phượng. Sự tích nhân vật này đã nêu ở phần huyện
Đan Phượng.
CHÀNG
HỐI
Làng Thịnh Kỷ nay thuộc xã Tiền
Châu là căn cứ của Đông Hối đại vương tức Chàng
Hối, một thủ lĩnh nghĩa quân đã nổi dậy chống quân
Hán trước ngày Hai Bà khởi binh. Sự tích Chàng Hối đã
được kể lại ở Chương ba.
HẢI
- TRỰC - ÚT
Làng Chu Phan nay thuộc xã Chu
Phan thờ ba tướng lĩnh của Hai Bà là Hải Thần, Nhật
Trực và Chàng Út nhưng sự tích thất truyền.
Làng
Chu Phan bên huyện Đan Phượng cũng thờ ba vị này. Về
quan hệ giữa hai làng Chu Phan sẽ trình bày ở Phần Phụ
chú cuối mục Vĩnh Gia dưới đây.
VĨNH
GIA
Làng Nại Châu, nay thuộc xã Chu Phan là
nơi thờ chính công chúa Vĩnh Gia. Thần tích kể rằng:
Tại bãi Quân Thần, thuộc huyện Từ Liêm có nhà họ Tạ
sinh hạ một gái, đặt tên là Vĩnh Gia. Năm cô 20 tuổi,
được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, cô đứng ra chiêu mộ
được hai nghìn nam binh nữ tốt rồi kéo lên Hát Môn tụ
nghĩa. Cô được cắt cử đi trấn “Tây Bắc nhị lộ
chư biên giang bạn”. Nhân một lần trẩy quân qua trại
Cống Áng (sau đổi là Nại Tử Châu) ở sát cạnh sông
Cái thấy có địa thế đồn binh liền đứng lại lập
trại quân.
Và sau, trong một trận chống quân Mã
Viện, cô phải rút chạy, tới Bạch Hạc giang tân (bến
sông Bạch Hạc, tên gọi khúc sông Hồng từ ngã ba Hạc
đến hết địa phận huyện Bạch Hạc) thì có “thần
ngưu” nổi lên đón qua sông. Khi đi tới đầu trang Mạnh
Lân (sau đổi là Mạnh Trữ, làng láng giềng của Nại Tử
Châu) có “rồng vàng hạ xuống đón cô lên trời”. Đó
là ngày 10 tháng Mười Một.
Thủa trước, tới
ngày kỵ này, dân làng sửa tiệc cúng gồm bánh dày và
bánh cuốn, nửa nhuộm đỏ, nửa để trắng.
Làng
Yên Châu huyện Đan Phượng cũng có lập đền thờ Vĩnh
Gia.
PHỤ CHÚ - Ở hai bên bờ sông Hồng vẫn có
hiện tượng “chạy lở” tức là dòng sông thường làm
lở bờ, mà là lở cả làng theo chu kỳ, cứ trên dưới
một trăm năm lại xảy ra một lần. Lại do quy luật
“sông kia bên lở bên bồi” nên dân làng bị lở bên
này đa số sang bờ bên kia lập làng mới, trừ một số
nhỏ ở lại trên những dải đất còn sót. Tới một hai
trăm năm sau, làng mới này bị nước sông đe dọa thì
dân lại chạy về bên này sông. Ngoài ra cũng có những
làng do dân đông lên nên sẻ làng làm hai, một nửa ở
bên này, một nửa sang bên kia sông. Cho nên ở hai bên
sông Hồng chỉ nói phạm vi huyện Yên Lãng (nay gọi là
Mê Linh) bên bờ trái và huyện Đan Phượng bên bờ phải
thường có những cặp đôi. Như ở huyện Yên Lãng bên
bờ trái sông Hồng có những làng Chu Phan, Thanh Điềm,
Trung Hà, Thọ Lão, Sa Khúc, Nại Tử Châu, Nại Tử Xã thì
bên huyện Đan Phượng cũng có những làng như vậy. Từng
cặp làng đó vẫn coi nhau cùng một gốc và đền thờ
chung một thành hoàng như:
Hai làng Chu Phan thờ Nhật
Trực, Hải Thần, Chàng Út
Hai làng Thanh Điềm đều
thờ Ngu Lan và Trương Nam Uyên.
Hai làng Trung Hà đều
thờ Vĩnh Hoa.
Hai làng Thọ Lão đều thời Trần
Liễu và vợ là Lã Thị Hồng cùng Trần Quang Khải, Trần
Quang Thành.
Hai làng Sa Khúc (Nại Sa) đều thờ Quý
Minh.
Hai làng Nại Tử Xã đều thờ Thi Sách và Hai
Bà Trưng.
Hai làng Nại Tử Châu đều thờ Vĩnh
Gia.
Cũng khó khẳng định làng nào là làng gốc vì
trải mấy nghìn năm, biết bao lần “chạy lở”1,
sách vở không có ghi chép mà bằng vào ký ức con người
thì mức độ chính xác không vượt quá vài trăm năm.
Cho nên chưa rõ Nại Tử Châu nói ở thần tích
Vĩnh Gia chính là ở bên Đan Phượng hay Yên Lãng.
____________________________________
1.
Trường hợp “chạy lở” xảy ra gần đây nhất là ở
Nại Nam thuộc xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng. Làng này
do một số dân làng Nại Tử Xã, Nại Tử Châu bên huyện
Yên Lãng sau một vụ lở bờ sông đã chạy sang đây lập
ra vào hồi cuối thế kỷ XIX. Tới cuối năm 1972, Nại
Nam bị lở cả làng. Dòng sông Hồng nay chảy ở chính
giữa ngôi đình cũ.
HUYỆN VĨNH TƯỜNG
NGỌC THANH - NGỌC
TRINH:
Đây là hai cô con gái trang Lũng
Ngòi, nay thuộc xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường. Cô chị
còn gọi là Ả Chàng, cô em là Ả Chạ. Lúc đó có viên
quan đô hộ nhà Hán sai người đến bắt Ả Chàng về
làm thiếp. Uất hận, Ả Chàng đã qua đời. Cô em là Ả
Chạ quyết trả thù cho chị, đã đi nhiều nơi tập hợp
những người cùng căm ghét giặc Hán. Họ tập hợp thành
một đoàn quân, thường đánh các đồn giặc. Sau họ về
Hát Môn hội quân, theo Hai Bà Trưng đi đánh Tô Định.
Sau chiến thắng, Trưng Vương phong cho nàng là Ngọc Trinh
công chúa, cho về đóng đồn ở trang Đàm Luân (nay cũng
thuộc xã Lũng Hòa). Ba năm sau, Mã Viện sang xâm lăng, Ả
Chạ đã chiến đấu rất dũng cảm rồi hy sinh ngay tại
trang Đàm Luân này.
ĐỐNG
VỊNH:
Làng Thượng Lạp, xã Tân Tiến thờ
Đống Vịnh, được coi là tướng của Trưng Vương, tương
truyền là hy sinh trên dòng sông Phó Đáy.
HUYỆN YÊN LẠC
VĨNH
HOA:
Phùng Vĩnh Hoa, quê ở Mao Điền, đạo
Hồng Châu, từ nhỏ đã học võ nghệ và văn chương. Lúc
đó giặc Hán Tô Định cai trị rất tàn bạo. Năm 18
tuổi, bố mẹ lần lượt qua đời, nàng trao gia sản cho
ông cậu rồi ra đi tìm cách diệt giặc. Đến trang Tiên
Nha, nay thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, thấy địa
thế đẹp nàng bèn ở lại rồi liên kết với nghĩa sĩ
bốn phương. Kịp lúc đó, Hai Bà Trưng phát hịch khởi
binh. Vĩnh Hoa bèn cùng bạn hữu tới đầu quân. Sau nhiều
chiến công, Trưng Vương phong cho nàng là Vĩnh Hoa công
chúa, lấy trang Tiến Nha làm “chính đồn”, trang Trung
Hà bên kia sông là “thứ đồn” (xem thêm mục Vĩnh Hoa
ở phần huyện Đan Phượng, Hà Tây). Ba năm sau, trong trận
đánh Mã Viện, thế cùng, nàng đã tự trầm trong dòng
sông Nguyệt Đức.
KHÂU
NI:
Trang Nhật Chiêu nay thuộc xã Liên
Châu, huyện Yên Lạc thờ một nữ tướng của Trung Vương
là Khâu Ni. Nàng tên thật là A, con gái ông bà họ Quách,
làm nghề thuyền chài. Có viên quan đô hộ nhà Hán định
bắt cô làm thiếp. Cũng thời gian đó bố mẹ cô qua đời,
cô liền gọt tóc đi tu. Khi ấy mới có 16 tuổi. Cô xưng
là Khâu Ni tìm về trú ngụ tại Ngã Ba Hạc. Nuôi chí
diệt thù, Khâu Ni bí mật tập hợp những người cùng
chí hướng chống giặc Hán. Khi Hai Bà hội quân ở Hát
Môn, Khâu Ni đến dưới cờ lĩnh mệnh, được giao chỉ
huy thủy binh đánh vào thành Tô Định. Sau thắng lợi,
Khâu Ni được phong là công chúa, lấy đất Nhật Chiêu
làm thực ấp. Nhưng chỉ hai năm sau cô qua đời, chưa kịp
tham gia chống Mã Viện.
Như vậy, ở châu thổ sông Hồng có nhiều làng thờ
các vị tương truyền là tướng của Trưng Vương. Đó là
tư liệu văn hóa dân gian. Song có một điều đáng lưu ý
là ở những nơi đó hoặc gần đó thường có những địa
điểm khảo cổ học thuộc các giai đoạn văn hóa từ
Phùng Nguyên tới Đông Sơn. Điều này có nghĩa là vào
thời kỳ Hai Bà Trưng, những làng ấy đã thuộc phạm vi
những điểm tụ cư đông đúc.
Ngoài ra, ở các
địa điểm trên cũng có nơi còn bảo lưu những tục lệ
hèm húy được người dân địa phương coi là có từ
thời kỳ Hai Bà Trưng nhưng thực tế rất có thể là
những tia ảnh xạ của các thời xa xưa hơn. Như ở làng
Hạ Lôi (Thạch Thất) vào ngày lễ Hai Bà Trưng mùng 6
tháng Mười có một lệ mở tiệc thịt trâu lột. Phải
chăng đó chỉ là lặp lại một mặt sinh hoạt của nghĩa
quân Hai Bà hay còn là tàn dư của tục lệ hiến tế thời
kỳ bộ lạc sống chủ yếu về săn bắn?
Hoặc ở
Hạ Trì (Từ Liêm) vào ngày mồng 7 tháng Ba giỗ bà Sa
Lương, tướng của Hai Bà Trưng có lệ bơi chải trên
sông Hồng. Đó chỉ là nhắc lại một buổi luyện tập
thủy quân của Sa Lương hay còn là ảnh xạ của ngày hội
nước đón trăng thời bình minh lịch sử.
Hay như
ở vùng Gối có lệ mở hội chèo tàu tượng mà
theo lời truyền ngôn thì là hội tưởng nhớ cuộc trẩy
quân của Hai Bà Trưng. Gối là tên Nôm chỉ chung một cụm
nhiều làng nay thuộc huyện Đan Phượng, có tên Hán Việt
là Thượng Hội, Hạ Hội, Thúy Hội, Đan Hội, Vĩnh Kỳ,
Phan Long, Ngọc Kiệu và Hạnh Đàn. Tại đây cứ vài chục
năm lại một lần mở hội chèo tàu tượng. Vào năm mở
hội, dân bốn làng Thượng Hội, Thúy Hội, Vĩnh Kỳ,
Phan Long chung nhau dựng lại cánh đồng Ngói (thuộc Thượng
Hội) những cung điện (bằng tre nứa) để làm nơi diễn
xướng. Hai chiếc thuyền rồng bằng gỗ, có bánh xe di
chuyển, mỗi thuyền là nơi đứng của mười ba diễn
viên, đều là nữ gồm một chúa tàu, hai cái tàu
và mười con tàu. Con tàu vừa hát vừa múa vừa
biểu diễn động tác chèo tàu (thuyền). Cái tàu gõ
sênh giữ nhịp cho con tàu hát. Chúa tàu thì điều
khiển chung.
Lại còn có hai con voi đan bằng tre đặt
trên bộ gỗ, cũng có bánh xe di chuyển. Mỗi voi có hai
quản tượng quản tiền và quản hậu, cũng
đều là nữ. Các người này cũng sẽ vừa múa vừa hát
đối đáp với các con tàu bên thuyền rồng.
Thuyền
rồng và voi - tàu và tượng - đặt song song nhau, bên này
hát một câu thì bên kia hát đáp lại.
Tục lệ này
theo một truyền ngôn ở địa phương là có từ ý thức
kỷ niệm Hai Bà Trưng: xưa Hai Bà đã trẩy quân qua vùng
này, tàu thuyền tấp nập trên sông Nhuệ, voi ngựa rầm
rập trên đường cái. Dân làng có nhiều người đi theo
nghĩa quân. Sau để tưởng nhớ sự kiện đó, dân đặt
ra lệ hội chèo tàu tượng.
Như thế, theo truyền
thuyết ấy, ở thời kỳ Hai Bà Trưng ở vùng Gối đã là
một điểm cư dân đông đúc. Điều này lại được một
phong tục cổ hỗ trợ.
