Ký sự của nhà văn Nguyễn Khải về chiến dịch Tây Nguyên tháng 3/1975. Những câu chuyện được kể lại
giúp phần nào hình dung được không khí ra trận của quân dân Việt Nam
những ngày đầu năm 1975, tình hình chiến trường, tương quan lực lượng ta
và địch, ... Ở đây, chỉ trích lại phần kể của Vũ Lăng, nguyên là
Phó Tư lệnh Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên, quân đoàn trưởng quân
đoàn 3, đảm nhiệm hướng tây bắc trong chiến dịch Hồ Chí Minh về giai
đoạn chuẩn bị chiến dịch Tây Nguyên và những diễn biến chính khi chiến
dịch diễn ra.
TẠI CƠ QUAN CHỈ HUY CỦA BỘ TƯ LỆNH CHIẾN DỊCH
16 giờ ngày 9 tháng Ba.
Từ lúc này cho tới giờ nổ súng, cả mọi người ở Chỉ huy sở chỉ còn
chăm chú có một việc: bộ đội lần lượt tiến vào chiếm lĩnh các vị trí
xuất phát tấn công. Trong một đêm phải đưa vào các hướng, các mũi nhiều
trung đoàn bộ binh và các binh chủng hợp thành. Có đơn vị phải đi từ
xa, cách mục tiêu gần 40 cây số để giữ được bí mật, như tăng. Đơn vị
gần cũng cách chỗ phải đến từ 10 đến 15 cây số. Có những trục đường
phải đợi trong thị xã đã nổ súng mới được phép nổ bộc phá san đèo làm
nốt đoạn còn lại, hoặc đưa xe đi ủi những gốc cây đã cưa sẵn được ngụy
trang. Có hướng phải qua cầu phao và phà. Có phà chở tăng và pháo qua,
có phà chỉ chở bộ binh qua. Tất cả khối việc phức tạp này chỉ được lệnh
triển khai vào lúc 5 giờ chiều ngày 9.
Đánh địch trong tình huống bất ngờ, đánh hiệp đồng nhiều binh chủng
cùng tiến quân cùng một lúc, đánh lớn nhưng không cần có lực lượng dự
bị chiến dịch. Cách bày binh bố trận ấy phải dựa trên cơ sở có nhiều
đường để bộ đội cơ động được thần tốc. Phải có nhiều trục dọc và nhiều
trục ngang, đường vươn tới các mục tiêu chủ yếu, đường nối giữa các vị
trí tập kết, giữa các khu vực tác chiến, giữa những địa bàn đã nổ súng
và những địa bàn sẽ nổ súng. Trong một đêm, bộ đội phải đi được hàng
trăm cây số từ bắc xuống nam, từ đông sang tây. Có đơn vị đi trước, có
đơn vị đi sau, có đơn vị phải đợi nổ súng mới lên đường. Và những mạng
đường rất rắc rối ấy chỉ được làm trong bí mật, để giữ được đến phút
cuối cùng cái tình huống đánh địch khi chúng còn chưa phòng bị. Mà là
một kẻ địch quen biết, xảo trá, giữ gìn, mắt nhìn cũng tinh, tai nghe
cũng thính. Khó là như vậy.
17 giờ ngày 9, các lực lượng công binh mới ra khỏi chỗ giấu quân để
làm nốt phần đường dẫn đến chỗ nổ súng của các đơn vị tấn công. Trục 1
và trục 2 đưa các đơn vị tới hướng đánh phía bắc. Trục dọc 1 đã làm sẵn
đến bắc suối Eamhar cách mục tiêu 10 cây số. Từ phía nam suối là nương
rẫy. Cây ở các rẫy đã phát thường để cao khoảng 70 phân. Công binh
phải ra cưa từ nhiều đêm trước, nhưng không được cưa đứt hẳn vì dân ra
sẽ lộ, chỉ được cưa 3/4 gốc cây cưa theo chiều đổ của một hướng, rồi
hót mùn và lá che xóa mạt cưa. Khi tiếng súng đã nổ, đơn vị tăng dẫn
đầu sẽ húc đổ cây, san thành đường cho các xe sau đi tiếp. Trục dọc 2
làm trước đến bắc suối Eatun. Phía nam suối là một cái đèo chạy từ đông
sang tây. Khi trong thị xã đã nổ súng, lập tức công binh cho điểm hỏa
nổ bộc phá hạ thấp độ dốc của đèo, san thành đường cho xe vượt. Trục
dọc 3 đưa bộ đội tiến vào hướng tây bắc và hướng tây, có hai phà để qua
sông Sê-rê-pốc, gọi là phà 3A và 3B. Bến 3A cho tăng qua, phà trọng
tải 50 tấn. Bến 3B cho các loại pháo qua, phà trọng tải 35 tấn, cho
pháo mặt đất và pháo cao xạ qua. Chuẩn bị bến này có cái khó là phải
đưa binh khí kỹ thuật qua đường 14, giữa một đầu là chốt cầu Thọ Thạch
có một tiểu đoàn bảo an và một đầu là chốt Núi Chẻ có một đại đội bảo
an.
19 giờ ngày 9, Bộ tư lệnh hạ lệnh cho cụm pháo chiến dịch phía tây
bắn vào cầu Thọ Thạch và cao điểm Núi Chẻ, giải tỏa đọan đường 14 phía
tây nam thị xã để bộ đội công binh đưa xa cầu phà ra bến. Trong đêm
ngày 9, phà đã lắp ghép xong.
20 giờ ngày 9, lực lượng cầu phà của hướng bắc từ vị trí tập kết đến
hai bến 3A, 3B hạ thủy, lắp ghép. Mạng đường sá và cầu phà coi như yên
tâm. Cái binh chủng cần cù và khiêm tốn của quân đội ta bao giờ và ở
đâu cũng đều bắt đầu từ rất sớm và ra đi khi tất cả đã vắng tanh. Họ đã
bổ những nhát cuốc đầu tiên mở mạng đường cho chiến dịch từ tháng 9
năm trước, và cho trận đánh then chốt này từ tháng Giêng. Làm từ xa,
cách mục tiêu chủ yếu hàng trăm cây số, mỗi ngày một nhích gần lại, cho
tới đêm ngày 9 tháng Ba thì chỉ còn muơi cây số phải mở nốt trong vòng
vài tiếng đồng hồ. Ngồi trên xe chạy hàng trăm cây số trong đêm, nếu
ngủ gà ngủ gật thì sẽ không thấy gì hết, không thấy rừng, không thấy
ngầm, không thấy cả đèo và đỉnh đèo nữa. Xe chạy cứ êm ro, tưởng đâu là
còn đường vốn có, thật ra nó mới chỉ có trong vòng một tuần, một
tháng. Trước đó là rừng, là đèo cao, suối sâu, nếu đi bộ cũng phải cả
tuần, mà đói mà khát, mà xẻ đế giày, mà toạc da tay. Nhiệm vụ của các
anh luôn luôn được hoàn thành một cách xuất sắc, hoàn thành một cách
kinh ngạc. Tối ngày 9 tháng Ba, đêm trước của trận đánh then chốt, đêm
trước của tình thế mới, cục diện mới, đêm trước của những thay đổi vô
cùng to lớn, tất cả những con người có mặt ở Chỉ huy sở chiến dịch đều
hoàn toàn yên tâm về binh chủng công binh.
Mãi đến 10 giờ đêm ngày 9, đường dây điện thọai giữa Chỉ huy sở cơ
bản với bộ phận chỉ huy cánh bắc vẫn chưa liên lạc được. Muốn liên lạc
được với cánh bắc phải qua bộ phận chỉ huy hướng Đức Lập. 11 giờ đêm
vẫn chưa gọi hỏi được. Đến giờ cuối cùng của ngày 9, chuông réo, Tư
lệnh phó chỉ huy cánh bắc đã gọi được trực tiếp về Chỉ huy sở. Tất cả
những người có mặt đều reo lên. Đồng chí vệ binh đứng ngoài cửa hầm
cũng ló đầu vào hỏi to: "Đường dây thông rồi, các thủ trưởng?". Sự ồn
ào này là không được phép trong cơ quan chỉ huy. Trưởng phòng tác chiến
yêu cầu mọi người phải giữ gìn trật tự. Tư lệnh trưởng xua tay, bảo:
"Không sao! Đây là cái mất trật tự đẹp đẽ, nó là trách nhiệm và tình
cảm của mọi người". Từ lúc đó tuy vẫn chỉ dám nhìn nhau với nụ cười
rạng rỡ, hai tay vỗ vào không khí mỗi lần nghe được tin vui, nhưng cũng
có lúc phải buột kêu to một tiếng, buột cười lớn một tiếng cho hả cái
sảng khoái trong lòng.
Trận tấn công vào thị xã Buôn Ma Thuột là trận đánh mở đầu của cả
cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Cách đánh của trận
này là cách đánh tiêu biểu của những chiến dịch sau chót: thần tốc, bất
ngờ, lực lượng đột kích gồm những binh chủng hợp thành, lướt qua các
vị trí ngọai vi, cùng với bộ đội được ém sẵn thọc một nhát thật mạnh,
thật sâu vào khu trung tâm chỉ huy khiến kẻ địch bị hoàn toàn tê liệt
ngay từ phút đầu, rồi từ đó đánh tỏa ra tiêu diệt nốt những lực lượng
còn lại. Nó cũng là sự phát triển của cách đánh năm 1968, nhưng lực
lượng đột kích luôn luôn được tăng thêm, càng đánh càng mạnh. Nó cũng
là sự phát triển của cách đánh năm 1972, có những mũi đột phá, có những
mũi vu hồi, đánh vận động và truy kích, chia cắt từng khu vực trong
một chiến trường, và chia cắt chiến lược giữa các chến trường. Cách
đánh này chỉ có thể có được vào thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến, khi
lực lượng của ta càng ngày càng mạnh lên, lực lượng quân ngụy được Mỹ
tiếp sức thì mỗi ngày một suy yếu đi. Khi những cái vốn là rất mạnh của
địch như: cơ động nhanh, pháo nhiều, máy bay nhiều, thì nay đã giảm
sút. Còn quân ta lại có khả năng vận động nhanh chóng bằng cơ giới, lực
lượng pháo binh mặt đất và cao xạ đủ sức áp đảo, tiêu diệt hỏa lực
địch trong suốt thời gian chiến dịch.
Trong trận đánh Buôn Ma Thuột, các lực lượng đột kích ém sẵn chỉ
nhắm có bốn mục tiêu chủ yếu: căn cứ của Bộ chỉ huy sư đoàn 23 bộ binh,
tiểu khu Đắc Lắc, sân bay thị xã và sân bay Hòa Bình. Cách bố trí lực
lượng của địch như sau: chủ lực vòng ngòai, địa phương quân vòng trong,
trong nữa là các cơ quan chỉ huy. Khu vực ngọai vi thị xã, chủ yếu là ở
hướng đông, thuộc quận Hòa Bình, có sân bay Hòa Bình, hậu cứ của của
hai trung đoàn 45 và 53 và lực lượng phòng vệ dân sự. Đánh Buôn Ma
Thuột là đánh hiệp đồng của 4 cánh. Hướng đông bắc có nhiệm vụ thọc sâu
vào trung tâm thị xã, làm chủ khu Ngã Sáu và sân bay trinh sát cơ L19.
Hướng tây bắc đột phá khu thiết giáp và hậu cứ của tiểu đoàn 1 thuộc
trung đòan 53. Hướng tây nam lướt qua những căn cứ phụ cận, đâm thẳng
vào bộ chỉ huy của sư đoàn 23 bộ binh. Hướng nam chiếm lĩnh khu hành
chính gồm tòa hành chính, tiểu khu Đắc Lắc và đài phát thanh.
Trở lại Sở chỉ huy chiến dịch từ 0 giờ ngày 10 tháng 3 đến 2 giờ 3
phút. Lúc này các đơn vị bộ binh đang lần lượt tiến vào các hướng làm
nhiệm vụ. Cầu phà hướng tây bắc và hướng nam đã lắp ghép xong xuôi, còn
đợi súng nổ là đưa tăng, thiết giáp cùng lực lượng pháo binh qua sông
đi tiếp theo các đơn vị bộ binh. Hai cụm pháo chiến dịch, mỗi cụm là
một trung đoàn, đã chiếm lĩnh xong các trận địa bắn ở phía tây sông
Sê-rê-pốc và phía bắc thị xã Buôn Ma Thuột. Các đài quan sát của pháo
binh ở Chư Nga (đông bắc thị xã), khu kho Mai Hắc Đế (phía nam thị xã),
ở ngang cầu Sê-rê-pốc (phía tây thị xã) đã liên lạc được với bộ phận
chỉ huy pháo của chiến dịch. Bộ tư lệnh đặc biệt chú ý tới hướng đông
bắc gồm lực lượng của trung đoàn 95B và một tiểu đoàn của trung đoàn
198. Tiểu đoàn đặc công có nhiệm vụ chiếm giữ sân bay và nổ súng mở
màn. Lần đầu tiên binh chủng đặc biệt này nổ súng cùng một giờ ở ba nơi
cách xa nhau: sân bay thị xã, khu kho Mai Hắc Đế và sân bay Hòa Bình,
hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng đột kích tại các hướng. Còn lực lượng
của trung đoàn 95B phải nhanh chóng chọc thẳng vào trung tâm thị xã,
chiếm giữ Ngã Sáu, cắt đôi khu vực quân sự và hành chính của ngụy với
khu vực dân sự. Bởi rằng nếu để quân địch chạy tung tóe vào các đường
phố có dân ở là mình sẽ phải đánh chiếm từng nhà, phải nhảy từ nóc nhà
này sang nóc nhà khác. Làm chủ Ngã Sáu xong, lập tức phải chia thành
các phân đội, đánh chiếm các ngã ba, ngã tư, chốt chặt mọi đường cơ
động, chiếm các nhà cao tầng, các cửa sổ, sân thượng. Bộ đội đánh chiếm
đường phố phải trang bị gọn nhẹ, có đầy đủ súng chống tăng, lực lượng
càng chia nhỏ cách đánh càng hiệm nghiệm.
1 giờ sáng ngày 10 tháng 3, ở Chỉ huy sở hầu như không còn việc gì
để gọi hỏi, đôn đốc, kiểm tra các cấp và các hướng. Tất cả đã sẵn sàng.
Chỉ còn đợi giờ nổ súng. Trong 60 phút nữa còn gì sẽ xảy ra? Sẽ không
thể có gì trái với dự tính xảy ra hết. Pháo mặt đất và pháo cao xạ đi
cùng các hướng đang qua sông. Còn một giờ nữa các đơn vị tăng và thiết
giáp sẽ bật đèn, rú máy, nghiến đường ào ào chạy thẳng tới các mũi đã
nổ súng. Các cụm pháo chiến dịch đã lên bảng bắn. Đêm nay sẽ là một
biển lửa nhấn chìm các căn cứ quân sự địch trong thị xã và vùng ngoại
vi. Còn 50 phút nữa! Còn 40 phút nữa! Kể cả người chưa từng bao giờ hút
thuốc cũng xòe tay xin một điếu. Không biết nên nghĩ gi? nên lo lắng
cái gi? nên chờ đợi cái gì? Tất nhiên tất cả chỉ còn chờ đợi tiếng súng
hiệp đồng của các lực lượng đặc công ở ba mục tiêu đã được chỉ định
phải đánh trước. Có thể một đơn vị nào đó sẽ nổ súng đúng giờ, tức là 2
giờ sáng ngày 10. Còn các đơn vị khác có thể chưa vào được vị trí
nhiệm vụ vì bị lực lượng tuần tra phát hiện từ phía ngoài, vì bị lạc
còn đang phải tìm đường. Rất có thể là như thế. Nổ súng không đều nhau,
thì kẻ địch sẽ có thời gian lần lượt đối phó, lần lượt huy động lực
lượng, yếu tố bất ngờ bị mất, sức chống trả của chúng sẽ mạnh hơn, sức
tiến công của ta sẽ chậm lại. Một mũi bị chậm sẽ ảnh hưởng đến các mũi
khác. Rồi cũng ảnh hưởng đến các đơn vị tiếp sau vì vị trí của người
đến trước không phát triển. Lực lượng sẽ bị ùn, mục tiêu cũng bị thu
gọn. Rồi bom, rồi pháo...Những giây phút trước giờ nổ súng của mọi cuộc
tấn công từ xưa đến nay đều căng thẳng như thế cả. Kể cả những trận
đánh đã cầm chắc cái thắng cả trăm phần trăm vẫn cứ căng thẳng. Vì vẫn
còn chút nghi ngại trong sự chuẩn bị của mình, trong các dự tính của
mình, và những tình huống lạ lùng chưa từng bao giờ xảy ra nhưng lại
xuất hiện đúng vào cái trận này, làm kinh nghiệm xương máu, có khi còn
là kinh nghiệm đau đớn cho những trận sau, cho những người cầm súng tới
sau. Trong những giờ cuối cùng của ngày 9 và những giờ đầu tiên của
ngày 10, cách nửa giờ lại có điện từ Chỉ huy sở tiền phường của Bộ gọi
xuống. Cũng vẫn những lo lắng, những băn khoăn hết sức giống nhau: Lực
lượng tiềm nhập thế nào? Cầu phà thế nào? Đường sá thế nào? Việc tổ
chức hiệp đồng giữa các hướng, giữa các binh chủng có gì trở ngại?
