Khi nhận ra những điều kỳ
lạ ở hai ngôi mộ đấy, lúc đấy thực sự tôi hoàn
toàn bất ngờ. Không có lẽ người Trung Quốc đã biết
trước được điều gì? Hay họ cũng là những người
đang đi tìm kiếm lịch sử giống tôi? Tôi tự đặt câu
hỏi cho chính mình. Tâm trạng trong tôi bồn chồn, lo
lắng. Không khí xung quanh lạnh lẽo, âm u càng làm cho tôi
cảm thấy rùng mình. Thôi! Có lẽ mình về để nghiên
cứu sau vậy, chứ đứng mãi đây thì cũng chả giải
quyết được vấn đề gì cả. Tôi nghĩ thế và ra về.
Về nhà lúc đấy đã gần 10h tối, tôi cũng chỉ vội
vàng thay quần áo, tắm qua rồi đi nằm luôn. Nhưng thường
lệ, cả nhà tôi đều đã đi ngủ. Chắc mọi người
biết tôi về muộn nên đã không chờ nữa. Vừa nằm,
tôi vừa nghĩ miên man. Tại sao lại có chuyện kỳ lạ
đấy xảy ra ở hai ngôi mộ của người Trung Quốc nhỉ?
Họ cũng có lịch sử giống mình sao? Hay là có một điều
bí mật gì đó còn tồn tại đến bây giờ mà chưa được
khám phá? Ngủ đã, có gì mai mình sẽ nghiên cứu thêm.
Tôi nghĩ thế và chợp mắt...
Sáng hôm sau tôi xin nghỉ ở
cơ quan. Có lẽ việc tôi xin nghỉ ở cơ quan cũng thành
lệ quen thuộc. Thông thường thì mỗi khi tôi xin nghỉ là
ông sếp trực tiếp của tôi thường đoán tôi đang tìm
kiếm gì đó. Nói vui, lần nào cũng vậy, ông ấy cũng
hỏi tôi:
-Thế có kiếm được cái cổ
vật nào mới không? Nếu có, nhớ thông báo cho tôi, tôi
cho cậu nghỉ thoải mái mà vẫn lĩnh lương. Chỉ cần
chia lợi tức là được.
Lúc đấy tôi chỉ cười
trừ. Dù sao cuộc sống này vẫn có người thông cảm với
mình. Nhiều lúc tôi nghĩ mình có vấn đề. Nếu ai không
hiểu sẽ bảo tôi bị hâm, toàn làm những việc đâu
đâu, không lo cho chính bản thân mình, lúc nào cũng chỉ
mong tìm kiếm, khám phá lịch sử, những cái đấy có làm
con người ta no luôn đâu. Biết thế, nhưng đã là ham mê
thì nhiều lúc tôi chấp nhận như vậy để thỏa mãn cái
ham mê đấy. Tôi chỉ nghĩ rằng đã là ham mê, sở thích
thì ai cũng vậy, đều làm bằng được cho được thỏa
mãn sự ham mê đấy. Mà đối với tôi, ham mê duy nhất
đấy là những bí mật của lịch sử. Lịch sử Việt
Nam có nhiều điều để mình phải tìm hiểu, phải khám
phá. Cha ông ta để lại cho con cháu sau này biết bao những
giá trị tinh thần và giá trị vật chất. Tôi chỉ tiếc
rằng sao bây giờ những người định hướng phát triển
cho nước Việt Nam không hiểu ra điều này. Một đất
nước muốn tồn tại, muốn bạn bè năm châu biết là
một đất nước được khẳng định bằng những giá trị
lịch sử của chính mình. Cái đấy không phải đất nước
nào, quốc gia nào có được. Ngay như chính nước Mỹ,
một đất nước tự hào là giàu có, hùng mạnh mà khi
nói về lịch sử họ chỉ thốt lên một điều về Việt
Nam là Việt Nam không chỉ có đánh nhau giỏi mà họ có
cả một bề dày lịch sử vô giá, điều đó nước Mỹ
không thể có cho dù họ có đánh đổi tất cả. Đất
nước mình cũng tự hào lắm chứ. Nhưng mà thôi, có lẽ
tôi nên quay lại công việc tìm kiếm của tôi vậy. Hôm
nay, tôi xin nghỉ việc để đến Xuân La, Hà Nội.
Có thể có ai đó trong các
bạn, ai đó đang đọc câu chuyện của tôi cũng đang ở
và sinh sống ở Xuân La. Ở làng Xuân La, đến tận bây
giờ vẫn tồn tại những điều bí mật mà các nhà khoa
học vẫn không có lời giải thích. Từ trước, chắc các
bạn ai cũng biết Việt Nam mình có rất nhiều địa đạo
như Củ Chi, Quảng Trị....., rồi những đường hầm bí
mật như ở Côn Sơn chẳng hạn. Tất cả các địa đạo
đấy đều do con người làm nên. Nhưng có một hệ thống
địa đạo đã được hình thành cách đây hàng trăm năm,
nghìn năm ở ngay tại trung tâm Hà Nội thì chắc ít người
biết. Có bao giờ các bạn nghĩ đến Hà Nội có một địa
đạo cổ không? Nó chính là một dấu tích lịch sử mà
có thể chính là đầu mối mà tôi đang tìm kiếm. Những
bí mật đấy đều có liên quan đến những ngôi mộ của
người Trung Quốc ở nghĩa trang Bất Bạt và liên quan đến
cái chuông đồng đen của thiền sư Lý Quốc Sư đã thất
truyền. Đó chính là vật báu mà tôi đang tìm kiếm. Và
nó được bắt đầu từ làng Xuân La (nay là phường Xuân
La), quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội.
Ngày
trước làng Xuân La còn có tên cổ là làng Quán La, xã
hay xã Quán La, xưa có tên là động Già La (hay Dà La).
Thời thuộc Đường (từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 10),
động Dà La nằm bên bến Lâm ấp ở ven hồ Tây. Động
Dà La nằm trên khu đất khá cao nhưng bằng phẳng, có
sông Dà La, tức sông Thiên Phù chảy qua. Sông Dà La nối
với bãi sông Hồng ở khu vực Nhật Tân, hạ lưu nối
với sông Tô Lịch ở Bưởi. Vì vậy, nơi đây thuận
tiện cho các hoạt động sản xuất, đánh cá và buôn
bán. Vào thời Đường Minh Hoàng bên Trung Quốc có niên
hiệu Khai Nguyên. Lúc đấy Đạo giáo rất phát triển.
Thứ sử Quảng Châu lúc đấy là Lưu Hoán được cử làm
đô hộ Giao Châu, đóng phủ trị ở động Dà La. Lư Hoán
cho đổi động Dà La thành thôn An Viễn và cho dựng trên
gò đất lớn (gò Thất Diệu) một quán thờ Huyền Thiên
Trấn Vũ, đặt tên là quán Khai Nguyên. Phía sau quán này
có sông Dà La (Thiên Phù) chảy qua, nên còn có tên gọi
là quán Dà La. Quán Khai Nguyên, là một quán lớn, nên
làng An Viễn lại đổi tên thành Khai Nguyên. Về sau, tên
làng được gọi theo tên quán, và gọi tắt là làng Quán
La. Vào đầu thế kỷ 11, sông Thiên Phù bị lấp, động
Dà La bị mất dần vị thế kinh tế, hành chính. Vì vậy
đến cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn, Quán La là một
xã thuộc tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai,
trấn Sơn Tây. Từ năm 1831, xã Quán La thuộc phủ Hoài
Đức, tỉnh Hà Nội. Và đến nay là phường Xuân La, quận
Tây Hồ.
Nhưng
chắc các bạn ít ai ngờ, chính ở dưới nền đất ở
Xuân La có một hệ thống địa đạo nối thông từ Xuân
La ra Hồ Tây và ra sông Hồng. Một hệ thống địa đạo
huyền bí mà đến bây giờ ít người biết đến. Với
người dân làng Xuân La thì địa đạo Quán La không mấy
xa lạ. Bên trong rất tối, sâu chừng 30m, đường vào hẹp
và thấp dần. Phần hang đi lại dễ cũng phải cầm nến
soi mới nhìn thấy đường. Tại đây, một số ngách có
thể thông nhau và có những cửa tỏa đi các nơi. Có lẽ
xung quanh sự tồn tại của địa đạo này còn nhiều câu
chuyện truyền miệng mang tính huyền bí.
- Có
truyền thuyết nói là huyệt đạo do Cao Biền cho đào
nhằm để yểm trấn;
- Cũng
có truyền thuyết nói là địa đạo được xây dựng từ
thời Lý dài hàng chục ki-lô-mét nối từ Xuân La, một
điền đồn phía tây kinh thành Thăng Long đến khu vực
Cấm Thành tại Cửa Bắc và bốn hướng khác...
- Cũng
có giả thuyết cho rằng một trong những ngách của địa
đạo này kéo tới Gò Dàn, một căn cứ hậu cần thời
Lý, cũng là nơi giam giữ tù binh Chiêm Thành; ngách thứ
hai chạy đến phía chợ Cáo, Xuân Đỉnh; thông ra Hồ
Tây...
- Lại
có truyền thuyết cho rằng, Thánh Gióng khi đánh giặc Ân
đã dừng chân ở đây, mặc dù không phải là nơi xuất
phát thần tích Thánh Gióng, nhưng nhà Lý đã cho xây dựng
tại Xuân La, cách đình Quán La khoảng 200m đền thờ Sóc
Thiên Vương để tăng thêm thần uy cho tiền đồn phòng
thủ này. Có thể tiền đồn này được nối với Cấm
Thành bằng hệ thống địa đạo nằm sâu dưới lòng
đất.
Ngày trước tôi cũng đã được nghe người dân ở đây kể nhiều về cái địa đạo này. Họ nói Quán La xưa kia nằm ngay sát Sông Hồng nên vào mùa nước lên, địa đạo cũng bị chìm trong nước. Có người đã từng thử tìm cửa ra của địa đạo bằng cách dùng một quả bưởi đánh dấu lại và thả xuống cửa địa đạo nằm bên hông đình và sau đó đã tìm thấy chính quả bưởi trên ở Hồ Tây. Hay vào thời Pháp thuộc, người dân từng nhìn thấy một cặp vợ chồng tây cưỡi ngựa vào địa đạo và không thấy quay ra.
Người
làng bịt địa đạo lại từ sau việc ấy. Trước sân
đình Quán La, hai bên lối lên các gian thờ có một đôi
linh vật mang dáng dấp “rồng chầu” khá lạ. Đôi linh
vật này không hẳn giống rồng hay lân. Hai con mang những
họa tiết khác nhau nên được nhiều người phán đoán
là một con đực, một con cái. Không người nào trong làng
xác định được đôi linh vật này có từ khi nào và
cũng không biết đích xác tên gọi của chúng. Bên phải
sân đình có một cổng ngách nhỏ mở ra một lối đi
khoảng 20m chạy vào cửa địa đạo. Dọc theo lối đi
này có nhiều phiến đá cổ. Nằm chếch bên tay phải của
đình là một cây đa cổ thụ với gốc lớn hàng chục
người ôm. Thân cây có những lỗ hổng lớn chạy từ
gốc cho tới giữa thân. Phía bên tay trái còn có một cây
thị cổ, tương truyền đây là địa điểm ăn ở của
các kỹ nữ Chiêm Thành thời Lý. Nhà Lý nam chính và đưa
về kinh đô những kỹ nữ Chiêm Thành tài sắc về Thăng
Long. Cây thị này rất lớn và cũng có kích cỡ ngang ngửa
với cây đa. Điều đặc biệt là hàng năm, cây thị trổ
rất nhiều hoa nhưng thường chỉ có một vài quả nhỏ,
tròn xoe. Những quả thị này rất thơm nhưng không ăn
được bởi ăn sẽ đau bụng. Có những người dân sống
trong làng còn chưa bao giờ nhìn thấy quả của cây thị
này. Theo truyền thuyết, cây thị là nơi tụ hồn của
các kỹ nữ Chiêm Thành, các nàng phải sống nơi đất
khách quê người nên đã bày tỏ sự trung trinh với quê
hương mà không chịu kết trái nơi xứ lạ. Hiện dưới
gốc cây thị vẫn có am thờ, có người nói là am thờ
các kỹ nữ Chiêm Thành.
Tôi
đến thăm đình Quán La ở Xuân La lúc đấy là 9h sáng.
Tôi có hỏi thăm ở đình Quán La mới được biết là
các tài liệu chính thức tại đình Quán La hiện cũng
không có kết luận nào về niên đại của ngôi đình
cũng như địa đạo nằm dưới nền của đình. Các tài
liệu chủ yếu cho thấy đình Quán La thờ một nữ thành
hoàng làng có tên là Duệ Trang. Người phụ nữ này được
cho là có công lớn trong việc đánh giặc, giữ nước và
từng hóa tại khu vực đình ngày nay. Còn tại di tích
đình Quán La thì hiện chỉ còn giữ được 19 đạo sắc
phong. Sắc phong lớn nhất là năm Thịnh Đức nguyên niên
(1653) đời Lê Thánh Tông, sắc phong cuối cùng là sắc
phong Đồng Khánh năm 1887. Các sắc phong đều ghi: phong
Duệ Trang liệt nữ tôn thần, trung dũng, võ mục, trinh
thuần, thuần ghi trạch dân thượng đẳng thần, hộ quốc
tý dân.
Vậy thì có gì
liên hệ ở đây với những ngôi mộ của những người
con gái văn công Trung Quốc được chôn ở Bất Bạt? Đấy
chính là khi tôi đi xung quanh những ngôi mộ đấy, tôi
nhận ra rằng hai ngôi mộ bị đào bới lấy tên là Duệ
Trang và Khai Nguyên. Mà Duệ Trang chính là thành hoàng làng
của Xuân La, được thờ ở đình Quán La. Còn Khai Nguyên
chính là ngôi chùa chính của làng Xuân La. Tất cả các
ngôi mộ khác đều có đầy đủ tên họ, riêng hai ngôi
mộ đấy đều không có họ và chỉ khắc tên. Thật bất
ngờ đối với tôi vì tôi không thể hình dung ra được
điều bí ẩn này lại từ những ngôi mộ.
Lúc này đứng ở
sân đình Quán La, tôi suy nghĩ mông lung. Có thể nơi cất
giữ kho báu sẽ ở dưới địa đạo này chăng? Đến bây
giờ có ai đã từng vào đấy đâu? Một bí mật đến
tận bây giờ mới thấy. Tôi cũng đã từng nghe từ cuối
năm 2009, đến đầu 2010, khi ấy rất nhiều tổ chức đã
từng đến đây để xem xét, đánh giá và cảm nhận về
địa đạo Quán La này, nhưng tât cả vẫn nằm trong bí
mật. Vậy nơi cất giữ có gì liên quan đến khu địa
đạo này? Đình Quán La? Chùa Khai Nguyên? Lúc đó, không
suy nghĩ được gì hơn nên tôi về nhà. Sau một thời
gian, công việc ở cơ quan tôi cũng bận quá nên việc tìm
kiếm những bí mật về chuông đồng đen cũng tạm lắng
lại. Nhất là khi tôi phát hiện ra những bí mật của
Cao Biền ở Côn Sơn, lúc đấy đang mải tìm kiếm nên
tôi cũng quên mất những điều tôi đã tìm thấy ở Xuân
La.