Nơi đây còn bảo lưu một
phong tục mà theo M.O.Côsven trong “Sơ yếu lịch sử
văn hóa nguyên thủy” thì là một phong tục có từ
thời chế độ mẫu quyền phát triển tức thời kỳ cuối
Đồ đá mới. Đó là phong tục kết hôn rất đặc biệt:
phụ nữ đi lấy chồng nhưng ngay sau hôm cưới không ở
lại nhà chồng mà trở về nhà mình làm ăn sinh hoạt như
cũ. Sau một thời gian ngắn là dăm tháng, dài là vài ba
năm - cô dâu mới sang ở hẳn bên nhà chồng. Cho tới
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, phong tục đó vẫn
phổ biến.
Đây chính là tàn dư khá đậm nét của
một hình thức hôn nhân gọi là “cư trú riêng lẻ”,
sản phẩm của giai đoạn phát triển của thời kỳ mẫu
quyền. Như thế vùng Gối rõ ràng là một điểm tụ cư
cổ từng có tới vài ba nghìn năm lịch sử. Vậy nghĩa
quân Hai Bà có qua đây, để lại một kỷ niệm đậm đà
thì cũng là điều rất có thể có.
Còn về các tướng lĩnh thì qua sự tích của họ
có thể nói rằng “không có lửa, sao có khói”. Đành
rằng trong thực tế, đời sống của họ tất không hẳn
đúng y như truyền thuyết, ngay cả họ tên của họ cũng
vậy.
Ở đầu công nguyên liệu đã có chữ Thị
để chỉ phụ nữ chưa? Cũng đã có những mỹ tự Thành
Công, Thủy Hải, Nàng Tế v.v... chưa? Hay cũng là cô gái
trẻ mà nơi gọi là ả (Ả Lã, Ả Lự) nơi lại
gọi là nàng (Nàng Tía, Nàng Quốc). Đó là cách gọi
của từng địa phương thời bấy giờ hay thời sau? Có
nơi lại gọi kết hợp cả hai: Ả Lã Nàng Đê (Tiếng
Mường hiện có từ nàng ả chỉ con gái đầu của
nhà lang. Tiếng Tày có từ ả và tiếng Thái có từ
a đọc kéo dài đều có nghĩa là cô). Hoặc
rõ ràng là có sự lẫn lộn giữa một vài nhân vật, như
Ả Lự của hai làng Tráng Việt - Điệp Thôn rất giống
Đề Nương của Đông Cao, hay gốc gác Chàng Hối thành
hoàng làng Thịnh Kỷ chẳng khác gì gốc gác bà Thánh
Thiên ở Ngọc Lâm, huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang1.
Nhưng dù sao trong thực tế hẳn phải có những con
người thật sự đã đứng lên chống quân Hán!
PHỤ
CHÚ - Vẫn theo các thần tích, ngoài những nhân vật đã
nêu ở trên còn một số tuy hoạt động ở những vùng
khác nhưng có quê quán ở Đường Lâm. Ngày nay Đường
Lâm là một xã thuộc huyện Ba Vì. Trong xã có thôn Cam
Lâm - nguyên chính tên là Đường Lâm - là quê của Phùng
Hưng và Ngô Quyền.
Nhưng trong thực tế, ở thôn
này ngoài sự tích hai vua họ Phùng và họ Ngô thì không
hề nghe kể về một nhân vật nào ở thời kỳ Hai Bà
Trưng. Có thể đây là một huyện (hoặc có thời còn gọi
là châu) Đường Lâm một đơn vị hành chính có từ thời
Bắc thuộc, bao gồm vùng đất ngày nay là khu vực các
huyện Ba Vì, Quốc Oai, Chương Mỹ và Mỹ Đức. Ngô Thì
Sĩ từng chỉ ra: “Đường Lâm ở vào quãng huyện Hoài
An và huyện Mỹ Lương”. Hoài An nay là phần đất huyện
Mỹ Đức và một phần huyện Ứng Hòa. Mỹ Lương nay là
khu vực các huyện Quốc Oai, Chương Mỹ.
____________________________________
1.
Theo thần tích làng Thịnh Kỷ (huyện Mê Linh) thì Chàng
Hối quê ở Bích Uyển (Kinh Môn - Hải Dương), con ông
Nguyễn Huyên, có cậu bị Tô Định giết và sau đóng
quân ở Ký Hợp. Theo thần tích của làng Ngọc Lâm thì
Thánh Thiên cũng quê ở Bích Uyển, cha cũng là Nguyễn
Huyên, cậu cũng bị Tô Định giết và sau cũng đóng đồn
ở Ký Hợp. Như vậy nếu không phải là một người thì
họ cũng phải là anh hoặc chị em ruột. Nhưng cả hai bản
thần tích đều không ghi như vậy. Do đó phải có một
bản chép lẫn. Nếu lấy địa đếm Ký Hợp làm chuẩn
thì thần tích Chàng Hối đáng tin hơn. Vì đúng có trang
Ký Hợp, tên gọi cổ của làng Yên Lãng, nay thuộc về
xã Lý Hải, huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc). Còn bên tỉnh
Bắc Giang thì ở huyện Yên Dũng chẳng có làng nào tên
gọi Ký Hợp mà ở các huyện khác cũng không hề có địa
danh này.
BA
CHỊ EM BÀ DUỠNG
Có một cặp vợ chồng
quê ở Đường Lâm, vì nghèo khó phải bỏ làng đi tha
phương cầu thực. Cuối cùng họ trú lại ở thôn Nội
Phật (nay là xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phú). Họ
có ba con, đầu lòng là cô Dưỡng, hai em trai là Bạc và
Bỉnh.
Ba chị em đi theo Hai Bà từ ngày đầu khởi
nghĩa. Khi Mã Viện sang, cả ba đều hy sinh trong trận đánh
bên bờ đầm Xuôi Ngành. Dân làng thương cảm lập miếu
thờ ngay cạnh đầm này, nay vẫn còn gọi là miếu Ba Vị.
BA ANH EM HỌ ĐẶNG
Ở Đường Lâm có ông Đặng Long làm nghề
dạy học. Nghèo túng nên ông và vợ là bà Phạm Thị
Phương đến ở tại vùng Đồng Núi (nay là thôn An Sơn,
xã Đông Sơn, huyện Chương Mỹ, Hà Tây). Họ sinh ba trai,
đặt tên là Cả, Hai và Ba.
Ba anh em họ Đặng này
đã lập được một đội quân theo Hai Bà đi đánh Tô
Định. Thắng lợi rồi, họ được Hai Bà cho về lập
đồn dựng ải tại Đồng Núi đề phòng giặc. Sau đó
cả ba đều hy sinh trong cùng một trận chống trả quân
Mã Viện tới hạ đồn. Hiện nay ở đầu thôn An Sơn còn
có một gò cao tương truyền là nơi ba anh em họ Đặng tụ
hội nghĩa quân.
CHIÊU
TRUNG - ĐỖ LÝ
Đó là hai anh em sinh đôi,
con trai ông Đỗ Bang ở Đường Lâm.
Họ đến Hát
Môn tụ nghĩa rồi được giao đem quân đi đánh giặc Hán
ở mạn phía Nam. Họ đến vùng hai thôn Trung Thịnh và
Yên Trường (nay thuộc xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa,
Hà Tây) xây thành đắp lũy. Sau này, khi Mã Viện xâm
lược, hai anh em họ Đỗ đã hy sinh ngay tại chân thành,
chỗ bây giờ gọi là Lăng Miễu hoặc Bãi Miễu. Ở thôn
Yên Trường và thôn Trung Thịnh hiện còn đền thờ hai
người anh hùng này, còn có những dấu tích thành lũy của
họ.
Ả LAN - CHÀNG
TUẤN
Sự tích hai vị này đã nêu ở
Chương ba.
THỦY
HẢI - ĐĂNG GIANG
Đây là hai tướng lĩnh
của Hai Bà, có quê là Đường Lâm nhưng ngụ cư ở trại
Hà Hào bên huyện Đông Anh. Sự tích hai vị này đã nêu
ở khẳn huyện Đông Anh.
Chương Sáu
CÁC
DI TÍCH
Các di tích thuộc về Hai Bà Trưng gồm có ba ngôi
đền chính mà cả nước đều biết tiếng. Đó là đền
Hạ Lôi ở huyện Yên Lãng cũ (nay là huyện Mê Linh, Vĩnh
Phúc), đền Hát Môn ở huyện Phúc Thọ (Hà Tây) và đền
Đồng Nhân ở quận Hai Bà Trưng (Hà Nội).
Ngoài
ra còn có năm nơi thờ khác nhưng chỉ được biết tới
trong phạm vi một vài làng. Đó là đình Vân Môn ở xã
Trung Châu (huyện Đan Phượng - tỉnh Hà Tây), đình Nại
Tử Nam ở xã Hồng Hà (huyện Đan Phượng - tỉnh Hà
Tây), đình Nại Tử Xã ở xã Chu Phan (huyện Mê Linh -
tỉnh Vĩnh Phúc), đình Cư An ở xã Tam Đồng (huyện Mê
Linh - tỉnh Vĩnh Phúc) và đền làng Hạ Lôi - Bằng Trù
(huyện Thạch Thất - tỉnh Hà Tây).
Còn có một
loại di tích khác cũng đáng được chú ý tới đó là
hai tòa thành ở trên đất huyện Yên Lãng cũ: thành Hạ
Lôi tương truyền là do bà Trưng Trắc cho đắp để làm
đô thành (đã bàn tới ở Chương hai) và thành Dền
tương truyền là do bà Trưng Nhị cho đắp để làm bản
doanh.
ĐỀN HẠ LÔI
Đền ở về rìa phía đông
nam làng Hạ Lôi. Ở địa phương này, có người nói ngôi
đền dựng trên nền nhà cũ của mẹ Hai Bà, cũng có
người nói trước đó là miếu thờ Thi Sách, sau mới mở
mang thành đền thờ Thi Sách và Hai Bà.
Đền Hạ
Lôi có tự bao giờ thì không thể nói chắc được, chỉ
biết là chiếu theo thực trạng hiện nay thì từ quy cách
kiến trúc đến đồ thờ tự, trang trí đều không vượt
quá thế kỷ XIX.
Đền xây trên một khu đất rộng,
thoáng, giữa cánh đồng cao, nhìn ra đê sông Hồng. Cổng
đền đẹp, trên khung cửa chính có bức hoành mang bốn
chữ “Ly chiếu tứ phương” (ánh sáng chiếu ra bốn
phương). Sau cổng là một vạt sân rộng, cuối sân có hồ
bán nguyệt. Trên bờ hồ là nhà tiền tế. Tại đây có
một tấm bia và một cái chuông nhưng không cổ lắm. Bia
có tên là “Cải chính miếu hướng bi ký” (Bia về việc
sửa lại cho đúng hướng miếu) nói về việc sửa đổi
hướng đền, khắc năm Thành Thái thứ nhất (tức năm
1899). Chuông thì có dòng niên đại đúc là năm Gia Long
thứ hai tức năm 1803. Như vậy thì diện mạo và hướng
đền ngày nay mới có từ năm 1899.
Phía trong nhà
tiền tế là hậu cung. Tại đây trên bệ thờ vốn đặt
tượng bà Trưng Trắc và tượng ông Thi Sách, đặt ngang
hàng. Theo tờ khai của hương lý làng này (tháng 4-1938 )
nộp cho trường Viễn Đông bác cổ thì đời xưa đó là
hai pho tượng bằng đất luyện, đến năm Gia Long thứ
mười một (tức năm 1812) mới thay bằng tượng gỗ. Đặt
bên ngoài tượng là bài vị bà Trưng Nhị. Bài vị này
bằng đá tạc. (Như vậy ở đây thờ vợ chồng Thi Sách
là chính).
Ở hậu cung và nhà tiền tế có một số
hoành phi, câu đối. Hai bức hoành giàu ý nghĩa tự hào
là bức “Nam quốc sơn hà” (Sông núi nước Nam)
và “Hoàng đế từ” (Đền đức vua). Đôi câu
đối có niên đại xưa nhất là của Vĩnh Tường tri phủ
Nguyễn Thái cung tiến vào năm Tự Đức - Tân Tị tức
năm 1881:
Bất thế anh hùng vương tỉ muội
Nhưng tiền cơ chỉ tuế xuân thu
Nghĩa
là:
Vua chị vua em, hào kiệt thế gian khó
sánh
Còn nền còn móng, xuân thu hương lửa dài lâu.
Một câu đối khác cũng khá chỉnh là của huấn
đạo Phạm Quang Tiến (đứng liên danh với đồng tri phủ
và thương biện phân phủ Vĩnh Tường) soạn năm Duy Tân
- Canh Tuất tức năm 1910:
Sổ thiên niên Diên
Quận cố đô, uất uất thông thông giang sơn ngô thổ.
Thập bát thế Lạc Hùng di trụ, oanh oanh liệt liệt
tỉ muội nhất môn.
Nghĩa là:
Mấy ngàn
năm Diên Quận đô xưa1, đất nước
nhà ta vẻ vang rục rỡ.