1 giờ 30...1 giờ 40, chủ nhiệm pháo binh gọi điện xuống hai cụm pháo
chiến dịch chỉ thị lại những mục tiêu chủ yếu phải bắn trong đêm. Phải
uy hiếp và làm tan rã tinh thần hai cơ quan chỉ huy quân chủ lực và
quân địa phương. Phải phá hủy ngay từ những loạt pháo đầu các trận địa
pháo của địch trong thị xã vào vùng phụ cận, hậu cứ trung đoàn 8 thiết
giáp và khu trung tâm truyền tin. Hai cụm pháo chiến dịch của hai trung
đoàn pháo trực thuộc Bộ tư lệnh chiến dịch đều có cái mạnh và cái yếu
khác nhau. Cụm pháo phía bắc của trung đoàn 675 rất giỏi công tác tham
mưu (tính toán và giải quyết bắn rất giỏi). Với cụm pháo này chỉ cần hạ
khẩu lệnh về mục tiêu, thời gian bắn và số đạn. Nhưng với cụm pháo
phía tây sông Sê-rê-pốc của trung đoàn 40 thì cơ động giỏi, bố trí trận
địa chỗ nào cũng lọt, nếu cần thì pháo khiêng vai, nhưng sự tính toán
lại yếu. Với cụm pháo này phải lên bảng bắn giúp họ, mình hô bắn, còn
anh em làm nhiệm vụ truyền đạt cho các trận địa. Nếu cả hai cụm pháo
cùng phải bắn một lúc thì cũng phải tính toán với cụm phía tây trước,
đến lúc hô cả hai cụm cùng bắn dập vào một mục tiêu cho trúng và mạnh.
Cái sự đánh địch nó tỉ mỉ là thế, cẩn thận là thế, phải chu đáo đến
thế. Các cán bộ được tham gia vào cơ quan chỉ huy chiến dịch hầu hết là
các bộ dưới đơn vị đưa lên. Họ đã từng chỉ huy bộ đội chiến đấu từ cấp
trung đội, đại đội, tiểu đoàn suốt hai cuộc kháng chiến nên đều dày
dạn kinh nghiệm, biết thấu đáo cái nhọc nhằn, cái lo lắng của người chỉ
huy cấp dưới. Mỗi lệnh đưa xuống bao giờ cũng kèm theo nhiều cách giải
quyết, mà cách nào cũng hết sức thiết thực, hết sức "lính" như anh em
hay nói.
2 giờ ngày 10, Tư lệnh trưởng nhìn đồng hồ, nhấc ống điện thoại. 2
giờ 5 phút, lực lượng đặc công ở các hướng đã nổ súng. 2 giờ 10, được
lệnh của Chỉ huy sở tiền phường của Bộ và Bộ tư lệnh chiến dịch, chủ
nhiệm pháo binh hạ lệnh phát hỏa. Từ lúc này, chủ nhiệm pháo binh là
nhân vật trung tâm của Chỉ huy sở. Chiều ngày 8, cả mọi người lo lắng
đến thắt ruột vì chưa tìm đâu ra dấu vết các xe đạn và xe tăng; tối
ngày 9 thì dõi theo gần như nín thở lực lượng công binh triển khai "đồ
nghề"; và bây giờ là các mục tiêu mà lực lượng pháo binh có nhiệm vụ uy
hiếp hoặc san phẳng. Cách bắn pháo trong đêm vào một thành phố cũng đã
được tính toán cẩn thận. Chủ yếu là cách sử dụng các loại đạn. Lực
lượng bắn trong đêm gồm có pháo ĐKB, hỏa tiễn H12, cối 160 ly và cối 82
ly. Hỏa tiễn bắn đêm để dễ quan sát, áp đảo được tinh thần quan địch,
sát thương cũng rất lớn. Cối 82 ly để kiềm chế các trận địa pháo địch,
khẩu nào nhấp nháy là diệt luôn. Cối 160 ly bắn vào các khu vực chỉ
huy, tiếng nổ lớn, đào sâu, khoét rộng như loại bom cỡ nhỏ. Sau loạt
bắn đầu, các đài quan sát đã đưa tin về Chỉ huy sở rất tỉ mỉ. Đèn trong
thị xã vẫn sáng, đường đạn lại càng sáng nên nhìn điểm rơi rất rõ. Cả
năm trận địa pháo của địch trong và ngoài thị xã đều bị pháo binh ta áp
đảo trong đêm. 34 khẩu vừa pháo 155 ly và pháo 105 ly không nhả lại
được một phát đạn nào. Có thể một số khẩu đã bị hủy diệt nhưng chắc
chắn là đám pháo thủ đã không dám rời khỏi chỗ trú nấp ra trận địa.
Trong đêm và trước khi bộ đội ta tiến vào, hai cụm pháo chiến dịch đã
rót xuống tiểu khu Đắc Lắc 890 viên đạn và căn cứ sư đoàn 23 là 850
viên đạn. Ngót ngàn viên đạn trút xuống một căn cứ địch trong đêm rõ
ràng không phải là ít.
5 giờ 30 sáng ngày 10, các lực lượng của ta đã tập hợp đầy đủ tại
các vị trí xuất phát tấn công. Tư lệnh trưởng đứng dậy, xoa tay: "Chúng
ta đã chắc thắng tới chín chục phần trăm rồi!".
Tình hình tác chiến trong ngày 10 gần đúng với tính toán trên phương
án. Trong ba mục tiêu chủ yếu bên trong thị xã, ta đã đánh chiếm được
tiểu khu Đắc Lắc và sân bay trinh sát cơ L19. Chỉ còn lại căn cứ của sư
đoàn 23. Anh em thì báo cáo đã chiếm được rồi nhưng những lực lượng
tản mát còn lại của địch vẫn còn kháng cự theo một hiệu lệnh thống
nhất. Tức là cơ quan chỉ huy của nó vẫn còn. Chiều ngày 10, bộ phận
thông tin của ta xác nhận vẫn còn bắt được tín hiệu chỉ huy ở nhiều khu
vực, và có cả lệnh điều động liên đoàn 21 biệt động quân ở Đạt Lý tiến
vào thị xã đánh phản kích. Có nghĩa là ta vẫn chưa đánh chiếm được căn
cứ 23. Nhiều mũi cùng đánh nhưng mũi nào, thuộc đơn vị nào đã làm chủ
thì báo cáo còn chưa rõ ràng. Vả lại nhận mục tiêu trên bản đồ khác, mà
trong thực tế lại càng khác. Nhiều khu nhà xây cất giống nhau, đường
đi lối lại không quen thuộc, ngay đến phương hướng cũng rất dễ nhầm
lẫan. Rồi quân ta đuổi, quân nó chạy, đơn vị này, đơn vị kia, rồi khói
đạn, khói bom, bụi đất mù mịt, phân biệt được khu nào là tiếp liệu, khu
nào là truyền tin, khu nào là căn cứ sư bộ quả nhiên là rất khó. Ngay
trong đêm ngày 10, Bộ tư lệnh đã phái trợ lý tác chiến cầm bản đồ xông
vào các nơi, xác định lại từng vị trí rồi tổ chức lực lượng tại chỗ,
trong ngày 11 phải giải quyết bằng xong.
8 giờ sáng ngày 11, hai đại đội thuộc các trung đoàn 95B và 24 cùng
một mũi tăng đánh vào căn cứ 23 từ phía tây, tiểu đoàn 7 của trung đoàn
149 ép lại từ phía đông. Đến 11 giờ thì quân ta làm chủ hoàn toàn căn
cứ này, bắt sống được Vũ Thế Quang, đại tá tư lệnh phó sư đoàn 23 cùng
tên tỉnh trưởng Đắc Lắc. Cùng vào giờ đó, trong toàn thị xã Buôn Ma
Thuột im bặt mọi tiếng súng kháng cự. Đó là thị xã đầu tiên được giải
phóng trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Phòng ngự vững chắc và tổ chức phản kích thật mau lẹ là hai phương
thức chiến thuật cơ bản của địch. Trong trận đánh Buôn Ma Thuột, ta đã
phá vỡ các phòng tuyến phòng thủ của nó trong có hai đêm và một ngày
ruỡi. Và chúng ta cũng sẽ bẻ gãy mọi cuộc phản kích, nói cho đúng là
tiêu diệt các lực lượng phản kích cũng chỉ trong vòng có mấy ngày. Sau
khi đã phá vỡ hai món bửu bối cuối cùng của quân đội ngụy, quả nhiên
cục diện chiến trường lập tức biến đổi, dẫn đến những thay đổi hết sức
lớn lao về thế trận chung.
21 giờ ngày 10 tháng 3 tại Chỉ huy sở cơ bản. Sau khi cử phái viên
tác chiến đi thẳng vào thị xã, trực tiếp kiểm tra và tổ chức lại lực
lượng đánh chiếm căn cứ sư đoàn 23 thì trận đánh Buôn Ma Thuột coi như
là xong. Công việc của các trợ lý trong cơ quan chỉ huy lúc này là điều
các đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh sang hướng nhiệm vụ mới, tổ
chức đánh quân phản kích.
Sáng ngày 9 tháng 3, khi hướng Đức Lập báo cáo đã đánh xong hai căn
cứ Núi Lửa và 23, Chỉ huy sở tiền phương của Bộ đã chỉ thị cho Bộ tư
lệnh chiến dịch điều luôn một tiểu đoàn của trung đoàn 24, là lực lượng
dự bị của sư đoàn 10 sang phía đông bắc thị xã. Ngày 10 tháng 3, khi
đã đánh xong quận lỵ Đức Lập, lại điều động tiếp trung đoàn 66 và một
bộ phận của sư đoàn bộ đi tới vị trí nhiệm vụ tiếp theo. Ngày 11 tháng
3, lại đưa nốt trung đoàn 40 pháo binh, trung đoàn 24 còn lại và cả Bộ
tư lệnh sư đoàn 10. Tuyến vận tải chiến lược đã phục vụ cho cuộc hành
quân này 1000 chiếc xe. Từ ngày 9, lực lượng dự bị của Bộ tư lệnh chiến
dịch mỗi ngày một tăng thêm, cho tới ngày 15 tháng 3 đã là hai sư đoàn
bộ binh và hai trung đoàn pháo chiến dịch.
Ngày 11 tháng 3, quân địch hãy còn ở hậu cứ trung đoàn 53, phía nam
sân bay Hòa Bình; hậu cứ trung đoàn 45, đông bắc sân bay Hòa Bình, Buôn
Hồ, đông bắc thị xã Buôn Ma Thuột và hệ thống ấp chiến lược bao bọc
vòng ngoài thị xã. Chỉ huy sở tiền phương của Bộ và Bộ tư lệnh mặt trận
đã nhận định:
- Lực lượng phản kích chủ yếu sẽ là hai trung đoàn 44 và 45 của sư đoàn 23 bộ binh ngụy.
- Địa điểm để tổ chức lực lượng phản kích chỉ có thể là khu vực đông
bắc thị xã, vì còn hai căn cứ lớn là 45 và 53, lại có thể dựa vào tỉnh
lộ 21 nối liền với vùng đồng bằng.
- Phương tiện chuyển quân sẽ là loại trực thăng vận tải, vì muốn
dùng C130 để mang theo pháo và tăng thời phải có sân bay, mà sân bay
Hòa Bình hiện giờ ta vẫn đang chiếm giữ một nửa.
- Thời gian đổ quân sẽ là ngày 14 hoặc 15, vì còn phải thăm dò đối phương và tổ chức lực lượng.
Ngày 11 tháng 3, cụm pháo chiến dịch phía tây bắc thị xã chuyển sang
hướng đông bắc, tầm pháo có thể với tới Phước An trên đường 21. Cụm
pháo phía tây sông Sê-rê-pốc chuyển xuống phía nam thị xã, tầm pháo với
tới quận lỵ Lạc Thiện.
Ngày 12, trung đoàn 24 đánh chiếm căn cứ 45 và trung tâm huấn luyện của sư đoàn 23 từ 6giờ 25 đến 8 giờ 35 là xong.
Cùng ngày ta cũng đánh chiếm Buôn Hồ, rồi đánh sang Chư Pao, Đạt Lý.
Thế là hai bàn đạp quan trọng để tổ chức phản kích của địch đã bị quân
ta chiếm giữ cả.
Ngày 14 tháng 3, một trung đoàn của sư đoàn 316 đánh vào khu hành
chính sân bay Hòa Bình. Ngày 15 tiếp tục đánh. Đêm ngày 16, lại thêm
lực lượng của trung đoàn 66 (sư 10) cùng hiệp đồng tấn công, sáng 17
thì dứt điểm xong, bắt sống được khoảng 500 tên.
14 giờ ngày 14, đúng như ta đã dự kiến cả về thời gian lẫn địa điểm,
địch đổ quân bằng trực thăng xuống đông bắc sân bay Hòa Bình, một tiểu
đoàn của trung đoàn 45. Ngày 15 lại đổ tiếp xuống một tiểu đoàn nữa,
cũng của trung đoàn này. Ngày 15, trung đoàn 24 của sư 10 bao vây luôn
lực lượng đổ bộ ở cao điểm 581. Ngày 16, ta tấn công tiêu diệt đại bộ
phận, bọn còn lại liền theo đường 21 rút chạy về Phước An. Trong hai
ngày 15 và 16, địch cũng đổ xuống Phước An trung đoàn 44 thiếu cùng sư
bộ nhẹ 23. Khi hậu cứ của trung đoàn 53 ngụy sau ba ngày kháng cự đã bị
mất, địch không có hy vọn gì để tố chức phản công cả. Hướng đông bắc
thị xã ta đã quét các vị trí Buôn Hồ, Chư Pao, Đạt Lý. Hướng bắc đã
đánh xong bản Đôn, Chư Nga. Hướng tây đã quét sạch các điểm, các chốt
trên đường 14 và quanh cầu Sê-rê-pốc. Hướng nam đã với đến quận lỵ Lạc
Thiện. Quân địch chỉ còn có ngả đường 21. Mà lực lượng ta trong những
ngày 14, 15, 16 là rất mạnh. Một sư đoàn bộ binh ngụy nhảy vào thế trận
này là hành động tự sát. Tại sao chúng vẫn nhảy xuống? Nhảy xuống thì
dễ, nhưng rút chạy sẽ rất khó. Vậy là thế nào? Một là, chúng muốn giữ
lực lượng ta ở khu vực này để Play Cu có thời gian tổ chức lại lực
lượng đối phó. Hai là thì xã Buôn Ma Thuột không thể để mất. Có thể bỏ
Công Tum, bỏ Plây Cu nhưng phải giữ Buôn Ma Thuột, phải giữ tỉnh Đắc
Lắc. Nếu tỉnh Đắc Lắc không còn, thì ba tỉnh Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm
Đồng cũng sẽ trước sau không còn. Địch đã nhận ra sự mất mát quá lớn
của chúng trong tháng 3. Còn tháng 4 và tháng 5? Khó mà lường đoán
trước được. Sự sống còn của về sau là trông dựa vào sự cố giữ lấy một
phần tỉnh Đắc Lắc, nếu có thời cơ sẽ tái chiếm Buôn Ma Thuột. Sài Gòn
chỉ có thể tính toán như thế. Nhưng những cơ hội may mắn nhất đã không
còn nữa. Cái "vận đỏ" đã rời bỏ chúng mà đi rồi.
Ngày 17 tháng 3, hai trung đoàn 24 và 28 của sư đoàn 10 tiến đánh
Phước An. Tàn binh của các trung đoàn 44, 45 ngụy cùng sư bộ nhẹ 23
chạy về Chư Cúc. Ngày 18 tháng 3, hai trung đoàn đã tấn công Phước An
lại tiếp tục tấn công vào Chư Cúc, cùng với sư đoàn 25 đã ém sẵn, tiêu
diệt gần như toàn bộ. Những tên sống sót thì chạy vào rừng. Tư lệnh sư
đoàn 23 ngụy nhảy lên trực thăng trốn mất. Sư đoàn 23 coi như bị xóa
sổ. Cái gì sẽ xảy ra sau khi hai phương thức chiến thuật cơ bản của
địch đã bị hoàn toàn bẻ gãy? Xin bạn đọc trở lại Sở chỉ huy cơ bản
trong đêm 15 tháng 3. Chiều ngày 11 tháng 3, Chỉ huy sở tiền phương của
Bộ đã chỉ thị cho Bộ tư lệnh mặt trận là phải nghĩ tới phát triển
chiến dịch hoặc sang hướng đông, giải phóng Cheo Reo, Phú Bổn hoặc
ngược lên hướng bắc, giải phóng Plây Cu, Công Tum. Có khả năng giải
phóng toàn bộ Tây Nguyên trước mùa mưa vì sức lực quân ta sau chiến
dịch nam Tây Nguyên vẫn dư thừa.
Tối ngày 15 tháng 3, anh Hiền ở Chỉ huy sở tiền phường của Bộ gọi
điện xuống: "Có hiện tượng địch chuẩn bị rút khỏi Plây Cu và Công Tum".