Bây giờ ngồi
trong phòng làm việc, khi tôi cầm bức thư mà Nga đã để
lại cho tôi, hồi tưởng lại những gì đã xảy ra với
tôi cách đấy ba năm. Lúc này, cái cảm giác sợ, lo lắng
và ngạc nhiên đang cứ như làm quay cuồng cái đầu bé
tý của tôi. Tôi gọi là bé tý bởi vì với những giá
trị lịch sử, với những bí mật mà tôi đang dần phát
hiện, với những kho báu vô giá của Việt Nam nó đã
không còn đủ chỗ ở trong đầu tôi mất rồi. Tôi muốn
nổ tung vì không thể chứa đựng hết. Hình bóng Nga lại
hiện ra trong tôi. Cảm giác những ngày cùng Nga ở Hà
Giang lại như trở lại. Tôi lại thấy bùi ngùi. Có phải
đàn ông ai cũng như vậy không các bạn? Nó luôn biến
đổi theo những quy luật nhất định. Có người đàn ông
nào mà không bị sắc đẹp chiếm ngự trái tim mình, bị
khuất phục bởi phụ nữ không? Từ trước đến nay đã
qua bao đời, bao thế hệ, bao triều đại Việt Nam, đã
có biết bao vị vua, hoàng đế sức mạng vô biên, lỗi
lạc, thông minh mà cũng bị những trái tim của phụ nữ
khuất phục. Vì họ cũng là con người. Mà điều quan
trọng họ là đàn ông. Vậy có lẽ các bạn ai là phụ
nữ cũng nên thông cảm cho đàn ông khi họ có những giây
phút yếu mềm trước phụ nữ, trước cái đẹp của phụ
nữ. Không phải vì họ xấu tính, không chung thủy mà vì
họ là đàn ông và họ có chất đàn ông trong đấy.
Nhưng thôi, nếu nói về vấn đề này, tôi tự làm khó
mình bởi phụ nữ mất. Phụ nữ là 50% của thế giới.
Nên hãy vì phụ nữ mà sống.
Lúc
này tôi tự đặt câu hỏi, phải chăng những gì mà bà
Hoàng Á Lệ phát hiện ra về kho báu của Cao Biền cũng
liên quan gì đến những bí mật ở Xuân La? Hay những bí
mật về chuông đồng đen của thiền sư Lý Quốc Sư? Tại
sao họ lại biết được nhỉ? Có phải chăng tấm da dê
cũng chính là của những người văn công Trung Quốc năm
nào bị chết đuối để rơi xuống hồ Tây và tình cờ
định mệnh đã sắp đặt tôi được nhìn thấy chúng?
Toàn những đầu mối, những mật mã, những bí mật về
những gia thoại lịch sử, về những bí ẩn của tấm
màn lịch sử bắt đầu hiện trong tôi. Lúc này điều mà
tôi suy nghĩ nhiều nhất là khả năng Cao Biền đã biết
chi tiết này. Nhưng nếu đặt thời gian mà Cao Biền còn
sống và thời gian cụ Lý Quốc Sư tạo ra chuông đồng
đen thì cách nhau gần 200 năm. Làm sao lúc đấy Cao Biền
biết được chi tiết đấy để có thể con cháu ông ta
sau này là bà Hoàng Á Lệ tiếp tục đi tìm? Những bí
mật đấy đã hình thành dần trong suy nghĩ của tôi. Vậy
thì có lẽ tôi lại phải bắt đầu từ Cao Biền vậy.
Một nhân vật lịch sử huyền bí đến tận bây giờ với
nhiều bí ẩn.
Như
tôi đã nói với các bạn ở phần đầu thì nhân vật
Cao Biền đã từng làm Tiết độ sứ ở Giao Chỉ một
thời gian từ năm 864 đến năm 868. Trong thời gian đấy,
ông đã tổng hợp lại toàn bộ những địa điểm được
cho là Long Mạch của Giao Chỉ và tổng hợp thành một
bản mang tên Cao Biền tấu thư Địa lý kiểu tự. Sau đó
ông đã gửi báo cáo về vua Đường lúc đấy. Năm
Ất Mùi (875). (Đường, Hi Tông, năm Kiền Phù thứ 2). Nhà
Đường đổi Cao Biền đi làm tiết độ sứ Tây Xuyên,
dùng Cao Tầm sang thay. Theo
sách An Nam kỷ yếu, Cao Tầm là cháu họ Cao Biền, đã
từng làm tiên phong, xông pha tên đạn, nêu gương mẫu
cho các quân sĩ. Cao Biền tiến cử Cao Tầm sang thay cho
mình. Vua Đường nghe theo.
Trong cuốn “Cao Biền tấu
thư Địa lý kiểu tự”, cuốn sách này sau khi được
dâng về cho Đường đế đã được lưu giữ trong kho
sách cấm của triều đình, xếp vào hàng bí thư. Trải
qua các đời Đường, Tống….đến thời nhà Minh, với
danh nghĩa “Phò Trần Diệt Hồ” nhà nước phương Bắc
lại đem quân xâm lấn nước ta. Chỉ huy cuộc chiến
tranh này là ba danh tướng: Trương Phụ, Mộc Thạch, Hoàng
Phúc. Trong đó có Hoàng Phúc là một tướng rất giỏi,
uyên thâm kỳ môn độn giáp, đặc biệt là Địa lý. Ông
nghiên cứu rất nhiều, và đã lấy được từ trong kho
sách cuốn Cao Biền tấu thư. Lần này sang Việt Nam ông
mang theo với dụng ý kiểm chứng lại các ngôi đất kết
mà Cao Biền đã nêu. Nhưng trong cuộc chiến tranh này quân
Minh đã thất bại, Đại quân sư Nguyễn Trãi đã dùng kế
“vây thành diệt viện” chém đầu Liễu Thăng, bức
hàng, bắt sống toàn bộ tướng lĩnh trong đó có Hoàng
Phúc và cuốn Tấu thư địa lý này đã được thu hồi
từ tay Hoàng Phúc. Nguyễn Trãi là người uyên thâm, trọng
nhân tài, biết tiếng Hoàng Phúc nên không dám khinh mạn,
mời vào tiếp chuyện. Khi tiếp chuyện Nguyễn Trãi rất
khâm phục tài học của Hoàng Phúc. Có một chi tiết mà
ít ai biết đến là khi bàn luận về Địa lý, Hoàng Phúc
có nói với Nguyễn Trãi rằng: Nhà Hoàng Phúc được ngôi
đất kết, có cái xá văn tinh cứu giải nên không sợ
hung hiểm, nếu đúng như Địa lý mà Cao Biền nói về
thế đất của mình ở quê nhà thì không quá 100 ngày nữa
Hoàng Phúc sẽ được tha. Tuy trở được trở về chính
quốc, nhưng Hoàng Phúc sẽ không thoát nợ trần được
với Giao Chỉ. Hoàng Phúc còn nói với Nguyễn Trãi rằng,
ngôi đất nhà ông ở Nhị Khê, Thượng Phúc, Hà Đông có
trong bản tấu thư của Cao Biền. Theo sách này, đất nhà
Nguyễn Trãi kết phát công hầu khanh tướng, nhưng long
lại đoản mạch, tại cung Mùi (ứng với ngôi thứ thất)
có cái thương sa đâm vào nên rất độc, có thể phạm
hình thương quan ngục, nếu không chữa ắt sẽ có ngày
tai họa
Hoàng
Phúc miêu tả rất rõ cho Nguyễn Trãi về những gì Cao
Biền nói về thế đất mà Nguyễn Trãi đã ở như sau:
Nhị Khê Thượng Phúc - Thôn Nhị Khê, Thượng Phúc, Hà Đông
Mạch kết bình dương - Mạch kết dưới bình dương (đất bằng)
Sơn như ngư đại - Núi như cá lớn
Thủy như loa tràng - Nước như cái loa dài
Tam môn giới khí - Thủy khẩu ba đường giới khí
Cửu khúc trụ đường - Chín khúc nước trụ tại minh đường
Tiền hô hậu ủng - Tiền hô hậu ủng, Nguyễn trãi cùng Lê lợi khởi nghĩa, kêu gọi nhân dân đều được ủng hộ là vì vậy
Hổ phục long hàng - Hổ phục long hàng, Bắt sống tướng giặc, chém đầu Liễu Thăng là vì vậy
Thế xuất khanh tướng - Thế đất xuất công hầu khanh tướng
Quyền chưởng binh lang - Nắm quyền điều khiển binh lang
Hiềm sơn lai đoản mạch - Nhưng vì Long lai đoản mạch
Ly biệt tha hương -Nên sẽ ly biệt tha hương, cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt sang Trung Quốc, không về
Khủng bị hình thương -Sợ là sẽ bị phạm hình thương, đời sau Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Quả nhiên, sau đó để thực hiện chính sách bang giao, Lê Lợi đã cấp thuyền cấp ngựa cho quân Minh giải giáp về nước, đúng như lời Hoàng Phúc nói. Còn Nguyễn Trãi, sau vì cái án Lệ chi viên mà bị tru di tam tộc, kỳ lạ thay nó lại gây ra bởi sự liên quan đến Thị Lộ, người thứ thiếp của ông, đúng như lời Hoàng Phúc đã nói.
Sau khi nghe Hoàng Phúc đã nói
những điều về mình, Nguyễn Trãi rất khâm phục những
nghiên cứu của Cao Biền. Câu chuyện của Nguyễn Trãi và
Hoàng Phúc đã có những chi tiết mà sử sách không hề
nêu đấy chính là trong quyển sách mà Cao Biền trình về
vua Đường lúc đấy có nhắc đến một vị trí được
gọi là Long Mạch rất linh thiêng mà ở đó sẽ có thể
có cao nhân của Giao Chỉ sẽ phá được. Nơi đấy ắt
có bảo vật của Giao Chỉ. Nếu lấy được bảo vật
đấy của Giao Chỉ thì Long Mạch sẽ bị loạn, lúc đấy
ắt sẽ phá được Giao Chỉ. Vị trí và thế đất đấy
được Cao Biền thể hiện rất rõ, riêng biệt trong mặt
sau của một trang sách trong cuốn sách của mình. Quyển
sách chính đấy đã được bàn giao cho vua Đường. Khi
Hoàng Phúc sang Giao Chỉ tìm kiếm cũng đã mang bản sao
đấy sang để đối chiếu.
Cao Biền cũng đã dự tính
trước việc đấy, nên đã làm nối tiếp thêm một hệ
thống địa đạo dưới lòng đất tại Xuân La một cách
quy mô nhằm một phần cắt Long Mạch nơi đấy và cũng
chính là để chuẩn bị cho công việc cho những người
tiếp theo Cao Biền, lợi dụng hệ thống địa đạo có
sẵn đấy có thể lấy và tìm được những bảo vật
của Giao Chỉ. Một sự sắp đặt đã được tính toán
trước. Đấy chính là hệ thống địa đạo Quán La. Hệ
thống địa đạo Quán La được nối thông với Hồ Tây
và từ Hồ Tây có thể thông ra sông Hồng. Hệ thống
được bắt đầu từ một ngôi mộ Hán và được đánh
dấu bằng cách trồng một loài cây còn gọi là cây thị.
Ngày cây thị ra quả chín vào đúng ngày rằm tháng 9 cũng
chính là ngày xuất hiện báu vật Giao Chỉ. Một năm cây
thị chỉ một lần ra quả và một quả duy nhất. Lúc đó
những bí mật sẽ được xuất hiện. Và nơi có Long Mạch
linh thiêng bậc nhất của Giao Chỉ đấy chính là Hồ
Tây hay còn gọi là Hồ Kim Ngưu.
Khi nghiên cứu đến đây,
tôi mới thực hiểu ra vấn đề. Vậy chính cái địa đạo
dưới đình Quán La kia chính là nơi mà Cao Biền đã nhắc
đến trong cuốn sách của mình. Nơi đấy sẽ chỉ dẫn
đến nơi cất giấu báu vật của Giao Chỉ. Đúng rồi!
Trùng hợp quá! Địa đạo nối thông với Hồ Tây ra sông
Hồng. Nơi đây chính thiền sư Lý Quốc Sư đã thả xuống
Hồ Tây chiếc chuông đồng đen. Thật là bất ngờ! Vậy
chính cái báu vật của Giao Chỉ theo Cao Biền nói chính
là cái chuông đồng đen. Tôi sướng quá! Một sự thật
mà đến bây giờ tôi mới biết. Sao Cao Biền có thể
biết được điều này nhỉ? Tôi thầm nghĩ. Ông ta quả
là một người có khả năng đoán biết được sự việc
sẽ xảy ra. Quả thật không hổ danh ông là một người
thủy tổ của phong thủy. Vậy theo tôi nghĩ lúc đấy thì
truyền thuyết về chuông đồng đen là khả năng có thật.
Cũng chính Nguyễn Trãi đã biết điều này và ông cũng
nắm giữ bí mật về nó. Một bí mật mà chỉ có ông và
Hoàng Phúc biết. Hấp dẫn quá. Đúng là lịch sử! Tôi
cảm thấy như mình đang chuẩn bị bắt đầu một cuộc
tìm kiếm mới. Chuông đồng đen ở Hồ Tây.
Quay lại câu chuyện và những
bí mật giữa Hoàng Phúc và Nguyễn Trãi, sau đó đúng như
lời Hoàng Phúc nói, Lê Lợi đã chiến thắng và lập ra
nhà Lê. Toàn bộ quân lính của nhà Minh cùng những viên
tướng bị bắt làm tù binh (trong đó có Hoàng Phúc) đã
được Lê Lợi trao trả lại cho nhà Minh. Điều đó đã
đúng với tiên đoán của Cao Biền. Một sự thật mà đến
Nguyễn Trãi cũng không thể ngờ tới và Nguyễn Trãi cũng
đã nghĩ đến kết cục sau này của chính mình theo những
gì Cao Biền đã mô tả và nói về thế đất nơi mình
sinh sống. Để chuẩn bị cho những việc sẽ phải đối
đầu với những việc sắp xảy ra, Nguyễn Trãi đã cất
dấu những thứ được cho là bảo bối của mình mà
không nói với Lê Lợi. Đấy chính là tấm bản đồ chỉ
dẫn nơi cất giữ kho báu và một bí mật mà Hoàng Phúc
đã tiết lộ cho Nguyễn Trãi liên quan đến trực tiếp
đến nơi sẽ có báu vật của Giao Chỉ. Bí mật đấy
cũng được Cao Biền thể hiện trong cuốn sách của mình.