Mười tám đời Lạc Hùng dòng
cũ, chị em một cửa hiển hách vang lừng
Ngày
trước, hàng năm việc tế lễ chủ yếu là vào những
ngày mùng 6 tháng Giêng - tương truyền là ngày yến hạ
khao quân, ngày mùng 1 tháng Tám là ngày sinh và ngày mùng
8 tháng Ba là ngày hóa của Hai Bà. Nhưng lễ lớn nhất là
ngày mùng 6 tháng Giêng, thường được bà con các làng
lân cận gọi là “ngày hội Hạ Lôi”. Vào ngày hội
này có lệ cúng bánh dày và có rước kiệu. Chính đám
rước ấy là “cái đinh” của ngày hội.
Từ
trong đền, ba cỗ kiệu rước được rước ra cổng, kiệu
Thi Sách đi trước, đến kiệu bà Trưng Trắc, sau cùng là
kiệu bà Trưng Nhị. Nhưng ra đến đường cái - ở đây
gọi là đường Trống Quân - thì kiệu Thi Sách lại dừng
lại để kiệu Hai Bà tiến lên trước (gọi là giao
kiệu) vì theo lễ “nội gia phu phụ, ngoại quốc quân
thần” nghĩa là “trong việc nhà là vợ chồng, ra ngoài
việc nước là vua tôi”. Điều hấp dẫn là các đô tùy
khiêng hai cỗ kiệu Hai Bà đều là thiếu nữ đồng
trinh, những cô gái mười tám, đôi mươi chưa chồng, đã
qua sự tuyển chọn nên cô nào cũng xinh và nhất là vóc
người, chiều cao thì đều tăm tắp như nhau. Mỗi cỗ
kiệu có 32 đô tùy chính, 32 đô tùy dự bị, lại còn
thêm hàng chục cô cầm tàn, cầm lọng, cầm các đồ lễ
bộ. Như vậy là có tới khoảng một trăm rưởi cô gái
tham gia vào đám rước, cô nào cũng xinh, trang phục ngày
hội.
Kiệu Thi Sách thì do đô tùy nam khiêng, cũng
đủ lệ bộ, khoảng bảy chục người.
Đám rước
đi trên đường Trống Quân, ra đường cái, rồi tiến ve
dinh để “hội đồng” với bốn vị thành hoàng Đô,
Hổ, Bạch, Hạc và ông thánh Cốt Tung.
Có tài liệu
viết rằng đám rước này ra sông Hồng, lấy nước giữa
dòng cho vào một cái chóe đem về để dùng làm lễ tắm
tượng và dâng cúng quanh năm. Nhưng hỏi tất cả các vị
bô lão trong làng (như ông cụ Hương Đệ) thì không hề
có chuyện này. Thực ra, nghi thức lấy nước đó chỉ là
của đám rước đền Đồng Nhân.
Có tài liệu
viết là đồ tế khí ở đền Hạ Lôi đều sơn đen.
Cũng không phải! Đồ thờ ở đây như kiệu, ngai... đều
sơn son thiếp vàng và cờ quạt đều bằng vải lụa ngũ
sắc. Ở Hạ Lôi này chỉ có đền thờ Cốt Tung mới
kiêng màu đỏ.
_____________________________________
1.
Đây là tác giả quan niệm làng Hạ Lôi này vốn thuộc
huyện Chu Diên.
ĐỀN HÁT MÔN
Làng Hát Môn nay thuộc xã cùng tên, ở huyện Phúc
Thọ. Đền thờ Hai Bà, thường gọi là miếu Hát, nằm ở
rìa phía đông bắc làng, mé trong đê sông Hát.
Ngay
chân đê là một hàng bốn cột hoa biểu lực lưỡng,
trên cột có nhấn nhiều câu đối. Từ đây vào đền
còn khoảng non trăm bước. Tương truyền ngày Hai Bà khởi
binh, đàn thề đã lập tại đây. Ngày ấy chưa có đê,
chưa có các xã Vân Nam, Vân Phúc nên dòng Hát chảy không
xa nơi lập đền thờ là mấy. Theo lời kể ở địa
phương thì đền này được lập từ đời Tiền Lê nhưng
đó cũng chỉ là lời truyền miệng chứ không có giấy
mực ghi chép.
Theo Việt điện u linh và Lĩnh
Nam chích quái thì dường như đền Hát Môn được lập
ngay sau khi Hai Bà hy sinh.
Việt điện u linh:
“Hai Bà thua trận và cùng mất. Thổ nhân thương tiếc
lập đền thờ tại địa hạt huyện An Hát”.
Lĩnh
Nam chích quái: “Hai Bà thế cô, bị hại trong trận.
Người trong châu thương cảm, lập miếu ở cửa sông
Hát”.
Lại cũng hai sách này cho biết “đời Lý
Anh Tông (1138-1175) gặp đại hạn, vua sai sư Tĩnh Giác lên
đền cầu mưa, quả nhiên ứng nghiệm”. Như vậy là từ
trước thế kỷ XII, ở Hát Môn đã có đền thờ Hai Bà
nhưng nói rằng đền này có ngay sau khi Hai Bà tử trận
thì còn phải khảo sát kỹ càng hơn mới khẳng định
được1.
Cứ theo quy cách kiến trúc
và đồ tự thì diện mạo hiện nay là có từ cuối thế
kỷ XIX, đúng như lời kể của một tấm bia dựng ở
hành lang (sẽ nói tới ở phần sau).
Tại nhà tiền
tế có một bức hoành phi khắc bốn chữ Lạc Hùng chính
thống có ý biểu dương sự nghiệp của Hai Bà là đã
nối lại nền chính thống của các vua Hùng ngày trước.
Về câu đối, có một đôi bằng chữ Nôm khá đặc
sắc:
Giặc Bắc đến nhà, gia quốc thù chung hai
nữ tướng
Trời Nam có chủ, non sông riêng gánh một
bà vua.
(Cử nhân Dương Bá
Trạc)
Nhưng đôi câu đối mà nhiều người biết đến
là:
Đồng trụ triết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cấm
Khê doanh hạc Hát Giang trường
(Khuyết danh)
Nghĩa là:
Đồng trụ
gãy hai còn, núi non Giao Chỉ vẫn vững
Cấm Khê đầy
hay cạn, sông nước Hát Giang vẫn dài.
Ở hậu
cung không có tượng mà chỉ có bài vị và là bài vị
Hai Bà Trưng. Không có bài vị Thi Sách. Như thế nơi đây
chỉ thờ có Hai Bà. Thêm một điểm khác với bên Hạ
Lôi (Yên Lãng) là thần tích thì chép Hai Bà tự vẫn ở
Hát Giang nhưng đồ thờ phụng, hoành phi, câu đối, hương
án, long kiệu, đều phải sơn đen. Không có màu đỏ.
Ngày trước có lệ định là ai bước chân vào đền cũng
phải cởi bỏ mọi thứ trang phục màu đỏ (như thắt
lưng, khăn, yếm...). Như vậy lệ định này chấp nhận
giả thuyết Hai Bà chết về gươm đao.
Ở Hát Môn
có lệ mở hội vào ngày mùng 8 tháng Ba, tục truyền là
ngày Hai Bà hy sinh. Thuở trước tiệc cúng khá đặc sắc:
tiệc bánh trôi, còn gọi là bánh tù tì. Nhưng việc này
không phải là dựa vào sự tích Giới Tử Thôi bên Tàu
như quan niệm khá phổ biến xưa nay2. Ở
đây là dựa theo sự tích bà Âu Cơ sinh trăm trứng. Cho
nên bánh cũng nặn thành trăm chiếc hình trứng chim. Lễ
xong, dân làng đem 49 chiếc đặt trong bông hoa sen đưa ra
sông Hát (khi còn là một sông lớn) thả cho trôi xuôi.
Tục này có lẽ để nhắc lại Hai Bà là dòng dõi Lạc
Hùng, vì theo thần thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ thì trong
số 50 người con theo cha (tức Lạc Long Quân) về xuôi,
một người ở lại Phong Châu, còn 49 người kia đi về
các miền khác sinh cơ lập nghiệp thành các lạc tướng
lạc hầu. Lạc tướng Mê Linh tương truyền là dòng dõi
Hùng Vương3.
Ngoài ngày mùng 8 tháng
Ba, ở Hát Môn còn có tiệc ngày mùng 4 tháng Chín tương
truyền là ngày Hai Bà lên đàn thề tế cáo trời đất.
Tiệc cúng trong ngày ấy là trâu thui cả con.
Tại
đền này có một số bia cổ nhưng nội dung không liên
quan gì tới sự tích Hai Bà. Chỉ là những bia ghi về
việc tư sửa ngôi đền. Cổ nhất là bia Cung tiến bản
từ nhị vị đại vương giám sát huệ điền bi ký.
Bia đã mòn nhiều, người soạn là một ông tiến sĩ khoa
Ất Mùi (1595) làm Binh bộ thượng thư (chỗ ghi tên họ
bị mờ hết). Kể việc viên quan nội giám cúng ruộng
cho đền. Bia khắc năm Vĩnh Tộ thứ ba (1622).
Một
bia khác có tên Khắc thạch bi, do Nguyễn Trí Cung
soạn. Ông này đỗ hội nguyên khoa Quý Mão đời Chính
Hòa (1703). Bia khắc năm Vĩnh Hựu - Bính Thìn (1736) nói về
việc sửa đền.
Bia có niên đại gần nay nhất là
Miếu hướng bi ký do tú tài Hồ Danh Bật soạn năm
Tự Đức thứ 35 (1882) nội dung cho biết đền Hát là nơi
quốc tế (vua phải cử khâm sai thay mặt đến tế) nhưng
bị hư hỏng nhiều. Dân đóng góp tiền của, công sức
tu sửa và chuyển hướng đền.
Như vậy thì diện
mạo và ngay cả hướng đền ngày nay mới có từ năm
1882.
_____________________________________
1.
Theo lời kể từ xưa truyền lại ở đây (qua lời khai
của hương lý làng này vào tháng 4-1938 ) thì trước khi
thờ Hai Bà, làng Hát Môn thờ thần Bạch Thạch, cao như
cột đình. Bạch Thạch là đá
trắng. Phải chăng
đó là ký ức của một thời cổ đại còn thờ cúng cự
thạch hoặc linga.
2.
Đời Chiến quốc, Giới Tử Thôi phò tá Trùng Nhĩ lúc
còn hàn vi. Khi thành vua, Trùng Nhĩ quên Giới. Giới ẩn
trong rừng. Có người nhắc, Trùng Nhĩ cho người đi gọi
nhưng Giới không ra. Trùng Nhĩ ra lệnh đốt rừng. Giới
- cũng không ra và chịu chết cháy. Sau đó người Tàu có
lệ không nhóm bếp vào ngày Giới chết, ngày mùng 3 tháng
Ba, vì vậy từ ngày hôm trước, họ làm bánh trôi để
ăn vào ngày này.
3. Có một thuyết khác giải thích lệ
bánh trôi như sau: Trước lúc Hai Bà xuất quân có một bà
lão làm bánh trôi dâng tiến. Do đó mà có lệ người dân
Hát Môn không ai dám ăn bánh trôi trước ngày lễ mùng 8
tháng Ba, vì như thế là vô lễ, dám hưởng món quà này
trước Hai Bà. Bà lão dâng bánh cũng được lập miếu
thờ cạnh đền Hai Bà.
ĐỀN ĐỒNG NHÂN
Đền Hạ Lôi tương truyền là nền nhà cũ của Hai
Bà. Đền Hát Môn tương truyền là nơi Hai Bà hội quân.
Còn đền Đồng Nhân được dựng nên do một huyền tích.
Huyền tích đã được kể lại trong Trưng Vương lưỡng
vị thánh sắc: Sau khi gieo mình xuống sông Hạc (Hạc
Giang), Hai Bà hóa thân thành tượng đá rực sáng, trôi
xuôi đến bãi Đồng Nhân... Vua Lý Anh Tông biết chuyện
cho người ra đón rước nhưng không được. Dân làng Đồng
Nhân lấy vải đỏ ra đón thì được. Tượng đá lớn
và nặng, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay
trỏ lên trời, một chân quỳ một chân ngả. Vua bèn
truyền cho dân làng ấy lập đền thờ hai pho tượng trên
ở bên sông. Đó là vào năm Đại Định thứ ba tức năm
11421.
Như vậy là đền Đồng Nhân
có từ giữa thế kỷ XII ở ngay sát cạnh bờ sông Hồng.
Cũng hai tài liệu trên có kể tiếp là đến năm Gia Long
thứ mười tám (tức năm 1819), bãi Đồng Nhân bị lở.
Dân Đồng Nhân được phép dời đền Hai Bà tới làng
Hoa Viên thuộc tổng Hậu Nghiêm huyện Thọ Xương, dưng
trên nền Tập Võ sở của triều Lê cũ. Rồi người làng
Đồng Nhân một phần cũng dời vào cư trú xung quanh đền
và lập ra một làng Đồng Nhân mới trên đất làng Hoa
Viên. (Làng Hoa Viên tới khoảng giữa thế kỷ XIX đổi
thành Hương Viên, tới đầu thế kỷ XX lại đổi ra là
Phương Viên). Nay làng Đồng Nhân đó thuộc phường Đồng
Nhân, quận Hai Bà Trưng.