Ngày 13 tháng 3 ở Chỉ huy sở tiền phương cũng đã nhận được điện của Bộ
Chính trị và Quân ủy trung ương: "... Nên nghĩ đến khả năng địch buộc
phải rút lui chiến lược". Trong ngày, đài kỹ thuật báo: bọn không quân
ngụy hỏi nhau chúng bay rút cuối cùng có thấy gì ở Plây Cu không? Chiều
ngày 15, các loại máy bay ngừng hoạt động trên bầu trời Buôn Ma Thuột,
hướng đường bay về Nha Trang. Anh em trinh sát mặt đất của sư đoàn 320
báo cáo có nhiều gia đình gánh chở đồ đạc đi theo liên đoàn 23 biệt
động quân xuống Cheo Reo. Có nhiều tiếng nổ và cột khói trong thị xã
Công Tum. Cũng chưa ai nghĩ được là địch đã phải rút khỏi Công Tum và
Plây Cu. Lực lượng của chúng ở Tây Nguyên vẫn còn 6 liên đoàn biệt động
quân. Chúng ta còn đang đánh địch ở căn cứ 53. Các đơn vị của hai
trung đoàn 44 và 45 ngụy vẫn lần lượt đổ quân xuống để tổ chức phản
kích. Đang còn hy vọng tái chiếm, cớ sao phải rút bỏ tất cả? Hoặc giả
chúng rút bỏ Plây Cu, đưa lực lượng về Nha Trang, rồi từ đó theo đường
21 mở một cuộc phản kích đại quy mô. Nhưng lực lượng của chúng sẽ về
Nha Trang bằng cách nào? Vào lúc nào? Bằng đường bộ thì chỉ có tỉnh lộ
7, từ lâu địch đã không thể dùng. Lực lượng cơ động của quân khu 2 còn
sư đoàn 22, nhưng hai trung đoàn của nó đang mắc kẹt ở phía đông đường
19. Sư dù, lực lượng dự bị chiến lược vẫn nằm chết ở vùng 1 và vùng 3.
Vào tháng này quả thật không thể đưa bất cứ lực lượng nào ra khỏi vị
trị phòng ngự của nó cả. Nơi nào cũng có thể bị bất thần tấn công. Lực
lượng của giải phóng đã ém sẵn mọi nơi chúng đều biết cả. Họ chỉ còn
chờ cái cơ hội thay quân, rút quân là vươn tay ra mà vồ chộp. Thế trận
của toàn miền nam trong vòng có nửa tháng đã trở nên ác hiểm lạ thường.
Mới giữa tháng 3, tức là mới bị tan vỡ có một mảng nam Tây Nguyên,
nhưng nhìn vào đâu cũng thấy rất sổng sểnh. Bởi rằng quân địch không
thể ngồi im mãi, mà phải vận động, phải di chuyển trong khu vực để tiếp
cứu những vị trí bỗng chốc ở vào cái thế bị uy hiếp. Và càng tiếp cứu
thì càng dễ sơ hở từ nhiều phía, càng thấy cần phải dồn quân để tiếp
cứu thêm nữa.
Căn cứ vào nhận định của Chỉ huy sở tiền phương của Bộ, Bộ tư lệnh chiến dịch kết luận:
- Địch có thể phải rút lui khỏi Plây Cu và Công Tum, vì tình thế bắt
buộc chúng phải dồn lực lượng để chống giữ có hiệu quả những nơi hiểm
yếu.
Cho nên:
- Lực lượng đánh căn cứ 53 phải giải quyết xong trong ngày 16, chậm lắm là sáng ngày 17.
- Lực lượng bao vây quân đổ bộ cũng phải tiêu diệt chúng thật gọn
trong mấy ngày tới, chậm nhất là ngày 18. Nếu tiêu diệt được sư đoàn 23
bộ binh ngụy trong chiến dịch nam Tây Nguyên thì có thể nhanh chóng
phát triển lên hướng Plây Cu (nếu địch chưa rút) hoặc đánh sang Cheo
Reo (nếu địch cụm chốt ở đó).
- Lực lượng hậu cần chuẩn bị xe và xăng, súng đạn và lương thực sẵn sàng đưa bộ đội tới hướng nhiệm vụ mới bất cứ lúc nào.
Tối ngày 16 tháng 3, điện của Chỉ huy sở tiền phương của Bộ báo tin: " Địch
ở Công Tum và Plây Cu đã rút về hướng Cheo Reo. Lệnh bộ đội chuyển
sang hướng Cheo Reo, tiêu diệt quân địch rút chạy ở khu vực đó."
Vậy là chiến dịch nam Tây Nguyên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của
nó, giải phóng được toàn bộ tỉnh Đắc Lắc. Và trong một ngày nó đã phát
triển thành chiến dịch toàn Tây Nguyên.
SỰ CỐ TRƯỚC GIỜ G
Ví như sau tết một chút, khi thế trận chung của cả chiến trường đã
bắt đầu hình thành thì được tin một tiểu đội phó trong đại đội thông tin
của trung đoàn 48 đầu hàng địch. Tên hắn là Sính. Năm 1972, Sính đã bị
bọn thám báo vồ hụt một lần trên đường đi rải dây. Từ sau đó hắn đâm
nhát sợ hẳn. Không làm nhiệm vụ thì xấu hổ với đồng đội, làm nhiệm vụ
thì coi như đã cầm bằng cái chết.Ý nghĩ đầu hàng, tìm một chỗ nương thân
nhục nhã, miễn sao khỏi chết, bắt nguồn từ cái tâm lý đớn hèn ấy. Vậy
mà xung quanh không ai biết. Không biết không phải do kẻ kia giấu giếm
giỏi. Không ai giấu giếm được mãi mãi sự nhát sợ. Chẳng qua anh em mình
còn quá trẻ, quá vô tư nên chưa hiểu được cái tâm trạng phức tạp của
con người trong trường hợp nhất định nào đó. Nếu hiểu được và biết cách
cứu gỡ thì cũng sẽ tốt lành cả thôi. Sính đi cùng hai đồng chí nữa làm
nhiệm vụ rải dây theo một đại đội súng cối sang đông đường 14 để kiềm
pháo địch ở Cẩm Ga. Hắn lùi lại khỏi đội hình, lấy cớ rằng muốn đại
tiện. Chờ mãi không thấy hắn chạy theo, quay lại tìm thì hắn đã biến
mất. Gặp dân hỏi, dân trả lời ngay: “Nó theo địch rồi, mình bảo chỗ
ấy có địch, nó không nghe cứ đi vào”. Lính thông tin thường biết nhiều
chuyện, nhất là các khu vực có ém quân vì liên quan đến công việc của
họ. Lúc này kẻ địch rất muốn biết những đơn vị lớn của ta hiện ở những
khu vực nào, từ đó mà đoán dần ra ý định của đối phương. Lại vào lúc ta
đã điều quân tới dần các vị trí nhiệm vụ trước lúc nổ súng. Như sư đoàn
320 đã ở khu vực Cẩm Ga, Thuần Mẫn phía đông bắc Buôn Ma Thuột. Một sư
đoàn bố trí ở đó nhằm mục đích gì? Có thể là sẽ đánh Plây Cu hoặc Cheo
Reo? Mà cũng có thể là chặn đường 14 để các đơn vị khác đánh Buôn Ma
Thuột. Đang dàn thế trận mà bị tiết lộ cơ mưu thì phiền hà hết sức. Đánh
địch trong thế bất ngờ không chỉ nhằm chiếm gọn một mục tiêu nào đó,
mà còn tạo ra được một tâm trạng hốt hoảng, đẩy địch dễ đi tới những
quyết định rối loạn và sai lầm. Chúng đang phòng ngự theo một hướng nay
phải đụng đầu ở một hướng khác, dễ gì đối phó cho kịp. Chậm một ngày
là tình thế sẽ khác đi một ngày, thắt buộc chúng lại mãi, cho tới lúc
nảy ra một chiều hướng hoàn toàn có lợi cho người chiến thắng. Lo thì
lo chứ còn biết làm sao, đành phải theo dõi thật sít sao những phản ứng
mới nhất của chúng.Ngày 2 tháng 3, trung đoàn 45 của sư đoàn 23 nguỵ
từ Plây Cu xuống chốt ở Cẩm Ga, lùng sục khu vực đóng quân của sư đoàn
320.
Chúng muốn thăm dò những tin tức thu lượm được? Lập tức bộ đội lùi
sâu vào trong. Các đơn vị làm đường và cấu trúc các trận địa pháo cho
cụm pháo chiến dịch cũng phải dừng lại hết. Mà đã là ngày thứ 2 của
tháng 3 rồi. Cũng vào dịp này lại thêm một chuyện đau đầu nữa. Khi địch
sục ra Chư Nga (phía bắc Buôn Ma Thuột), thế nào lại bắt được một pháo
thủ của cụm pháo chiến dịch. Việc này rồi cũng qua, vì địch vẫn nghĩ
rằng chúng ta chỉ tấn pháo vào Buôn Ma Thuột với mục đích phối hợp với
mặt trận Plây Cu. Cho mãi tới gần ngày nổ súng vẫn còn những tin tức
giật mình. Ngày 8 tháng 3, tức là ngày trước của trận đánh vào chi khu
Đức Lập, địch sục sạo ra vùng phụ cận gặp bộ đội cảnh giới, hai bên nổ
súng. Chúng là một đại đội, anh em mình chỉ có mấy người. Một đồng chí
hy sinh phải để xác lại. Chúng lục tìm được giấy tờ biết là bộ đội của
sư 10, nhưng lại đưa về tiểu khu Quảng Đức để cứu xét (vì Đức Lập thuộc
tỉnh Quảng Đức). Ngày hôm sau ta nổ súng, địch chưa kịp phán đoán thì
đã bị tấn công rồi. Đêm ngày 4 tháng 3, một cán bộ của trung đoàn phải
vượt qua đường 14 và sông Sê-rê-pốc để ém sẵn phía tây nam Buôn Ma
Thuột đánh rơi cuốn nhật ký, ghi rõ hành trình của đơn vị từ đâu đến
đâu. Cũng may mắn thế nào, địch vẫn đinh ninh đó là lực lượng đi lối
Đức Xuyên để tăng cường cho hướng Gia Nghĩa.
“ Trên chiến trường toàn miền thì hướng phòng ngự chủ yếu của địch
vẫn là hướng của quân đoàn 1 ngụy, sư dù hiện vẫn còn ở vùng 1, Quân
đoàn 3 ngụy thì đang đề phòng ta áp xuống đồng bằng sông Cửu Long, dồn
quân về chặn giữ vùng Tây Ninh, núi Bà Đen. Ở Tây Nguyên, địch vẫn
khẳng định hướng phải đối phó là Công Tum và Plây Cu. Ngày 2 tháng 3,
Đại tướng tổng tham mưu trưởng kiểm tra lại quyết tâm của cấp sư đoàn.
Ngày 4 tháng 3, Bộ tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm đánh địch theo
phương án 2, vì thế trận đã dàn xong. Từ ngày 4 tháng 3, sư đoàn 968
bắt đầu nổ súng ở hướng tây nam thị xã Plây Cu, dạo đoạn nhạc đầu trước
khi vào phần chính: đánh chốt Mỹ, bức rút đồn Tầm, đánh chiếm dãy cao
điểm Chư Ca Ra, Chư Côi, 605, uy hiếp mạnh Thanh Bình và Thanh An.
Hướng tây Plây Cu cũng đánh nhỏ, làm đường, làm trận địa pháo, huy động
dân công. Phía nam Công Tum cũng có lực lượng ta cắt đường 14. Tất cả
những hoạt động trên đây đều được điều khiển theo hình thức mở đầu một
chiến dịch.
Ngày 3 tháng 3, địch buộc phải rút trung đoàn 45 đang chốt ở Cẩm Ga lên Thanh An.
Đêm ngày 3 rạng ngày 4, trung đoàn 95A cùng sư đoàn 3 Sao Vàng đánh
đường giao thông trên đoạn đông Bình Khê lên An Túc. Trung đoàn 25 cũng
cắt đường 21 trên đoạn Phước An – Khánh Dương.
Sáng ngày 7 tháng 3, sư đoàn 320 nổ súng tiêu diệt căn cứ Chư Xê phía nam Cẩm Ga, mở đường cho pháo ra đường 14.
6 giờ sáng ngày 8 tháng 3, sư đoàn 320 đánh quận lỵ Thuần Mẫn, đến 7 giờ 20 thì tiêu diệt hoàn toàn.
Chiều ngày 8 tháng 3 và sáng ngày 9, địch đổ bộ liên đoàn 21 biệt
động quân xuống sân bay Hòa Bình, rồi đưa lên Buôn Hồ nhằm mở thông
đường 14.
“Cho đến ngày 9 tháng 3, lực lượng địch ở trong thị xã Buôn Ma Thuột
vẫn là một trung đoàn 53 thiếu, nay thêm một liên đoàn 21 biệt động
quân án ngữ hướng đông bắc thị xã, tức Buôn Hồ. Tình thế vẫn nguyên như
cũ. Địch vẫn chưa nhận ra hướng tấn công chủ yếu. Việc chúng điều quân
từ chỗ này đến chỗ kia chỉ có ý nghĩa chiến thuật chứ không nhằm mục
đích chiến lược. Về phía chúng ta, qua được một ngày là nỗi lo lắng lại
vơi đi một chút. Các lực lượng của ta ở phía bắc Buôn Ma Thuột đã hoàn
thành công tác chuẩn bị. Ở hướng nam thị xã, trung đoàn 149 của sư 316
đã vào được vị trí tập kết cuối cùng. Một đơn vị của trung đoàn 198
đặc công đã xâm nhập được khu vực xung quanh sân bay Hòa Bình. Sư đoàn
10 đã sẵn sàng nổ súng tấn công chi khu Đức Lập. Kể lại thì dễ, nhưng
đạt được một sự chuẩn bị chu đáo, êm lặng, nhịp nhàng của các hướng,
các mũi, các binh chủng lại hoàn toàn không dễ. Các cấp phải lắm cơ
mưu, phải giàu nghị lực, phải bền ý chí và dũng cảm mới có thể chuẩn bị
cho một trận đánh hiệp đồng đẹp đến thế, xứng đáng là trận đánh mở đầu
của cuộc tổng tiến công mùa xuân 1975.
“5 giờ 35 sáng ngày 9 tháng 3, pháo binh ta bắn vào các căn cứ 23 và
Núi Lửa. 8 giờ 20, các trung đoàn 66 và 28 của sư đoàn 10 đánh chiếm
hai căn cứ trên trong vòng một tiếng.
“Sáng ngày 10 tháng 3, ta đánh chiếm quận lỵ Đức Lập. Chiều ngày 10
ta chiếm Đắc Song. Còn quân địch ở Đắc Sắc vội vã bỏ chạy sau khi bị
pháo kích mãnh liệt. Trong hai ngày 9 và 10 tháng 3, ta đã tiêu diệt
hoàn toàn quân địch ở khu vực Đức Lập, bắt sống được tên tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn 2 của trung đoàn 53, nhưng lại để sổng mất tên trung
đoàn phó và quận trưởng quận Đức Lập”.
Bộ tư lệnh quyết định điều ngay tiểu đoàn 6 của trung đoàn 24, lực
lượng dự bị của sư 10 lên xe hành quân sang hướng bắc Buôn Ma Thuột làm
lực lượng dự bị cho cánh bắc. Những người có mặt trong Chỉ huy sở đều
cảm thấy dễ thở hơn một chút, bớt lo đi một chút. Ngày 8 tháng 3, sư
320 đã làm chủ khu vực Cẩm Ga – Thuần Mẫn. Ngày 9, chậm lắm là sang
ngày 10, chúng ta sẽ giải quyết xong khu vực Đức Lập. Kẻ địch dầu có
nhận ra hướng tấn công chủ yếu thì cũng đã muộn. Trận đánh đã vào thế
rồi. Tiến lên lùi xuống cũng đều khó cả.
Trưa ngày 9 tháng 3, phòng tác chiến báo cáo lực lượng quân ngụy bố trí như sau:
Sau khi ta nổ súng ở Đức Lập, liên đoàn 21 biệt động quân ở Buôn Hồ
co về Đạt Lý (đông bắc thị xã); tiểu đoàn 224 bảo an ở bản Đôn cũng rút
về khu vực huấn luyện (nam thị xã). Trong thị xã, quân chủ lực ngụy có
tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 53 đóng tại căn cứ sư đoàn 23. Ở phía nam
sân bay Hòa Bình (còn gọi là sân bay Phụng Dực) cách thị xã bảy cây số
về phía đông nam, có bộ chỉ huy trung đoàn 53 và một tiểu đoàn 3.
Trung đoàn mạnh nhất của sư 23 ngụy là 45 vẫn đang ở khu vực Thanh An,
Bàu Cạn đối phó với sư đoàn 968. Liên đoàn 4 biệt động quân thì đang bị
mắc với trung đoàn 95A ở đường 19. Các trung đoàn 42, 47 của sư 22
ngụy cũng không sao vượt qua được đoạn đường Bình Khê – An Túc do sư
đoàn 3 của quân khu 5 chiếm giữ. Các lực lượng khác ở khu vực Công Tum
và Plây Cu vẫn giữ nguyên vị trí.
Cũng trưa ngày 9, các lực lượng tấn công vào thị xã Buôn Ma Thuột đã
hoàn thành công tác chuẩn bị. Chỉ còn đơn vị thông tin vẫn chưa nối
xong đường dây giữa Chỉ huy sở cơ bản với Bộ chỉ huy cánh bắc. Chính uỷ
chiến dịch ra lệnh: mối dây phía tây sông Sê-rê-pốc kéo từ Chi huy sở
cơ bản ra, do Chính ủy thông tin đảm nhiệm; mối phía đông Sê-rê-pốc,
kéo từ Bộ phận chỉ huy cánh bắc tới do Chủ nhiệm chính trị đảm nhiệm.
Lệnh phải nối xong trước 24 giờ. Đó là một chuyện phải lo.
Một chuyện phải lo nữa là chưa nhận được báo cáo về các xe đạn, xe
xăng được đi theo đội hình các cấp, cùng với bộ đội chiếm lĩnh trận
địa. Chúng ta hãy nghe lời thuật của đồng chí Khoát, về những giờ phút
âu lo từ chiều ngày 8 đến tận chiều ngày 9 tháng 3:
“ Chuyển đạn cho bộ đội nghe rất là gọn, nhưng lại là một quá trình
hết sức phức tạp. Đạn có nhiều loại do nhiều nước viện trợ; mỗi loại
lại có nhiều lô, tính theo năm sản xuất, mỗi lô lại có những ký hiệu
khác nhau, tức là sự nặng nhẹ của từng viên đạn so với tiêu chuẩn khi
đem cân lện. yêu cầu xạ kích là đạn đưa phải cùng loại, cùng lô, cùng
ký hiệu để khỏi phải thay đổi bảng bắn. Đường vận tải chiến lược đổ
xuống cho chiến trường từng đống đạn, đạt được trọng lượng vận chuyển,
chứ không thể phân chia theo yêu cầu của mình. Tức thị mình phải làm
nốt cái phần việc bỏ dở, đó là một đoạn. Từ cái nhiều đống đã được chia
loại nhập vào hệ thống kho của từng khu vực tác chiến, đó là hai đoạn.