Một
chi tiết nữa là tại thời điểm giam giữ Hoàng Phúc,
Nguyễn Trãi vì mến phục tài đức của Hoàng Phúc, ông
đã đã kiến nghị với Lê Lợi thu nạp Hoàng Phúc để
phục vụ dưới trướng bằng cách gả cho Hoàng Phúc một
tỳ nữ rất xinh đẹp là Lã thị. Lã thị là người
làng Quán La, tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Quốc
Oai, trấn Sơn Tây. Tuy nhiên với tính cương trực của
mình, Hoàng Phúc đã từ chối khéo và trở về nước vào
năm 1428. Tuy nhiên khi về triều Đường với danh nghĩa
trả lại tù binh, Hoàng Phúc không được mang Lã thị về
cùng mà phải để ở lại. Sau đó vào năm thứ 5 niên
hiệu Tuyên Đức (1430), Hoàng Phúc dâng thư lên Minh Tuyên
Tông hiến kế "túc binh thực tỉnh dịch" (cho
quân ăn no giảm nặng nhọc). Minh Tuyên Tông nghe theo,
chuyển Hoàng Phúc làm thượng thư bộ Hộ. Năm thứ 7
niên hiệu Tuyên Đức (1432), Tuyên Tông phái Hoàng Phúc
tới Nam Kinh làm thượng thư bộ Công kiêm chưởng quản
Nam Kinh Binh bộ. Năm thứ 10 niên hiệu Tuyên Đức (1435),
Tuyên Tông mất, Minh Anh Tông nối ngôi. Cùng năm, Anh Tông
phong Hoàng Phúc làm thiếu bảo kiêm thượng thư bộ Hộ.
Hoàng Phúc nỗ lực làm việc, nên lâm bệnh nặng vào mùa
đông niên hiệu Chính Thống thứ 4 (1439), tháng 1 năm sau
qua đời, thọ 78 tuổi.
Tuy
nhiên một điều bí mật mà không phải ai cũng biết đấy
chính là đến lúc chết Hoàng Phúc vẫn không hề biết
mình đã có một người con với Lã thị. Còn tại Giao
Chỉ lúc Lê Lợi tha Hoàng Phúc về nhà Minh, lúc đấy Lã
thị đã mang thai được 3 tháng. Sau đó Lã thị sinh được
một người con trai. Vì nể phục Hoàng Phúc mà Nguyễn
Trãi đã đem về làm con nuôi, lấy làm tâm phúc. Người
con trai của Hoàng Phúc lúc đó được lấy tên là Hoàng
Phi.
Khi
dành độc lập, Lê Lợi lập ra triều đại nhà Hậu Lê.
Đã có nhiều chuyện xảy ra như những gì Cao Biền đã
nói về Nguyễn Trãi tại những bản báo cáo của mình
đấy chính là việc Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc khi xảy
ra vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng mà đến tận bây giờ
vẫn còn nhiều tranh cãi. Cái ngày định mệnh của Nguyễn
Trãi là ngày 27 tháng 7, 1442 (năm Nhâm Tuất) khi vua Lê
Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quan ở thành Chí
Linh, Hải Dương. Lúc đấy Nguyễn Trãi đón vua ngự ở
chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8, vua
về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc
huyện Gia Lương, Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn
Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã
vào tuổi 40 được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sắc đẹp,
văn hay, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến
Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi
băng hà, lúc này ông mới 20 tuổi. Các quan bí mật đưa
về, ngày 6 tháng 8 mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến
cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ
tội giết vua. Bị kết tội đồng chủ mưu giết vua,
Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc. Ông và cả ba họ
ông bị xử chém vào ngày 16 tháng
8 năm
Nhâm Tuấn
(19
tháng 09 năm
1442).
Tại
thời điểm xảy ra vụ án Lệ Chi Viên, tất cả họ hàng
thân quyến của cụ Nguyễn Trãi đều bị tử hình. Tấm
bản đồ chỉ nơi cất giấu của Cao Biền đã được cụ
Nguyễn Trãi đưa cho một người hầu gái. Người hầu
gái đấy đã kịp thời khắc họa lên Bàn Cờ Tiên (như
tôi đã nêu ở phần trước). Còn riêng bí mật mà Nguyễn
Trãi có được khi trao đổi với Hoàng Phúc thì cụ đã
kịp thời giao lại cho một người thân tín và dặn dò
là sau khi chết, nếu gặp được minh chủ (là vua Lê Tư
Thành sau này) mà giải oan được cho cụ là thì phải đưa
ngay. Sau đó, người này được người dân trong làng che
dấu và đã kịp chạy về quê mình chính là làng
Quán La là một xã thuộc tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm,
phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây.
Người tâm phúc đấy chính là Hoàng Phi - con trai của
Hoàng Phúc. Tại Quán La, Hoàng Phúc đã được sư trụ
trì Chùa Khai Nguyên nhận về làm đệ tử và được nuôi
dưỡng. Đến đây tôi mới hiểu tại sao Cao Biền đã dự
tính trước cho Hoàng Phúc là sẽ không dứt được nợ
trần với Giao Chỉ. Vậy có khả năng đấy chính là
Hoàng Phi, đứa con của Hoàng Phúc và Lã thị.
Thật
ngạc nhiên! Vậy chính Hoàng Phi đã ở chùa Khai Nguyên?
Vậy thì có khả năng những bí mật của Hoàng Phúc đã
trao đổi với Nguyễn Trãi sẽ theo Hoàng Phi về đây? Tôi
nghĩ vậy và cảm thấy như đã phát hiện ra cái chuông
đồng đen đấy rồi. Có lẽ tôi sẽ đến chùa Khai
Nguyên và đình Quán La một lần nữa xem như thế nào.
Biết chăng tôi sẽ tìm được manh mối nào. Và cũng có
thể những bí mật của Nguyễn Trãi và Hoàng Phúc sẽ
được thể hiện ở cuốn sách của Cao Biền. Trước hết
tôi sẽ phải tìm hiều và đọc lại những thông tin từ
cuốn sách đấy xem như thế nào đã. Lần này đến Quán
La cách lần trước đã hai năm rồi. Lúc đấy tôi cũng
thầm cảm ơn bí mật mà Nga đã cho tôi trước lúc cô ấy
nhắm mắt.
Tôi
vội vàng lục ra bản dịch tiếng Việt từ cuốn sách
của Cao Biền, tôi đọc đi đọc lại. Không thấy! Sao
không thấy thông tin gì nói về nơi cất giấu đấy nhỉ?
Sao lạ quá! Chính điều này được Hoàng Phúc nói với
Nguyễn Trãi mà? Sao lại có chuyện kỳ lạ thế nhỉ? Tôi
băn khoăn suy nghĩ. Mai vậy, tôi sẽ phải đến Quán La,
chùa Khai Nguyên ngay xem như thế nào.
Mà
lúc đấy tôi còn có một thắc mắc nữa đặt ra với
chính tôi là tại sao mộ hai người văn công Trung Quốc
bị chết ở Hồ Tây lại được khắc tên là Diệu Trang
và Khai Nguyên? Có gì liên hệ chăng? Hay là một mã hiệu,
một sự đánh dấu nơi cất giữ? Vì Diệu Trang chính là
tên thần hoàng Làng được thờ trong đình Quán La, còn
Khai Nguyên chính là tên ngôi chùa Khai Nguyên ở làng Quán
La cũ. Phải chăng họ cũng đã biết nơi cất giữ báu
vật đó? Và họ cũng đang tìm kiếm để mang về đất
nước của họ? Nên chính vì thế không tự nhiên mọi
việc đều xảy ra ở Hồ Tây, ngay tại đền Kim Ngưu.
Mọi việc thật là trùng hợp. Nhiều những chi tiết bất
ngờ, khó có thể giải thích được bắt đầu xuất hiện
ra với tôi. Thôi! Tôi đi ngủ đã, kiểu gì cũng làm rõ.
Mai sẽ đến Xuân La một lần nữa.
Sáng
dậy, làm một tách cafe, sau đó đúng 8h sáng, tôi lại
xin nghỉ ở cơ quan và đi đến Xuân La nơi có đình Quán
La và chùa Khai Nguyên. Cuộc tìm kiếm của tôi lúc này sẽ
khó khăn hơn. Tôi không biết sẽ phải tìm đâu ra manh
mối để dẫn đến bí mật về chuông đồng đen. Từ
một tấm da dê mà tôi phải lao tâm khổ tứ thế này.
Cũng một phần tôi cũng muốn làm rõ những gì Nga đã
nói với tôi. Một tâm nguyện của người đã mất.
Đến
chùa Khai Nguyên trước, tôi sững sờ trước những cảnh
đẹp của chùa Khai Nguyên. Vẻ cổ kính của nó được
thể hiện thông qua những báu vật của ngôi chùa này.
Nếu theo sử sách tôi được biết thì ở thế kỷ 14, Lý
Tế Xuyên có ghi chép rất rõ về quần thể di tích làng
Quán La: Vào khoảng niên hiệu Khai Nguyên đời Đường,
thứ sử Quảng Châu là Lư Hoán làm đô hộ Giao Châu,
đóng tại thôn An Diễn, giữa hai huyện Long Đỗ và Từ
Liên.
Một
lần, Lư Hoán ngao du qua động (từ chỉ vùng đất, chứ
không phải hang động) Già La, thấy cảnh đẹp, có gò
đống, sông chảy quanh, nên lập phủ huyện, dựng đền
thờ vị thần Huyền nguyên đế quân, dựng quán lấy tên
Khai Nguyên trên gò Thất Diệu (chính là gò đất có đình
Quán La). Cái tên Khai Nguyên có ý biểu dương công đức
nhà Đường.
Sau
này, họ Lư đổi tên làng Già La thành làng Khai Nguyên và
gọi quán dựng trên gò Thất Diệu là quán Già La.
Khoảng
niên hiệu Thiệu Phong, đời Trần Dụ Tông, thế kỷ 14,
sư Văn Thao trùng tu lại quán, đổi làm chùa, gọi là
chùa An Dưỡng. Tuy nhiên, nhà chùa hay bị quấy phá, nên
nhà sư dời về làng Bộ Đầu, vì thế chùa lại bỏ
không.
Nhân
dân trong làng đã tiếp quản, trùng tu biến thành đền
thờ phụng Sơn Thần. Thời Tiền Lê, theo tên quán, đổi
thôn Khai Nguyên thành Già La. Đến thời Hậu Lê thì gọi
là Quán La.
Như
vậy, cụm di tích này có từ thời Đường, do Lư Hoán
lập nên. Chứng tích còn lại rõ ràng nhất là ngôi chùa
Khai Nguyên cạnh đình Quán La vẫn còn pho tượng cổ rất
đẹp. Theo sư trụ trì thì pho tượng này là Đường Minh
Hoàng.
Sau
khi đi tham quan hết một vòng quanh chùa Khai Nguyên tôi mới
tự đặt câu hỏi cho chính mình. Vậy thì có gì liên hệ
ở đây? Bằng cách nào để tìm được tung tích của
Hoàng Phi đây? Chỉ có tìm được những gì mà Hoàng Phi
để lại hoặc cất giữ thì mới có thể biết được
bí mật của Nguyễn Trãi và Hoàng Phúc được và chỉ có
thế mới biết vị trí cất giữ chuông đồng đen.
Đi
vòng quanh chùa, rất lâu, tôi không nhận biết được
điều gì đặc biệt cả. Hay tôi hỏi sư trụ trì nhỉ?
Có thể tôi sẽ khai thác được gì thêm được không
nhỉ? Chợt nhớ một chi tiết tôi đã vô tình bỏ qua.
Sao mình có thể ngốc thế nhỉ? Sao mình lại bỏ qua một
chi tiết quan trọng thế? Tôi giật mình về thông tin tôi
phát hiện. Đính chính là ngôi mộ Hán ở đình Quán La.
Đi vội vàng đến vị trí có ngôi mộ Hán. Lúc này không
có ai ở đấy cả. Có một ông lão đang quét sân đình,
tôi vội vàng hỏi ông lão về cái ngôi mộ Hán đấy.
Ông lão nói:
-
Lão đã trông giữ cái đình này đến nay gần 50 năm.
Những gì thay đổi ở đấy lão đều biết. Có rất
nhiều đoàn khoa học, khảo cổ về đây nghiên cứu cái
ngôi mộ Hán này. Nhưng đến nay cũng chưa hề có kết
luận cụ thể là ngôi mộ Hán này là của ai cả. Chỉ
biết tuổi của ngôi mộ Hán đấy bằng đúng tuổi của
ngôi đền này thôi.
Ngày
trước có một nhà khoa học đến đây, cũng khảo sát
ngôi mộ đấy và nói với lão là đây là loại mộ táng
xây bằng gạch thời Bắc thuộc. Hầm mộ ăn sâu dưới
nền thượng điện đình Quán La và cửa vào mộ đã bị
mở ra từ lâu. Hầm mộ này được đánh giá là tương
đối lớn. Trong đó có nhiều ngăn gọi là nhĩ thất
(chính là các ngách nhỏ đã mô tả) với kiến trúc cửa
vòm cuốn. Gạch xây mộ là gạch có hoa văn trám và một
số gạch không có hoa văn, gạch xây cuốn hình múi bưởi
có hoa văn. Đây là những nét đặc trưng của mộ Hán.
Các mộ Hán thường có chủ nhân là những người có vai
vế trong xã hội thời đó, chủ yếu là quan lại, quý
tộc. Sách Tây
Hồ chí
cũng
viết rằng đây là một ngôi mộ của một nhân vật có
vai vế trong xã hội thời đó nên mộ mới có nhiều
ngách. Ngăn chính (Thất) là nơi để mộ phần chủ nhân,
còn các ngăn ngách (Nhĩ thất) dùng để đựng đồ tuỳ
táng giá trị. Tuy nhiên, hiện tại, không còn đồ vật
cổ quý giá nào ở đây, chứng tỏ mộ đã bị “hỏi
thăm” từ lâu.
Ông cũng ở đây lâu rồi
nên ông cũng biết phía trên cửa vòm cuốn có những viên
gạch vồ và có trát vôi vữa. Vết tích này cho thấy
ngôi mộ đã từng bị sửa chữa vì thời Hán chưa có
vôi vữa và gạch vồ là sản phẩm từ thời Lê. Ngày
trước có cả ông Giáo sư Phan Huy Lê ở hội sử học
Việt Nam gì đó cũng đến đây và khẳng định đây là
ngôi mộ Hán. Ông chỉ tiếc là thần phả chứa tại đình
Quán La đã bị thất lạc nên không ai khẳng định được
chính xác về niên đại cũng như nhân vật được chôn
tại ngôi mộ này. Hiện tại chỉ còn hồ sơ di tích tại
đình Quán La là được lưu lại, ở đấy có nói ngôi
đình này xưa kia có tên là Quán Già La. Đình và chùa
Khai Nguyên vốn là một quần thể di tích gắn liền với
nhau. Tên “Già La” bắt nguồn từ địa bàn này có con
sông Già La chảy qua.
Lúc này tôi nhớ đến trong sách Tây Hồ chí có ghi, quán nằm trên đỉnh của gò Thất Diệu, thờ Huyền Nguyên đại đế. Đến thời Lý thì quán này vẫn còn. Các vua Lý vẫn thường ra du ngoạn, lại thấy ở dưới chân núi có hang sâu và dài, sai người xây bậc và gọi là động Thông Thiền. Đến thời Hậu Lê thì địa danh này được đổi thành Quán La.
Có một điều khá đặc biệt, là từ thế kỷ 14, cách nay gần 700 năm, các nhà chép sử đã nhắc đến một cái động có tên là Thông Thiên. Lý Tế Xuyên viết trong Việt điện u linh, rằng: Các vua nhà Lý thường du ngoạn đến quán Già La, thấy dưới chân núi có hang, tuy không to lắm nhưng sâu và dài, liền sai xây bậc để có thể lên xuống và gọi là động Thông Thiên. Cũng vì dưới ngôi chùa này có động, nên có một thời gian gọi chùa là chùa Hang. Dân chúng thì đồn đại hang động là nơi người Tàu để của.