Như vậy điều chắc chắn
là đền Đồng Nhân được xây dựng ở chỗ hiện nay từ
năm 1819. Trước đó, đền ở ngoài bãi Đồng Nhân, nhưng
theo các chính sử, như Việt sử lược và Toàn
thư thì đền được làm trên bãi ấy từ mùa xuân
năm 1160 chứ không phải 1142 như lời truyền thuyết nêu
trên. “Canh Thìn năm thứ 21 (1160), mùa xuân, tháng Giêng,
làm đền Hai Bà và đền Xuy Vưu ở phường Bố Cái”
(Toàn thư) Chữ Bố Cái có thể hiểu là Búa Cái
(Búa có nghĩa là bến, nay còn đứng trong từ kép chợ
búa). Vậy phường Bố Cái chính là khu vực bãi Đồng
Nhân, ngày nay thuộc phường Bạch Đằng, cùng quận Hai
Bà Trưng. Điều rất đáng lưu ý là cho tới nay ở trên
bãi Đồng Nhân vẫn có một ngôi đền thờ Hai Bà song
nhỏ hơn nên dân gọi là miếu Hai Bà. Như vậy là:
đến năm 1819, do bờ sông Hồng lở nên đền Hai Bà được
dời từ bãi Đồng Nhân vào đất làng Hương Viên. Song
sông Hồng do quá trình lở - bồi diễn ra theo chu kỳ nên
ở bãi Đồng Nhân chính gốc, dân vẫn bám trụ, nối
tiếp cư trú sinh sống và họ cũng đã xây một ngôi miếu
thờ Hai Bà coi như để tưởng nhớ cội nguồn gốc gác
cũ. Do vậy ở Hà Nội, cụ thể là ở quận Hai Bà Trưng,
có hai nơi thờ Hai Bà, một đền một miếu nhưng thực
chất vẫn là một gốc. Do vậy đến ngày hội mùng 5
tháng Hai âm lịch, dân rước kiệu từ đền ra miếu
rồi đình kiệu (tức dừng kiệu) đem đôi chóe xuống
sông lấy đầy nước rồi rước trở về đền và làm
lễ hội chính thức ở đây.
Trở lại ngôi đền
Đồng Nhân trên đất Hương Viên thì ngày nay, làng xóm
đã đổi thay. Đền Đồng Nhân bây giờ là ở vào phố
Hương Viên, quận Hai Bà Trưng. Trước đền là hồ bán
nguyệt. Một hàng cột hoa biểu lực lưỡng vốn có nhấn
nhiều câu đối nhưng nay bị vỡ hầu hết. Tiếp đó là
một cái sân rộng. Trên sân ở phía bên phải đền là
một tấm bia khá lớn dựng trên rùa đá. Đó là bia Trưng
Vương sự tích bi ký do Vũ Tông Phan, tiến sĩ khoa Bính
Tuất (1826) soạn vào năm 1840. Nội dung văn bia là biểu
dương sự nghiệp Hai Bà và kể lại việc dân làng Đồng
Nhân dời đền từ bờ sông vào nơi hiện nay.
Trong
đền, ở nhà tiền tế có hai thớt voi sơn đen, voi gỗ
nhưng ngà thật. Theo ông Hoa Bằng trong bài “Đền Hai Bà
ở Đồng Nhân” in trên tạp chí Tri Tân số 39 thì
“tương truyền hai cặp ngà voi đó là tặng phẩm do
triều Lý ban cho dân làng Đồng Nhân để chế tạo voi
thờ nên trong bản Thần tích làng Đồng Nhân hãy
còn chép cả hai vế biền văn trích trong tờ biểu dân
làng tạ ơn vua Lý về việc ban tặng ấy”.
Cũng ở
nhà tiền tế giáp tường phía bên trái còn có một tấm
bia do Hà Nội đốc học là cử nhân Dương Duy Thanh soạn
năm 1848, cũng có tên là Trung Vương sự tích bi ký.
Nội dung bia này cũng không khác gì mấy so với nội dung
tấm bia Vũ Tông Phan.
Đến hậu cung sẽ thấy tượng
Hai Bà đặt trên bệ cao. Nhưng không phải là tượng đá
mà là bằng đất luyện. Hai tay tượng cũng không trỏ
lên trời mà đưa ngang ra phía trước. Đầu cũng không
đội mũ trụ. Vậy đây không phải là tượng từ đời
Lý mà là mới đắp sau này. (Tất nhiên không loại trừ
khả năng bên trong tượng hiện nay có một cái cốt đá,
kiểu như “đá Mỹ Châu” bên Cổ Loa).
Ở nhà
tiền tế cũng như hậu cung có nhiều câu đối hay như:
Đồng Nhân miếu, tôn tượng túc thanh cao, hào
khí như sinh, Bắc cố mục trung vô Hán quốc.
Hát Thủy
môn, nộ đào thời chấn đãng, anh phong bất tử. Nam âm
sử thượng hữu Bà Vương.
(Khuyết danh)
Nghĩa là:
Miếu Đồng Nhân, tượng báu
trang nghiêm hào khí như còn, ngoảnh ngó Bắc phương không
nước Hán.
Cửa sông Hát, sóng hờn sôi sục anh phong
không dứt, tiếng vang Nam sử có Vua Bà.
Hoặc:
Khả
liên Hán đế xưng Quang Vũ
Bất để thoa quần khởi
nghĩa binh.
(Khuyết danh)
Nghĩa là:
Khá thương vua Hán phô oai mẽ
Khôn đọ quần thoa dấy nghĩa binh.
Trước
đây, hàng năm làng Đồng Nhân mở hội từ ngày mùng 4
đến mùng 8 tháng Hai, chính hội là vào mùng 5. Tương
truyền đó là ngày dân bãi Đồng Nhân xưa đón tượng
Hai Bà từ sông lên.
Trong ngày hội mùng 5 tháng Hai
ấy, dân Đồng Nhân rước kiệu Hai Bà ra bờ sông Hồng,
chỗ làng Đồng Nhân gốc, rồi đình kiệu lại, đem đôi
chóe xuống thuyền đã túc trực sẵn, bơi ra giữa dòng
lấy nước. Nước này sẽ dùng để tắm tượng và dâng
cúng quanh năm. Đặc biệt đám rước ấy có đôi voi gỗ
đi dẹp đường, quản tượng là đàn ông. Còn các đô
tùy khiêng kiệu thì toàn là nữ, tức cũng giống như
nghi vệ ở đám rước làng Hạ Lôi. Nhưng các nữ đô
tùy này chỉ có một số ít là người địa phương, còn
thì là những cô gái các làng có giao hiếu với Đồng
Nhân như Phụng Công (ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên)
là nơi tương truyền có người đã cùng dân Đồng Nhân
rước tượng Hai Bà ở sông lên từ đời nhà Lý. Có
năm, vùng Thường Tín (Hà Tây) cũng cử người lên giúp
hội vì được coi là quê hương của Hùng Nguyên, chồng
bà Trưng Nhị.
Đám rước đi từ đền, ngược lên
phố Lò Đúc, tới phố Hàn Thuyên mới quay trở về. Ngày
trước đám rước còn lên đến chỗ nay là chân cầu
Chương Dương.
Cạnh đền Hai Bà, phía bên
phải là ngôi đình của dân làng Đồng Nhân và bên trái
là chùa của làng này. Chùa có tên là Viên Minh tự (chùa
Viên Minh). Cả đình lẫn chùa tất cũng chỉ có thể có
từ sau năm 1849. Nhưng cái tên Viên Minh thì bắt nguồn từ
một sắc phong vào năm 1533. Vào năm đó - năm Nguyên Hòa
thứ nhất đời vua Lê Trang Tông - có sắc phong cho Hai Bà
là Quảng Giáo Viên Minh Linh Thạch Trưng Vương Phật. Chữ
Viên Minh lấy từ pháp hiệu này.
PHỤ CHÚ: Qua sự
tích đền Đồng Nhân, có thể hiểu rằng tới đời Lý,
từ là hai vị anh hùng cứu nước, Hai Bà Trưng được
vương triều này tôn lên là hai nữ thần bảo hộ nông
nghiệp. Tới đời Lê Trung Hưng, Hai Bà lại được tôn
lên làm Phật.
Ngoài ra, nhìn dưới góc độ dân
tộc học thì ở ngày hội của các làng trên có những
lễ tiết đã trộn lẫn tín ngưỡng nguyên thủy vào chủ
đề lịch sử (tưởng niệm Hai Bà). Như ở Đồng Nhân,
việc rước nước sông Hồng, có thể là hình thức hội
nước (thờ nước, cầu mưa), một lễ tiết tín ngưỡng
nông nghiệp nguyên thủy. Hoặc lễ bánh trôi ở Hát Môn
có thể là sự tôn xưng biểu dương thành quả của lao
động nông nghiệp trồng lúa
mới.
_____________________________________
1.
Trưng Vương lưỡng
vị thánh sắc là
một cuốn sách chép tay, chỉ có 52 trang, gồm phần ghi
lại các đạo sắc phong cho Hai Bà Trưng của các đời
vua từ Lê Chính Hòa (1680-1705) đến Nguyễn Duy Tân
(1907-1916) và phần ghi sự tích Hai Bà. Phần này hoàn toàn
là sao lại lịch sử Hai Bà mà mọi người đều biết.
Chỉ ở cuối sách có chép các linh tích, tức các dấu
tích linh dị - như kiểu nói về tượng đá kể ở trên
- là có giá trị tư liệu tham khảo.
QUÁN AO SEN
Tại xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất cũng có đền
thờ Hai Bà Trưng. Như đã nêu ở Chương hai, theo
chủ trương của ông Đinh Văn Nhật thì Hạ Bằng - tức
Hạ Lôi và Bằng Trù - là một khu thuộc trang Cổ Lôi
ngày xưa, quê hương của Hai Bà Trưng. Nhưng Hai Bà lại
không phải là thành hoàng làng (thành hoàng là ba anh em
Cao Hưng, Tuấn Tĩnh, Trung Liệt, các con của Lạc Long
Quân) nên không thờ ở đình mà thờ riêng ở quán. Vùng
xứ Đoài cũ có tập quán gọi nơi thờ các thần thánh
là quán tức cũng như các làng vùng khác gọi là
nghè hoặc đền.
Quán thờ Hai Bà nguyên ở trên
một cái gò cạnh một ao sen nên có tên là quán Ao Sen.
Tương truyền đó là nơi Hai Bà Trưng mở tiệc khao quân.
Sau, quán lại được chuyển sang một cái gò đối diện
tức chỗ nay là nhà trạm xá xã.
Trước đây, hàng
năm có lệ cúng tế tại quán này vào ngày mùng 6 tháng
Mười Một (là ngày Hai Bà khao quân). Tiệc đám là thịt
trâu lột, tức là mổ trâu xong rồi, thịt xẻ ra nhưng
không nấu bằng nồi mà lại lột da trâu, lấy da đó lót
để nấu thay nồi. Hèm này là gợi lại bữa tiệc khao
quân ngày ấy của Hai Bà, do quân số đông không đủ nồi
nên phải làm ra như vậy.
Các cụ già ở địa
phương còn kể là trong quán Ao Sen, trên các tấm ván nong
lá gió có chạm hình Hai Bà Cưỡi voi ra trận. Tiếc rằng
hồi Pháp tạm chiếm (1950- 1954) lính Pháp đã phá hủy
hoàn toàn quán này, ngay tấm bia duy nhất ở đây cũng bị
chúng đẩy xuống giếng rồi lấp đi. Giếng ấy nay vẫn
còn vết tích cạnh đường đi. Sau ngày hòa bình lập
lại, trên nền quán đã xây trạm xá xã. Theo một người
cao tuổi ở đây - ông cụ Đặc ở xóm Cốc thì quán này
thời xưa các cố lão còn gọi là quán Dạ. Ông Đặc
không hiểu nghĩa chữ này. Phải chăng chữ Dạ ở đây
cũng giống như chữ Dạ trong Mả Dạ ở Nam An quê hương
bà Man Thiện? Như vậy có thể hiểu “quán Dạ” là
“quán đức Bà”. Và cái tên gọi này chính cũng là tia
ảnh xạ của một thời mà tiếng Lạc Việt chưa chia ra
làm hai (tiếng Kinh và tiếng Mường) tức thời kỳ Hai Bà
Trưng vậy.
THÀNH DỀN (CỰ TRIỀN)
Làng Cư An nay thuộc xã Tam
Đồng, huyện Mê Linh. Trước đây làng này có tên là Cự
Triền. Tại đó có một dấu tích thành cổ mà dân làng
gọi là thành Dền. Có lẽ Dền là tên Nôm cổ của Cự
Triền, vì những địa phương có tên bằng chữ Hán là
Triền thì đều là phiên âm chữ Dền của tên gọi Nôm.
V(í dụ ở nội thành, chỗ cuối phố Huế, đầu phố
Bạch Mai ngày trước có một cửa ô tên Nôm là của ô
Cầu Dền thì các sách chữ Hán đều chép là Triền Kiều
ô môn).
Cái tên Cư An chỉ mới có từ thế kỷ
XIX, vì ở sách Kiến văn tiểu lục soạn vào thời
gian những năm cuối thế kỷ XVIII tác giả là Lê Quý Đôn
còn dùng chữ Cự Triền: “Ở xã Cự Chiền (sửa là
Triền - N.V.P) có nền thành cũ, tương truyền Phục Ba
tướng quân cùng Trưng Nữ Vương đánh nhau ở đây”.
(Bản dịch, trang 506, Nhà xuất bản Sử học - năm 1962).