Từ các kho của từng khu vực chuyển xuống các đơn vị lớn, là 3 đoạn.
Lại từ các đơn vị lớn chuyển xuống các khẩu đội, là bốn đoạn. Cái đoạn
cuối cùng, đoạn quyết định phải rành mạch như sau: xe số mấy, chở bao
nhiêu viên đạn loại gì, lô gì, ký hiệu gì, tới tận khẩu đội nào. Bàn
giao xong, nhiệm vụ của mình coi như hoàn thành, còn bắn trúng hay
không trúng là phần việc của mấy anh pháo, mỗi hướng đánh có nhiều binh
chủng hợp thành, cùng tiến vào trong một thời gian để chiếm lĩnh các
trận địa. Đạn cho tăng khác, đạn cho pháo khác, cho từng loại pháo càng
khác. Một xe chở dầu, một xe chở đạn đi với một mũi tăng. Khi tăng đến
vị trí để tấn công, số dầu trong xe phải được hoàn lại như lúc mới
xuất phát. Pháo cũng thế, cũng có xe đạn, xe xăng đi kèm. Hành quân
cùng một hướng, nhưng không được phép nhầm lẫn mũi này và mũi kia, của
binh chủng này với binh chủng kia, của khẩu đội này với khẩu đội kia.
Như trong trận đánh Buôn Ma Thuột, chủ yếu có hai dòng xe đi, một dòng
hướng bắc, một dòng hướng nam. Dòng hướng nam phải qua cầu phao, qua
đường 14. Đoàn xe đi hướng bắc là đưa dầu mỡ cho tăng, đạn cho tăng và
các loại đạn cho hai cụm pháo chiến dịch. Đoàn xe hướng nam chở đạn cho
bộ binh và đạn pháo 85. Công việc thì phức tạp nhưng lại không được
phép vận chuyển trước vì sợ lộ hướng đánh chủ yếu. Có nghĩa là đạn, gạo
chỉ được đưa vào khu vực tập kết chiến dịch mà không được đưa lót
xuống các trung đoàn bộ binh làm nhiệm vụ. Còn dài ngày thì làm ăn nó
thong thả, nó đàng hoàng. Còn ít ngày, nếu tổ chức không giỏi, không tỉ
mỉ rất dễ sinh rội loạn. Rối loạn nhưng lại không có thời gian để điều
chỉnh, để sửa chữa, vì giờ nổ súng có thể là ngay trong đêm nay hoặc
mờ sáng hôm sau rồi. Tình thế khẩn cấp là như thế. Đánh theo kiểu đột
phá lần lượt thì anh em cầm súng vất vả, nhưng hậu cần lại có thì giờ
để chuẩn bị. Đánh bất ngờ, đánh thần tốc, tiêu hủy cả một khu vực rộng
lớn trong vòng hai, ba ngày thì bộ đội rất có khí thế nhưng mấy thằng
đi phục vụ thật cười dở, khóc dở. Ngày 7 tháng 3, nhìn bản đồ vùng nam
Tây Nguyên căn cứ của địch còn dày sít. Một tuần sau, ngày 15 tháng 3,
tất cả đã bị quét sạch như vừa trải qua một cơn dông bão lớn. Cho nên,
trước ngày 8 tháng 3, dầu có được phép đưa đạn, gạo vào lót trước các
hướng, các mũi cũng không được, vì hướng nào cũng đang còn địch cả.
Hướng bắc thì trung đoàn 53 ngụy đang lùng sục, dò tìm các trận địa
pháo. Hướng tây thì vướng sông Sê-rê-pốc, mà Bộ tư lệnh chỉ cho phép
công binh bắc cầu trong đêm nổ súng tấn công. Hướng nam phải qua đường
14, chưa đánh Đức Lập làm sao đưa người, đưa hàng qua đường được. Một
trận đánh hợp đồng quy mô bồm bốn cánh quân, mỗi cánh lại gồm những đơn
vị hợp thành. Yêu cầu đánh rất mạnh, đánh rất nhanh, trong khi đó cái
cơ sở của mọi sự hiệp đồng hết sức rắc rối kia là lực lượng của chúng
tôi lại chưa được triển khai. Vậy nên mới phải tính toán, lắp ráp tất
cả từ trước. Khi hành động chỉ cần vài bốn giờ là tất cả đã sẵn sàng
lao theo đội hình các cấp, cùng bộ đội tiến vào các vị trí xuất phát
tấn công. Nhưng cho đến trưa ngày 8, đội hình các cấp vẫn gọi điện về
Bộ tư lệnh rằng họ chưa nhận được xe đạn, chưa nhận được xe xăng. Vậy
thì những xe ấy đi đâu? Đi theo hướng nào? Đã chuẩn bị sẵn sàng chưa?
Đêm ngày 7, tôi đã xuống nói chuyện với anh em lái xe đi theo các hướng
đánh. Chẳng nói gì nhiều chỉ yêu cầu có mấy việc: Một là, không được
phép để xe hỏng làm tắc đội hình hành quân. Và tôi nói thêm: phải bỏ
mọi thứ “đồ nghể” riêng ra mà dùng, không dùng lúc này còn lúc nào. Hai
là, trong bất cứ tình huống nào đều không được phép bỏ tay lái. Ba là,
bám sát các đơn vị đã được chỉ định, không được phép đi lạc. Ai phân
vân cứ báo cáo ở lại. Ở lại làm tốt công việc ở tuyến sau vẫn cứ hay
hơn là làm hỏng việc ở tuyến trước. Rồi tôi trở về chỗ anh Lăng ở Đắc
Đam, kiểm tra công việc chuẩn bị của hướng đánh Đức Lập sáng ngày 9.
“7 giờ tối ngày 8, tôi nhận được điện của anh Hiệp gọi ra Sở chỉ huy
cơ bản, có việc rất gấp. Biết là có chuyện không hay rồi. Đã dự tính
tất cả mà còn để xảy ra một chuyện gì đó trước giờ nổ súng. Chuyện gì
thế? Tôi bảo đồng chí lái xe: “Mấy ngày đêm nay cả hai chúng ta đều
không được nghỉ, không được ngủ, liệu còn thức nổi được một đêm nay nữa
không?” Cậu lái xe nhếch mép cười mà thương: “Vẫn lái được, không đưa
thủ trưởng xuống vực đâu!”. “Nào, lên đường!”. Một người một xe, đường
sá mù mịt, đại khái từ chỗ ở ra thì tay phải là Đức Lập, tay trái là
Buôn Ma Thuột, cứ thế cho xe rông tới. Rồi 4 giờ sáng cũng mò tới Chi
huy sở cơ bản. Bước xuống nhà hầm, mở cửa nhìn vào vẫn còn một số người
thức, trong đó có Tư lệnh trưởng và Chính uỷ. Anh Thảo chưa nói gì
nhưng anh Hiệp đã hỏi tới tấp: “Những xe đạn và xăng đâu? Tại sao chưa
đi vào đội hình các cấp? Kiểm tra chưa? Tại sao? Tại sao? Còn anh? Ngày
hôm nay anh ở đâu? Báo cáo đi! Ngồi xuống đây báo cáo chúng tôi nghe
ngày hôm nay anh đã chuẩn bị được những gì?” Anh Hiệp vốn là người trầm
tĩnh, hai chúng tôi quen nhau từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp,
trong các mối quan hệ lúc là người chỉ huy, lúc là người bạn, bao giờ
anh cũng xử sự có nghĩa tình. Một con người gần như hoàn toàn, chúng
tôi vẫn nhận xét riêng với nhau như thế. Bỗng dưng lại giận dữ bất
thường, hiển nhiên là tình hình đã nghiêm trọng lắm rồi. Tôi báo cáo
rằng: các xe chở đạn và xăng đã ở khu vực tập kết từ 4 giờ chiều ngày
8. Anh Hiệp hỏi: “Ví thử họ đã ở khu vực tập kết rồi, nhưng chưa cho
người đi liên lạc với các hướng, các mũi, các binh chủng để sắp xếp đội
hình hành quân cho chính xác, thử hỏi, lúc được lệnh xuất phát mọi sự
có được đúng như chúng ta mong đợi không?” Tôi vẫn nín lặng. Anh Hiệp
bảo: “Anh ở đây, nhưng phải cử cán bộ đi kiểm tra ngay, tổ chức hiệp
đồng cho chu đáo. Giờ xuất phát của bộ đội là 5 giờ chiều nay”. Lúc này
đã là 5 giờ sáng của ngày 9. Giờ nổ súng tấn công vào Buôn Ma Thuột vẫn
là 2 giờ sáng ngày 10. Tức là chúng tôi còn được khoảng hai chục giờ
để kiểm tra và điều chỉnh lại hệ thống hậu cần từ cấp chiến dịch đến
cấp trung đoàn. Đến giờ nổ súng thì lực lượng ém sẵn vẫn cứ đánh, lực
lượng tiếp theo cứ vào. Bị lạc không thể quay lại tìm. Chưa kịp đến
cũng không thể hoãn giờ tấn công. Guồng máy đã phát động, tất cả sẽ bị
cuốn theo, một chi tiết bị trục trặc sẽ gây trở ngại cho toàn thể. Vả
lại hàng ngàn xe xăng và đạn bị lạc, bị lẫn đội hình và mũi hướng đâu
phải là một chi tiết. Đó là đại sự. Phen này thì rơi đầu cả lũ rồi. Mà
là do mình thôi. Lẽ ra phải nằm ngay tại khu vực tập kết cho tới lúc
các đơn vị đã lần lượt lên đường. Vẫn là muốn ỷ dựa vào cấp dưới, vào
báo cáo và những lời dặn bảo. Đồng chí Cự phải lấy xe của tôi chạy đi.
Cậu lái xe vừa nằm thiếp đi được đúng một giờ, mắt còn đỏ sọc, vùng dậy
hỏi to: “Đi thôi chứ, thủ trưởng!”. “Còn lái được không, chú?”. “Lái
được, đã tạm tỉnh tỉnh rồi”. Một gói lương khô, mộ bi đông nước, lại
nhảy lên xe cầm vòng lái. 8 giờ, 9 giờ, 10 giờ, vẫn chưa thấy Cự báo
tin về. Thế là mất tích tất cả! Nếu 12 giờ chưa có tin gì, thì tôi phải
lao đi. Sẽ đứng ở ba-ri-e xuất phát mà tổ chức lại vậy. Đúng 12 giờ,
Cự gọi điện về báo tin đoàn xe đã đến địa điểm thứ hai, đi nữa hay dừng
lại? Tôi mừng quá, hét tướng: “Cho phân tán đội hình, tổ chức hiệp
đồng với các đơn vị đi! Đức Lập đánh rồi.” 4 giờ chiều, Cự báo cáo:
“Các đoàn xe đã đi đúng kế hoạch”. 8 giờ tối, các xe đạn và xăng đã bám
sát các đội hình, chuẩn bị vượt sông. Chỉ huy các hướng, các mũi đều
báo cáo về Chỉ huy sở đã tiếp nhận đạn và xăng đầy đủ, đã cho người
kiểm tra và hoàn toàn hài lòng về sự chuẩn bị tỉ mỉ của cơ quan hậu cần
chiến dịch. Suýt chết! 12 giờ đêm, công binh báo cáo đã làm xong cầu
phao, các mũi đánh hướng tây và tây nam đã bắt đầu vượt sông. Tôi ngả
người ra trên cái giường dã chiến, dặn anh em: “Lúc nào nổ súng nhớ gọi
mình”. Lúc mở mắt, trời đã mờ sáng, trần hầm rung rinh trong tiếng nổ
rền rĩ của đạn pháo quân ta đã mở màn cuộc tấn công”.
KẾ HOẠCH CHIẾN DỊCH
Tối thứ hai đồng chí Vũ Lăng kể tiếp:
“Bữa trước tôi đã nói với anh về những công việc chuẩn bị của chiến
trường theo ý đồ của Bộ cuối năm 1974. Khoảng ngaỳ 10 tháng Giêng năm
1975, tôi về tới Chỉ huy sở khu B làm kế hoạch thì nhận được điện của
anh Lê Ngọc Hiền, Phó tổng tham mưu trưởng: “Nên đánh mục tiêu A. Nhưng
như thế cũng đã đủ rõ rồi. Lúc này anh Hiệp đang làm việc với trung
đoàn 25 ở phiá bắc Buôn Ma Thuột. Ngày 13, anh Hiệp nhận được điện trở
về. Anh Hiệp, anh Hàm, anh Năng và tôi bàn ngay vào nhiệm vụ mới, coi
như nhiệm vụ chính thức đã được Bộ giao. Cũng rất lo về thời gian, dốc
sức chuẩn bị cho Đức Lập trên một tháng, nay lại thêm Buôn Ma Thuột, mà
ngày nổ súng tấn công trên toàn mặt trận vẫn không thay đổi, khoảng 20
đến 25 tháng Hai. Khó khăn tuy nhiều nhưng cả mấy chúng tôi đều rất
vui. Lại nghĩ đến thời cơ lớn của cả cuộc kháng chiến và của riêng mỗi
chiến trường. Thị xã Phước Long đã được giải phóng vừa cách một tuần.
Làm gọn được Đức Lập sẽ đánh thốc xuống Gia Nghĩa, giải phóng tỉnh
Quảng Đức. Phía trên này đánh nhanh Buôn Ma Thuột, giải phóng tỉnh Đắc
Lắc, có cơ hội giải phóng luôn tỉnh Phú Bổn, ép chặt Plây Cu và Công
Tum. Chỉ mường tượng trên bản đồ đã thấy một vùng đỏ rộng lớn kéo dài
từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, tạo ra một thế chiến lược cực kỳ
lợi hại, không có cách gì đảo ngược được.
“Đánh Buôn Ma Thuột còn có một thuận lợi là địch chưa có sự chuẩn
bị. Chúng luôn bị ám ảnh bởi áp lực thường xuyên của ta xung quanh Công
Tum và Plây Cu. Nếu có đụng chạm đến cái thị xã phía nam này chắc chỉ
là những hoạt động phối hợp, nhằm làm phân tán lực lượng của đối
phương. Càng ngày càng tỏ rõ cái ý nghĩ ấy đã đóng chặt vào đầu các cơ
quan tham mưu của quân đội ngụy, dẫu khi đã có trong tay nhiều tài liệu
chứng tỏ có thể ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột chúng vẫn không tin, vẫn nghĩ
là một đòn nghi binh, một mưu kế.
“Chúng tôi đã thống nhất với nhau về hai phương án để chuẩn bị. Một
là đánh địch đã có phòng ngự dự phòng, hai là đánh địch như trong tình
hình hiện tại, nghĩa là chỉ có một trung đoàn đồn trú trong thị xã. Tốt
nhất là đánh địch khi chúng chưa có chuẩn bị, hoàn toàn bị bất ngờ, lực
lượng chủ yếu của chúng vẫn nằm ở CôngTum và Plây Cu. Nên đánh theo
phương án 2, nhưng khi chuẩn bị lại phải dốc sức vào phương án 1, tức là
địch đã có chuẩn bị, đã tăng thêm lực lượng, đã có một kế hoạch đối
phó hẳn hoi. Trong quân sự, cách chuẩn bị theo tình huống khó nhất vẫn
là cách chuẩn bị chủ động nhất. Dầu mục tiêu, ngày giờ và lực lượng có
bị tiết lộ, chúng ta vẫn cứ hoàn thành nhiệm vụ. Vì chúng ta đã có một
sức mạnh nhất định, có khả năng áp đảo địch trên một hướng nhất định.
Tuy nhiên, trong cách suy nghĩ người chỉ huy phải chọn cơ hội có lợi
nhất, trận đánh sẽ diễn ra nhanh gọn nhất và lực lượng tấn công chỉ
chịu một tổn thất rất ít.
“Lại bàn về cách đánh Buôn Ma Thuột. Cũng có hai cách đánh. Một là
đánh đột phá lần lượt, từ ngoài vào trong. Và một cách đánh đưa một lực
lượng rất mạnh chọc thẳng vào khu trung tâm chỉ huy của địch rồi từ đó
tỏa ra cùng với các lực lượng phía ngoài tiếp ứng vào. Nếu giờ nổ súng
được giữ bí mật tới phút cuối cùng thì có thể đánh theo cách chọc
thẳng. Mà nếu bị ngăn trở từ nhiều ngày trước thì đành phải mất công
bóc lần lượt lớp vỏ bên ngoài ra. Tất nhiên, cách đánh thứ hai là cách
đánh hay nhất, gọn nhất, ít tốn kém nhất. Nhưng muốn đánh theo phương
án 2 và với cách đánh chọc thẳng thì phải giữ được bí mật về mục tiêu.
Giữ bí mật đến phút cuối cùng tất nhiên là rất khó, khó lắm. Nhưng
chúng ta sẽ cố giữ bí mật đến một lúc nào đó, còn khi thế chiến dịch đã
cài rồi, chúng ta đã bày binh bố trận đâu vào đấy rồi thì dẫu có bị lộ
địch cũng không thể trở tay được nữa. Không thể trở tay được chứ không
phải là không trở tay kịp. Vì lực lượng của chúng có hạn, phương tiện
vận chuyển cũng có hạn. Nếu chúng ta trinh sát kỹ, bố trí lực lượng
giỏi, các trận đánh dạo đầu diễn ra nhanh thì dầu có được biết trước
hướng tấn công chủ yếu của ta thì địch cũng đành bó tay chịu chết. Tình
hình muời ngày đầu trong tháng Ba đã diễn ra gần đúng như thế.