Chính
nhà Hà Nội học Hoàng Đạo Thúy cũng đã nói về Quán
La trong cuốn Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội: “Đây
là cái hang trong lòng quả núi đất, thuộc vào một trong
7 quả núi có hình Thất Tinh. Vua Lý Thần Tông đã cho xây
gạch làm động Thông Thiên…”.
Như vậy có thể nói, từ cả
ngàn năm nay, trong ý nghĩ của người dân, cho đến nhà
sử học, thì trên gò đất Thất Diệu, trong quần thể 7
gò đất có tên Thất Tinh, có một ngôi đình (có thời
là quán, chùa) và trong lòng gò đất, dưới nền ngôi
đình có một hệ thống hang động bí ẩn. Qua đó, có
thể tin rằng, cái gọi là hang động này đã có rất lâu
đời, trước cả khi xây đình, tức là trong hoặc trước
thời Khai Nguyên (713-739) nhà Đường.
Suy
nghĩ thế tôi cũng thấy làm thú vị về những lập luận
của tôi lúc này. Vậy có khả năng chính ngôi mộ Hán
cũng chính là nơi cất thi hài của Hoàng Phi chăng? Bởi
vì hiện tại ở Xuân La không có giấu tích hay bất kỳ
một thông tin gì về Hoàng Phi cả. Ngay cả sử sách chính
thống của mình cũng đều không có. Nếu đúng như vậy
thì có thể nơi đấy cũng chính là nơi cất giữ bí mật
của Hoàng Phúc và Nguyễn trải. À mà đúng rồi, chính
Cao Biền đã từng đề cập về địa đạo Quán La trong
những gì ông ta viết trong quyển sách của ông ấy là:
Hệ
thống được bắt đầu từ một ngôi mộ Hán và được
đánh dấu bằng cách trồng một loài cây còn gọi là cây
thị.
Vậy
có khả năng tại nơi cây thị trồng chính là nơi bắt
nguồn những bí mật về báu vật của Giao Chỉ. Lúc này
tôi vội vàng chạy đến ngay chỗ cây thị ở gò Thất
Diệu đằng sau đình Quán La. Về
những tài liệu mà sử sách nói về cây thị ở gò Thất
tinh này thì tôi được biết Cây thị đại thụ này có
đến nghìn tuổi. Nó là một trong bốn cây đại thụ nằm
trên mom cao của vùng Thất Tinh có nhiều huyền tích nhất,
giờ lá vẫn xanh um tùm cả góc sân đình Quán La. Cây thị
thân to, cành tán rộng nằm trên mom cao trước cửa sân
đình Quán La. Cây thị này rất đặc biệt, mùa Xuân thì
lộc non xanh biếc, mùa Hạ chim về ríu rít, nhưng bặt
nỗi nó chỉ ra một quả trong mỗi mùa.
Khi
đứng ở cổng tam quan đình Quán La hướng mắt về phía
trước mặt, tôi thấyđược cây thị và cây đa có cành
hướng vào như như 2 cánh tay của 2 người với lại
nhau. Khoảng trống rỗng trong thân gốc đa có thể chứa
được hàng chục người lớn, bóng tỏa mát cả chợ cóc
họp bên đường làng. Cây thị ở đình Quán La đối
diện với cây đa thì người ta cho rằng có nhiều điều
lạ và khác biệt. Thậm chí nhiều người còn gán cho nó
như sự tích thần kỳ trong truyền thuyết. Nào là vị
thần Duệ Trang đã hóa thân vào cây thị, nào là vùng
đất Thất Tinh nên mới có cây cổ thụ đặc biệt này.
Có lẽ nào nhỉ? Nên không phải tự dưng ở những ngôi
mộ của những người Trung Quốc lại có tên là Khai
Nguyên và Duệ Trang. Mà trùng hợp hay cố ý lại đúng là
hai người chứ không phải con số khác. Nó trùng hợp đến
bất ngờ với những gì có ở Xuân La. Huyền tích hay sự
tích đều là câu chuyện của người tâm tín về giá trị
của thiên nhiên, cây cối có bề dày thời gian. Và chính
cái thời gian đã làm cho những cây đại thụ trở nên
có giá trị đặc biệt về tâm linh, về mặt sinh thái.
Theo như tôi quan sát thực tế, cây thị nằm trên mô đất
cao hơn cả ở trước cửa đình Quán La. Cây thân gỗ
khoảng 3 người lớn vòng tay, có miếu thờ trang trí hoa
văn rồng phượng. Được biết, vào ngày tuần rằm, mồng
1 người dân thường đến thắp hương cầu bình an.
Sao
lạ thế nhỉ? Cây thị ra mỗi năm chỉ một quả, như
truyền thuyết vậy. Đúng thật, ở xã hội này, khi khoa
học phát triển cũng không ai có thể giải thích được
sự việc này. Cao Biền cũng đã từng nhắc đến sự
việc này. Trời đất! Khi nhớ đến điều này tôi mới
nhận thấy những cái gì Cao Biền nói có vẻ như là sự
thật. “Mỗi năm khi thị chín chính là ngày mà báu vật
Giao Chỉ xuất hiện”. Sao lại có thể như thế được
nhỉ? Vậy có thể chăng khi cây thị ra quả, mà một quả
duy nhất, rất dễ phát hiện. Vậy hiện tượng này sẽ
như thế nào đây? Sao lại khi quả thị chín thì sẽ phát
hiện ra báu vật? Có điều gì uẩn khúc chăng?
Khi
hiểu đến đây tôi bắt đầu tò mò về sự bí hiểm ở
cây thị này. Có lẽ chả ai có thể giải thích được
điều này. Một người cách cả nghìn năm có thể biết
trước chuyện này. Hay khi cây thị chín, sẽ có hiện
tượng gì xảy ra? Hiện tượng đấy sẽ xuất hiện để
chứng minh điều mà Cao Biền đã nói là đúng? Thường
thì tôi hay nghiêng về lý do đấy. Sau nhiều cuộc tìm
kiếm tôi luôn đúc kết kinh nghiệm ra điều này. Thật
sự bất ngờ về việc cây thị chỉ ra một quả trong
một năm. Nhưng bây giờ là mùa hè, còn phải 3 tháng nữa
mới đến thị chín. Làm sao bây giờ? Tôi nghĩ thế và
đành phải chờ đợi vậy. Có thể khi đấy tôi sẽ tìm
được lời giải của bí mật này. Nơi cất giữ chuông
đồng đen và nơi cất giữ chính là bí mật của Nguyễn
Trãi và Hoàng Phúc.
Rời
Xuân La tôi về thẳng nhà. Trên đường về nhà, tôi luôn
có tâm trạng sốt sắng và tò mò. Sau mỗi khi tìm kiếm,
tôi luôn thấy những điều bí mật tưởng chừng như sắp
đặt. Mọi vật đều có lý lẽ riêng và gắn kết với
nhau một cách bất ngờ. Quả thật, cuộc sống đến tận
bây giờ có những điều khoa học không thể giải thích
được. Tôi tự nhủ vậy. À mà sao tôi nghĩ ra nhỉ? Có
thể vị trí nơi cất giữ đấy được thể hiện bằng
bản vẽ thì sao? Trong quyển sách của Cao Biền cũng có
những hình vẽ các thế đất, sơ đồ ký họa mà. Sao
mình không biết điều này nhỉ? Bản mình đang đọc chỉ
là dịch. Còn bản chính, tôi đã bàn giao cho thư viện
Quốc gia khi tôi tìm được tại chùa Dạm mà. Lúc đấy
tôi không nghĩ có chi tiết này. Mà làm sao tôi biết được.
Bí ẩn lịch sử là mình phải tự tìm hiểu thôi, chứ
ai đặt vào tay cho mình bao giờ.
Hay
mình đến thư viện quốc gia nhỉ? Nơi đấy chắc sẽ
lưu trữ, mình có thể mượn để đọc được mà. Vì dù
sao tôi cũng là người đã tìm ra một bản sao. Đúng rồi!
Nghĩ đến điều đấy tôi đi xe ô tô đến luôn thư viện
Quốc Gia ở Hai Bà Trưng mà không về nhà nữa. Đến thư
viện quốc gia lúc đấy là gần 11h trưa, mọi người ở
đấy cũng sắp đi ăn trưa. May quá, tôi nhìn thấy cô văn
thư mà tôi hay liên hệ công việc. Sau khi giới thiệu
xong, cô văn thư nhận ra tôi ngay vì tôi cũng hay lên đây
để mượn tài liệu lịch sử để nghiên cứu. Nói
chuyện với cô văn thư một lúc, đợi 15phút sau, tôi
nhận được tài liệu mình cần tìm. Sau khi chọn được
một chỗ ngồi, tôi mở từng trang tài liệu đọc từng
trang một, không sót một chi tiết nào. Lạ lùng quá!
Không có một chỗ nào đề cập đến sự việc tôi đang
tìm kiếm. Thật không thể tin được! Sao lại có chuyện
lạ lùng vậy. Chính Hoàng Phúc đã nói chuyện với Nguyễn
Trãi về bí mật này mà? Nếu như từ thời đấy đến
bây giờ chưa ai biết chứng tỏ cụ Nguyễn Trãi chưa nói
với Lê Lợi về bí mật đó. Vậy nó ở đâu?
Nhưng
một điều bất ngờ đã đến với tôi. Khi tôi xem đến
trang cuối cùng của cuốn sách đấy thì điều bất ngờ
đã xảy ra! Sao lại như vậy nhỉ? Tôi đã biết bí mật
đấy rồi. Thảo nào đến bây giờ chưa một ai biết là
phải. Tại trang sách cuối đã bị thất lạc một nửa
trang sách. Thật là kỳ lạ. Tôi thắc mắc điều này và
ra hỏi cô văn thư thì nhận đúng được câu trả lời
như tôi suy đoán. Bản đấy đã bị mất một trang sách.
Hình như nó giống như bị xé đi vậy vì đáng nhẽ nó
phải nguyên bản như những trang khác, đằng này nó lại
bị mất một nửa. Để khẳng định điều cô văn thư
đấy nói đúng, tôi có điện thoại hỏi lại đồng chí
mà ngày trước đã tiếp nhận từ tay tôi bản chính mà
tôi đã tìm thấy. Đồng chí ấy cũng nói giống cô văn
thư là riêng trang cuối cùng bị thiếu mất một nửa.
Đến
đây thì những nghi ngờ của tôi đã được hóa giải.
Có thể lắm chứ! Có chăng chính cụ Nguyễn Trãi đã
biết điều này và đã xé đi một trang để giữ lại.
Chính Hoàng Phúc đã nói ra điều bí mật đấy cho cụ
Nguyễn Trãi biết. Để tránh bị tiết lộ, cụ Nguyễn
Trãi đã xé trang sách đấy ra và cất giữ lại. Sau đó
cụ đã đưa cho Hoàng Phi khi xảy ra vụ án Lệ Chi Viên.
Và không tự dưng Hoàng Phi về chính nơi có bí mật được
nêu trong trang sách đấy. Và khả năng ngôi mộ Hán ở
đình Quán La chính là nơi chứa những thông tin liên quan
đến quả chuông đồng đen. Bởi dưới nền ngôi mộ Hán
là đường địa đạo mà Cao Biền đào thông ra Hồ Tây.
Và có thể từ đây tôi sẽ lần ra dấu vết quả chuông
đồng đen. Kích thước đường hầm ở dưới ngôi mộ
Hán nhỉnh và vừa khí kích thước quản chuông đồng đen
mà cụ Lý Quốc Sư đã đúc. Vậy không còn nghi ngờ gì
nữa rồi. Đây chính là đầu mối mà tôi phải tìm kiếm.
Đến
đây, tôi chợt reo lên như cảm tính có sẵn vậy. Chợt
nhìn xung quanh và nhận ra tôi đang ở trong thư viện quốc
gia. Tôi sướng quá vì thông tin vừa rồi liền vội trả
tài liệu và đi về. Vậy thì đúng rồi. Bí mật mà
Hoàng Phúc và Nguyễn Trãi biết chính là bí mật được
Cao Biền nêu trong quyển sách của mình. Chính Cao Biền đã
nói chính xác và tiên đoán đúng vị trí của nó. Nguyễn
Trãi đã biết và xé đi trang sách quan trọng đó để lưu
trữ lại. Và chính nơi cây thị trồng là nơi sẽ xuất
hiện cái bí mật của Cao Biền. Hoàn toàn đúng. Mọi
logic của câu chuyện và những điều bí ẩn sẽ xuất
phát ở cây thị ngàn tuổi ở gò thất tinh tại đình
Quán La. Tôi vội về luôn nhà. Tối hôm đấy tôi tự
thưởng cho mình một giấc ngủ ngon và chịu khó chờ đợi
đến khi cây thị chín quả. Lúc đấy tôi sẽ biết điều
bí mật.
Rồi
cũng đến cái ngày mà tôi chờ đợi. Khi biết cây thị
đã có quả, đúng rằm tháng 9, tôi đến Xuân La trước
một ngày. Sau khi thuê một phòng nghỉ tạm tại Xuân La,
tôi tự cho mình đi tìm kiếm quanh Xuân La để củng cố
thêm những kiến thức về lịch sử của chính mình từ
người dân ở đấy. Có lẽ cái cảm giác lúc đấy nó
khó tả lắm các bạn ạ. Bồi hồi, lo lắng, tò mò đan
xen lẫn nhau. Lúc nào tôi cũng suy nghĩ như mình đang chuẩn
bị tìm được một điều gì đấy lạ. Cũng có thể lắm
chứ! Không phải tự dưng tôi được tấm da dê? Không
phải tự dưng mọi chuyện cứ đến bất ngờ như vậy
với tôi! Và cũng không phải tự dưng mọi cái sắp đặt
đấy lại do tôi tìm thấy.
Đúng
tối ngày 15 - 09 âm lịch, hôm đấy tôi quyết định
không ngủ. Đêm đấy tôi ngồi gần quanh đấy, gần vị
trí cây thị, uống trà đá và đợi. Khuya rồi, bác bán
nước cũng đã chuẩn bị dọn hàng để đi nghỉ. Mọi
vật đều tĩnh lặng. Tôi cũng phải thanh toán nên không
ngồi gần đấy được nữa. Mọi người ai cũng về nhà
nấy hết. Bây giờ đã 23h30 đêm, tim tôi đập thình
thình, có gì đó như sau lưng tôi vậy, thỉnh thoảng có
tiếng chó sủa, mèo kêu làm tôi giật mình. Và đồng hồ
điểm đúng 00h, bắt đầu sang ngày 15, tôi hồi hộp và
chờ đợi...
Đúng
lúc đấy, có một tiếng gió thổi rất mạnh. Một cơn
mưa bất chợt đến. Mưa như trút nước. Tôi vội đứng
tạm vào cái mái che của quán nước. Xung quanh không có
một ai. Lạ nhỉ? Sao lại có cơn mưa lạ này? Đang có
trăng mà? Hay cơn mưa có thể như một điềm báo gì đấy?