Nhưng đến sách Đại Nam nhất thống chí
(soạn vào thời gian nửa cuối thế kỷ XIX) thì đã có
tên Cư An: “Lũy cổ Trưng Vương: ở xã Cư An, huyện Yên
Lãng, có hai lũy cách nhau không xa, nền cũ này vẫn còn,
tương truyền đấy là lũy cũ của Trưng Vương”. (Bản
dịch, Tập IV, trang 213 - Sách đã dẫn).
Như vậy
thành Dền nằm ở địa phận làng Cư An. Làng này nay
thuộc xã Tam Đồng. Nhưng theo sự phân chia lại địa
giới gần đây thì thành Dền lại thuộc về địa phận
xã Tự Lập, vẫn là huyện Yên Lãng, tức nay là huyện
Mê Linh.
Thành cách đền Hạ Lôi chừng 6km về phía
tây bắc, tương truyền là nơi bà Trưng Nhị đóng quân.
Cứ như cách gọi ở địa phương, ngoài tên thành Dền,
thành này còn được gọi là thành Trại, thành Cờ, thành
Tam Kha.
Theo sự mô tả của ông Nguyễn Lộc trong
bài “Những vết tích khảo cổ về cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng ở Vĩnh Phú”1 thì thành Dền có
hình dáng khá đặc biệt: không đắp theo hình vuông, hoặc
chữ nhật, hoặc đa giác đều như các thành thường gặp
trên đất nước ta mà là hình bầu dục. Chỗ dài nhất
là 200m, chỗ hẹp nhất là 170m. Mặt thành hiện nay có
chỗ còn rộng tới 10m. Tường quanh cũng còn cao tới 1,5m
so với mặt hào chạy xung quanh thành. Hai đầu thành ở
phía bắc và nam hiện còn hai khu đất được đắp vòng
rộng ra ngoài ước khoảng gần 1 sào Bắc Bộ. Có thể
đó là hai cái mang cá? Trong thành về phía Nam có một gò
cao. Ở đỉnh gò còn dấu vết nền móng ngôi miếu cổ
tương truyền là nơi thờ bà Trưng Nhị và vốn là cột
cờ xưa.
Ở mặt phía đông của vòng thành có một
quãng bị cắt ngang vì ở đó có một hố nước. Một
bên thành được đắp vòng ra ngoài hố nước ấy, còn
một bên thì nhập vào một gò đất khá cao. Nơi đó có
thể là cổng thành.
Trong nội thành, đối diện
với cổng còn có một nền đất phẳng hình chữ nhật
giống như nền nhà. Tại góc bắc thành có một hồ nước
rộng khoảng 1 sào Bắc Bộ và hiện còn sâu tới 0,8 mét.
Có thể đó là giếng nước dùng chung cho cả nội thành.
Còn dãy hào chạy quanh thành thì nay bị san lấp
nhiều, tuy vậy có chỗ còn rộng tới 10m, sâu chừng 0,6m
so với mặt ruộng xung quanh. Theo thần tích của làng Cư
An thì sau khi đánh đuổi Tô Định, bà Trưng Nhị được
cử về nơi đây đắp thành lũy để làm kinh đô.
Liên
quan đến tòa thành Dền này còn có một tòa thành khác,
cách 2km về phía đông. Đó là thành Vượn ở địa phận
làng Nam Cường, giáp giới Cư An (Nam Cường nay hợp với
Cư An và Văn Lôi thành xã Tam Đồng). Theo lời kể ở địa
phương thì Mã Viện đã kéo quân tới đánh thành Dền
trong nhiều ngày nhưng không hạ nổi. Hắn đành phải cho
xây một tòa thành ở đây để làm nơi trú quân lâu dài.
Đó là thành Vượn. Thành Vượn có hình gần tròn, rộng
khoảng 2 héc-ta. Đường kính khoảng 150m đến 170m. Chỗ
thành cao nhất là 1,5m so với mặt hào. Mặt thành có đoạn
còn rộng trên 8m. Phía bắc thành có một gò đất cao,
cũng gọi là gò Cột Cờ.
Kể ra bảo rằng đây là
thành do Mã Viện cho đắp thì cũng có thể tin được. Vì
các sử Trung Quốc đều có chép rằng Mã Viện đã xây
Kiển thành ở huyện Phong Khê. Vậy mà huyện Yên Lãng,
nay gọi là huyện Mê Linh, chính là huyện Phong Khê ngày
xưa. Và Kiển thành có nghĩa là “thành Cái Kén”. Ở
đây, thành Vượn có hình gần tròn rất giống một cái
kén tằm. Vậy có thể Kiển thành ghi chép trong sử sách
là thành Vượn.
Như thế thành Vượn có thể coi
là hiện vật để gián tiếp chứng minh sự có mặt của
thành Dền vào thời kỳ Hai Bà Trưng. Thực tế Cự Triền
đúng là một làng cổ. Các nhà khảo cổ đã cho biết
rằng những di vật đào được ở lòng đất trong thành
Dền (gồm gốm và đồng) có niên đại trước Công
nguyên, thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên và Đồng
Đậu2. Và kiểu dáng của thành cũng đã
được coi là loại hình thành cổ. Ông Lê Văn Lan (trong
bài đã dẫn) có nhận xét: “Đặc điểm đáng chú ý
nữa là kiểu dáng của những tòa thành này (Cự Triền
và Miếu Môn - N.V.P) nếu một mặt tỏ ra khác biệt với
những thành quách của bọn thống trị đương thời và
của đất nước ở những thời kỳ sau - thường có hình
tứ giác thì mặt khác, lại đồng dạng với thành Cổ
Loa và cùng vơi Cổ Loa làm nên một phong cách xây thành
riêng: tạo một bình diện hình gần tròn hoặc những
đường cong tự do khép kín của tường thành”.
Tất
nhiên trải qua hai mươi thế kỷ, nhiều cánh quân đã
đóng ở Cự Triền, như quân Nguyễn Khoan (thế kỷ X)
hoặc nghĩa quân của các phong trào nông dân mà cụ thể
nhất là phong trào Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương. Bấy
nhiêu cánh quân tất có tham gia nhiều hoặc ít vào việc
làm thay đổi diện mạo thành Dền.
_____________________________________
1.
Những vấn đề
lịch sử Vĩnh Phú
- trang 119.
2. Xem thêm bài “Phát hiện một số di tích
khảo cổ ở Vĩnh Phú” của Hà Văn Hiệt trong Những
phát hiện mới khảo cổ học 1972.
NXB Khoa học xã hội.
LŨY BÀ CHU TƯỚC
(THÀNH MIẾU MÔN)
Về thành lũy thời Hai Bà
Trưng thì ngoài thành Dền ra nhiều tài liệu còn nhắc
tới Lũy bà Chu Tước (còn gọi là thành Miếu Môn).
Tại
khu núi đá Miếu Môn, nay thuộc xã Trần Phú, huyện
Chương Mỹ, Hà Tây còn dấu vết một thành lũy mà nhân
dân địa phương gọi là Lũy bà Chu Tước.
Theo
truyền thuyết, bà Chu Tước và em gái là Vân Mộng quê ở
Đồng Sậu (nay là một xứ đồng ở vùng núi này). Chị
thì thông minh mưu trí còn em thì có sức khỏe phi thường.
Thuở ấy nước nhà bị giặc Hán đô hộ, nhân dân rất
cực khổ. Hai chị em bà Chu Tước theo Hai Bà Trưng mưu
việc lớn. Bà Chu Tước cho xây thành đắp lũy để chờ
thời cơ nổi dậy. Có một lần Vân Mộng sang thăm chị
trong lúc dân chúng đang gánh đất xây thành. Để khích
lệ, Vân Mộng đã đích thân tham gia gánh đất gánh đá.
Bà gánh rất khỏe, chạy như bay, không ai kịp. Đến
chuyến cuối cùng, trời đã gần tối, bà gánh cố cho
xong. Nhưng mới đến Miếu Môn không may đòn gánh bị
gãy, đá đổ tung thành ra ba đống, tạo nên núi Chùa,
núi Đặng và núi Sáo ngày nay.
Cũng theo truyền
thuyết, Mã Viện từng đánh tới đây. Xương chất thành
đống, dân bị tàn sát, nay còn các xứ đồng gọi nhớ:
đồng Xương, đồng Tàn...
Dấu vết thành lũy này
gần đây vẫn còn. Năm 1974 ông Phan Đại Doãn đã mô tả
như sau:
“Thành được đắp nối liền với hai
chân núi đá vôi, rồi tỏa ra như các vành đai. Phía
ngoài có hào sâu bám dưới chân núi. Tất cả thành lũy
và hào kết thành một hệ thống ôm gọn thung lũng của
ba ngọn núi Phượng Sơn, Tượng Sơn và Yên Ngựa. Thành
lũy hiện nay chỉ còn lại hơn 60m, chân rộng 11m, cao
1m60. Độ sâu của hào chỉ còn gần 0,50m”1.
Không rõ từ năm 1974 đến nay dấu vết có còn
được như vậy không? Song Miếu Môn đúng là có một vị
trí chiến lược. Ngày nay là ngã ba án ngữ hai nẻo
đường: Phía Đông từ Ngã ba Thá - nơi sông Đáy gặp
sông Tích đi vào (tức theo tỉnh lộ 73) có thể sang vùng
núi tỉnh Hòa Bình; phía Bắc theo quốc lộ 21A từ thị
xã Sơn Tây xuôi qua đây để đến thị xã Xuân Mai rồi
vào Chi Nê, Nho Quan... Tại Miếu Môn thời chống Mỹ đã
xây dựng một sân bay quân sự.
Còn về di tích
khảo cổ thì chính tại vùng này đã khai quật hai trống
đồng loại 1 Hê-gơ, tuổi dư hai ngàn năm, được đặt
tên là trống Miếu Môn I và Miếu Môn II.
_____________________________________
1.
Danh nhân quê hương - Tập II - Ty Văn hóa Hà Tây - 1974 –
Tr.17.
“MIẾU BÀ TRẮC”
Ở
HỒ NAM (TRUNG QUỐC)
Trên đất Trung Quốc mà lại
có đền thờ Bà Trưng! Kỳ lạ nhưng có thật! Vì nguồn
thông tin này nằm trong thơ của danh sĩ Ngô Thì Nhậm
(1746-1803). Nguyên là trong Hoàng hoa đồ phả, một
tập thơ và họa do Ngô Thì Nhậm sáng tác trong thời gian
đi sứ nhà Thanh (năm 1793) có một bài nhan đề Phân
Mao lĩnh (núi Phân Mao):
Nhất đái thanh sơn Sở,
Việt giao
Hoàng Mao dịch lộ nhận Phân Mao
Thiên
thu bật tận Hành Sơn lĩnh1
Địa
khí hoàn phù Nhạn Trạch mao2.
Trưng
Trắc kiếm mang khai động phủ
Úy Đà quế đố lạc
sơn sào
Phong lai giải uấn tây nam lợi
Vị hứa
Hùng Bi vạn nhận cao.
Nghĩa là:
Một
dải núi xanh ở giữa nơi giáp giới Sở và Việt
Trên
đường đến trạm Hoàng Mao nhận ra đó là núi Phân Mao.
(Ranh giới của Trung Hoa do) Sách trời định ra không
quá núi Hành Sơn.
Khí đất làm trôi ngược lông chim
nhạn ở Nhạn Trạch (về phía nam).
Lưỡi kiếm của
Bà Trưng mở ra động phủ.
Sâu quế của Triệu Đà
còn đầy trong hang núi3.
Gió từ
tây nam làm nguôi cơn nồng
Coi thường núi Hùng Bi dù
cao tới muôn sải4.
Ngô Thì Nhậm
có lời chú thích rằng: “Núi Phân Mao ở địa giới
Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam, có cỏ mao rẽ hai ngả nam bắc,
trên đường đi có biển đề Phân Mao lĩnh”5.
Như vậy thì núi này là chỗ ranh giới hai nước
Sở, Việt. Sở là khu vực tỉnh Hồ Nam và Việt là khu
vực hai tỉnh Lưỡng Quảng ngày nay. Gọi là Hồ Nam vì ở
phía nam hồ Động Đình. Và vậy là theo bài thơ này, tại
Hồ Nam có đền thờ bà Trưng Trắc.
Trong một tập
thơ khác của Ngô Thì Nhậm - tập Yên Đài thu vịnh
cũng gồm những bài thơ do ông viết trong chuyến đi sứ
năm 1793 - có một lời ghi chú khác: “Phía nam hồ Động
Đình có miếu thờ Bà Trưng. Bà đã chống với Mã Viện
ở Hồ Nam và giữ được vài tháng. Sau đó bà chiến đấu
ở Khẩu Phong và thất bại ở Tương Âm rồi mất. Nay ở
đó còn có miếu thờ Hai Bà Trưng, tục gọi là Miếu Bà
Trắc, rất linh ứng”.
Rõ ràng đây chỉ là
truyền thuyết. Vì chính sử Trung Quốc không ghi sự việc
này. Nhưng cơ sở để hình thành truyền thuyết trên thì
có thể giải thích được: Chính sử có ghi là sau khi Mã
Viện hoàn thành công việc xâm lăng, hắn đã bắt trên
ba trăm cừ súy người Việt đưa về Trung Quốc, an trí
tại Linh Lăng. Linh Lăng chính là phần đất phía nam tỉnh
Hồ Nam. Số ba trăm cừ súy đó tất phải là các thủ
lĩnh nghĩa quân, tướng lĩnh của Hai Bà và các lạc hầu
lạc tướng đã kiên cường chống lại giặc Hán. Những
người dân Việt yêu nước này, tuy bị đày ải xa quê
hương nhưng dứt khoát họ vẫn hướng về đất tổ, vẫn
nuôi mối hờn căm đối với quân thù: họ đã lập “Miếu
Bà Trắc” để tưởng nhớ thủ lĩnh của mình đồng
thời cũng là thể hiện ý chí bất khuất của người
dân nước Việt.