“Ngày 21 tháng Giêng, anh Lê Ngọc Hiền từ ngoài Bộ và chính thức
giao nhiệm vụ. Khi nhận nhiệm vụ của cấp trên thì trong tay chúng tôi
đã có hai phương án tác chiến để báo cáo rồi. Nhìn vào cách bố trí lực
lượng của chúng tôi, các anh trên có hơi nghi ngại vì nó phân tán quá.
Sư đoàn 320 nằm trên quốc lộ 14, bắc Buôn Ma Thuột, xung quanh khu vực
Cẩm Ga-Thuần Mẫn. Sư đoàn 10 bám chặt khu vực Đức Lập, Sư đoàn 316 rải
quân giữa Buôn Ma Thuột và Đức Lập, phía tây sông Sê-rê-pốc. Sư đoàn
968 kiềm chế địch ở Công Tum và Plây Cu. Trung đoàn 95 A chặn đường 19
tử đèo Măng Đang lên Con Từng. Trung đoàn 25 thì chặn đường 21, từ Buôn
Ma Thuột đi Khánh Hòa, đoạn đông-tây Chư Cúc. Thế trận như thế là
chắc, nhưng Bộ tư lệnh mặt trận không có lực lượng dự bị trong tay.
Thông thường mà xét, bố trí như vậy là không có bài bản. Trong tình
hình này nếu không đánh Đức Lập thì sẽ được một sư đoàn rút ra làm lực
lượng dự bị cho chiến dịch. Nhưng không đánh Đức Lập thì không thể giải
tỏa được đoạn đường 14 từ Buôn Ma Thuột đi Đức Lập, không thể đưa bộ
đội và binh khí kỹ thuật qua đường và con sông Sê-rê-pốc sang ém phía
tây và tây nam Buôn Ma Thuột. Vả lại, đánh Đức Lập còn nhằm thực hiện
những ý định cũng hết sức quan trọng: mở rộng đường hành lang chiến
lược bắc nam, uy hiếp trực tiếp thị xã Gia Nghĩa, kéo một phần lực
lượng địch ở Buôn Ma Thuột ra ứng cứu (nếu chúng đã tăng cường lực
lượng), giành thế đánh địch ở thị xã theo phương án 2. Đánh cụm cứ điểm
này là rất nên, nhưng đã đánh thì thì không thể có lực lượng dự bị.
Nhưng thời gian là lực lượng, cơ động là sức mạnh. Có nghĩa là đánh Đức
Lập trong vònh hai ngày, sau đó các lực lượng tham chiến sẽ lần luợt
được điều bằng cơ giới lên phía bắc Buôn Ma Thuột làm lực lượng dự bị
cho chiến dịch. Tức là lực lượng dự bị sẽ được hình thành trong quá
trình chiến đấu. Đó cũng là một nguyên tắc, nhưng chỉ được thực hành
khi bộ đội ta đã mạnh, năng lực tổ chức và chỉ huy của cán bộ đã giỏi,
có khả năng hoàn toành áp đảo địch trên một hướng rồi sau đó laại vận
động bằng cơ giới lên một hướng khác mà sức lực và khí thế vẫn dư thừa.
Rồi lại phải tính toán thật sít sao về thời gian nổ súng, thời gian
hoàn thành nhiệm vụ, và vào lúc nào thì địch sẽ tung ra những lực lượng
phía sau tổ chức phản kích. Ngày nổ súng, tức ngày N, càng được giữ bí
mật thì sự phản ứng của địch sau đó càng chậm chạp. Vì rằng chúng còn
phải tổ chức lại lực lượng, phải tìm hiểu tình hình của ta và các khu
vực có thể đổ quân xuống và cũng còn phụ thuộc cả vào phương tiện vận
chuyển nữa. Tuy nhiên, những lực lượng tiếp cứu lấy cũng không dễ mà đi
và đến cũng không dễ nếu ta hoạt động mạnh ở Công Tum và Plây Cu, nếu
ta khóa chặt được các con đường sinh tử 19, 21 và 14, chia cắt chúng ra
từng khu vực, nếu ta nhổ gọn các căn cứ phụ cận Buôn Ma Thuột khiến
quân địch có đổ xuống cũng đã mất chỗ đứng chân.
“Anh Hiền rất đồng ý với hai phương án chuẩn bị của chúng tôi và
cũng khuyên phải tranh thủ điều kiện đánh địch trong hiện trạng, tức là
chỉ có lực lượng của một trung đoàn 53 thiếu, cộng thêm lực lượng địa
phương quân của tiểu khu Đắc Lắc. Muốn giữ địch như trong hiện tại tất
phải có một kế hoạch nghi binh thật tốt và một kế hoạch khóa chặn những
con đường vận chuyển thật chắc chắn. Theo anh Hiền, sư đoàn 3 Sao Vàng
của quân khu 5 sẽ phụ trách đoạn đèo An Khê đến quận lỵ Bình Khê,
trung đoàn 95A của Tây Nguyên sẽ đánh đoạn đèo Mang Dang, cách Plây Cu
khoảng 60km. Một sư đoàn và một trung đoàn mạnh đánh giao thông thì
địch phải có từ ba đến năm sư đoàn mới chọc thủng được. Nhưng chuyện đó
sẽ không bao giờ xảy ra. Nếu chúng không dám vận chuyển trên đường 19
mà lại đổ xuống sân bay Cù Hanh (Plây Cu) rồi từ đó theo đường 14 xuống
Buôn Ma Thuột thì lại vấp phải sư đoàn 320, cũng là một sư. Hoặc giả
chúng đưa quân xuống Nha Trang, rồi từ đó theo đường 21 lên Buôn Ma
Thuột thì lại bị trung đoàn 25 chặn đánh ở đông tây Chư Cúc. Tuy nhiên,
chúng lại không thể để mất Buôn Ma Thuột một cách quá dễ dàng, nhưng
lực lượng của nó là thế, khả năng cơ động của nó là thế, nhiều lắm thì
cũng chỉ có thể đổ xuống từ một đến hai trung đoàn bằng C130 hay trực
thăng vận tải xuống mấy khu vực phía đông bắc Buôn Ma Thuột. Một trung
đoàn đổ quân bằng máy bay phải mất từ một đến hai ngày. Một sư đoàn đổ
quân xuống mất một tuần. Mà sau một tuần thì chúng ta đã có đến hai sư
đoàn dự bị rồi.
“Về bố trí lực lượng của chúng ta lần này có cái hay là vấn ém được
quân ở những khu vực quan trọng, nhưng hướng tấn công chủ yếu không vì
thế mà bị địch nghi ngờ. Vì rằng cách bố trí đó có ý nghĩa là thế này
mà cũng có ý nghĩa là thế kia, có thể nhằm vào mục tiêu B, mà cũng có
thể nhằm vào mục tiêu A. Trong kế hoạch nghi binh có kế hoạch chuyển
quân từ phía bắc xuống phía nam của sư đoàn 10. Vì trong nhiều năm trực
tiếp tiếp xúc với nhau trên hai địa bàn Công Tum và Plây Cu nên đôi
bên đều hiểu rất rõ về nhau, biết cả chỗ yếu và chỗ mạnh của nhau. Bước
sang mùa khô là các lực lượng trinh sát thám báo cùng những đơn vị kỹ
thuật của địch bắt đầu dò tìm phương hướng di chuyển của các đơn vị chủ
chốt. Đánh lớn tất phải dồn quân, mà quân tinh nhuệ phải ở vị trí xung
yếu. Làm cách nào điều quân đi mà kẻ địch vẫn không hay rõ quả thật là
rất khó khăn. Còn quân thì còn hoạt động. Quân rút thì hoạt động phải
lắng đi. Đưa đơn vị khác đến thay cũng không dễ vì cách thức chỉ huy và
tác chiến của đơn vị này không giống với đơn vị nọ, mà kẻ địch do phải
đương đầu với chúng ta đã nhiều năm nên có thể đoán biết mọi hoạt động
của ta từ những dấu hiệu rất nhỏ.
“Trước tết, sư đoàn 10 vẫn còn ở khu vực Công Tum liền tổ chức ăn
tết ở đó, mời cán bộ địa phương đến dự. Cùng thời gian, chúng tôi phái
cán bộ đến liên lạc với tỉnh ủy và các cơ quan dân chính tại hai tỉnh
Công Tum và Plây Cu yêu cầu huy động dân công làm đường và chuyển lương
cho bộ đội đánh lớn vào mùa khô sắp tới. Mà là làm đường thật và
chuyển lương thật, vì sư đoàn 968 tới thay thế cũng phải mở các trận
đánh ở khu vực mình, vừa là nghi binh, vừa tạo một chỗ đứng vững chắc
làm bàn đạp cho những bước nhảy sắp tới. Các đơn vị được di chuyển cũng
chỉ được biết vào phút chót, trước hết là chuyển ra xa hơn các vị trí
vừa đóng, như một cuộc chuyển quân bình thường để cắt đứt mọi sự mua
bán, gửi gắm, chào hỏi với dân địa phương trước khi đi xa. Khi quân đã
chuyển rồi, các cụm đài vẫn liên lạc với nhau và với Bộ tư lệnh cũ, do
đồng chí tham mưu phó của B3 phụ trách mạng liên lạc này. Dĩ nhiên, mọi
hoạt động chuẩn bị của ta ở hai tỉnh vẫn hết sức bí mật, nhưng tin
rằng địch sẽ dò la ra, vì chúng đã chú ý từ trước, đã phấp phỏng từ
trước. Nghi binh mà lộ liễu quá thì không còn là nghi binh. Nghi binh
cũng phải nhằm đạt tới những mục tiêu có thật. Đứng về phía chiến dịch
thì hướng đó là nghi binh, nhưng trong hàng loạt trận đánh của khu vực
vẫn phải hoàn thành những nhiệm vụ đã được xác định: tiêu diệt sinh lực
địch, mở rộng vùng giải phóng, chia cắt địch không cho chúng có cơ hội
tập trung lực lượng, và nếu như nhân đó một thời cơ tốt đẹp đã xuất
hiện thì phải nhanh chóng chớp lấy thực hiện những nhiệm vụ sẽ được bổ
sung. Nghi binh tức là một hướng đánh, chỉ không phải là hướng chủ yếu
của chiến dịch mà thôi. Phương hướng chuẩn bị là như thế. Cách thức
chuẩn bị là như thế. Xây dựng kế hoạch sẽ dựa trên phương hướng và cách
thức ấy do các cơ quan chính trị và tham mưu của mặt trận làm và bàn
duyệt trong một thời gian ngắn nhất để còn kịp triển khai lực lượng.
“Trước tết Ất Mão chừng mấy ngày thì anh Hoàng Minh Thảo từ Bộ vào.
Bộ tư lệnh chiến dịch nam Tây Nguyên đã được Quân uỷ trung ương chỉ
định như sau: Anh Thảo là Tư lệnh trưởng, anh Hiệp là Chính ủy, anh Hàn
là Phó chính ủy, anh Phan Hàn, anh Lăng, anh Năng và tôi là Phó tư
lệnh.
“Ngày 23/02, tức 13 tháng Giêng năm Ất Mão, chúng tôi đi đón anh Văn
Tiến Dũng. Anh Dũng ăn tết dọc đường để kịp vào xét duyệt các phương
án trước khi chiến dịch mở màn. Đại tướng Văn Tiến Dũng là Ủy viên Bộ
chính trị của Đảng ta, là Phó bí thư Quân ủy trung ương, được Bộ Chính
trị giao nhiệm vụ và thay mặt Quân ủy trực tiếp chỉ đạo và chỉ huy
chiến dịch quan trọng này. Ngày 25/02, chúng tôi kéo lên Chỉ huy sở
tiền phương của Bộ báo cáo quyết tâm và trình bày các phương án tác
chiến. Nhân dịp này, anh Dũng có truyền đại lại tinh thần hội nghị Bộ
chính trị từ ngày 18 tháng Chạp năm 1974 đến ngày 8 tháng Giêng năm 1975
như sau:
“Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả
hai miền trong thời gian 1975-1976 đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính
trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao làm thay đổi nhanh chóng và toàn
diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền nam theo hướng có lợi cho
ta, tiến hành khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị, tạo điều
kiện chín muồi tiến hành Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và
làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương
giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền nam tiến tới thống
nhất nước nhà…”
Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm, trong kế hoạch năm 1975,
Bộ chính trị dự kiến một phương án và một phương hướng hành động cực kỳ
quan trọng là nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức
giải phóng miền nam trong năm 1975. Quyết tâm của Bộ chính trị trong
mùa xuân 1975 là: phát động tấn công lớn trên toàn miền nam, lấy chiến
trường Tây Nguyên là hướng tấn công chủ yếu. Trong Tây Nguyên, lấy nam
Tây Nguyên là khu vực tác chiến chủ yếu và thị xã Buôn Ma Thuột là mục
tiêu then chốt. Khi xét duyệt các phương án tác chiến, anh Dũng đã chỉ
thị nhiều ý kiến hết sức quan trọng, đặc biệt là cách tổ chức các lực
lượng thọc sâu. Với anh em chúng tôi trong Bộ tư lệnh chiến dịch, anh
Dũng có căn dặn mấy điều. Một là, phải giữ được chủ động từ lúc nổ
súng, cả quá trình, cho đến khi kết thúc. Hai là phải giữ được bất ngờ
và luôn luôn tạo ra những bất ngờ mới cho địch. Ba là phải càng đánh
càng mạnh, tạo ra một sức mạnh liên tiếp. Do đó, từ nay đến lúc nổ súng
phải biết điều khiển địch, biết củng cố những nhận định sai lầm của nó
về hướng tấn công chủ yếu của ta, phải tính toán và kiểm tra thật chặt
chẽ mọi hoạt động của bộ đội để giờ nổ súng được giữ bí mật đến phút
chót.
Giai đoạn chuẩn bị trực tiếp cho chiến dịch tính từ ngày 18 tháng
Giêng đến ngày 4 tháng Ba là ngày ta bắt đầu cắt các đường 14, 19, 21
có tất cả 48 ngày.
“Thời gian được phân chia như sau:
Ngày 19 tháng Giêng đến ngày 28 tháng Giêng – Bộ tư lệnh chiến dịch xác định quyết tâm và làm các kế hoạch chiến dịch.
Ngày 2/02 đến 20/02 – Bộ tư lệnh chiến dịch tiến hành trinh sát chỉ huy, chủ yếu trên hướng thị xã.
Ngày 25/02 – Quyết tâm và kế hoạch đánh địch ở Buôn Ma Thuột được đồng chí Đại tướng Tổng tham mưu trưởng trực tiếp thông qua tại chiến trường.
Ngày 26/02 đến 27/02 – Làm kế hoạch hợp đồng chiến dịch và trận đánh thị xã.
Ngày 28/02 đến những ngày sau – Các đơn vị tiếp tục chiến đấu. Bộ tư lệnh và cơ quan kiểm tra, giúp đỡ, chủ yếu là đánh địch ở thị xã. Bổ sung cách đánh, giải quyết các vấn đề hiệp đồng, bảo đảm cơ động thông tin và hậu cần.
Ngày 2/02 đến 20/02 – Bộ tư lệnh chiến dịch tiến hành trinh sát chỉ huy, chủ yếu trên hướng thị xã.
Ngày 25/02 – Quyết tâm và kế hoạch đánh địch ở Buôn Ma Thuột được đồng chí Đại tướng Tổng tham mưu trưởng trực tiếp thông qua tại chiến trường.
Ngày 26/02 đến 27/02 – Làm kế hoạch hợp đồng chiến dịch và trận đánh thị xã.
Ngày 28/02 đến những ngày sau – Các đơn vị tiếp tục chiến đấu. Bộ tư lệnh và cơ quan kiểm tra, giúp đỡ, chủ yếu là đánh địch ở thị xã. Bổ sung cách đánh, giải quyết các vấn đề hiệp đồng, bảo đảm cơ động thông tin và hậu cần.
“Từ lúc lực lượng được triển khai đến ngày N, thời gian không dài
quá mà cũng không ngắn quá. Dài quá, thay đi đổi lại thì dễ sơ hở, dễ
lộ, địch sẽ có cơ hội để phản ứng. Mà ngắn quá thì ảnh hưởng đến việc
chuẩn bị của các cấp. Tình hình dẫu khẩn trương đến thế nào cũng phải
dành cho một đơn vị quân đoàn được chuẩn bị bảy ngày, cấp sư đoàn ba
ngày, cấp trung đoàn bốn ngày vì còn phải phân chia cho các tiểu đoàn
và đại đội. Có biết bao nhiêu việc phải làm: nào đạn, nào gạo, nào kéo
pháo, nào ém quân, v.v. Về phía cơ quan chỉ huy của chiến dịch, chúng
tôi cũng đặt ra những yêu cầu cụ thể:
- Vị trí chỉ huy chiến dịch chỉ được cách mục tiêu then chốt trong khoảng 6-7 cây số, càng gần càng tốt.
- Không có chỉ huy sở tiền phương. Tư lệnh ngồi ở tiền phương.
- Nếu có hai Chỉ huy sở, thì Chỉ huy sở cơ bản là ở hướng quan trọng nhất, chứ không phải ở phía sau.