Tôi nghĩ vậy và rồi.....Sau khi ngớt mưa, tôi nhìn
thấy... Tôi không tin vào mắt mình nữa..... Đấy chính
là.....
Đến
đây, tôi xin tạm dừng câu chuyện, chưa nói vội là tôi
đã nhìn thấy gì để câu chuyện tôi kể thêm phần ly
kỳ và hấp dẫn. Tôi và các bạn tạm thời quay lại quá
khứ một chút, trở lại về thời của cụ Nguyễn Trãi.
Câu chuyện bắt đầu từ đứa con trai của Hoàng Phúc
tên là Hoàng Phi. Lúc đó, sau khi xảy ra vụ án Lệ Chi
Viên, Hoàng Phi đã trở về tạm thời lánh nạn ở chùa
Khai Nguyên, đổi tên, đổi họ để tránh việc truy sát
của triều đình với con cháu cụ Nguyễn Trãi. Và như
tôi và các bạn cũng đã biết, Hoàng Phi đang lưu trữ
trong mình một bí mật vô cùng quan trọng đấy chính là
trang sách cuối cùng trong cuốn sách của Cao Biền mà
Hoàng Phúc đã tiết lộ chi Nguyễn Trãi biết nơi cất
giữ bảo vật của Giao Chỉ là chiếc chuông đồng đen
của cụ Lý Quốc Sư đã đúc và đã thả xuống Hồ Tây.
Từ
khi xảy ra vụ án Lệ Chi Viên vào Ngày 19-09-1442 (tức
ngày 16 tháng Tám năm Nhâm Tuấn), Nguyễn Trãi cùng Nguyễn
Thị Lộ và gia quyến đều bị tru di tam tộc. Tuy nhiên, lịch sử đã làm
rõ và giải oan cho cụ Nguyễn Trãi. Lánh nạn được 18
năm, ngày 08 tháng 6 năm Canh Thìn 1460, ông Lê Tư Thành lên
ngôi, tức là vua Lê
Thánh
Tông, lấy
niên hiệu là Quang Thuận. Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi.
Chính ông là người đã được Nguyễn Trãi và người
thứ thiếp là Nguyễn Thị Lộ đã cứu giúp mẹ ông là
bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao phải lánh nạn trước sự
truy đuổi gắt gao bà phi Nguyễn Thị Anh. Chín tháng sau,
một cuộc đảo chính thứ hai do Nguyễn Xí và Đinh Liệt
cầm đầu đã giết chết Lê Nghi Dân. Nguyễn Xí và Định
Liệt là 2 tướng thân cận của Lê Thái Tổ vẫn còn
sống sót sau các biến cố chính trị kể từ khi vua Thái
Tổ mất. Việc
đầu tiên lên ngôi, nhà vua Lê Thánh Tông đã ra sắc lệnh
giải oan cho cụ Nguyễn Trãi và con cháu của cụ đang
được ly tán khắp nơi được gọi về triều đình phục
chức, làm quan. Lúc đấy, Hoàng Phi cũng biết tin và cũng
được gọi về triều đình.
Hoàng
Phi lúc đấy đã có 3 bà vợ. Người vợ cả là Lê thị
có 3 người con gái và một người con trai. Người con
trai của Hoàng Phúc với Lê Thị tên là Hoàng Đà. Hoàng
Đà từ nhỏ được Hoàng Phi quý mến và được dạy bảo
cận thận. Ông từ nhỏ là một người hiếu học. Nối
dõi dòng họ nhà ông, ông cũng được Hoàng Phi truyền
lại những kinh nghiệm, những kiến thức về phong thủy.
Đặc biệt ông rất có tài về quân sự. Ngay từ nhỏ
ông đã tỏ ra thông minh hơn những đứa trẻ cùng tuổi.
Luôn tập trận chiến bằng các thuyền độc mộc trên Hồ
Tây. Hồi đấy tại Quán La, trẻ con cùng làng luôn tôn
ông làm thủ lĩnh.
Khi
vua Lê Thánh Tông ban thông báo giải oan cho cụ Nguyễn
Trãi, lúc đấy Hoàng Phi đã mất, Hoàng Đà được gọi
về triều đình và được làm việc dưới trướng của
tướng quân Lê Lộng, một tướng phụ trách thủy quân
của vua Lê Thánh Tông, ông nằm trong đội Hải Kình quân.
Nếu nói về thủy quân của
triều đại nhà Lê sơ, như chúng ta đã biết, sau
khi quét sạch quân Minh khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi
hoàng đế, triều Lê (1427-1789) được dựng lên. Từ đây,
để trấn áp nội loạn, bảo vệ và mở rộng lãnh thổ,
vua Lê rất chú trọng cải tổ quân đội. Thủy quân trở
thành một binh chủng riêng, độc lập với bộ binh, tượng
binh và kỵ binh. Thủy
quân chia thành nhiều phiên hiệu rạch ròi, như: Thiện
Hải thuyền của vua chúa khi xuất trận; còn Đấu thuyền,
Lâu thuyền Tẩu Kha thuyền, Khai lãng thuyền, Hải Cốt
thuyền...có hình dáng, cấu trúc, chạm khắc, màu sắc,
vương huy, vương hiệu khác nhau…Ngay trong năm đầu tiên
ở ngôi vua, Lê Thái Tổ đã ban hành quy chế cụ thể cho
lực lượng thủy quân cũng như vũ khí cho binh lính.
Sách
Đại
Việt sử ký toàn thư chép:
“Vào ngày mồng 10 tháng 8 năm Mậu Thân (1428), vua định
các khí vật như cờ xí, nghi trượng cho các quân, chiến
khí và thuyền ghe: trung đội cờ vàng, thượng đội cờ
đỏ, hạ đội cờ trắng. Mỗi vệ một lá cờ lớn của
chủ tướng. Mỗi quân một lá cờ hạng trung, 10 lá cờ
đội và 40 lá cờ nhỏ. Thuyền chiến có hỏa công 10
chiếc, thuyền nhỏ đi tuần thám hai chiếc… Ngoài trang
phục chung giống như các lực lượng khác, thủy quân
thời Lê sơ đội nón thủy ma và nón sơn đỏ để có sự
phân biệt”. Từ tiền đề trên, sau đó không bao lâu,
nhà Lê đã có một lực lượng thủy quân khá mạnh.
Đến năm 1435, vua Lê Thái Tông khi xem bộ binh diễn tập, đã xem thủy quân diễn tập ở sông Hồng. Tiếp đó, vào năm 1438, Lê Thái Tông lại sai chiến thuyền của năm đạo quân diễn tập thủy chiến. Rồi khi thấy Chiêm thành hay cho quân xâm phạm biên giới, năm 1446, vua Lê Nhân Tôn sai Lê Thụ, Lê Khả đem thủy quân đánh Chiêm Thành, quân Đại Việt đánh chiếm cửa biển Thi Nại, rồi tiến lên đánh chiếm thành Cha Bàn, bắt được vua Chiêm Bí Cái...
Đến thời Lê Thánh Tông, thủy quân của Đại Việt ngày càng hùng mạnh và lập được nhiều chiến công. Thủy quân được chia làm 4 đội: Hải hồng quân, Hải mã quân, Hải kình quân và Hải điểu quân; được trang bị hàng vạn chiến thuyền có ống phun lửa (còn gọi là hỏa đồng), bố trí ở tất cả các cửa sông, cửa cửa biển xung yếu, góp phần quan trọng bảo vệ giang sơn, đất nước. Nhà Lê có nhiều loại chiến thuyền lớn nhỏ, có chiến thuyền được trang bị bằng hỏa khí. Năm 1964, vua ban hành phép duyệt trận đồ thủy chiến của thủy binh như: Trung hư, Thường sơn xà, Mãn thiên tinh, Nhạn hàng, Liên châu, Ngư đội, Tam tài hành, Thất môn, Yến nguyệt... Mỗi loại trận đồ có hàng trăm thuyền chiến tham gia tập trận. Nhà vua còn định ra quân lệnh về thủy trận gồm 31 điều - đây là "Điều lệ thủy binh" bằng văn bản đầu tiên của quân thủy Việt Nam.
Cũng nhờ sự quan tâm đến xây dựng quân đội, trong đó có thủy binh nên thời Lê Thánh Tông, đội chiến thuyền lớn nhất lịch nước ta đã được thành lập. Vào năm Kỷ Sửu (1469), Lê Thánh Tông đã huy động một phần trong số đó đi chinh phạt Chiêm Thành. Theo sử sách, ngoài lực lượng bộ binh thì có tới 25 vạn thủy quân và 5.000 chiến thuyền do nhà vua đích thân chỉ huy trong cuộc Nam chinh đó.
Khi đọc đến đây tôi mới biết thêm, chính Hoàng Đà lại là tướng của nhà Lê phụ trách về thủy quân. Nếu trở lại ngày trước, Hồ Tây chính là nơi tập các trận thủy chiến, nơi diễn ra những trận tập lớn về thủy quân. Thế là trùng hợp rồi. Lịch sử có những điều thật là kỳ lạ. Nơi cất báu vật của Giao Chỉ chính là Hồ Tây, nơi Long Mạch của Giao Chỉ cũng là Hồ Tây và bây giờ đứa cháu duy nhất của Hoàng Phúc lại chính là tướng quân của Lê Thánh Tông và chỉ huy đội Hải Kình quân đóng ở Hồ Tây. Quả thật trùng hợp đến không ngờ. Hay có thể Hoàng Đà đã được Hoàng Phi nói gì trước khi chết điều gì chăng? Có thể là bí mật về cất giữ chiếc chuông đồng đen.
Đến
đây tôi xin quay lại đoạn đầu khi kim đồng hồ chỉ
giờ bắt đầu chuyển sang ngày 15-09 âm lịch. Đúng lúc
đấy, có một tiếng gió thổi rất mạnh. Một cơn mưa
bất chợt đến. Mưa như trút nước. Tôi vội đứng tạm
vào cái mái che của quán nước. Xung quanh không có một
ai. Lạ nhỉ? Sao mưa lạ thật, đang có trăng mà. Cơn mưa
có thể như một điềm báo gì đấy, tôi nghĩ vậy và
rồi....
Sau
khi ngớt mưa, tôi nhìn thấy... Tôi không tin vào mắt mình
nữa..... Ánh trăng hôm rằm sáng tròn, sáng gần như hết
tất cả khu vực tôi đứng. Có gì sẽ xảy ra? Lúc đấy
chính một cơn mưa đã rũ bỏ tất cả những cái còn
vương vấn quanh đấy. Mọi vật đều như tĩnh lặng. Lúc
đấy xuất hiện … Kể đến đây tôi cảm thấy hồi
hộp quá. Thực chất đã rất nhiều lần tôi đi tìm kiếm
kiểu này, đã chui vào những hang không bóng người, đến
những nơi còn ghê rợn hơn nơi này, nhưng thực sự đây
là lần đầu tiên tôi có cảm giác sợ. Cái sợ không
phải là sợ những cái đơn thuần vì nỗi sợ của tôi
xuất phát từ những câu dự đoán của Cao Biền, những
lời tiên tri sao đúng thế. Và rồi mọi cái đều xuất
hiện....
Cả
khu vực quanh gốc cây bỗng nhiên vắng lặng, ánh trăng
chiếu rọi làm sáng cả một vùng. Sao không thấy xuất
hiện gì nhỉ? Hay không có lẽ Cao Biền đã nói sai về
điều này? Tại sao nhỉ? Bất chợt tôi nhận ra một
điều. Trời đất! Sao lại như vậy? Tôi cảm giác rùng
mình. Toàn bộ quanh gốc cây thị nơi tôi đứng nhìn. Khu
vực đấy được ánh trăng chiếu sáng, bóng cây thị đổ
xuống, hiện lên xung quanh như một hình vẽ. Đúng rồi!
Tôi reo lên. Đây chính mà mật mã! Đây chính là bí mật!
Tôi vội lấy máy ảnh chụp lại toàn bộ những gì tôi
đã nhìn thấy. Bất ngờ thật. Mọi cái bí mật đều
bắt đầu từ những chi tiết rất đơn giản. Đấy chính
là hình của toàn bộ cây thị đổ bóng xuống mặt đất.
Nơi xuất phát nhiều ánh sáng nhất tạo thành một hình
mà hình đó giống như một lời chỉ dẫn về sơ đồ
tìm kiếm cái chuông đồng đen. Có thể ở nơi ánh sáng
chiếu xuống tập trung nhất có thể là nơi cất giấu
chiếc chuông đồng đen? Hình vẽ này tôi nhìn quen lắm.
Có thể tôi đã nhìn thấy cái này ở đâu rồi. Nhưng
lúc đấy tôi không nhớ ra. Sao lạ quá? Sao chỉ là bóng
cây thị thôi mà có thể giống như vậy nhỉ? Tôi thật
sự không hiểu lúc này.
Sau
khi chụp lại toàn bộ những gì tôi nhìn thấy, lúc đấy
cũng là 00h30 rồi. Tôi vội vàng đi xe về nhà. Trời cũng
đã muộn. Thôi về nhà nghỉ đã, mai tôi tính tiếp. Dù
sao cũng có bí mật đây rồi.
Sáng
hôm sau, sau khi đến cơ quan, tôi ngồi làm việc mà không
thể làm được việc gì. Tôi nhìn lại những tấm ảnh
mà tôi đã chụp và ngồi suy luận. Không hiểu đây là
cái gì? Hình vẽ này tôi nhìn rất quen. Hay có thể là
một ký họa về một dạng sơ đồ nào đấy? Lúc đấy
tôi thực sự khó suy nghĩ xem nó như thế nào. Tôi chỉ
biết rằng nếu đúng là chuông đồng đen thì Lý Quốc
Sư đã thả xuống đây, ở đúng Hồ Tây. Nếu theo những
gì còn lưu lại đến bây giờ mà tôi đã có thì không
còn nơi nào khác. Hồ Tây thì quá rộng. Nếu ở dưới
hồ thì chịu. Làm sao tôi có thể xuống đấy được.
Hay là ra Hồ Tây xem như thế nào, biết chăng lại thu
được nhiều điều.
Nghĩ
vậy, tôi đi đến Hồ Tây. Lần này, tôi thong thả đi bộ
trên con đường kè hồ mới được làm. Vừa đi, tôi vừa
suy nghĩ xem có những gì sẽ là đầu mối để nghiên
cứu. Và bất chợt, tôi dừng lại tại một nơi. Nơi ấy
có vẻ lạ quá. Nó hơi giống một hình giống trong những
bức ảnh mà tôi đã chụp lại. Ồ không có lẽ? Ngay gần
nơi tôi đứng nhìn ra xa đấy chính là một ngôi mộ cổ
mọc lên trên mặt nước. Thật ngạc nhiên! Sao ở Hồ
Tây lại có ngôi mộ này nhỉ? Mà sao lại ở dưới nước?