Những câu chuyện về cuộc khởi
nghĩa và cuộc kháng chiến ngày đó tất cũng được lưu
truyền trong cộng đồng ấy nhưng rồi do trải qua bao
đời, bao thế hệ, cùng với quá trình địa phương hóa
(tức là bị Trưng Quốc hóa) những câu chuyện đó bị
“khúc xạ” đi trở thành ra truyền thuyết Bà Trưng
đánh Mã Viện trên đất Hồ Nam.
Miếu Bà Trắc ở
bên bờ hồ Động Đình đúng là một biểu tượng hiên
ngang của tinh thần ngoan cường bất khuất của người
dân Việt thời Hai Bà Trưng dù bị tách khỏi quê hương
vẫn dám phủ định uy quyền của kẻ thù đang ở thế
thắng.
Một số truyền thuyết về tướng lĩnh
Hai Bà Trưng - Nhiều tác giả - Ty Văn hóa Hà Sơn Bình
- 1979.
Truyền thuyết Trưng Vương - Nhiều tác
giả - Chi hội Văn nghệ dân gian tỉnh Vĩnh Phú - 1975.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử trong những năm
1962 đến 1980.
Những phát hiện mới về khảo
cổ học các năm 1972 đến 1979.
_____________________________________
1.
Hành Sơn: tên chỉ chung dãy núi trùng điệp trên địa
phận huyện Hành Dương.
2. Nhạn Trạch: chim nhạn bay
về nam nhưng tới Hành Dương gặp ngọn núi Hồi Nhạn
cao quá phải quay về. Nhưng lông nhạn rụng xuống lại
theo sông Ly trôi về Nam. Khúc sông đó gọi là Nhạn
Trạch.
3. Triệu Đà không muốn cống quế cho nhà Hán,
bịa ra chuyện cây quế bị sâu phá hoại và bắt sâu này
đem nộp, thực ra đó là con cà cuống.
4. Hùng Bi là
một dãy núi ở huyện Kỳ Dương, huyện cực nam tỉnh Hồ
Nam.
5. Xin cảm ơn anh Ngô Linh Ngọc và anh Trần Lê Văn
đã cho tư liệu về thơ Ngô Thì Nhậm.
Chương kết
Trưng Vương ở ngôi có ba năm nhưng sử gia Ngô Sĩ
Liên trong Toàn thư vẫn chép riêng làm một kỷ bên
cạnh các kỷ Hồng Bàng, kỷ nhà Đinh, kỷ nhà Lê v.v...
Quả là một ngòi bút “chí công”, một nhận thức đáng
trọng. Vì vương triều này tuy tồn tại có ba năm nhưng
đã mở đầu cho cả một thời đại quan trọng trong lịch
sử dân tộc: thời đại đấu tranh giành độc lập, tự
do.
Kỷ Trưng Vương ngắn ngủi nhưng là một khoảng
thời gian vô cùng sống động, ăm ắp sự kiện: trong có
trên một nghìn ngày mà dân tộc ta khi ấy đã tiến hành
hai cuộc chiến tranh, là chiến tranh giải phóng dân tộc
mùa xuân năm 40 và chiến tranh chống ngoại xâm vào hai
năm 42-43. Giữa hai cuộc chiến ấy là thời gian xây dựng
chính quyền tự chủ sau hai trăm năm bị đô hộ, bị bóc
lột tàn tệ, bị đàn áp dã man và đồng hóa nghiệt
ngã. Thật là hiếm có một khoảng “ba năm” mà sục
sôi, vang dội, căng thẳng đến như vậy.
Nhận
định về kỷ Trưng Vương ấy, bộ Lịch sử Việt Nam
- Tập I - của Ủy ban Khoa học xã hội có viết:
“Nó
là tia lửa nhen lên tinh thần yêu nước Việt Nam vô địch,
coi độc lập dân tộc là cái quý nhất, với ý chí không
gì và không bao giờ lay chuyển là giành lại và giữ gìn
độc lập”.
Thật thế, cái tinh thần yêu nước
Việt Nam ấy chính là của báu vô giá mà Hai Bà cùng
nhân dân ngày đó để lại cho muôn đời cháu con. Chính
cái tinh thần ấy đã giúp Hai Bà - từ 2000 năm trước
đây - sáng tạo ra một hình thức tiến hành chiến tranh
giải phóng dân tộc độc đáo - hình thức đồng khởi -
mà tới ngày nay vẫn còn ứng dụng.
Chính với
tinh thần ấy mà nhân dân Âu Lạc - mất chủ quyền từ
hai thế kỷ trước - với hai tay trắng đã dũng cảm đứng
lên lật đổ ách thống trị của một kẻ thù hung ác
đang trên thế bành trướng cuồng nhiệt. Và hơn nữa,
nhân dân Âu Lạc lại còn dựng lên một triều đại của
riêng mình, còn xây đắp một chính quyền tự chủ, dù
hình thức như thế nào - chưa đủ tài liệu để đoán
định thì vẫn là một chính quyền thực sự của một
nước độc lập. Sự ra đời của nhà nước Trưng Vương
trên co sở ý thức dân tộc đã được khẳng định còn
là một sự thách đố đối với tính bền vững của đế
chế Hán. (Năm 41, nhân dân ở Hoãn Thành thuộc tỉnh An
Huy và năm 43 nhân dân ở Ích Châu thuộc tỉnh Vân Nam hẳn
là cũng noi gương Âu Lạc mà nổi dậy chống nhà Hán).
Cho nên kẻ thù run sợ, quyết dồn mọi sức lực,
huy động cả một dải bốn tỉnh Hoa Nam (tức hai nước
Ngô, Sở ngày trước) để chống phá, hòng cứu nguy cho
sự lung lay của chính quyền bành trướng đô hộ ở vùng
Bách Việt cũng như ở vùng Tây Nam Di.
Đối với
ta, thời gian xây dựng chính quyền tự chủ chưa lâu, mới
có hai hoặc ba năm. Nhân dân Âu Lạc thực sự chưa hồi
sức sau hai trăm năm bị đô hộ. Mọi người đang phải
làm rất nhiều việc để củng cố chính quyền non trẻ
thì lại phải vội vã cầm vũ khí mà tự vệ chống giặc
ngoại xâm. Và thế là cuộc kháng chiến bắt đầu.
Các
nguồn tu liệu đều không cho biết gì về hình thái tiến
hành chiến tranh chống giặc Hán ngày ấy, ngoài hai ba địa
điểm có chiến sự và một chi tiết về thời gian: cuộc
kháng chiến kéo dài tới hai hoặc ba năm.
Thực ra
chi tiết này rất có ý nghĩa. Vì với một thứ quân giặc
từng làm mưa làm gió ở Tây Vực, ở Triều Tiên, ở
Hung Nô, ở Tây Nam Di vậy mà chúng đã phải mất hai
(hoặc ba) năm dòng mới đàn áp được cuộc kháng chiến
của nhân dân Âu Lạc. Cuộc kháng chiến ấy là bằng
chứng hiển nhiên của tinh thần yêu nước Việt Nam, của
ý chí bất khuất ngoan cường, dám hy sinh xả thân cho độc
lập, tự do.
Cuối cùng, trong tinh thần yêu nước
Việt Nam đó cũng phải kể tới tinh thần yêu nước của
người phụ nữ Việt Nam. Đứng đầu cuộc khởi nghĩa
và kháng chiến là phụ nữ. Các tướng lĩnh nghĩa quân
đa số là phụ nữ. Và thành phần phụ nữ trong quân chủ
lực không phải là ít như đã nêu ở các phần trên, chỉ
ở nước ta mới có những cánh quân nam giới phải hóa
trang làm nữ giới để xin đi chiến đấu. Điều này nói
lên tinh thần anh hùng cũng như vai trò thực sự quan trọng
của người Phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống đương
thời. Có nhiều cách giải thích thực trạng này: hoặc
lúc đó tinh thần dân chủ của công xã chưa hoàn toàn bị
ý thức hệ phong kiến Hán tộc phá hủy, hoặc chế độ
mẫu hệ tuy đã qua rồi nhưng vẫn còn những tàn dư
trong sinh hoạt công cộng cũng như riêng tây, hoặc trong
nền kinh tế của thời kỳ quá độ từ chế độ công
xã nguyên thủy sang chế độ phong kiến, người phụ nữ
vẫn còn giữ những nhiệm vụ chủ chốt trong gia đình
cũng như trong làng chạ.
Các lý do trên đều thông
nghĩa lý nhưng do thiếu tư liệu gốc nên chưa thể khẳng
định. Có điều là cho tới thời thịnh thế của phong
kiến, sách vở thánh hiền công khai tuyên bố “nam tôn,
nữ tì”, “phu xướng phụ tùy”, “thập nữ viết vô”
v.v... thì ở khắp thôn xóm vẫn “công anh, công ả, công
cả đôi bên”, “thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông
cũng cạn”, “lệnh ông không bằng cồng bà” v.v... vậy
vào đầu Công nguyên, phụ nữ Việt Nam hẳn đang còn giữ
một vai trò quan trọng trong sinh hoạt xã hội.
Kỷ Trưng Vương không dài,
không làm mốc cho một chế độ xã hội hoặc một phương
thức sản xuất nhưng rõ ràng là đã mở đầu cho một
kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, một kỷ nguyên
đấu tranh giành độc lập, tự do, một kỷ nguyên đi vào
cuộc trường chinh nghìn năm chống bá quyền Trung Quốc,
kỷ nguyên ấy kết thúc vào năm 938 với chiến thắng của
Ngô Quyền với sự ra đời của quốc đô Cổ Loa (lần
thứ hai).
Điều vinh dự cho vùng đất Hà Nội nói
riêng, châu thổ sông Hồng nói chung là Hà Nội - ở cả
hai thời điểm mở đầu và kết thúc kỷ nguyên này - đã
chứng kiến và tham gia một cách vô cùng hào hùng, tích
cực, sôi động vào hầu hết những sự kiện chính. Nơi
đây đã giữ gìn biết bao là kỷ niệm, dấu tích thuộc
về những sự kiện đó.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng làm rạng rỡ cho dân tộc ta, cũng là làm rạng rỡ
cho Hà Nội - Thủ đô của chúng ta.
PHỤ
LỤC
NGỌC PHẢ CỦA HAI
LÀNG HẠ LÔI VÀ HÁT MÔN
Ở Thư viện Khoa học xã hội
có một bộ sưu tập các thần tích do hương lý chức sắc
các làng ở Bắc bộ gửi nộp cho trường Viễn Đông bác
cổ vào năm 1938. Những thần tích này hoặc là bản có
từ xưa (bản cổ) hoặc là bản do các hương lý sao chép
lại các bản cổ. Trong kho tài liệu này có bản ngọc
phả của làng Hạ Lôi (Yên Lãng) và bản ngọc phả của
làng Hát Môn.
Bản của Hạ Lôi có tên là “Nam
Việt Trưng Nữ Vương Trắc Nhị nhị vương ngọc phả cổ
lục”. Ở cuối có ghi năm tháng cùng với tên người
soạn, người sao ngọc phả: Hồng Phúc nguyên niên (1572)
chính nguyệt, sơ thập nhật, Hàn Lâm viện, Đông Các đại
học sĩ (thần) Nguyễn Bính phụng soạn; Vĩnh Hựu tam
niên (1737) nhị nguyệt, cát nhật, Quản giám bách thần
tri điện. Hùng Lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng thảo
đặc cổ bản tôn sao: Tự Đức nhị thập lục niên
(1874) chính nguyệt sơ thập nhật đồng xã tôn sao.
Như
vậy bản ngọc phả này được chép lại vào năm
1874.
Bản của đền Hát Môn cũng có tên gọi, có
niên đại, có soạn giả y như bản Hạ Lôi. Như thế thì
về nội dung, hai bản này phải hoàn toàn giống nhau mới
phải. Nhưng ở đây bản Hát Môn ngoài ba chỗ có thêm
chú thích thì còn có hai đoạn khác hẳn bản Hạ Lôi. Đó
là điều hơi lạ. Có thể đoán rằng trong hai bản có
một bản là gốc còn bản kia là do người chép lại ở
địa phương đã thay đổi, thêm bớt một số tình tiết
theo sự hiểu biết của riêng cá nhân hoặc theo truyền
thuyết ở địa phương mình. Nhưng do chưa thể xác định
được điều này nên dưới đây chúng tôi tạm dịch
toàn văn bản Hạ Lôi chỉ vì bản này có số chữ nhiều
hơn. Gặp chỗ bản Hát Môn kể khác thì chúng tôi chua
ngay chỗ khác biệt đó ở cuối trang. Như vậy cùng một
lúc bạn đọc có thể theo dõi cả hai bản ngọc phả.
Cũng xin nêu thêm là do chưa thể giám định - cả văn bản
lẫn nội dung - nên việc giới thiệu hai văn bản này chỉ
nhằm mục đích cung cấp cho bạn đọc những tư liệu
thần tích cơ bản về Hai Bà Trưng mà lâu nay có khá
nhiều người cho là đã bị mất hẳn - mà cụ thể thì
ở hai địa phương trên cũng không còn lưu giữ được
thật1.