Tức là bằng mọi cách, cơ quan chỉ huy chiến dịch phải gần được bộ
đội, nắm được tình hình trực tiếp và nhanh chóng để có được những quyết
định cũng nhanh chóng và chuẩn xác. Từ lúc ra ngồi ở cơ quan chỉ huy
để tổ chức và đưa các lực lượng lần lượt vào tập kết ở các vị trí nhiệm
vụ là quãng thời gian vô cùng hồi hộp, căng thẳng, lo âu. Kế hoạch thì
như thế, nhưng trong vô vàn công việc để thực hiện có biết bao nhiêu
tình huống muốn vỡ đầu. Không ăn gì được, chỉ uống thôi, cũng không ngủ
được, cứ gà gật mươi phút lại mở choàng mắt nắm lấy điện thoại hỏi chỗ
này, gọi chỗ kia vì chợt nhớ ra một chi tiết nào đó còn hồ nghi, còn
lo lắng, cần phải kiểm tra một lần cuối. Một lần cuối rồi lại một lần
cuối nữa, kiểm tra đi, kiểm tra lại, tự mình không đến được thì cử cán
bộ đến, cho đến lúc nổ súng mới thật yên tâm hoàn toàn. Phải nói rằng
chưa bao giờ chúng tôi được tham gia một chiến dịch nào đẹp như lần
này, ưng ý về mọi mặt như lần này, vậy mà vẫn có những đêm, những ngày
bồn chồn, lo lắng như ngồi trên chảo rang. Dẫu rằng kế hoạch có tài
tình đến đâu vẫn cứ còn bao nhiêu chuyện không ai tính được trước đột
nhiên xuất hiện.
TÌNH HÌNH ĐỊCH Ở TÂY NGUYÊN
Trong lúc chờ đợi đồng chí Vũ Lăng kể tiếp công trình chuẩn bị của
Chỉ huy sở tiền phương của Bộ cùng Bộ tư lệnh chiến dịch nam Tây Nguyên
cho trận đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột, tôi xin giới thiệu một vài tư
liệu sẵn có trong tay về tình hình đối phương trong mấy tháng đầu năm
1975 để bạn đọc thêm phần hứng thú.
Trong văn phòng tổng thống của Thiệu, có một nhân vật được gọi là
đại tá Cầm, ngoài năm chục tuổi, thấp bé, xấu xí, được Thiệu rất tin
cậy, cho giữ “bút tích” của tổng thống tự thảo các diễn văn, các công
tư điện quan trọng, các quyết định bổ nhiệm hàng tỉnh trưởng trở lên.
Cầm có một người vở cả để ở nhà quê, còn ăn ở với cô vợ nhỏ ở đường
Nguyễn Huỳnh Đức, Sài Gòn. Cô này trạc 30 tuổi, là một tay áp-phe có
hạng của đất đô thành, rất yêu chồng và nhất là cái chức vụ Phó văn
phòng Phủ tổng thống của chồng. Ở phòng khách cô ta treo bức ảnh đức
lang quân to bằng nửa người thật, to hơn cả ảnh tổng thống. Những người
có việc đến hầu bà vợ nhỏ thường gọi bốc thơm là “Bà Chánh văn phòng”.
Muốn chạy chức tỉnh trưởng hoặc trưởng ty cảnh sát, là những chức vụ
“đẹp” nhất của ngạch cai trị, không thể không qua tay đại tá Cầm. Dầu
muốn chạy của thủ tướng Khiêm hay đại tướng Viên, rút lại vẫn phải qua
văn phòng của Thiệu để được xét duyệt lần cuối. Ví như được nghe một
nguồn tin thân cận, tức là nguồn tin do do một nhân vật nào đó cố ý hớ
hênh nói tuột ra rằng : “Ông Thiệu sắp sửa “nhổ” tỉnh trưởng Long
Khánh”, thế là trong vòng vài hôm phải có hàng chục lá đơn đưa đến xin
được thế chân. Người làm đơn phải kê khai tướng mạo, học lực và quân vụ
cùng với một tấm hình căn cước. Nếu dưới lá đơn không kẹp thêm một tờ
ngân phiếu, thì có thể xem như lá đơn bỏ đi, vì sẽ được đưa sau cùng,
khi những lá đơn có tiền đã được đệ trình trước kèm theo một vài lời
giới thiệu nho nhỏ. Nếu tổng thống phê bên cạnh lá đơn cho gọi đương sự
lên xem mặt là coi như xong. Vì ông Thiệu rất coi trọng tướng số, nên
khi trình diện phải giữ sao cho có được một bộ mặt con ông cháu cha, đi
đứng cho đàng hoàng, ăn nói cho khoan thai là có thể cầm chắc được
nghị định bổ nhiệm. Tuy nhiên, số tiền đưa theo lá đơn mới là tiền ứng
trước, “nếu như tôi được bổ nhiệm thì sẽ…” cho nên khi được tổng thống
ký vào nghị định bổ nhiệm, lập tức đại tá Cầm làm ngay một bản chụp
lại, gửi cho đương sự để lấy nốt khoản tiền còn lại kia. Vì nghị định
phải đi theo con đường vòng vèo của nó, qua nhiều bộ, nhiều cơ quan,
rồi mới tới tay người được bổ nhiệm. Đại để lề luật làm việc ở văn
phòng tổng thống là thế, vị trí của đại tá Cầm là thế. Cũng là may mắn
cho tôi, trong những tài liệu lưu trữ của cơ quan tuyên huấn quân đoàn 3
lại có mấy tập “bút tích” nọ. Lại có cả một cuốn sổ ghi lại việc hàng
ngày của Thiệu, tức là cuốn Agenda năm 1975, bìa vàng. Tôi xin chép lại
vài đoạn:
….
6-January (Monday)
Phước Long thất thủ.
9,00 – Phó tổng thống + Thủ tướng + Đại tướng tổng tham mưu trưởng + Trung tướng Quang + Trung tướng Khuyên + Trung tướng Đống + Trung tướng Minh (không quân) + Chuẩn tướng Thọ (vụ Phước Long).
6-January (Monday)
Phước Long thất thủ.
9,00 – Phó tổng thống + Thủ tướng + Đại tướng tổng tham mưu trưởng + Trung tướng Quang + Trung tướng Khuyên + Trung tướng Đống + Trung tướng Minh (không quân) + Chuẩn tướng Thọ (vụ Phước Long).
10-January (Friday).18,00 – Nói chuyện TV về vụ Phước Long.
11-January (Satuday)
8,30 – Mời thủ tướng Khiêm ăn sáng.
11,00 – Đại sứ Martin + tướng Jones, tham mưu trưởng không quân Hoa Kỳ.
…
5-February (Wednesday).
8,00 – Khởi hành đi Chu Lai (Boeing)
9,00 – Thăm sư đoàn 2 – Nói chuyện với binh sĩ.
11,00 – Đi Dạ Lê bằng trực thăng – Đáp tại núi Mỏ Tàu.
Dự thuyết trình của sư đoàn 1. Nói chuyện với binh sĩ. Cơm trưa.
Đi Huế bằng đường bộ - Thăm chợ Đông Ba.
Rời Huế đi Đà Nẵng bằng trực thăng.
Nói chuyện với binh sĩ sư đoàn 3.
Dự thuyết trình tại quân đoàn 1.
Nghỉ đêm tại Bộ chỉ huy 1/Tiếp vận.
8,30 – Mời thủ tướng Khiêm ăn sáng.
11,00 – Đại sứ Martin + tướng Jones, tham mưu trưởng không quân Hoa Kỳ.
…
5-February (Wednesday).
8,00 – Khởi hành đi Chu Lai (Boeing)
9,00 – Thăm sư đoàn 2 – Nói chuyện với binh sĩ.
11,00 – Đi Dạ Lê bằng trực thăng – Đáp tại núi Mỏ Tàu.
Dự thuyết trình của sư đoàn 1. Nói chuyện với binh sĩ. Cơm trưa.
Đi Huế bằng đường bộ - Thăm chợ Đông Ba.
Rời Huế đi Đà Nẵng bằng trực thăng.
Nói chuyện với binh sĩ sư đoàn 3.
Dự thuyết trình tại quân đoàn 1.
Nghỉ đêm tại Bộ chỉ huy 1/Tiếp vận.
6-February (Thusday)8,30 – Rời Đà Nẵng đi Pleiku (Boeing).
Dự thuyết trình của quân đoàn 2 tại phi trường.
Khen thưởng sư đoàn 6 không quân.
Rời Pleiku đi Pleime thăm biệt động quân.
Rời Pleime đi căn cứ 801 thăm sư đoàn 23 – Cơm trưa với binh sĩ.
Rời căn cứ 801 đi Trà Quang (Bình Định). Dự thuyết trình sư đoàn 22.
Rời Phù Cát đi Phan Rang.
…
Dự thuyết trình của quân đoàn 2 tại phi trường.
Khen thưởng sư đoàn 6 không quân.
Rời Pleiku đi Pleime thăm biệt động quân.
Rời Pleime đi căn cứ 801 thăm sư đoàn 23 – Cơm trưa với binh sĩ.
Rời căn cứ 801 đi Trà Quang (Bình Định). Dự thuyết trình sư đoàn 22.
Rời Phù Cát đi Phan Rang.
…
Một tài liệu khác của Bộ tổng tham mưu quân đội ngụy gửi xuống các
tư lệnh quân khu, không quân và hải quân nhắc nhở và giải thích thêm
những ý chính trong các bài nói của Thiệu nhân dịp y đi thăm các căn cứ
quân sự vào dịp trên. Nguyên văn như sau:
Việt Nam Cộng Hòa
Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Phòng Ba
Điện thoại: 30.631
Số: 1.197/TTM/P341
Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Phòng Ba
Điện thoại: 30.631
Số: 1.197/TTM/P341
TƯ VĂN
Kính gởi:
Trung tướng tư lệnh quân đoàn 1 + QK1
Thiếu tướng tư lệnh quân đoàn 2 +QK2
Trung tướng tư lệnh quân đoàn 3 + QK3
Trung tướng tư lệnh quân đoàn 4 + QK4
Trung tướng tư lệnh không quân
Đề đốc tư lệnh hải quân
Trung tướng tư lệnh quân đoàn 1 + QK1
Thiếu tướng tư lệnh quân đoàn 2 +QK2
Trung tướng tư lệnh quân đoàn 3 + QK3
Trung tướng tư lệnh quân đoàn 4 + QK4
Trung tướng tư lệnh không quân
Đề đốc tư lệnh hải quân
Trích yếu: v/v chỉ thị của tổng thống Việt Nam Cộng hòa về đường lối chiến tranh hiện tại.
1. Trong dịp thăm viếng các đơn vị QLVNCH nhân dịp tết Ất Mão, tổng thống VNCH thường chỉ thị đại ý như sau:
a) Trước khi còn quân lực Hoa Kỳ, chúng ta chiến đấu với các
phương tiện dồi dào, không hạn chế, đánh theo lối quy mô, sử dụng
nhiều phương tiện và bom đạn một cách phí phạm.
b) Nay ngoại viện đã bị hạn chế và có chiều hướng ngày càng
suy giảm vì sự khó khăn ngay tại các nước đồng minh viện trợ cho ta nên
không thể tiếp tục mãi, cũng như ảnh hưởng của sự khủng hoảng nhiên
liệu trên thế giới đã gây hậu quả quan trọng vào nền kinh tế Việt Nam.
c) Do đó, ta phải quay trở về với lối đánh thuần túy Việt Nam cho phù hợp với các phương tiện tự túc và hạn chế của ta.
2. Trong khi chờ đợi BTTM phổ biến đường lối hoạt động chung
theo chiều hướng như chỉ thị của tổng thống, BTTM yêu cầu quý vị tư
lệnh dựa theo quan niệm sau đây mà áp dụng đường lối hoạt động cho phù
hợp với tình hình từng địa phương:
a) Trên phương diện chiến thuật, lối đánh quy mô với sự phối
hợp liên binh đòi hỏi nhiều phương tiện yểm trợ dồi dào và tốn kém
không còn phù hợp, phần vì khả năng yểm trợ của ta đã bị hạn chế, phần
vì giới hạn và ràng buộc bởi Hiệp định ngừng bắn. Do đó ta phải trở về
với lối đánh thuần tuý Việt Nam, nghĩa là phải chú trọng đến sự hoạt
động của các đơn vị nhỏ, từ cấp đại đội trở xuống tới cấp toán, cấp tổ,
đánh bằng phục kích, đột kích, phá hoại, đánh bằng mìn bẫy trên các
trục giao liên, đánh bằng các đơn vị trinh sát, v.v. Với lối đánh biệt
động, lấy vũ khí cá nhân và cộng đồng của đơn vị làm chính (trung liên,
đại liên, súng cối) và hoả lực phi pháo chỉ là phụ, như vậy các đơn vị
sẽ không bị lệ thuộc và ỷ lại vào hoả lực yểm trợ của không quân và
pháo binh.
Về di chuyển cũng lấy sức người làm chính, các phương tiện
chuyển vận như quân xa, phi cơ trực thăng, v.v nếu có chỉ là phụ, hoặc
chỉ được sử dụng các phương tiện này trong những trường hợp tối cần mà
sức người không làm nổi. Do đó ta phải lấy phương châm: “Thắng địch
bằng tinh thần chứ không phải bằng vật chất”, nghĩa là lấy sự quyết
tâm, thiện chí và mưu lược để thắng địch hơn là bằng phương tiện.
Áp dụng được chiến thuật trên, chẳng những các đơn vị nhỏ sẽ
dễ dàng bung quân tấn công phá vỡ kế hoạch lấn đất giành dân của địch
mà còn tạo được thế chủ động bung ra chèn ép địch, gây bất an ngay
trong lòng địch để buộc chúng vào thế co rút.
b) Với các hoạt động đơn vị từ cấp tiểu đoàn trở lên ta chỉ
sử dụng vào các mục tiêu lớn, chắc chắn và đáng giá, như vậy ta vừa
tiết kiệm được lực lượng lại vừa sẵn có một số đơn vị lớn trù bị trong
tay sẵn sàng tung quân đối phó với địch khi cần.
c)Trên phương diện tiếp vận, một số vấn đề khó khăn cho ta
hiện nay là vũ khí, đạn dược, nhiên liệu là những phương tiện vô cùng
đắt giá, nếu cứ tiếp tục giữ mãi mức độ tiêu thụ như trước đây, chắc
chắn ngân sách quốc phòng không sao gánh nổi. Bộ tổng tham mưu đã từng
chỉ thị các đơn vị phải tiết giảm nhu cầu tiêu thụ, tuy nhiên vấn đề
này vẫn chưa đạt được đúng mức. Trong tương lai sẽ còn gặp nhiều khó
khăn hơn nữa, do đó ngay từ bây giờ ta phải biết giữ gìn, biết tiết
kiệm từng viên đạn, từng giọt xăng, bảo trì các vũ khí, quân trang,
quân dụng hiện có của ta luôn luôn trong tình trạng thật hoàn hảo. Có
như vậy mới hy vọng trong tương lai ta còn có phương tiện mà sử dụng.
d) Ngoài vấn đề sửa đổi về đường lối chiến thuật, tiết giảm
và sử dụng hữu hiệu mọi nhu cầu, bảo trì hoàn hảo vũ khí, quân trang và
quân dụng để đáp ứng với hoàn cảnh hiện nay, ta còn phải nghĩ tới việc
để dành một số phương tiện khả dụng, làm trù bị dự trữ luôn luôn trong
tình trạng tốt và sẵn sàng, hầu có thể tung ra đương đầu với cộng sản
trong những ngày quyết định cuối cùng. Yêu cầu các vị tư lệnh khẩn
nghiên cứu, ra lệnh và đôn đốc các đơn vị trực thuộc nghiêm chỉnh thi
hành chỉ thị của tổng thống Việt Nam Cộng Hoà.
ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN
TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG
QLVNCH
TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG
QLVNCH
TƯ VĂN
GỞI THỦ TƯỚNG
GỞI THỦ TƯỚNG
V/v sử dụng danh từ "Việt Nam hóa chiến tranh" (rồi lại gạch hai chữ "chiến tranh")
I - Tôi nghĩ danh từ "Việt Nam hóa chiến tranh" hoặc "Việt Nam hóa hòa bình" không thích hợp để dử dụng bởi người Việt Nam, dù thuộc chính quyền hay không, dù trong nước hay ngoài nước, vì lẽ:
Thứ nhất - Từ trước đến nay cuộc chiến tranh này là
do cộng sản gây nên. Do đó, công cuộc kháng chiến là của nhân dân miền
Nam chủ động, với sự trợ giúp của các quốc gia đồng minh hay thế giới
tự do, dù tham chiến trực tiếp hay ở mọi hình thức viện trợ khác.
Vì vậy, công cuộc kháng chiến không thể nói và xem là do nơi ai khác hơn là nhân dân miền Nam chúng ta.
Trên đây là một căn bản không thể lệch lạc được. Cho nên:
Thứ hai - Khi nói cuộc chiến đấu đã được "phi Mỹ hóa" có nghĩa là từ trước đến nay do chính phủ Mỹ gây nên và lãnh đạo cuộc chiến này.
Điều này không đúng và không tốt cho nhân dân Việt Nam kháng
chiến, còn lại giúp luận điệu cho công sản tuyền truyền khuynh đảo.
Còn nói rằng "Việt Nam hóa chiến tranh" thì cũng như trên, có nghĩa là từ trước đến nay chiến tranh này là của Mỹ, ngày nay mới giao cho Việt Nam đảm trách.
Tai hại hơn nữa, là người ta sẽ hiểu lầm cho rằng Mỹ đã thua cuộc chiến tranh của Mỹ từ mấy năm nay, nên bây giờ mới giao lại cho chúng ta đánh và Mỹ sử dụng nhân dân miền Nam đánh giặc cho họ, do đó mà có từ Việt Nam hóa chiến tranh.
Thứ ba - Danh từ Việt Nam hóa cả quân sự lẫn chính trị
mà một số nhân vật hay báo chí ngoại quốc thường dùng lại càng phải
tránh, vì lẽ vấn đề chính trị là thuộc chủ quyền của người Việt Nam. Khi
nói "Việt nam hóa... chính trị" có nghĩa là chính phủ và nhân
dân Việt Nam mất chủ quyền chính trị. Còn cộng sản, thì họ sẽ khai
thác cho rằng ta hoàn toàn nô lệ Huê Kỳ và Huê Kỳ đang thực hiện một
chế độ thuộc địa tại miền Nam, cả về chính trị lẫn quân sự.