Đứng
đấy, tôi nhìn ra xa. Đấy chính là ngôi mộ. Tôi bắt
đầu cảm thấy ngạc nhiên và tò mò thực sự. Tại sao
lại có điều đó nhỉ? Tôi tiến đến gần để nhìn rõ
hơn. Đấy chính là một ngôi mộ. Tôi ngồi tạm vào một
quán hàng nước bên hồ, ngồi suy nghĩ. Lúc đấy có một
cái cảm giác nào đó rất lạ đối với tôi. Nó như sắp
đặt và định mệnh vậy. Thấy tôi chú ý nhìn ngôi mộ,
bà lão bán nước liền nói với tôi:
- Thế
chú định tìm cổ vật à? Sao chú ý thế!
Tôi
giật mình hỏi lại:
- Sao
bác hỏi cháu thế?
Bà
lão chậm dãi nói:
- Có
nhiều người cũng như chú rồi. Ngồi đây từ lâu nên
tôi biết. Có rất nhiều người đến đây với mục đích
tìm cổ vật.
Nghe đến đây tôi giật mình. Sao lại có chuyện lạ thế? Có ai biết chuyện tôi đang làm đâu? Mà sao dưới lòng Hồ Tây lại có nhiều cổ vật? Tôi thắc mắc hỏi lại bà và được bà ấy kể lại:
- Cũng
từ lâu rồi, ngay cả trước khi nhà nước làm cái kè hồ
này cơ, có rất nhiều người quanh năm ăn nằm ngủ nghỉ
để chỉ có mỗi một việc là lặn ngụp xuống nước
để mò cổ vật. Bà chỉ nghe nói từ lâu lắm rồi, dưới
đáy Hồ Tây có hàng trăm ngôi mộ cổ dưới lòng hồ.
Mà đã là mộ cổ thì kiểu gì cũng hay chôn cổ vật.
Chính vì lý do đó, rất có nhiều người muốn làm giàu
bằng cách lặn xuống Hồ Tây tìm những ngôi mộ đấy
để kiếm cổ vật. Có nhiều người cũng chết rồi,
nhưng vẫn không ai sợ và vẫn không ai bỏ cái công việc
đấy. Ngày trước có người còn tìm thấy một cái hang
đi sâu dưới lòng Hồ, rồi vào đó, không thấy chui ra,
mấy ngày sau xác nổi trên mặt hồ thì người ta mới
biết là chết đuối.
Nghe
đến đây tôi cảm thấy sợ quá. Không hiểu tại sao lại
có chuyện lạ thế! Giữa thủ đô lại có chuyện lạ và
ly kỳ như vậy. Ngồi bắt chuyện mới thấy bà ấy kể
nhiều. Có lẽ người dân quanh đây ai cũng biết, trừ
những người ở khu vực khác, chứ ở đây, già trẻ,
gái trai ai cũng biết hết và cũng chứng kiến cả. Tôi
nghĩ Hồ
Tây là một thắng cảnh đệ nhất của Thủ đô, nhưng
ít ai biết rằng, dưới đáy Hồ Tây có rất nhiều nghĩa
địa cổ. Nhưng tại sao, những ngôi mộ lại nằm ở
giữa hồ? Chẳng lẽ, phong tục người dân ven hồ đem
người chết ra giữa hồ chôn cho mát mẻ?
Bà
tiếp tục kể cho tôi nghe. Có lẽ để tôi ngồi lâu hơn
uống nước. Tôi nghĩ thế nên cũng ngồi bắt chuyện bà.
Lúc đấy có cả hai ông bà cùng ngồi bán nước. Thỉnh
thoảng có một số người đi thuyền độc mộc từ hồ
vào. Đấy là những người làm công tác bảo vệ hồ
hoặc tìm kiếm cổ vật. Bà ấy kể:
- Xưa
kia bà nghe các cụ trong làng kể lại Hồ Tây chỉ là một
nhánh cụt của sông Hồng, không rộng tới 560 ha và chứa
tới 8 triệu mét khối nước như hiện nay. Bên Hồ Tây
có hàng chục làng mạc cổ, cánh đồng, ruộng vườn bám
ở mép hồ và cũng có hàng chục cái nghĩa địa, để
chôn cất những người trong làng, hoặc chôn người chết
ở các làng phía trong bãi. Ngày trước thời Lê, khi đánh
nhau với quân Chăm pa, bắt được tù binh, đều tạo điều
kiện cho họ lập kế sinh nhai bằng cách khai hoang vùng
đất rậm rạp, heo hút quanh Hồ Tây. Người Chăm pa sinh
sống lâu ngày, lập lên những ngôi làng đặc thù quanh
Hồ Tây suốt hàng trăm năm trời. Sống ven hồ, chết
cũng ở ven hồ, dưới đáy Hồ Tây, có thể vẫn còn
hàng ngàn ngôi mộ. Nhưng mà đến nay, thời gian đã quá
lâu, lớp bùn đất bồi lấp, dìm những nghĩa địa này
xuống rất sâu rồi.
Bà
tiếp tục nói:
- Cùng
với nghĩa địa của người Chăm pa, còn hàng chục nghĩa
địa khác của người Việt hình thành trên những dải
đất hoang ven hồ này. Cháu chỉ cần lặn xuống đáy Hồ
Tây, khu vực làng Hồ, Võng Thị, Trích Sài thuộc phường
Bưởi ý là có thể phát hiện cả một góc hồ là một
nghĩa địa khổng lồ, rộng hàng chục ha. Toàn bộ đáy
Hồ Tây ở khu vực phường Bưởi, là một nghĩa địa.
Những nghĩa địa hình thành từ hàng ngàn năm trước, đã
bị những đợt sóng kiên trì của Hồ Tây đánh tan và
nhấn chìm xuống đáy bùn. Gần nhà bà có một ông tên
là Bân. Ông này ngày trước là người quản lý Hồ Tây.
Theo ông này nói lại với người làng thì thẳng khu vực
làng Xuân La cũng từng có một nghĩa địa rộng chừng 3
ha, bị sóng Hồ Tây nhấn chìm. Giờ đứng ở đoạn Xuân
La nhìn ra, chỉ thấy biển nước mênh mông, với những
đợt sóng lớn đang ngoạm dần vào đường Lạc Long
Quân. Cảnh Hồ Tây ở khu vực Phủ Tây Hồ rất đẹp,
song ít ai biết rằng, dưới mặt nước xanh biêng biếc
ấy, cách bờ vài trăm mét cũng có một nghĩa địa rộng
mênh mông với dày đặc các ngôi mộ nhấp nhô. Rất
nhiều xuồng máy của các doanh nghiệp quản lý, khai thác
Hồ Tây bị gãy chân vịt mỗi khi chạy qua khu vực này
vì va vào mộ. Bà cũng là người từng trực tiếp chứng
kiến nghĩa địa cuối cùng bị sóng Hồ Tây nhấn chìm
xuống đáy, đó là nghĩa địa của làng Nghi Tàm. Nghĩa
địa cổ mênh mông của làng Nghi Tàm đã nằm sâu dưới
đáy hồ. Mùa nước cạn, lội xuống khu nghĩa địa này
sâu đến ngực, còn mùa nước lớn, ngập quá đầu.
Những con tàu lớn kéo nhà nổi Hồ Tây vẫn chạy qua lại
trên khu nghĩa địa này mà không hề hấn gì. Những đợt
sóng kiên trì của Hồ Tây kéo dài hàng trăm năm đã đánh
tan hàng chục nghĩa địa cổ, làm bật nắp quan tài, phơi
xương cốt trắng hếu, lăn lốc dưới đáy hồ. Chính vì
thế, những năm 70 đến 80 của thế kỷ trước, làng Yên
Phụ nổi lên phong trào mò gỗ quý tại những nghĩa địa
dưới lòng Hồ Tây là thế.
- Ngày
đấy bà được biết và chứng kiến hầu hết những
thanh niên trẻ khỏe, lặn giỏi ở Yên Phụ đều tham gia
mò gỗ. Ngày ngày họ lặn ngụp, mò mẫm dưới hồ, hễ
phát hiện có ván thiên làm bằng gỗ quý chìa lên khỏi
mặt bùn là họ tiến hành đào bới lấy gỗ. Họ dùng
những chiếc thuốn sắt chọc sâu xuống lớp bùn đất
để truy tìm gỗ và những vật quý nằm sâu dưới bùn.
- Ngày
trước, rừng còn nhiều, nên khi người giàu chết được
chôn trong những chiếc quan tài gỗ vàng tâm, đinh hương,
thậm chí pơmu dày cộp, nặng trịch. Những loại gỗ quý
này nằm trong lòng đất vài trăm năm không mối mọt,
ngâm dưới bùn, nước hàng thế kỷ vẫn rắn chắc. Dân
ở các làng ven hồ phá tung những ngôi mộ, lấy những
tấm áo quan bán lại cho các xưởng mộc chế tác ra đủ
các loại đồ dùng như giường, tủ, bàn ghế, cánh
cửa...
- Ngoài
việc người dân ven Hồ Tây lặn mò quan tài đóng bằng
gỗ tốt, thu lượm tiểu sành kè bờ chắn sóng giữ đất,
thì một thời có cả đội ngũ chuyên lặn mò đồ cổ
trong những nghĩa địa dưới đáy Hồ Tây. Theo lời đồn,
nhiều người còn bới được cả hũ vàng trong những
chiếc quan tài. Những chiếc vòng vàng, vòng bạc, khuyên
tai vàng thì kiếm được rất nhiều. Tuy nhiên, thứ nhiều
nhất là chum, lọ, bát đĩa, bình gốm toàn là những đồ
cổ có tuổi vài trăm năm. Xưa kia, người giàu chết
thường được chia của chôn theo. Sóng Hồ Tây đánh bật
mộ, những món đồ cổ này cũng lăn lóc đầy dưới đáy
hồ.
Vì
vậy, khi biết thông thông tin trên, bọn săn đồ cổ
không những mò mẫm, tìm kiếm mà họ còn bới cả những
ngôi mộ chìm dưới lòng đất lên để lấy đồ cổ.
Nhiều ngôi mộ đổ kiên cố bằng hợp chất vôi cát
mật, bên trong có xác ướp, chôn sâu dưới đáy bùn,
cũng bị đám săn đồ cổ đào bật lên. Thậm chí, họ
dùng cả mìn để đánh bật nắp. Trong những ngôi mộ
hợp chất này thường có một số đồ cổ giá trị hoặc
vàng bạc, tiền cổ.
Ông
hàng xóm nhà bà là Ông Nguyễn Văn Tiến (hiện quản lý
thuyền vịt ở hồ Trúc Bạch) là người có thâm niên 20
năm kéo cá thuê ở Hồ Tây, từng lượm được rất
nhiều đồ cổ đem bán. Phần lớn những món đồ ông
này lượm được là do dính vào lưới vét. Trong số
những món đồ ông Tiến kiếm được, có một cái hũ
rất đẹp. Lòng chiếc hũ tráng men xanh, mặt ngoài có
nhiều hình thù cổ quái. Ông Tiến kiếm được chiếc hũ
đó trong một hoàn cảnh khá đặc biệt lắm. Đợt đó,
khi kéo lưới vào sát khu vực nghĩa địa cạnh làng Võng
Thị thì lưới bị mắc vào nắp chiếc quan tài khiến
mọi người không thể kéo được. Ông cùng đám thợ
đang tìm cách gỡ lưới thì chiếc quan tài bật nắp.
Trong chiếc quan tài có một số đồ cổ bằng sành, sứ,
trong đó có chiếc hũ là đẹp nhất. Vì thấy chiếc hũ
đẹp quá nên ông Tiến không bán, mà đem cọ rửa sạch
sẽ rồi cất vào trong tủ. Một hôm, không kiếm đâu ra
bình muối dưa, vợ ông Tiến đã bê chiếc hũ cổ ra dùng
tạm. Điều lạ là dưa muối cả chục ngày không thấy
lên men chua, lá dưa vẫn tươi nguyên như ngày mới đổ
vào. Sợ quá, ông Tiến đổ dưa muối đi, rửa sạch
chiếc hũ rồi cất vào trong tủ. Thế nhưng, vài ngày
sau, bọn trộm phá khóa nhà và khóa tủ rồi lấy mất
chiếc hũ. Cũng thật kỳ lạ, bọn trộm không lấy gì
khác ngoài chiếc hũ ông lượm được dưới đáy hồ
Tây. Đến bây giờ ông Tiến vẫn tiếc hùi hụi.
Nghe
đến đây tôi cũng chợt nhớ, ngày trước tôi cũng từng
nghe nhà sử học Nguyễn Lân Cường đã từng nói:
- Trước
kia Hồ Tây rất rộng, có nhiều nhánh khác nhau, thậm
chí, nó còn ăn sát vào Hoàng thành Thăng Long. Nhiều cuộc
khai quật Hoàng thành Thăng Long đã tìm thấy cả bờ sông
ở gần thành, có cả biểu hiện của giao thông thủy.
Hàng ngàn năm nay, Hồ Tây lúc lở, khi bồi, nên chuyện
các nghĩa địa cổ bị chìm dưới đáy Hồ Tây do hiện
tượng xói lở là hoàn toàn bình thường và có thể xảy
ra, chỉ có điều, tôi cũng như các nhà khoa học, khảo
cổ, đều chưa nghiên cứu về chuyện này". Tuy nhiên,
với những gì mà người thực địa dưới lòng hồ Tây
kể lại, hoàn toàn có thể khẳng định đã có một khu
nghĩa địa lớn đã từng bị nước chôn vùi.
Vậy
có thể cái khái niệm về kho báu hay đường dẫn đến
nơi ất giấu chuông đồng đen là có thật. Và vì lý do
nào đấy mà đến bây giờ vẫn chưa ai tìm thấy. Đúng
vậy! Có khả năng lắm chứ! Bây giờ tôi mới chợt nhớ
ra điều mà tôi đã tìm thấy và nghe nói ở đình Quán
La là có hệ thống địa đạo dưới lòng đất từ Xuân
La nối ra Hồ Tây và thông ra Sông Hồng. Đúng rồi! Sao
tôi có thể quên nhỉ. Có thể con đường địa đạo đấy
là đường để lần ra dấu vết của chuông đồng đen
và bắt nguồn từ Hồ Tây này. À, lúc nãy bà lão có nói
về việc có người phát hiện ra đường hầm. Tôi hỏi
lại xem sao nào. Bà lão nói:
- Đường
hầm ấy nó ở cái ngôi mộ nổi kia kìa, ngay dưới chân
ý. Hồi đó mấy người chết rồi.Nhiều người nghe nói
sợ quá, lấy tạm đất xung quanh lấp cửa đường hầm
để tránh cho ai không biết bị thụt xuống đấy.
Tôi nhìn theo tay bà lão chỉ ra ngôi mộ nổi đấy. Sau khi nhìn thấy, tôi tò mò hỏi muốn ra đấy xem như thế nào có được không và bằng cách nào. Bà lão bảo tôi:
Tôi nhìn theo tay bà lão chỉ ra ngôi mộ nổi đấy. Sau khi nhìn thấy, tôi tò mò hỏi muốn ra đấy xem như thế nào có được không và bằng cách nào. Bà lão bảo tôi:
- Cháu
cứ nhờ mấy người đang đi thuyền kia kìa, họ đang vớt
những thứ rác bẩn để cho lòng hồ thêm sạch, họ ở
công ty quản lý cái hồ đấy.