_____________________________________
1.
Ông Trần Quốc Phi trong bài mở đầu cuốn “Truyền
thuyết Trưng Vương” (Chi hội VNDG tỉnh Vĩnh Phú xuất
bản - năm 1975) có viết: “Đáng tiếc là trong kháng
chiến chống Pháp, giặc Pháp và bè lũ tay sai đã phá
hoại (làng Hạ Lôi)... làm mất ngọc phả”.
Ông Nguyễn Quang Ngọc trong bài “Hà Nội với cuộc khởi
nghĩa Hai Bà” trên báo Hà
Nội mới ngày
7-10-1979 có viết: “Điều rất đáng tiếc là thần tích
Hát Môn không còn nữa”.
NAM VIỆT TRƯNG NỮ
VƯƠNG TRẮC NHỊ NHỊ VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ LỤC
Nhớ xưa, tới cuối triều
Hùng, thế nước cáo chung truyền đến Duệ Vương, đã
là 18 đời: hưởng nước dư 2000 năm, đã là dài lâu.
Duệ Vương không có con (trai) nối dõi, nên cho vời
Thục An Dương Vương vốn là cháu xa của các vua Hùng và
là con của Ai Lao bộ chủ đến truyền ngôi cho. Thục
Vương phụng mệnh, nối họ Hùng, kế trị ở ngôi sáu
mươi năm. Thiên hạ thái bình, binh mạnh nước giàu, thấu
suốt đạo Sơn Nam Hạ và quận Cửu Chân.
Khi đó
Triệu úy Đà nhà Tây Hán sang xâm lược. Thục Vương bị
hại. Nước Nam lại thuộc nhà Hán. Trải qua Văn Đế, Vũ
Đế, tới Kiến Xương (sửa là Vũ), Tô Định làm thái
thú nước Nam. Hắn hiếu sát tham tàn, bạo ngược hại
dân, mọi người oán hận. Anh hùng bốn bể đều phẫn
nộ.
Có Hùng Lạc tướng quân dòng dõi Lạc Long
Quân, ngày ấy đã ngoài 60 tuổi. Vợ là Trần Thị Đoan
cũng ngoài 40 tuổi. Vậy mà chưa có con nối dõi. Một
hôm, bà Trần nằm mơ thấy một đóa mẫu đơn trong cung
trăng nở hai bông. Sau đó bà có mang. Đến ngày mùng 1
tháng Tám năm Giáp Tuất trời bỗng tối sầm, trong phòng
thì gió thơm ngào ngạt, khí lành phát sáng. Bà trở dạ
sinh hai gái, mặt như gương ngọc, sắc như bình vàng, mày
ngài, mắt phượng, má phấn, môi son, quả là tiên nữ
chốn Bồng Lai, chúa hoa ở Lãng Uyển, không phải là hạng
con gái tầm thường. Ông bà chăm chút hai con, đến năm
hai con lên ba tuổi, đặt tên là Trắc nương, Nhị nương
công chúa. Chú: Thời đó con cái vua chúa và các
quan lang phụ đạo, trai thì gọi là hoàng lang, gái
gọi là công chúa. (Lời chú này không rõ của ai.
Nguyễn Bính hay Nguyễn Hiền? - N.V.P).
Từ đó năm
tháng thoi đưa, hai chị em đã 16 tuổi. Nhan sắc nghiêng
thành, tư dưng tuyệt thế, làm say hoa đắm nguyệt, cá
lặn chim sa. Cả hai văn võ kiêm toàn, tài chí như thần,
kiếm cung đều giỏi, cầm kỳ đều hay. Ai cũng coi là
thế thượng thần tiên, nữ trung hào kiệt.
Năm
Trắc nương 19 tuổi, gả về Chu Diên huyện lệnh Thi
Sách. Vợ chồng hòa hợp. Được vài năm, Thi Sách bị Tô
Định giết hại. Trắc nương cảm nghĩa chồng, căm giận
giặc Tô, nuôi chí báo phục, mới dành chứa binh lương,
chiêu mộ anh hùng hào kiệt... Bà thường nguyện: bốn bể
anh hùng hãy tới giúp chúng tôi trừ Tô Định, lấy lại
non sông.
Một ngày kia, Trắc nương phong em là Quốc
Khôi công chúa1, sai truyền hịch chiêu dụ
phụ tướng nữ binh trong thiên hạ tới phù tá. Quốc
Khôi phụng mệnh. Trong mười lăm ngày phụ tướng nữ
binh anh tài trí dũng có dư hai nghìn người kéo tới ứng
mộ, cho làm nội giá.
Lại nói, khởi binh được
một năm, tướng sĩ nam nữ tới ba vạn người. Hội tại
Phong Châu thành bên sông Bạch Hạc. Trắc nương xưng là
Trưng Nữ Vương, mổ trâu, ngựa khao quân, phong tước
mệnh, phân phẩm vật cho chư tướng. Các đạo nội giá
đều là nữ, đông tới hai nghìn người.
Ngay ngày
hôm đó, cử binh đến cửa Hát Giang, đại hội ở bãi
Trường Sa, Trưng Nữ Vương điểm binh sĩ, lập đàn kỳ
đảo thiên địa bách thần2, khấn rằng:
Nguyện trời đất bách thần phù trì: Thiếp tôi là nữ
nhi, lòng thù dấy nghĩa, những lăm trừ Tô Định là kẻ
khác nòi khác giống. Hắn đối với dân rất bạo ngược,
dạ sói lang, hình dê chó, nhiễu loạn non sông làm sinh
dân nghiêng ngửa. Thiếp tôi lòng đau, nghĩ tới tính mệnh
mọi nhà mà khởi binh trừ Tô Định. Nguyện trời đất
bách thần phù trì giúp đỡ cho thành công. Đức ấy dài
vậy”.
Khấn xong, bỗng trên đàn mây đen bao phủ,
gió mau dữ dội, cờ xí phần phật bay, chỉ về phía đất
giặc. Trưng Nữ Vương cùng bách quan lễ tạ.
Cùng
ngày, Trưng Nữ Vương cử binh tiến về huyện Chu Diên
thuộc phủ Tam Đới3. Thời gian đó Tô
Định xây thành Chu Diên. Trưng Nữ Vương tiến đến
trang Cổ Lôi, lập đồn binh cự chiến Tô Định. Lúc đó
trang Cổ Lôi các họ đều theo Hai Bà4. Còn
chọn thêm 27 cô gái tài ba đi theo hầu nội giá.
Đến
ngày mùng 7 tháng Giêng, khao quân trong vòng mười ngày.
Sau đấy binh tướng chia các đạo đánh thành Tô Định.
Bốn mặt la hò, các đạo cùng tiến, lửa đốt tứ bề.
Tô Định không kịp dàn binh, bỏ chạy ra ngoại thành.
Trưng Nữ Vương và chư tướng tiếp đến. Tô Định đại
bại, chạy thẳng. Trưng Nữ Vương đuổi Tô Định đến
Cổ Lôi trang, nơi đây đã có lập sẵn đồn binh. Phục
binh đổ ra. Quân Tô binh tướng chịu chết, hơn một
nghìn tên bị mất đầu. Đất Cổ Lôi máu chảy thành
sông, xương cốt cao như núi. Tô Định chạy về bắc
ngạn.
Trưng Nữ Vương lấy lại sáu mươi thành,
thu phục cõi bờ. Từ đó Nam bang nhất thống. Trăm quan
đón xa giá Trưng Nữ Vương vào thành Chu Diên, bà lên
ngôi vua, xưng là Trưng Vương, phong em là phó vương. Từ
đó thanh bình, Trưng Vương lập đô thành tại đất Phấn
Lộ, huyện Chu Diên5. Ở Cổ Lôi trang,
Trưng Vương lập một hành cung, năm tháng ban yến tiệc
tại xứ Đầu Bàng Thượng là một dải đất có thế
đẹp như một nhị sen hóa thành nơi chim phượng quần
hội, gò đống bao bọc lấy minh đường, sông nước
nhiễu quanh xinh đẹp...
Lại nói từ Trưng Vương ở
ngôi, dân Cổ Lôi được ban họ tên, ra vào cung điện,
quan tước đầy triều, vua tôi đồng đức. Thiên hạ
thanh bình. Trăm họ âu ca. Không ai không thỏa lòng về
cuộc sống. Không một vật nào là không được nuôi
dưỡng.
Trưng Vương ở ngôi ba năm, rừng vắng hổ
báo, nước chẳng ba đào, vua sáng tôi hiền, thiên hạ
đều ái mộ. Đức như núi cao biển rộng, khác nào trời
Nghiêu, vua Thuấn...
Lại nói Hán Quang Vũ nghe nước
Nam có vua đàn bà, bèn sai Phục Ba tướng quân Mã Viện
đưa quân sang đánh nước ta. Quân Hán hơn mười vạn,
tướng ba nghìn viên, rầm rộ tiến tới biên giới. Quân
thủy cũng gồm trên một vạn thuyền đi theo sông Giang,
Hán. Lại có thêm hàng vạn ngựa chiến kèm theo.
Nhận
được thư báo cáo cấp của biên quan, Trưng Vương cử
tướng tuyển binh. (Chú: Cổ Lôi có năm tướng
thuộc năm họ được phong hầu). Trên ba mươi viên danh
tướng được phái đến các đạo ải quan cự chiến.
Qua vài năm, quân Hán thường thua, vừa chết trận
vừa chết bệnh tới quá nửa, lùi về Giang, Hán, dâng
biểu lên vua Hán6.
Trưng Vương nghe
tin quân Hán lại vào cõi, cùng em là Quốc Khôi công chúa
thay đai giáp nam giới, cưỡi ngựa cầm gươm cùng các nữ
tướng tùy tòng năm trăm người cùng mặc áo quần nam
tướng và một nghìn tướng nam ra nghênh chiến. Qua vài
tháng, hai bên đánh dư mười trận không phân thắng bại.
Tới một ngày, quân Hán tiến tới phủ Hạ Đồng, Hải
Dương, nơi đó quân Trưng Vương đã lập đại đồn. Mã
Viện phân các đạo bao vây tứ phía. Hai Bà không kịp
bày trận, liền lên ngựa dẫn cánh quân thủ túc xông ra
phá vây, chém được vài chục viên tướng Hán. Bỗng
trời nổi gió dữ thổi tung cân đai, làm lộ hình là nữ.
Quân Hán thấy vậy reo to lên: “Vua đàn bà, tướng đàn
bà, ta nhất định bắt sống”. Chúng cởi hết quần áo
xông vào. Nữ quân Trưng Vương hổ thẹn chạy tán loạn.
Trưng Vương cũng phi ngựa chạy, đến Thạch Thành huyện
thuộc phủ Kinh Môn, hai chị em thúc ngựa phi lên đỉnh
núi và hóa. Đó là ngày mùng 8 tháng Ba. Lúc đó trời u
ám tối sầm gió mưa gầm rít. Quân Hán rút chạy về
thành.
Từ đó nước ta lại bị Đông Hán đô hộ.
Nói về các bề tôi của Trưng Vương, cảm công
đức của Bà đứng ra tu sửa hành cung (nơi ban yến tiệc)
thành đền miếu phụng thờ.
Năm Hồng Đức thứ
nhất (1572) mùng 10 tháng Giêng, Hàn Lâm viện, Đông Các
đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính phụng soạn.
Năm
Vĩnh Hựu thứ ba (1737) ngày lành tháng Hai, Quản giám bách
thần tri điện, Hùng Lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền xét
riêng bản cổ mà sao lại.
Năm Tự Đức thứ hai
mươi sáu (1874) mùng 10 tháng Giêng, đồng xã sao
lại7.
_____________________________________
1.
Bản Hát Môn: “Bình Khôi công chúa”.
2. Bản Hát Môn
thêm lời chú thích: “Nay, ngày mùng 4 tháng Chín đại tế
tam sinh là do ngày này mà có”.
3. Bản Hát Môn thêm
lời chú thích: “Nay là phân phủ Vĩnh Tường”. (Chi
tiết này chứng tỏ bản Hát Môn được sao lại sau năm
1832 là năm tách hai huyện Yên Lạc và Yên Lãng đặt làm
phân phủ Vĩnh Tường).
4. Bản Hát Môn thêm lời chú
thích: “Nguyên tên cổ là Cổ Lai, sau cải là Cổ Lôi,
sau nữa mới cải là Hạ Lôi”. (Chú thích này nhầm, vì
chính ra là: Cổ Lôi - Cổ Lai - Hạ Lôi).
5. Bản Hát
Môn chép khác hẳn: “Trưng Vương lập đô tại Mê Linh
(nay là Hạ Lôi, Yên Lãng), đổi ra họ Trưng, đặt quốc
hiệu là Triệu, lấy Cổ Lai làm thang mộc ấp, sửa hành
cung, phong hầu cho năm họ, chốn cỏ rậm thành triều
đình. Dân chúng không ai ngờ lại có ngày như vậy, thật
rạng rỡ uy nghi, bốn phương ngưỡng vọng, thoát tai ách,
được thái bình. Từ đấy nước Nam yên vui.
Trưng Vương ở ngôi bốn năm, rừng vắng hổ báo, nước
chẳng ba đào...” (trở đi giống như bản Hạ Lôi).