Danh từ này hoàn toàn tai hại cho cả ta lẫn bạn đồng minh.
...
Để giúp bạn đọc hiểu rõ thêm cách nhận định tình hình và cách bố trí
lực lượng quân nguỵ ở quân khu II, tôi xin giới thiệu tóm lược phần
thuyết trình tình hình quân sự của Phạm Văn Phú, tư lệnh quân khu II
trước Trần Thiên Khiêm và phái đoàn chính phủ do y dẫn đầu, tới thăm
quân khu II hồi đầu tháng Giêng năm 1975…
“Chiến dịch Đông Xuân 1975 sẽ bắt đầu cuối tháng 1 hoặc đầu
tháng 2 năm 1975. Về mức độ so với năm 1972 thì cường độ sẽ mãnh liệt
hơn nhiều. Vì với hệ thống hành lang xâm nhập và vận chuyển quy mô hiện
nay, địch dễ dàng tập trung pháo, chiến xa, bộ binh nhanh chóng áp lực
nặng vào từng khu vực. Và thời gian chiến dịch có thể kéo dài hơn năm
1972… Ước tính nếu cộng sản mở chiến dịch lớn thì tỉnh Kontum, Pleiku
và bắc Bình Định sẽ là những chiến trường trọng điểm. Các tỉnh Darlac,
Quảng Đức, sẽ là các chiến trường phụ để thu hút và cầm chân lực lượng
của ta.
Trong mùa khô sắp tới ước tính mặt trận Kontum sẽ là điểm kết hợp với diện là Pleiku. Tuy nhiên chiến trường Pleiku cũng vẫn có thể trở thành mặt trận điểm nếu địch tăng cường lực lượng.
Ở Kontum
Kể từ trung tuần tháng 5 năm 1971 hoạt động địch gia tăng
mạnh mẽ. Đáng kể là vào những ngày 15, 16 tháng 5 năm 1974, địch đã tập
trung bộ binh, pháo, chiến xa phối hợp tấn công bức rút trại và chi
khu Dakpek.
Hai tháng sau lại gây áp lực mạnh vào chi khu Mangbuk. Cho
đến ngày 19 và 20 tháng 8 năm 1974, áp lực địch chuyển về chi khu
Chương Nghĩa. Và sau đó chi khu này mất liên lạc kể từ ngày 3 tháng 10
năm 1974.
Ở Pleiku
Áp lực mạnh Pleime, địch pháo mạnh mưới ngàn viên đạn, tấn pháo mạnh vào tây Pleiku
Ở Bình Định
Hoạt động mạnh ở hai quận Phú Mỹ - Phú Cát, lấn mở rộng vùng giải phóng.
Hoạt động mạnh ở vùng Hoài Nhơn – Tam Quan
Đánh giao thông trên quốc lộ 19 và tây Bình Khê
Ở Đarlac
Pháo kích trên 1000 viên đạn, lấn chiếm trại biên phòng Tiểu Atar (tây bắc Ban Mê Thuột)
Đánh phá đường 14 – bắc Buôn Hồ.
Đánh phá đường 14 – bắc Buôn Hồ.
Các đơn vị quân đoàn 11 được phối trí như sau:
Sư đoàn 22 bộ binh với 4 trung đoàn cơ hữu (40 ÷ 41 ÷ 42 ÷ 47) tại vùng Bình Định.
Sư đoàn 23 với ba trung đoàn cơ hữu (44 ÷ 45 ÷ 53) và được tăng phái liên đoàn biệt động quân tại vùng Pleiku.
Sư đoàn 23 với ba trung đoàn cơ hữu (44 ÷ 45 ÷ 53) và được tăng phái liên đoàn biệt động quân tại vùng Pleiku.
Biệt động quân quân khu II hiện đang phối trí tại vùng:
Kontum: 4 liên đoàn/biệt động quân (22, 23, 4, 6).
Đarlac: liên đoàn 21/biệt động quân.
Quảng Đức: liên đoàn 24/biệt động quân
Đarlac: liên đoàn 21/biệt động quân.
Quảng Đức: liên đoàn 24/biệt động quân
Kế hoạch quân sự của quân khu II trong đệ nhất tam cá nguyệt:
Tại mặt trận Kontum: Bộ chỉ huy biệt động quân/quân
khu II với 4 lữ đoàn biệt động quân trách nhiệm hành quân đánh tiêu hao
và tiêu điện sư đoàn 10 cộng sản, đặc biệt các trung đoàn 24, 28 và có
thể trung đoàn 95B.
Bảo vệ và chiếm giữ Chư Pao (nam Võ Định) bằng mọi giá.
Tại mặt trận Bình Định: Sư đoàn 22 bộ binh đánh tiêu hao và tiêu diệt sư đoàn 3 và tỉnh đội Bình Định.
Bảo vệ quốc lộ 19 bằng mọi giá.
Bảo vệ quốc lộ 19 bằng mọi giá.
Tại mặt trận Pleiku: Sư đoàn 23 bộ binh trách nhiệm đánh tiêu hao và tiêu diệt sư đoàn 320 cộng sản.
Bảo vệ quốc lộ 19 trong lãnh thổ tiểu khu Pleiku bằng mọi giá.
Bảo vệ quốc lộ 19 trong lãnh thổ tiểu khu Pleiku bằng mọi giá.
Chiếm giữ và an ninh quốc lộ 14, đoạn đèo Tử sĩ.
Tiếp tục đánh phá giao liên và tiếp vận địch bằng thám kích, không quân chiến thuật và các đơn vị của nha kỹ thuật.
TÌNH HÌNH CHIẾN TRƯỜNG TÂY NGUYÊN
Viết về giai đoạn chuẩn bị cho chiến
dịch Tây Nguyên mà không được gặp và hỏi chuyện những đồng chí có trách
nhiệm cao nhất thì thật ân hận vô cùng. Theo tôi biết, trong những
ngày tháng có tính chất quyết định này, mỗi câp trên đều có cái vất vả,
cái anh hùng của mình. Của cấp dưới thì báo chí đã viết và tất cả
chúng ta đều rõ. Nhưng còn của cấp trên, của các cơ quan lãnh đạo chiến
lược thì chúng ta hầu như chưa được biết. Vả lại, trong chiến dịch Tây
Nguyên và chiến dịch sau đó, chiến dịch Hồ Chí Minh, thì sự chuẩn bị
của cấp trên hầu như là tất cả. Sự chuẩn bị chính xác và chu đáo tới
mức cuộc tiến quân gồm hàng chục vạn quân sĩ nào pháo, nào xe, nào
lương thực, nào xăng dầu, đơn vị vào trước, đơn vị đến sau, nhiều ngả
nhiều hướng mà vẫn nhịp nhàng, vẫn uyển chuyển, đúng hướng, đúng chỗ,
đúng cả thời gian, hệt như một cuộc thao diễn đại quy mô các lực lượng
vũ trang cách mạng trong cả nước. Thôi thì, ai viết được phần nào, khía
cạnh nào, giai đoạn nào của cuộc tổng tiến công này thì cứ viết. Viết
đi rồi viết lại, kẻ trước người sau, năm mười năm nữa rồi chúng ta cũng
sẽ có được một pho sử ký thật xứng đáng. Chính anh Lăng, nguyên là Phó
tư lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên, quân đoàn trưởng quân
đoàn 3, đảm nhiệm hướng tây bắc trong chiến dịch Hồ Chí Minh, cũng lấy
làm tiếc cho tôi. Ngay như trong Bộ chỉ huy chiến lược Tây Nguyên, tôi
cũng chưa được gặp hai nhân vật chủ chốt là anh Thảo, Trưởng tư lệnh và
anh Hiệp, chính ủy. Bao giờ cũng thế, một công trình vừa được hoàn
thành, những người anh hùng đã lại rong ruổi dặm dài đến những địa bàn
mới, gánh vác những trách nhiệm mới. Tình cờ có được gặp lại họ, bày tỏ
ý nguyện của mình, thì chắc chắn sẽ được trả lời: “Những việc làm dạo
nọ ấy ư? Thì như các anh đã biết đấy, cũng chỉ là thế thôi” Và lập tức,
các đồng chí ấy sẽ thuyết minh với anh về những công việc đang làm với
những tính toán, những hy vọng, những lo âu, ánh mắt lấp lánh, giọng
nói say sưa, nếu mình không tự chủ thì rất dễ quên bẵng đi cái ý định
ban đầu.
Cho nên khi tôi yêu cầu được làm việc với anh Lăng vài ngày, có thể hơn thế nữa nếu như anh có thì giờ, anh tỏ vẻ ngạc nhiên:
‘- Làm thì lâu chứ kể lại có mấy, chỉ một tối là đủ”
Rồi anh lại hỏi tôi:
“-Nhưng biết kể với nhà văn cái gì? Các anh viết văn thì cần những câu chuyện gì?”
Tôi vội trả lời là mọi việc các anh đã làm đều thuộc về văn học cả,
không có gì phải lược bỏ. Giả dụ rằng nếu viết tất cả như thế thì sẽ là
một bản báo cáo chứ không thể là sáng tác văn học, thì tôi cũng bằng
lòng làm người viết báo cáo. Làm báo cáo trước, làm văn học sau, bao
giờ rỗi rãi sẽ làm văn, còn lúc này thì cần làm người thuật chuyện. Có
lẽ bạn đọc hiện nay cũng đang thích như thế, đang muốn đọc một bản
tường trình cặn kẽ như thế?
Đây là tối thứ nhất anh Lăng nói chuyện.
“Rất tiếc là anh không gặp được tất cả các anh trong Bộ tư lệnh
chiến dịch, tức là anh Thảo, anh Hiệp, anh Hàm, anh Năng. Tuy nhiên,
chúng tôi đã làm báo cáo tổng kết, bàn bạc và nhất trí với nhau về tất
cả các vấn đề lớn, lại được đồng chí Đại tướng Tổng tham mưu trưởng,
người chỉ đạo và chỉ huy trực tiếp chiến dịch này xét duyệt và chỉ thị
nhiều ý kiến. Như thế cũng đã là may mắn cho công việc của chúng ta
rồi. “Tôi về chiến trường Tây Nguyên (còn gọi là B3) thay anh Thảo
tháng Sáu năm 1974. Anh Thảo tuy đi nhận nhiệm vụ mới, nhưng kiến thức
và kinh nghiệm của anh trong nhiều năm dài ở Tây Nguyên đã giúp đỡ tôi
rất nhiều. Đó cũng là một may mắn cho những người đến sau. Như anh đã
biết, trước ngày về đây, tôi làm việc ở Cục tác chiến của Bộ tổng tham
mưu, là một cán bộ có trách nhiệm ở một cơ quan chiến lược nên có điều
kiện để so sánh, xem xét và tổng kết các kinh nghiệm. Anh Lê Trọng Tấn
có nói “Ở Bộ về quân khu nếu làm ăn tốt là do đã có được một tầm nhìn
rộng”. Khi đi cũng có giao ước với anh em trong Cục tác chiến là khi
nào chuẩn bị những vấn đề mới thì nhớ khêu gợi bọn mình. Nếu được biết
trước chiến trường mình nằm trong phương hướng chiến lược thì anh em sẽ
chủ động hơn, thời gian chuẩn bị cũng rộng rãi hơn. Tháng 9 năm 1974,
Cục tác chiến cũng đã rỉ tai cho biết về ý định của cấp trên trong năm
1975. Dưới này, bọn tôi sau khi đã xem xét tình hình của quân khu cũng
tin rằng trong năm 1975 có thể làm được một cái gì đó có tính chất bản
lề. “Sau ngày ký hiệp định Pa-ri, để chống lại âm mưu lấn chiếm của
chính quyền nguỵ Sài Gòn, chúng ta đã tiêu diệt các cứ điểm địch nằm
sâu trong vùng giải phóng như Chư Nghé, như Đắc Pét, như Măng Đen, Măng
Búc. Địch co về củng cố tuyến phòng thủ vành đai các thị xã, các trục
đường chiến lược và các mục tiêu chủ yếu. Mỹ rút quân, sự viện trợ của
Mỹ đối với nguỵ quân dần dần giảm bớt đã tác động rất lớn đến phương
thức tác chiến và thủ đoạn chiến thuật của địch. Lực lượng địch bố trí
tại năm tỉnh cao nguyên là một sư đoàn (sư 23), 6 liên đoàn biệt động
quân và 36 tiểu đoàn bảo an. Thiết giáp thì có 12 chi đoàn, tức là 4
thiết đoàn. Pháo binh có 230 khẩu. Không quân có sư đoàn 6, gồm 4 phi
đoàn, khoảng 150 chiếc máy bay các loại. Quân địch như thế là đông,
nhưng địa bàn quá rộng, những 45.000 km2 nên hóa ra phải dàn mỏng. Khả
năng cơ động của chúng chủ yếu bằng đường bộ, dựa trên 3 trục đường
chính: đường 14 chạy suốt hướng bắc-nam tới tận đông nam bộ, đường 19
nối đồng bằng khu 5 lên Plây-cu và đường 21 từ Buôn Mê Thuột đi Khánh
Hòa. Đường 7 từ Cheo Reo ra Phú Yên đã từ lâu địch bỏ vì hoạt động của
bộ đội địa phương Phú Yên ở khu vực này rất mạnh. Còn vận chuyển đường
không cũng là vạn bất đắc dĩ, máy bay vận tải ít, xăng dầu hiếm, không
thể mỗi lúc sử dụng tùy tiện được. Có đường thì sẽ có cách khóa đường.
Có máy bay thì sẽ có cách khống chế sân bay. Thằng Mỹ lắm lúc còn chết
cứng nữa là thằng nguỵ. Đó là một chỗ yếu của địch. Chúng ta sẽ có cách
tính toán khoét rộng cái chỗ yếu đó ra. Còn lực lượng của chúng ta ở
chiến trường này trong năm 1974? Hết sức lạc quan!
“Từ sau hiệp định Pa-ri, quân khu đã dành ra một quân số thích đáng
để làm nhiệm vụ sản xuất. Các cơ quan xung quanh Bộ tư lệnh đều có
nương rẫy và khu vực chăn nuôi riêng. Sự chi viện của miền bắc trong
hai năm 1973, 1974 là hết sức dồi dào: người, vũ khí, quân trang, lương
thực.
“Khi tôi về B3 nhìn cán bộ, chiến sĩ thấy rất khác với dự đoán của
mình: khỏe mạnh, tươi vui, nơi ăn chốn ở hết sức đàng hoàng, như ở
ngoài bắc vậy. Mà có khi còn hơn cả ngoài bắc vì ở đây mổ một con lợn
không phải bàn tính gì nhiều lắm. Tối tối, đặt nồi cháo gà là chuyện
hết sức bình thường. Thế là vui rồi. Làm tư lệnh mà thấy quân khoẻ,
lương nhiều tức là đã cầm chắc tới quá nửa phần thắng. Lại nữa, chí khí
chiến đấu rất cao. Nói chuyện với ai cũng thấy có ý nguyện là phải tấn
công thôi, phải dùng bạo lực vũ trang mà mau chóng hoàn thành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Cán bộ thì sợ để chậm trễ quá
tuổi sẽ già đi, sức sẽ yếu đi. Anh em trẻ thì muốn “làm ăn” cho mau mau
còn bắt tay làm những việc khác. Lòng người đã nhất tâm như thế là rất
thuận.
“Từ sau năm 1972, bộ đội Tây Nguyên chưa đánh một trận nào lớn tới
một trung đoàn hoặc một sư đoàn thiếu. Năm 1975 sẽ phải đánh ít nhất là
bằng lực lượng của mình, tức là hai sư đoàn, có thể thêm hai trung
đoàn hoặc một sư đoàn của Bộ chi viện trong thời gian chiến dịch. Đánh
lớn, quân đông đòi hỏi năng lực tổ chức và chỉ huy của các cấp phải phù
hợp với nhiệm vụ. Một kinh nghiệm của tôi là Tư lệnh phải trực tiếp
huấn luyện bộ đội, nhất là cán bộ, không thế không chỉ huy được. Bộ đội
phải do mình trực tiếp xây dựng thì đánh mới thực chắc tay. Có hiểu rõ
cán bộ và chiến sĩ của từng đơn vị mới hạ quyết tâm được, mới quyết
đoán được. Bộ tư lệnh liền tổ chức hai lớp tập huấn cho cán bộ cấp sư
đoàn, trung đoàn và các tiểu đoàn chủ chốt. Nội dung tập huấn là: nghệ
thuật chiến dịch tấn công và nghệ thuật chiến dịch phản công. Thấy hết
được vai trò của chiến thuật trong nghệ thuật chiến dịch. Thống nhất
với nhau về cái gọi là những trận đánh then chốt, những trận đánh có ý
nghĩa nổ truyền trong một chiến dịch. Sau đó, cấp sư về bàn bạc lại với
cấp trung đoàn, cấp tiểu đoàn và đại đội. Đó là sự chuẩn bị rất cơ bản
về lãnh đạo và chỉ huy trước khi bước vào mùa xuân năm 1975.