Thấy
vậy tôi đành nhờ một anh đang đi thuyền, nhờ anh ấy
đưa ra cái mộ đấy. Thú thực lúc đấy tôi tò mò thật.
Không hiểu tại sao mình lại làm vậy? Có lẽ đấy chính
là bản năng khi tìm kiếm. Chắc các bạn cũng giống tôi.
Khi đã ham mê một cái gì đấy là có thể quên hết
những khó khăn trước mắt để đạt được điều mình
muốn.
Anh
làm việc chèo thuyền độc mộc vui vẻ nhận lời và đưa
tôi ra gần ngôi mộ đấy. Quan sát kỹ tôi nhận thấy nó
cũng bình thường, không có gì đặc biệt cả. Lúc đấy
tôi nghĩ là chắc đường hầm ở dưới ngôi mộ. Tôi
cũng mừng thầm. Tự nhủ là tôi sắp tìm ra cái tôi cần
tìm rồi. Thuyền đi quanh ngôi mộ, tôi quan sát xung quanh.
Một sự bất ngờ đến với tôi. Không tin nổi mắt mình
nữa. Lạ thật, như sắp đặt. Đúng là sắp đặt... Tôi
vội vàng lại gần ngôi mộ. Tấm bia mộ khác 2 chữ Duệ
Trang - Khai Nguyên. Trời đấy, trùng hợp thế. Đúng như
hai cái tên ở ngôi mộ của người văn công Trung Quốc
bị chết ở Hồ Tây năm 1955 mà tôi thấy ở Bất Bạt.
Bất ngờ trước cái tôi đã tìm ra, tôi vội vàng nhờ
người đàn ông lái thuyền gần lại để chụp mấy bức
ảnh. Sau đó về đến bờ, tôi cám ơn bà lão và cũng
không quên tặng bà mấy bức tranh Đông Hồ, tôi đang để
trong ô tô. Cây nhà lá vườn mà. Vì tôi người nhà là
người làng gốc của làng làm tranh Đông Hồ.
Vội
vàng ra về, trong đầu tôi luôn nghĩ: Có thể có gì đó
bí mật dưới ngôi mộ nổi đấy. Hay chính là cửa địa
đạo? Chợt nhớ là ngôi mộ Hán ở đình Quán La cũng là
một cửa hầm địa đạo, tôi liền phóng luôn đến đình
Quán La, đến trước của hầm dưới mộ Hán. Hay là mình
chui xuống? Mạo hiểm một phen xem như thế nào? Có sợ
gì không nhỉ? Tò mò quá! Nhưng tôi không có sơ đồ nên
cũng không giám xuống. Đứng tần ngần một lúc, tôi
đành quyết định đi về. Chắc cuộc tìm kiếm này sẽ
làm tôi khó khăn đây. Thôi xác định tạm thời là đã
có cơ sở để tìm lại chiếc chuông đồng. Không sớm
thì cũng tìm thấy. Tôi nghỉ ngơi đã để lấy sức suy
nghĩ những phương án tiếp theo.
Nghĩ
vậy nên tôi về nhà luôn. Sau đó một tuần, tôi cũng
bẵng đi công việc tìm kiếm của tôi. Những cái tên
Quán La, Khai Nguyên, Hồ Tây thỉnh thoảng lượn lờ ở
trong suy nghĩ của tôi mà không có phương án nào có thể
khắc phục nó. Chả nhẽ bây giờ tôi lại nhờ một đơn
vị nào đấy đi xuống địa đạo để tìm kiếm. Hay là
báo với nhà nước về khám phá của tôi? Nhưng ai tin
được? Tôi có phải là gì đâu mà họ tin? Nên khám phá
này cũng chỉ để mở rộng kiến thức của mình và hiểu
thêm giá trị văn hóa lịch sử của ông cha mình.
Tôi
nghĩ vậy nên cũng tạm thời quên đi chuyện đấy. Nhưng
đúng là cái số tôi, không thể không có những sự tìm
kiếm. Và lần này một thông tin bất ngờ đến với tôi.
Nó như một định mệnh vậy, định mệnh của cuộc đời
và định mệnh của những giá trị lịch sử. Đấy là
Sông Hồng. Nơi đã phát hiện một dấu tích cổ của con
thuyền chở kho báu.
Gầy
đây, khi tôi được biết về thông tin có người dân ở
bờ
sông Hồng thuộc xã Đại Tập, huyện Khoái Châu
đã trục
vớt được một cái thuyền cổ dưới đáy Sông Hồng
vào khoảng tháng 09/2010. Nghe thế, tôi vội vàng đến xem
nó như thế nào. Đấy là sự ham mê mà. Đến nơi tôi
mới được biết người trục với được cái thuyền cổ
đấy chính là anh Hà Văn Chuông. Hỏi anh Chuông tôi mới
biết là trong một chuyến thám thính gần bờ sông Hồng
thuộc xã Thụy Phú ( Phú Xuyên, Hà Nội), cha con anh Chuông
phát hiện một chiếc tàu đắm ở độ sâu 10m. Tàu chìm
hẳn dưới lòng sông và chỉ nhô lên phần mũi.
Anh
chuông có nói và đưa tôi đi xem những gì anh Chuông đã
tìm thấy. Lúc vớt tàu lên, anh Chuông mới biết chiếc
tàu mình vớt có thể là một chiếc tàu cổ, bởi tàu có
hình dạng khá đặc biệt, không hề mang số phiên hiệu
và có một thân máy rất lạ ở hầm tàu. Các cửa mạn,
mớn nước... trên tàu đều bọc bằng đồng lá. Sau khi
vớt, xác tàu được “dìu” vào phía bên kia bờ sông,
thuộc địa phận xã Đại Tập (Khoái Châu, Hưng Yên).
Con tàu mà anh Chuông vớt lên có chiều dài ước chừng
30m, rộng chừng 5m, có 2 sàn và dùng máy động cơ ở
phía đuôi. Đa phần, gỗ tàu cũng đã ngấm nước, nên
trong quá trình trục vớt, chiếc tàu bị gãy làm đôi.
Anh
Chuông kể lại:
- Trên
thân tàu, chúng tôi tìm được một ít đồ cũ, đáng kể
nhất là có 1 pho tượng quan âm bằng sứ men rạn màu
trắng, trên đó không hề có chữ gì. Có cả một ít
mảnh bát đĩa còn sót lại, chắc bởi lúc đưa tàu lên,
thân tàu lật nghiêng nên có gì bên trong cũng rơi cả
xuống lòng sông. Trong
số những đồ vật vớt được, có một chiếc hòm gỗ
có kích thước 45x45cm. Nhìn hình dạng, có thể chiếc hòm
này dùng để đựng các dụng cụ làm đồ mộc trên tàu.
Điều quan trọng là thân hòm có khắc chữ Giang Nam bằng
tiếng Hán. Có điều này, cộng với việc nhìn kết cấu
thân tàu, có thể đây là một chiếc tàu cổ được
đóng vào thế kỷ XIX.
Anh
Cuông nói tiếp:
- Anh
còn biết có người người đã sưu tập được một vật
quý lắm ở dưới sông Hồng, đấy là 2 chiếc mỏ neo cổ
nữa.
Tôi tò mò liền hỏi tên và địa chỉ. Anh Cuông cho tôi. Đấy chính là ông Quách Văn Địch. Chính ông Quách Văn Địch, người sưu tầm được 2 chiếc mỏ neo cổ có niên đại được kiểm chứng khoảng 600 năm. Ông còn cho biết dưới đáy sông Hồng đã lấp đầy bùn phù sa còn ẩn giấu những con thuyền mà niên đại của nó đến nay chưa ai nắm rõ. Hai chiếc mỏ neo của ông Địch bằng gỗ đã nứt nẻ, mỗi chiếc dài tới 6m, ngạnh của mỏ neo dài 2m, đầu ngạnh bịt sắt. Trong gian phòng khách rộng rãi của mình, chiếc mỏ neo phải đặt nghiêng mới vừa chỗ. Ông Địch sưu tầm được chiếc mỏ neo thứ nhất vào năm 1998. Ông Địch đoán chắc, những chiếc mỏ neo lớn như vậy thì con thuyền cũng phải tương ứng, nếu mà so sánh thì 2 chiếc mỏ neo mà ông coi như báu vật với những con thuyền đang bị chìm lấp bởi phù sa hàng trăm năm sông Hồng, giá trị nó còn “khủng” hơn gấp nhiều lần.
Ông
Địch còn nói ở dưới xóm chài Hàm Tử mà người dân
gọi là bến Cầu Gỗ (phường Chương Dương, Hoàn Kiếm,
Hà Nội) nơi mà ông Địch sưu tầm được 2 chiếc mỏ
neo cổ mà chủ nhân trước kia của nó suýt bán... gỗ
vụn. Lão ngư Nguyễn Văn Mười là chủ nhân đầu tiên
của chiếc mỏ neo cổ đã 3 đời sống trên sông.
Hay
quá nhỉ, thế là tôi lại tiếp tục mò và tìm đến nhà
ông Nguyễn Văn Mười ở Chương Dương, Hoàn Kiếm. Món
nghề đi tìm cổ vật, kho báu của tôi luôn làm tôi khổ
thế đấy các bạn ạ. Cứ hễ nghe thông tin ở đâu mà
có nói về phát hiện cổ vật, là tôi tới ngay để tìm
hiểu. Nêu cũng thành thói quen khi làm việc.
Tôi
tìm đến nhà ông Mười ở Chương Dương theo lời chỉ
của ông Địch. Nói chuyện với ông Mười tôi mới biết
vào tháng 6/1999, sông Hồng đang vào mùa nước lũ. Thời
điểm giữa năm này, những cư dân sông Hồng chủ yếu
sống bằng nghề vớt củi đem lên bờ bán. Trong lần xăm
củi năm đó, ông nhìn thấy một thanh củi to trôi theo
dòng nước một phần thanh củi nhô hẳn một đoạn quá
đầu con nước. Thấy lạ lùng, ông cho thuyền áp sát
dùng móc ròng rọc kéo lên nhưng với sức của ông hơn
10 năm về trước và trọng tải con thuyền 5 tấn chỉ
giữ được thanh củi giữa dòng. Sau một hồi hô hoán
người nhà, 2 chiếc thuyền nữa cùng tiến vào “vật
thể lạ”. Ba đoạn dây từ 3 chiếc ròng rọc móc vào
đám củi.
Lúc này, thanh gỗ lạ đã vướng lẫn vào trong đám củi. Người con trai và ông phải lặn xuống đáy sông để luồn người qua đám gỗ. Dưới dòng nước đục ngầu bùn, ông thấy còn một thanh gỗ nữa được nối thành hình tam giác với thanh gỗ đang nổi một phần phía trên. Sau một hơn 1 giờ đồng hồ tách đám gỗ, cuối cùng vật thể lạ cũng rõ hình hài là chiếc mỏ neo. Hai phần mỏ neo dưới lòng con nước, một phần trên của chiếc ngạnh nhô lên... Nó lộ dạng là chiếc mỏ neo to quá cỡ, thanh gỗ vuông dài nhưng sần sùi. Sau khi trục vớt được chiếc mỏ neo, lão ngư Mười cũng để lẫn trong đám gỗ vụn. Nhưng giờ chiếc mỏ neo đã ngự ở nhà quá 2 tháng. Chờ mãi sốt ruột ông định chẻ thành củi bán thì có khách hỏi mua. Chiếc mỏ neo theo thời giá năm đó ông đong được 6 tháng gạo ăn độ nhật. Quãng sông 7km từ cầu Chương Dương tới cầu Thanh Trì là địa phận của ông “cai quản”. Ngay gần chỗ thuyền ông đậu cũng có một khối hiện vật bằng đồng mà theo ông đã chìm miên viễn dưới lớp bùn sông Hồng. Đã không dưới 5 lần chính ông và người con trai lặn xuống đáy sông bẻ vài thanh đồng về bán.
Trong
suốt câu chuyện với tôi, ông lão ngư liên tục nhắc đi
nhắc lại cụm từ “hố nước chết”
Tôi
cũng biết cái tên Hồ nước chết này rồi. Khi ấy tôi
đã từng nghe kề về ở Sông Hồng có một đoạn người
ta gọi là Hồ Nước Chết. Đấy chính là một khúc sông
giữa dòng lõm xuống như miệng giếng to mà đường kính
ước chừng khoảng 5m. Nếu tới gần thêm chút nữa cả
thuyền sẽ hút xoáy theo dòng nước. Cả đoạn sông nước
đang chảy êm đềm bỗng nhiên dòng sông mở toác miệng,
nước đang chảy theo dòng cứ theo đó ùng ục trôi xuống.
Những thương lái sông Hồng khi tiến gần tới hố nước
chết thì con nước tự nhiên thấp xuống, tàu va vào
khoảng hẫng nếu như không tỉnh táo bẻ lái thì sẽ
trôi theo dòng nước mà không thể tách ra được.
Lúc đấy thấy tôi đang băn khoăn, ông Mười nói tiếp:
- Tùy
theo mùa nước mà “hố nước chết” thay đổi kích cỡ
lớn bé khác nhau. Mùa nước lớn rất nguy hiểm với
thuyền bè. Đã gần 50 năm sống trên đoạn sông này thì
những tai nạn, tàu lật cũng thường xảy ra ở khu vực
quanh hố nước. Chính ông cũng không dưới 10 lần vớt
những xác người trôi quanh khu vực này. Ông ấy chỉ
tiếc là đã bán 2 cái mỏ neo đấy. Đến bây giờ ông
ấy vẫn còn tiếc. Ông chỉ nhớ là trên thân 2 cái mỏ
neo bán đi rồi còn khắc 2 chữ Hán gì đấy. Thấy người
mua là ông Địch nói lại là đấy chắc là tên của con
tàu hoặc đại loại như vậy.
Tôi
hỏi:
- Thế
ông có biết là chữ gì không?
Ông ấy nói là không biết và nói có gì hỏi ông Địch. Tôi liền điện thoại cho ông Địch hỏi cụ thể và đến xem trên đấy có khắc chữ gì. Đến nơi ông Địch lấy ra đưa cho tôi xem. Trời đất. Hai chữ đấy được khắc là Hoàng Đà. Thật bất ngờ!
Ngạc nhiên thật! Hoàng Đà! Đúng rồi. Đấy chính là con trai của Hoàng Phi. Thật là ngạc nhiên. Tôi thấy bắt đầu có gì liên hệ ở đây rồi. Hoàng Đà! Sao tôi không nhớ ra nhỉ! Nghĩ vậy, tôi cám ơn ông Địch và về luôn. Kiểm tra lại những gì mình đã có về Hoàng Đà tôi mới biết chính Hoàng Đà là người đã được vua Lê Thánh Tông gọi về làm quan lại cho triều đình au khi minh oan cho cụ Nguyễn Trãi. Hoàng Đà được làm dưới trướng của Lê Lộng, nằm trong đội Hải Kình quân. Thuỷ quân của vua Lê Thánh Tông. Thế là tôi đã tìm ra rồi. Những bị mật dần hiện trong tôi và tôi cảm thấy như là đã có trong tay bí mật về chuông đồng đen rồi.
Bới
lại toàn bộ những thông tin về Hoàng Đà. Tôi được
biết, sau khi vào đội Hải kình quân của Lê Lộng, Hoàng
Đà với bản chất thông minh của mình, vơí kiến thức
phong phú về địa lý được thừa hưởng của người
cha là Hoàng Phi. Chính tướng Lê Lộng sau một thời gian
đã tiến cử Hoàng Đà làm đô đốc chỉ huy chính đội
Hải Kình quân. Hoàng Đà dã tham gia vào nhiều trậnh
đánh, lập nhiều chiến công cho nhà Lê. Nếu ai đó có
thời gian nghiên cứu về lịch sử, chắc chắn các bạn
sẽ gặp nhiều bất ngờ mà những bất ngờ đấy đều
được lịch sử chứng minh. Đất nước ta là một dân
tộc anh hùng.
Nhưng
tại sao lại có tên Hoàng Đà ở 2 cái mỏ neo đấy nhỉ?
Có thể chăng đấy chính là một trong những thuyền của
Hoàng Đà. Nên Hoàng Đà đã được khắc tên lên cái mỏ
neo? Tôi thu thập mọi thông tin từ các nguồn khác nhau,
hỏi bạn bè, hỏi tham khảo những nhà sử học tôi mới
được biết:
Hoàng
Đà sau khi lập được nhiều công danh, vua Lê Thánh Tông
đã ban tặng và phong cho Hoàng Đa làm chức đô đốc chỉ
huy một hạm đội thuyền chiến. Hạm đội đấy được
đóng ở ngay cửa sông Hồng. nơi Hồ Tây và sông Hồng
có thể thông lẫn nhau. Hồi đấy, Hoàng Đà đã được
vua Lê Thánh Tông rất trọng dụng. Như tôi và các bạn
đã biết, vua Lê Thánh Tông là một người rất coi trọng
về thủy quân. Chính ông là vị vua đầu tiên lập ra
thủy quân. Thủy quân thời vua lê Thánh Tông là một
trong những hạm đội mạnh nhất thời đấy ở khu vực.
Ông cũng là người coi trọng việc phát triển hàng hải.
Có
một tài liệu làm tôi chú ý hơn. Đấy chính là tư liệu
từ triều nhà Hồ trở về trước đã bị mất mát, phá
hoại rất nhiều vào thời giặc Minh xâm lược nước ta,
vua Lê Thánh Tông đã cho lập bản đồ toàn quốc gọi
chung là Hồng
Đức bản đồ
vào năm Canh
Tuất (1490), trong đó có cả Hoàng Sa và Trường Sa. Hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời xưa được cha ông
ta thường coi là một dải đảo dài nên gọi chung bằng
các tên khác nhau như Bãi Cát Vàng, Cồn Vàng, Vạn lý
Hoàng Sa, Vạn lý Trường Sa, Đại Trường Sa…điều này
cho thấy trước đó hai quần đảo này đã thuộc chủ
quyền Đại Việt và nhà Hậu Lê sau khi chiến thắng quân
Minh, đã hết sức quan tâm tới việc xác lập biên giới
quốc gia, khẳng định chủ quyền lãnh thổ trong đó có
vùng biển, đảo. Nếu căn cứ vào Hồng
Đức bản đồ,
nho sinh Đỗ Bá (tự Công Đạo) đã soạn ra bộ sách Toàn
tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư
(1630 –
1653), ở quyển 1 có thể hiện địa mạo phủ Quảng
Ngãi, phần chú thích trên bản đồ có nói tới Bãi Cát
Vàng tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay: “Giữa
biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ
400 dặm, rộng 20 dặm, dựng đứng giữa biển” và có
một bản đồ vẽ nhóm đảo thuộc Quảng Ngãi, phủ
Thăng Hoa với chú thích chữ Nôm là “Bãi Cát Vàng”.
Có
một chi tiết mà tôi thấy ngạc nhiên là vào năm Hoàng
Đà 30 tuổi, khi ấy Hoàng Đà đã tìm thấy một bảo vật
quý từ đáy Hồ Tây, nơi hạm đội của ông đang tập
trận và ông đã hiến cho vua Lê Thánh Tông. Bảo vật
được giữ bí mật tuyệt đối. Sau đó, vua Lê Thánh
Tông đã cử Hoàng Đà cùng hạm đội của mình chở báu
vật đấy ra Bãi Cát Vàng ngoài biển với nhiệm vụ lập
căn cứ, làng mạc trên Bãi Cát Vàng. Trong quá trình chuẩn
bị di chuyển đã có 2 con tàu của Hoàng Đà đã bị nạn
tại ngay cửa sông Hồng. Toàn bộ hành trình của Hoàng
Đà đã được vua Lê Thánh Tông chấp thuận và toàn bộ
Hạm đội đã đi đến Bãi Cát Vàng để trấn giữ tại
đấy. Mà người được cử đi chính là Hoàng Đà. Ở
Bãi Cát Vàng, với kiến thức địa lý của mình, Hoàng
Đà đã lập ra nhiều ấp, xây dựng nhà cửa ở đấy.
Sau đó ông đã mất tại đấy do bị lâm bệnh nặng. Có
một ngôi đền thờ nhỏ đã được lập tại đây để
tưởng nhớ công lao của ông. Nhưng ở Trường Sa hiện
nay không có bất cứ một thông tin nào về chuông đồng
đen cả.
Thật
là bất ngờ. Đến đây tôi đã hiểu có thể báu vật
đấy chính là chuông đồng đen. Và chính vua Lê Thánh
Tông cũng đã biết về sự việc chuông đồng đen này.
Đúng rồi. Hoàng Đà có trong tay bản đồ bí mật để
chuông đồng đen từ cha ông là Hoàng Phi mà. Chính vì
vậy, ông đã thành công trong việc tìm kiếm bảo vật
đấy và được vua Lê Thánh Tông đồng ý cho mang đến
Bãi Cát Vàng để chứng minh quyền sở hữu về địa lý
với chiều Minh. Có thể lắm chứ! Với vua Lê Thánh Tông
thì việc mở rộng bờ cõi, xác định chủ quyền biển
đảo được nhà vua rất chú ý. Đúng thật, đã từ lâu
các triều đại bên Trung Quốc luôn rình dập và luôn tìm
mọi cách để chiếm hữu của chúng ta những tài nguyên
quý giá, đất đai và luôn đợi thời cơ để chiếm
đoạt. Cho đến tận bây giờ vẫn vậy, Trường Sa và
Hoàng Sa vẫn đang đợi ngày về với Việt Nam. Trung Quốc
luôn luôn và luôn luôn tìm mọi cách để lấy lại 2 quần
đảo đấy với mọi thủ đoạn và mưu đồ thâm hiểm.
Quả
thật, vua Lê Thánh Tông đã có con mắt và tầm nhìn chiến
lược. Ông đã định hình trước được những điều gì
sẽ xảy ra. Đến đây, tôi chợt nghĩ, ước gì những
điều vua Lê Thánh Tông đã làm cho đất nước được
các lãnh đạo Việt Nam thể hiện ở lúc này, khi Hoàng
Sa và Trường Sa vẫn còn phải chờ đợi ngày trở về
đất nước ta. Sao ta không thể cương quyết như vua Lê
Thánh Tông được nhỉ? Tấc đất của tổ quốc quý giá
biết bao nhiêu. Tôi chợt nhớ đến một câu nói của Bác
Hồ: Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ. Đúng thật, khi mất một
tấc đất, Việt Nam ta lại như bị dao cắt vào người.
Tôi cũng như các bạn, nếu có thể làm gì cho tổ quốc
bằng việc cống hiến sức lực và kiến thức của mình
để dành lại Trường Sa và Hoàng Sa chắc tôi cũng làm.
Mình tự hào đấy là lãnh thổ của mình.
Nói
đến đây, tôi chợt nhớ ra là lúc ông Mười có nói đến
Hồ Nước Chết ở Sông Hồng. Sao tôi lại quên chi tiết
này nhỉ? Tại sao lại có một hiện tượng đấy ngay
trên mặt sông Hồng? Đúng rồi! Tôi reo lên, bức ảnh
chụp lại vào đêm rằm tháng 9 tại cây thị ở đình
Quán La. Tôi vội vàng lấy nó ra đối chứng. Không khác
tý nào. Toàn bộ bóng của bức ảnh trùng khớp đến
kinh ngạc với địa lý và hình thù nơi có Hồ Nước
Chết đấy. Lạ thật! Sao Cao Biền lại biết được nhỉ?
Có điều gì uẩn khúc ở đây?
Tôi
nhớ ra rồi. Vậy đây chính là nguyên nhân chính. Chính
đấy là lối thông ra sông Hồng từ Hồ Tây. Sao tôi lại
quên chi tiết này nhỉ? Cao Biền đã từng làm con địa
đạo này nối từ đình Quán La ra Hồ Tây và từ Hồ Tây
thông ra sông Hồng. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu tại
sao Hồ Tây luôn gợn sóng, có thể do áp lực nước đấy
từ sông Hồng đẩy vào mà tạo nên những con sóng bất
thần ở Hồ Tây. Mà điều ngạc nhiên hơn chính là ngôi
mộ nổi giữ Hồ Tây lại rất gần với đình Kim Ngưu,
nơi những nữ văn công Trung Quốc bị chết vào năm 1955.
Đúng là một phát hiện mới đây. Có khả năng chính
những luồn nước bất ngờ từ đáy Hồ trào lên làm
chết đoàn văn công Trung Quốc đấy được bắt nguồn
từ sông Hồng. Một con sông linh thiêng của nước Việt
Nam
Đến
lúc này tôi nhìn lại những tấm ảnh mà tôi đã chụp
lại khi bóng cây thị in hình trên khu đất đấy. Hoàn
toàn trùng khớp đến từng chi tiết. Nơi tập trung ánh
sáng nhất chính là nơi thể hiện Hồ Nước Chết ở
Sông Hồng.
Tôi
thở phào nhẹ nhõm. Tôi đã biết sự thật về những gì
tôi đã khám phá. Báu vật của Giao Chỉ chính là chuông
đồng đen của nhà sư Lý Quốc Sư đúc và thả xuống Hồ
Tây để phá nơi trấn yểm của Cao Biền. Cao Biền là
người đã cho làm thêm một hệ thống địa đạo bắt
nguồn từ đình Quán La thông ra Hồ Tây và sông Hồng. Để
rồi sau này, chính con cháu của Hoàng Phúc là một chiến
tướng đã bại trận khi đánh nhau với Lê Lợi và Nguyễn
Trãi tìm thấy. Để rồi bí mật về những lời tiên tri
của Cao Biền được Nguyễn Trãi lưu giữ lại cho con
cháu sau này. Và rồi chính nơi này Hồ Tây - Sông Hồng,
Hoàng Đà đã tìm ra báu vật đấy. Và vua Lê Thánh Tông
đã cho phép Hoàng Đà mang báu vật đấy đến Bãi Cát
Vàng, hay là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ngày nay để
làm dấu ấn chứng minh cho lãnh thổ Đại Việt. Tuy nhiên
khi chở chiếc chuông đồng đen ra Trường Sa, con thuyền
đó đã bị nạn ở Sông Hồng. Sau đó con thuyền đấy
đã chìm và mất tích đến tận ngày nay. Và cái chuông
đó đã bị chìm xuống dòng sông Hồng tại vùng có địa
danh là Hồ nước chết. Và tất cả những bí mật về
cái chuông đồng đen bị mất tích đều ở đấy. Chính
là Hồ nước chết trên Sông Hồng.
Lúc
này, tôi đi xe về đến đền Kim Ngưu, nơi tôi đã nhận
được tấm da dê nói về chuông đồng đen. Có lẽ những
tài liệu tôi tìm kiếm, tôi sẽ đưa và cung cấp cho bảo
tàng Lịch sử Việt Nam để góp phần chứng minh cho thế
giới về Việt Nam. Còn báu vật, tôi sẽ tìm ra bằng
được để chứng minh cho một giai thoại lịch sử, một
triều đại lịch sử rực rỡ của Việt Nam. Hay chính
những linh hồn của những người con của Việt Nam, những
linh hồn của những bậc anh hùng của Việt Nam qua từng
triều đại, những linh hồn của những vị vua trong lịch
sử Việt Nam, những ngưòi đã có công gìn giữ từng tấc
đất của mình, hy sinh bao sương máu để giữ lại được
đến bây giờ.
Tôi
ra về sau khi thắp một nén hương tưởng nhớ thần Kim
Ngưu. Tinh thần tôi cảm thấy thoải mái. Và tôi đã
chuẩn bị tin thần cho một cuộc tìm kiếm đầy gay go.
Đấy chính là cuộc tìm kiếm báu vật Chuông Đồng Đen
ở Hồ nước chết trên Sông Hồng. Đến đây, tôi xin
tạm dừng câu chuyện của tôi và mong các bạn sẽ tiếp
tục cùng tôi chuẩn bị cho một cuộc tìm kiếm đầy hấp
dẫn sắp diễn ra với tôi, với những định mệnh mà
tôi phải nhận lấy.
Khi
nghĩ lại việc gì đã xảy ra khi tìm kiếm chuông đồng
đen, những tình tiết ly ky, đến lúc này, khi gõ máy tính
để viết những thông tin vừa rồi, tôi vẫn còn cảm
thấy sợ hãi. Những điều đã trải qua đấy, tôi đã
có thể viết thành tiểu thuyết mất. Thôi, tôi cũng tạm
thời kể đến đây để các bạn có thể hiểu hơn phần
nào cuộc tìm kiếm định mệnh đấy của tôi. Còn những
bí mật gì các bạn đón đợi nhé. Phần tiếp theo tôi
sẽ kể là Cuộc tìm kiếm chuông đồng đen.
Tập 1: Tấm bản đồ bí ẩn
Tập 2: Giải mã tấm bản đồ
Tập 3: Đường hầm bí ẩn ở Côn Sơn
Tập 4: Truy tìm kho báu
Tập 5: Mật mã Trâu Vàng - part 1
Tập 1: Tấm bản đồ bí ẩn
Tập 2: Giải mã tấm bản đồ
Tập 3: Đường hầm bí ẩn ở Côn Sơn
Tập 4: Truy tìm kho báu
Tập 5: Mật mã Trâu Vàng - part 1
4 nhận xét:
phần tiếp đâu hả cụ??? cháu tìm mãi mà ko thấy ??
phần 3 đâu hả chú ơi????đợi lâu quá à........:3
Tuyệt vời quá bác ơi
Càng đọc càng thấy yêu sử nước nhà và tự hào về lịch sử hàng ngàn năm vẻ vang của dân tộc.
Định mệnh và các Đức thánh linh đã chọn bác, đủ cơ duyên, đủ tâm đức để trao gửi và dẫn đường cho bác khai sáng những bí ẩn đời cha ông, để bác truyền lại cho con cháu đời nay, những ghi chép quá sức ấn tượng và ý nghĩa vô cùng lớn lao này
Mong bác tiếp tục viết tiếp cuộc hành trình ngược dòng thời gian, khám phá sự huyền bí ngàn đời của cha ông ạ
Một câu chuyện tuyệt vời kết nối giữa quá khứ và hiện tại, để giữ lại những giá trị truyền thống quý giá cho thế hệ trẻ hôm nay và tương lai. Cám ơn tác giả và thực sự khâm phục bác!
Đăng nhận xét