6.
Bản Hát Môn chép khác: “... lùi về Giang, Hán. Viện có
ý lo sợ. Hắn nhớ lời em Thiếu Du nói dạo trước, cái
ngày da ngựa bọc thây có thể là lúc này chăng! Viện
tâu vua Hán xin viện binh. Quang Vũ cấp thêm cho mấy vạn
lính.
Lúc này, quân Trưng Vương đóng ở
Hải Dương, Hạ Hồng phủ. Mã Viện hợp binh lại đánh.
Qua mấy tháng xảy ra vài chục trận không phân thắng
bại. Bỗng một trận gió mạnh nổi lên làm loạn quân
ta, không giống như trận gió ngày trước ở đàn thề.
Thế không giữ được, Vương cùng phó vương lui giữ Cấm
Khê. Viện tiến quá Đông Kinh, quân đến hồ Lãng Bạc
(nay là Tây Hồ). Vương dừng lại ở Hy Sơn (nay là Ngân
Thị - Chợ Ngân), đóng tại đó, thề không đội trời
chung với giặc. Bỗng hiện một người vận triều phục,
tâu rằng: “Phụng mệnh Thượng đế ở dương trần đã
lâu. Nay vận số đã hết, thỉnh xe rồng về chầu trời.
Chốn thủy cung sẽ là nơi lăng tẩm mộ phần”. Vương
biết số trời khó tránh. Anh hùng không luận ở thành
bại. Ngày mùng 8 tháng Ba, Vương và bà em gieo mình xuống
Hát Giang. Anh hồn thường giúp dân giúp nước. Dân nhớ
công ơn lập miếu thờ.
Hồng Phúc năm thứ
nhất... (trở đi giống bản Hạ Lôi).
7. Bản Hát Môn
không có dòng này.
NHỮNG VĂN BIA VỀ SỰ
TÍCH HAI BÀ TRƯNG
Cho đến nay, trên toàn khu lưu vực sông Hồng chỉ
mới biết có hai tấm bia nói về sự tích Hai Bà. Hai tấm
bia này lại cùng ở một nơi: đền Đồng Nhân (quận Hai
Bà Trưng - nội thành Hà Nội), ra đời cách nhau tám năm.
Cả hai đều có tên là Trưng Vương sự tích bi ký.
Để bạn đọc tiện tra cứu, dưới đây là
bản dịch hai bài văn bia đó:
1.
BIA GHI SỰ TÍCH TRƯNG VƯƠNG
Trên đời có
những sự nghiệp kỳ lạ, làm cho người ta không thể
ngăn được lòng hâm mộ và xúc động.
Nước Đại
Nam ta, từ đời Hồng Bàng đến đời Lê, trước sau
trong khoảng mấy nghìn năm, có những bậc anh hùng nối
tiếp nhau chiếm cứ các vùng châu thổ, dựng nên các
triều chính thống như bốn họ Đinh, Lý, Trần, Lê.
Than ôi! Đấng trượng phu là phải như thế.
Trong
nữ giới mà trượng phu, chính là Hai Bà Trưng. Hai Bà là
con Lạc tướng, cháu Lạc vương, vốn không phải người
thường. Nhưng từ khi nước Văn Lang bị mất, thế nước
thuộc về nhà Thục, nhà Triệu, rồi đến nhà Hán, lệ
thuộc nước ngoài hơn hai trăm năm. Việc ấy không cần
bàn luận. Thêm vào đó, bọn thái thú nhà Hán hoành hành
bạo ngược, những bậc hào kiệt chưa ai nổi dậy. Buổi
ấy, trong nước có việc kỳ lạ lắm thay! Đó là việc
Bà Trưng chị vì chồng, Bà Trưng em vì chị, xắn cánh
tay, hô một tiếng, bọn thái thú bạo ngược bỏ chạy.
Trong khoảng vài ngày, bình định được hơn năm mươi
thành, oai vũ lừng khắp cõi Lĩnh Nam, thanh danh làm rung
động đất Hoa Hạ. Mặc dầu trí dũng như Phục Ba mà
Hai Bà vẫn ba lần đánh thắng, thanh thế làm cho người
Hán bao phen ngày đêm vất vả. Đến lúc việc chẳng
chiều lòng, cùng nhau xắn tay, nhảy xuống sông Hát. Trí
tuệ như thế ai mà sánh kịp, tài lược như thế ai mà
sánh kịp, nghĩa khí như thế ai mà sánh kịp. Chị em một
nhà, anh hùng muôn thuở, Hai Bà quả là bậc người hiếm
có trong nữ giới và việc làm của Hai Bà cũng khó mà có
được trong nữ lưu.
Các đấng trượng phu làm
việc vốn không cần bàn luận thành bại, mà việc làm
của Hai Bà lại càng không nên lấy thành bại mà luận
bàn. Nghìn đời sau, đọc trang sử cũ, khiến mọi người
đều tăng thêm chính khí. Đến bản triều Hai Bà vẫn
được ghi vào nền tự điển1. Ngoài ra,
miếu thờ Hai Bà đâu đâu cũng có, ấy là do uy thiêng
của Hai Bà lưu truyền lại.
Tại làng Đồng
Nhân, huyện Thanh Trì, từ xưa có lập đền thờ Hai Bà ở
bãi sông. Về sau sông lở, dân làng chọn được một nơi
ở Võ Miếu cũ, thuộc thôn Hương Viên, huyện Thọ Xương,
được ban cấp hơn sáu mẫu đất để lập đền làm nơi
hương đèn phụng thờ. Việc ấy được vua xuống chỉ
chuẩn y. Thế là triều đình đã thể theo nguyện vọng
của dân, điều đó có bằng cứ rõ ràng. Còn như việc
thi thể không hóa và những điều linh ứng lạ lùng thì
đều là những sự truyền miệng thêm thắt.
Nhân
tìm được tấm bia bỏ không ở nơi đền mới, người
ta cậy tôi viết bài văn, ý muốn mượn bia để truyền
lại những việc đó. Tôi cũng mượn bia này để bày tỏ
ý kiến, giúp người xem bia hiểu cho đúng. Vậy có bài
ký này.
Năm Minh Mạng thứ hai mươi mốt trong muôn
vạn năm. Canh Tý (1840) trung tuần tháng năm ngày tốt dựng
bia.
Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826) nguyên đốc học
Bắc Ninh, Vũ Hoàn Phủ, hiệu Đường Xuyên soạn2.
Theo bản dịch của
Lê Thước - Trần Huy Hà
(Nghiên cứu Lịch sử số
149).
_____________________________________
1.
Tự điển:
sự tích các thần thánh và phép tắc thể lệ thờ cúng
ở các đền miếu của các triều vua xưa. Hễ một vị
thần được ghi vào Tự
điển tức là được
triều đình xếp hạng.
2. Chính là Vũ Tông Phan
(1804-1862) gốc ở Bình Giang (tỉnh Hải Dương cũ) ngụ
tại làng Tự Tháp, huyện Thọ Xương, tức khu vực các
phố Hàng Trống, Lê Thái Tổ ngày nay. Ông là một danh sĩ
của Thăng Long thời đó.
2. BIA GHI SỰ TÍCH
TRƯNG VƯƠNG
Trong khoảng vũ trụ, sự
nghiệp kỳ lạ phần nhiều ra từ những khách trượng
phu. Phận gái làm nên sự nghiệp lạ, chẳng cũng là bậc
nữ trượng phu sao? Như thế lại càng đáng ghi lắm.
Nhớ Hai Bà Trưng người Châu Phong, cha là Lạc
tướng, tổ là Hùng Vương. Kể về dòng dõi kẻ thường
không sánh được. Huống nữa Hai Bà đem tấm thân ngọc
trắng giá trong, ôm cái chí tang bồng, hoài bão không phải
vừa. Hành động lớn lao chẳng ở đấy thì ở đâu?
Từ khi nước Văn Lang nửa vời sụp đổ, bờ cõi
mất về tay Thục, Triệu và Lưỡng Hán đến vài trăm
năm. Thêm nỗi ngọn lửa bạo ngược của Tô Định lại
lưng trời ngùn ngụt bốc.
Hai Bà, vợ vì chồng,
em vì chị, bừng bừng nổi giận vùng dấy nghĩa binh, ném
trâm thoa mà mặc giáp trụ, nhãng gương lược mà cầm
gươm đao, không đầy vài tháng mà lược định 56 thành
ngoài Ngũ Lĩnh, dựng nước, xưng vương, định đô Mê
Linh. Chẳng phải sự nghiệp kỳ lạ là gì đấy?
Đến
lúc phải lui về Cấm Khê, tuẫn tiết ở Hát Giang, cũng
là bởi trời chứ há nên bình luận, anh hùng theo thành
hay bại.
Nhưng xét đến gan dạ kia, mưu lược kia,
tiết tháo kia thì Hai Bà thật không thẹn là dòng dõi
thần minh.
Sau khi mất, chân thân Hai Bà hóa thành đá
hiển linh ở bến sông Nhị Hà. Năm Đại Định thứ ba
(1142) vua Lý Anh Tông sai lập đền ở bãi Đồng Nhân,
huyện Thanh Trì để thờ Hai Bà, rất linh ứng. Các triều
đều có sắc phong.
Hoàng triều ta trọng điển lễ,
đã phong sắc rồi. Năm trước, đền cũ hư hỏng vì nỗi
sông lở cát bay, đã được chỉ dụ nhà vua cho dời vào
thôn Hương Viên, huyện Thọ Xương để dân xã thờ
phụng.
Nghìn thu hương lửa, dằng dặc với trời
đất không cùng.
Nay nhân sửa đền, xin kính thuật
sơ qua sự tích Hai Bà để khắc vào đá, truyền lâu dài.
Hậu quân Đô thống phủ đô thống lĩnh Hà Ninh
tổng đốc Vũ Khê tử Tôn Thất Bật kính ghi.
Năm
Tự Đức thứ nhất (1848 ) trong muôn vạn năm ngày lành,
tháng Tư. Cử nhân tỉnh Hưng Yên hiện làm đốc học Hà
Nội, Dương Duy Thanh kính soạn1.
Theo bản dịch của
Hoa Bằng
(Tạp chí Tri Tân số 39)
24-3-1942
_____________________________________
1.
Dương Duy Thanh (1804-1861) hiệu là Nhạn Phong, đỗ cử
nhân năm 1828, người làng Phú Thị, phủ Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên cũ, nay là huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng, là
một nhà giáo dục nổi tiếng đồng thời là một nhà
thơ đặc sắc. Người bấy giờ khen là một trong “quốc
sĩ tứ kiệt”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHÍNH
A.
SÁCH VIỆT NAM
Đại Việt sử ký toàn thư - Bản dịch của
Cao Huy Giu - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - năm 1967.
Việt sử thông giám cương mục - Bản dịch của
Viện Sử học - Nhà xuất bản Văn sử địa - năm 1957.
Thần tích các làng có thờ Hai Bà và các tướng
lĩnh.
Sưu tập thần tích của các tỉnh Phúc Yên, Sơn
Tây, Hà Đông - Thư viện Khoa học xã hội.
Trưng
Vương lưỡng vị thánh sắc - Thư viện Khoa học xã
hội.
Lịch sử cổ đại Việt Nam - Giai đoạn
quá độ sang chế độ phong kiến - Đào Duy Anh - Đại học
sư phạm xuất bản - năm 1957.
Lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam - Tập I - Trần Quốc Vương và Hà
Văn Tấn - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 1963.
Lịch
sử Việt Nam - Quyển I, tập I - Trương Hữu Quýnh -
Nhà xuất bản Giáo dục - năm 1970.
Lịch sử Việt
Nam - Tập I - Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Nhà
xuất bản Khoa học xã hội - năm 1971.
Lịch sử Việt
Nam - Viện Sử học - Nhà xuất bản Khoa học xã hội
- năm 2001.
Đất nước Việt Nam qua các đời -
Đào Duy Anh - Nhà xuất bản Khoa học - năm 1964.
Một
số truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng - Nhiều
tác giả - Ty Văn hóa Hà Sơn Bình - năm 1979.
Truyền
thuyết Trưng Vương - Nhiều tác giả - Chi hội văn
nghệ dân gian tỉnh Vĩnh Phú - năm 1975.
Tạp chí Nghiên
cứu lịch sử trong những năm 1962 đến 2003.
Những
phát hiện mới về khảo cổ học các năm 1972 đến
2003.
B.
SÁCH TRUNG QUỐC
Hậu Hán kỷ - Viên Hoành - Lĩnh Nam thuật cổ
đường khắc bản. Sách của Thư viện Khoa học xã hội.
Hậu Hán thư - Phạm Diệp - Thương Vụ ấn thư
quán xuất bản. Sách của Thư viện Viện Sử học.
Thủy
kinh chú - Lịch Đạo Nguyên - Thương Vụ ấn thư quán
xuất bản. Sách của Thư viện Viện Sử học.
Tư
trị thông giám - Tư Mã Quang - Cổ tịch xuất bản xã.
Sách của Thư viện Viện Sử học.
C.
SÁCH PHÁP
L’expédition de Ma Yuan - H.Maspéro - Trong tập san
BEFEO, tập XVIII - 1918.
Le Tonkin ancien - CI.Madrolle - Trong
tập san EEFEO, tập XXXVII - 1937.
Hết!
Sưu tầm: Nguồn ông Nguyễn Vinh Phúc