“Lại nói tới một vấn đề khác, cũng hết sức quan trọng, vì nó là cơ
sở của mọi chiến thuật. Tức là quân số. Chiến thuật gì thì cũng phải có
đủ người. Một tiểu đội phải có 7 người, ít ra cũng phải có được 5, 6
người. Chứ nếu chỉ có 3 người thì không thể gọi là một tiểu đội. Tiểu
đội không thành thì trung đội, đại đội cũng không thành. Nên quân số là
quan trọng, quân số đủ thì mới đảm bảo được việc thực hiện chiến
thuật. Trong lịch sử chiến đấu của bộ đội Tây Nguyên, chưa bao giờ ra
quân đủ như lần này: một tiểu đoàn là 400 người. Trước kia, ra quân 300
người còn khó. Ra quân đông người, đi chiến đấu nhìn trước quay sau,
ngó trái, liếc phải đều thấy đồng đội thì sẽ rất phấn chấn. Cán bộ nghe
tiếng hát to, nhịp đi mạnh, trong lòng cũng vui. Khí thế của lúc lên
đường cũng nhờ vào đó một phần. Lúc này đánh một trung đoàn địch chỉ lo
không diệt gọn chứ không lo không đánh được. Không ai nghĩ là địch
mạnh nữa, mà chỉ bàn tính làm sao trận đánh diễn ra cho nhanh, diệt
địch cho gọn, và chúng ta chỉ chịu tổn thất rất ít. Chuẩn bị lực lượng
như vậy là yên tâm, dẫu tình hình sẽ là như thế nào vẫn cứ xoay chuyển
kịp vì mình đã ở trong tư thế sẵn sàng.
“Mùa hè năm 1974, chúng tôi đã kết luận rằng các đơn vị thuộc quân
đoàn 2 ngụy đã sút giảm sức chiến đấu. Khi ta tấn công vào một trung
đoàn tăng cường của ngụy thì chúng không đủ sức chống đỡ. Chúng đưa một
sư đoàn thiếu thì không đủ sức giải vây. Trong trận đánh ở Plây-me,
thiết giáp của nó toàn đứng sau đội hình bắn với lên, nếu bị đánh từ
phía lưng là lập tức tháo chạy. Quân đoàn 2 ngụy chỉ đủ sức đối phó với
một sư đoàn của ta trên một hướng. Nếu ta đánh lớn hơn, trên nhiều
hướng, nhất định chúng sẽ bị lúng túng. Sau trận đánh ở Thượng Đức,
chúng tôi tin rằng trong vòng hai năm tới có thể giải phóng hoàn toàn
Tây Nguyên. Tháng 10 năm 1974, đồng chí tham mưu phó của B3 ra Bộ báo
cáo đã trở về, mang theo mệnh lệnh tác chiến mùa khô: đánh Thuần Mẫn,
đánh Đức Lập và đánh thị xã Gia Nghĩa, mở thông xuống đường 20, nối
vùng giải phóng Tây Nguyên với miền đông Nam bộ. Đánh Thuần Mẫn và Đức
Lập, chúng tôi đã có dự tính trước. Còn đánh Gia Nghĩa không phải đất
của quân khu, đến bản đồ cũng không có. Địa hình chưa rõ, đường sá chưa
làm, tuyến vận chuyển xa, bộ đội hành quân cũng xa, mùa mưa chưa dứt,
thời gian chuẩn bị tính ra chỉ còn được hai tháng. Thế là đủ vỡ đầu
rồi! Nhưng đã là lệnh thì phải chấp hành, chấp hành cho xuất sắc. Khó
thế chứ khó nữa cũng phải nghiến răng lại mà làm. Giữa tháng 10 đã có
những đơn vị công binh, hậu cần, trinh sát đi trước. Còn các đơn vị khác
đều đã sẵn sàng. Giai đoạn chuẩn bị cơ bản đã xong, chỉ còn đợi lệnh
là bắt tay vào những nhiệm vụ cụ thể.
“ Tôi là một cán bộ quân sự của Đảng từng trực tiếp chỉ huy bộ đội
tham gia nhiều chiến dịch, có thể nói là có chút ít kinh nghiệm đánh
địch, nhưng lại chưa được ở một chiến trường nào thật lâu. Nay vào một
chiến trường chiến đấu và sinh hoạt đều rất gian nan, không khỏi lo
rằng anh em chưa tin mình. Lòng tin của cấp dưới với cấp trên là rất
quan trọng. Trong chỉ huy chiến đấu, có lúc cấp dưới chỉ làm theo mệnh
lệnh mà không có thì giờ để bàn cãi trái phải. Nếu đã tin nhau thì khó
mấy cũng làm, dẫu có ngược với dự tính của mình vẫn cứ làm. Còn chưa
tin lắm, chưa tin hẳn thì có làm cũng không được triệt để, vừa làm vừa
ấm ức, vừa làm vừa nghi ngại. Bụng đã hồ nghi thì hễ gặp khó là sinh
chuyện ngay. Muốn cho cấp dưới thật tin thì cấp trên phải sâu sát, phải
biết cách kiểm tra và có ngay những ý kiến chuẩn xác trong việc giải
quyết khó khăn của cấp dưới. Cấp dưới báo cáo đều đặn lên cấp trên là
một kỷ luật phải nghiêm giữ. Nhưng không có báo cáo nào ích lợi bằng tự
mình đến tận nơi. Không phải anh em cố ý che đậy, dối trá trong các
báo cáo. Hoàn toàn không phải thế. Chỉ vì nhận thức của mỗi cấp đều có
hạn. Cái mình cần thì anh em nghĩ là nhỏ, cái không cần lại nghĩ là to.
Nhiều vấn đề lúc chuẩn bị thì tưởng là nhỏ, nhưng trong diễn biến
chiến đấu lại hóa ra to, rất to. Chuẩn bị nhỏ mà phải đối phó to, hoặc
phải đương đầu với một tình thế chưa hề có chuẩn bị là hết sức rắc rối.
Là người chỉ huy không thể để bit dồn vào cái chỗ kẹt ấy. Cho nên Tư
lệnh phải có mặt ở hướng chủ yếu và ở những trận đánh then chốt. Có mặt
từ lúc chuẩn bị. Đánh là phải có bài bản, phải có sự kết hợp, phải có
sự kết hợp giữa các trận đánh theo một ý đồ thống nhất, trọn vẹn của
một chiến dịch. Đánh ngắc ngứ là do thiếu chuẩn bỉ. Mà phải chuẩn bị
theo cách nghĩ của mình. Muốn đánh có bài bản thì chuẩn bị cũng phải có
bài bản. Đầu tháng 12, Bộ tư lệnh phân công tôi trực tiếp đi chuẩn bị
trận đánh Đức Lập, anh Năng là Phó tư lệnh thì chuẩn bị cho trận đánh
hướng Gia Nghĩa. Lúc này cũng mới nghĩ đến có hai bàn đạp là là Đức Lập
và Thuần Mẫn. Đánh Đức Lập rồi phát triển xuống Gia Nghĩa, giải phóng
tỉnh Quảng Đức, mở thông đường 20, nối liền Tây Nguyên với miền đông
Nam Bộ. Đánh Thuần Mẫn rồi phát triển ra Cheo Reo, giải phóng tỉnh Phú
Bổn, mở đường xuống 3 tỉnh phía nam khu 5. Đánh như thế là lớn, lại
bằng lực lượng của mình, nhưng tin là làm được. Chúng tôi tin chắc rằng
sẽ đánh được vì thực lực của ta và địch đều đã thay đổi. Cũng đã có
nghĩ đến Buôn Ma Thuột, cấp trên cũng đã gợi ý nếu có thời cơ thì sẽ
đánh Buôn Ma Thuột. Vậy thế nào là thời cơ? Phải chuẩn bị trước kẻo
việc đến nơi là lúng túng lắm. Khi báo cáo tình hình tác chiến với Đảng
ủy quân khu, tôi cũng đặt vấn đề “Thế nào là thời cơ?”. Theo chúng tôi
nghĩ: thời cơ sẽ xuất hiện khi ta đã tiêu diệt gọn hai chi khu quan
trọng là Thuần Mẫn và Đức Lập, khi chúng ta đã đánh tan các lực lượng
phản kích ở phía tây sông Sê-rê-pốc và từ Plây-cu kéo xuống, khi tình
hình chung đã như thế mà lực lượng địch trong thị xã Buôn Ma Thuột vẫn
chỉ là một trung đoàn thì khi ấy là đã có thời cơ để giải phóng Buôn Ma
Thuột.
“Quận lỵ và chi khu quân sự Đức Lập nằm trên đường 14, cách thị xã
Buôn Ma Thuột 60km về phía tây nam, gồm 5 cứ điểm, nhưng có 3 cứ điểm
phải chú ý: căn cứ 23, căn cứ Núi Lửa và quận lỵ. Lực lượng chiếm giữ
của địch có một tiểu đoàn của trung đoàn 53 thuộc sư đoàn 23, hai tiểu
đoàn bảo an, 15 khẩu pháo, 20 xe thiết giáp. Anh em cùng đi nghĩ rằng
tôi đã có tuổi, sức lại yếu, vào sâu quá vừa mệt vừa nguy hiểm nên muốn
tôi dừng lại ở Nậm Lia, từ đó mà quan sát cũng vẫn tốt. Tôi thì nghĩ
trận này là trận mở đầu của một mùa chiến đấu, đánh nhanh, thắng to,
hao tổn ít thì sẽ ảnh hưởng tốt tới quyết tâm các trận sau nên khó mấy
cũng phải nhào tới vị trí của cấp trung đoàn. Đứng xa nhìn khác, vào
gần nhìn khác, vào càng gần cách tính toán sẽ càng chính xác hơn. Ví
như trận địa của trung đoàn 28 đánh căn cứ Núi Lửa, phía tây Đức Lập.
Nếu không vào tận nơi, rất khó có ý kiến thật đúng về cách tổ chức hỏa
lực bắn thẳng, rồi đuờng kéo pháo, rồi tổ chức hỏa lực hướng tấn công.
Tôi ưa dùng hỏa lực, nhưng là hỏa lực bắn thẳng, thời gian ngắn, hiệu
quả to. Muốn gì thì quả thứ 3 là phải trúng mục tiêu. Trong vòng hai
phút, các loại đạn pháo của anh phải rơi trúng những mục tiêu cơ bản.
Anh em có ý kiến là phải 5, 6 phút mới trúng mục tiêu. Tôi không đồng
ý. Hỏa lực cơ giới bắn cầu vồng phải năm, sáu chục viên mới trúng được
mục tiêu, còn bắn thẳng thì chỉ sau 3 viên là phải trúng. Cùng đi với
tôi có cán bộ sư đoàn, cán bộ trung đoàn tấn công, tiểu đoàn trưởng các
tiểu đoàn chủ công, tính toán với nhau rồi hỏi: còn điều gì nghi ngại,
còn vấn đề nào cảm thấy khó thì nói liền đi, bàn luôn, rồi quyết định
luôn. Bàn tính xong xuôi, tôi hỏi đồng chí trung đoàn trưởng trung đoàn
28: “ Anh nhận đánh căn cứ này là bao nhiêu phút?”. Đồng chí đó cười:
“Xin được 1 giờ”. Tôi đồng ý: “Thật ra cũng chỉ cần 1 giờ”. Rồi tất cả
theo tôi đi quan sát căn cứ 23 và trận địa của trung đoàn 66, phía bắc
Đức Lập.
“Gần đến nơi thì xảy ra một chuyện tưởng là vặt, mà không khéo lại
hóa ra rày rà. Một nhóm trinh sát vì để lộ nên phải bắt giữ một người
đánh dấu cây cho nhà thầu đốn gỗ. Giữ người lại là phiền lắm. Bỗng dưng
sao mất tích một người? Một người bị mất tích xung quanh căn cứ của
nó, tất nhiên là phải ngờ ngay đã bị Việt Cộng bắt giữ. Lâu nay vắng
bóng họ, đột nhiên họ lại xuất hiện, vậy là không bình thường rồi. Từ
đó mà nghĩ đến những hiện tượng khả nghi khác, lập ra giả thuyết khác,
để mắt vào chỗ này chỗ kia. Cái nhỏ làm hỏng cái lớn vốn bắt đầu chỉ là
như thế. Nhưng có cái may là người đánh dấu cây kia đang là một bên
của một vụ kiện. Ông chú bị cây đè chết, bà thím nghi là cháu đặt bẫy
giết chú nên đã phát đơn kiện. Nay anh ta bỗng dưng biến mất thì chắc
hẳn sẽ được cắt nghĩa là sợ tội mà bỏ trốn. Rồi đây trận đánh kết thúc,
phải có giấy tờ hẳn hoi để rửa oan cho người ta. Thế là tạm xong một
việc rắc rối bắt gặp dọc đường.
“Căn cứ 23 cũng chỉ cần đánh trong 1 giờ. Núi Lửa 1 giờ. Căn cứ 23, 1
giờ. Quận lỵ Đức Lập cho hẳn là 1 ngày. Rộng ra là trong hai ngày phải
giải quyết xong chi khu Đức Lập, kể cả lùng bắt tàn binh, thu dọn
chiến trường. Được không? Sư trưởng sư 10 thì muốn nới thêm 1 ngày nữa,
tức là từ 2 đến 3 ngày. Tôi phải tính toán luôn: Chúng tôi sẽ báo cáo
với Bộ là từ hai đến 3 ngày, nhưng cấp sư chỉ được phép đánh trong 1
ngày. Thực ra chỉ cần có 1 ngày, tôi đã cho anh dôi thêm 1 ngày nữa thế
là quá rộng rồi. Lại giao hẹn: xong ngày thứ nhất, tôi sẽ lấy của anh
trung đoàn 24 để phối hợp cùng với một trung đoàn của sư 316 đánh quân
phản kích phía tây sông Sê-rê-pốc. Bộ tư lệnh sư đoàn chỉ được phép
dùng hai trung đoàn 66 và 28 vào trận đánh, không cho phép dùng trung
đoàn 24 là lực lượng dự bị của sư.
“Trinh sát xong khu vực Đức Lập, lại kéo nhau sang phía tây sông
Sê-rê-pốc, là địa bàn tác chiến của sư 316 đánh quân ứng cứu từ Buôn Ma
Thuột kéo ra. Anh em mới vào, chiến trường chưa quen thuộc nên càng
phải bàn tính cho cặn kẽ, tỉ mỉ. Tôi vốn là người mê phong lan, mà khu
vực phía tây sông Sê-rê-pốc có lắm thứ hoa lạ kỳ. Đi trong rừng, chỉ
những vấp là vấp vì còn mải ngửa cổ ngắm hoa. Bụng bảo dạ công việc
xong xuôi nhất định phải trở lại đây, lang thang vài ngày kiếm ít rò
lan thật đẹp. Chỗ mình định đến thì địch còn đang cưa gỗ, máy nổ ầm ầm,
mà trời đã quá trưa rồi. Định vào rồi ra ngay, nếu chần chừ lại mất
thêm một ngày nữa. Đúng 4 giờ 30 chúng mới rút, chúng đi xuôi, mình
chạy ngược, cách nhau chỉ trong khoảng mấy mươi thước. Vừa chạy vừa
nhảy qua những gốc cây, thân cây, do dân ngả để làm nương, do lính nó
cưa để lấy gỗ, chạy được vài bước lại nhảy một đoạn dài, chạy nhảy cả
giờ mới lên được vị trí quan sát. Cũng đoạn đường ấy lúc lộn về mất gần
ba tiếng đồng hồ. Đến nơi nghỉ, kiểm lại quân số thiếu mất hai người,
một bác sĩ quân y và một tiểu đoàn trưởng pháo binh. Cho anh em trinh
sát chia làm mấy ngả quay lại tìm, người đi tìm đành là thức trắng,
nhưng những người ngồi chờ tin cũng không thể ngủ. Chỉ lo có chuyện gì
xảy ra rồi sẽ ân hận không biết thế nào. Trời đã sáng hẳn, vừa mới đặt
lưng chợt nghe có tiếng cười ầm ầm phía ngoài. Họ đã về! Hú vía! Thì ra
hai người xuống suối lấy nước đổ bi-đông, vì đã chịu khát cả buổi
chiều, lúc lên thì tốp đi trước đã mất hút. Ông bác sĩ cứ nắc nỏm khen
mãi đồng chí tiểu đoàn trưởng pháo binh tìm đường trong đêm quá tài,
thấy ngó ngó vào địa bàn lại ngó ngó vào bản đồ cuối cùng cũng lần mò
được ra cái địa điểm vô danh đã hẹn trước. Nghỉ hẳn lại hai ngày. Đêm
sau đồng chí trợ lý tác chiến vác súng xin phép được đi bắn bò rừng lấy
thịt khao quân. Khi chiều ra nương thấy có vết móng bò rừng. Người ấy
đã nổ súng, không hạ được con này cũng con kia. Quả nhiên có bò rừng
thật, phải bốn, năm tạ thịt, ăn một góc, còn lại lọc thịt nước qua làm
lương khô ăn dọc đường về chỉ huy sở khu B. Chúng tôi ăn mừng ba mươi
năm thành lập quân đội, ăn mừng một năm mới đã bước sang được vài ngày,
ăn mừng một chuyến đi trinh sát hết sức như ý. Rồi hẹn nhau sang năm,
bằng giờ sang năm chúng ta sẽ lại tổ chức một bữa tiệc dọc đường, nhưng
là ở một hướng khác, ở Công Tum hay Plây Cu, hoặc trên những đường lớn
chạy thông ra biển. Chỉ sang năm 1976 nhất định chúng ta phải với tay
xuống biển, một vùng cao nguyên đã được giải phóng, từ đó muốn làm gì
cũng được, muốn lên bắc hay xuống nam đều được hết. Hẹn nhau thế, nào
ai ngờ… Nhưng trước khi thốt lên cái câu thật sảng khoái: cũng không
ngờ! thì còn có bao nhiêu đêm ngày không ngủ, không ăn, đầu óc căng
thẳng vì những phương án, những kế hoạch, rồi những hồi hộp, những lo
lắng, những bồn chồn. Đó là tình hình của tháng Giêng và tháng Hai,
nhất là nhữngt ngày của tháng Hai năm 1975. Vì chỉ vừa bước chân vào
chỉ huy sở khu B đã nhận được điện của Bộ: “Trinh sát kỹ cả mục tiêu
A”. Mục tiêu A là Buôn Ma Thuột…”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét