Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Hoàng Thúc Lý Long Tường (Khương Vũ Hạc) - Phần 2

CHƯƠNG 15: QUÂN MÔNG CỔ GÂY NẠN BINH ĐAO
T
Thời gian qua Hoàng thúc phải sống trong cảnh quạnh hiu dài lê thê nơi đất khách quê người xa lạ. Nhưng nhờ có vua quan và thần dân nước Cao Ly hết lòng thương yêu quý mến và đùm bọc, nên Hoàng thúc đã lập được gia đình mới, làm lại cuộc sống mới, bắt đầu bước xuất phát mới một tâm trạng mới.

Cuộc sống mới đó cùng với tháng năm đã trôi qua nhanh chóng như một chiếc đèn kéo quân. Không thể có hiện tại mà không có quá khứ, cũng như không thể có tương lại nếu không có hiện tại. Lòng con người ta cũng dễ quên đi những việc đã qua. Thực ra, thời gian dù có trải qua mấy vạn năm đi nữa, quy luật chuyển động của mặt trời mặt trăng và quả đấy vẫn không sai một ly, cho nên ngày nào cũng giống ngày nào. Có điều, mọi vật chất đều có chủ riêng, của người là của người, của ta là của ta, không thể tự tiện chiếm đọat của cải của người khác. Song đối với mặt trời, mặt trăng và cảnh sắc của núi non đồng nội thì mọi người chúng ta đều có thể tai nghe mắt thấy, thỏa lòng tận hưởng, không ai dám ngăn cấm. Nguồn vật chất thiên nhiên bất tận đó lại gắn liền với cuộc đời của con người nhỏ bé đang sống trong đó.
Lại nói về nước Tống, từ thờ hòang đế Cao Tống trở đi, sau khi di chuyển xuống phía nam do có sự xâm lăng của nước Kim, đã lập kế phòng bị, thi hành chính sách thân thiện với Mông Cổ, nuôi lưỡng thực lực, và thực hiện lược kìm chế nước Kim, đồng thời dùng chính sách chinh phạt bằng văn hóa đối với người Kim để quấy rối nội bộ nước này. Kết quả nước Kinh xảy ra nội lọan. Nhưng nước Kim vẫn còn chiếm phần đất bắc Tống. Lọi dụng co hội đó, thế lực của Thành Cát Tư Hãn, vua Thái tổ của Mông Cổ bắt đầu lớn mạnh dần lên.
Nếu ngược dòng thời gian để xem xét thêm diễn biến của lịch sử, sẽ thấy dường như sau khi hợp lực với Tân La đánh Cao Ly, chiếm được một vùng đất rộng bao gồm cả xứ Mãn Châu ngày nay, khiến cho tất cả các phiên bang của nhà Đường khiếp sợ dã tâm xâm lược của họ. Trên thực tế dã tâm lực đó của Đường đã phơi bày khắp thiên hạ. Trước cảnh nước mất nhà tan, những người dân du mục của Cao Cù Ly đã vùng lên tiếng hành cuộc đấu tranh bất khuất kéo dài hàng mấy trăm năm. Những người chiến sĩ vong quốc đấu tranh để giành lại độc lập cho đất nước mình đã tản mát đi khắp nới và sang đến tận đất Mông Cổ.
Người đã lợi dụng trào lưu lịch sử đó để nhìn thẳng vào cục diện thiên hạ là Thành Cát Tư Hãn, vùa Thái tổ của Mông Cổ. Rốt cuộc nhà Đường suy vong, còn nhà Tống thì bị nước Minh xâm lược. Đó là kết quả tất yêu của đường lối xây dựng cộng đồng quy tụ trở lại những người dân du mục của Cao Cù Ly. Song thói đời của những người làm chính trị xưa nay chẳng có gì khác nhau. Họ đã làm tiêu vong việc lớn chỉ vì những tư tình cá nhân hoặc chỉ biết lấy mình làm trung tâm. Nước Kinh và nước Cao Ly đã không hợp lại được với nhau để nói rõ với thiên hạ họ là con cháu hậu duệ của vua Tan-gum 1 chính là mối hận nghìn thu không xóa nổi. Một vị tướng sóai của nước Kim là Yarul Yuka đã mấy lần cử người sang Cao Ly nói rõ âm mưu thâm độc của nhà Tống. Trong tình hình như vậy, Yarul Yuka đề nghị Cao Ly và nước Kim hợp sức đánh Tống. Nhưng lúc bấy giờ triều đình Cao Ly mắc phải tư tưởng sùng bái nước lớn, nên những người như Thôi Di đã bác bỏ lời đề nghị đó, không những thế còn báo cho nước Tống sự thật này. Nhận được tin tình báo. Tống đã lợi dụng nước Kim để thực hiện chính sách "dĩ đi tự đi". Không còn cách nào khác tướng Yarul đành phải đấu hàng và tiếp nhận sự "bảo hộ" của vua Thái Tông nước Mông Cổ, nhằm trù tính công việc mai sau dưới cái tên mỹ miều là "Đại Liên Quốc".
Nước Tống thực hiện một chính sách thân Mông Cổ theo cách của Tống. Đến đời hòang đế Lý Tông, thế lực của Mông Cổ đã dần dần lớn mạnh lên theo cách "nuôi hổ trong nhà, mang họa về sau" đối với Tống.
Vào năm thứ ba đời vua Thái Tông của Mông Cổ, nước này cử đại quân sang xâm lược Cao Ly và giao bình quyền cho một tướng Mông Cổ tên là San-li-tai.
Nước Cao Ly không hiểu được thế sự xoay vần nên Thôi Di lên nắm quyền đến năm thứ mười bốn đời vua Cao Tông, đã tuyển chọn các văn nhân, học giả Nho giáo lập ra chế độ "thư phòng" đối với chế độ "đô phòng" của các quan võ.
Ông ta làm như vậy là có ý định nhằm thống sóai cả hai thế lực văn và võ vì lúc bấy giờ không ngăn chặn được các tệ đoan của tầng lớp tăng lữ Phật giáo và không thống nhất được công luận trong nước.
Mặc dù đã làm vậy, việc thống nhất công luận vẫn không thực hiện được. Đã có nhiều chuyện xảy ra. Có kẻ tên là Chu Diễn Chi (tức Phôi Phủ) đi khắp nơi làm thuyết khách tung ra dự luận xằng vậy và dùng thuật bói tóan tung tin nhảm làm thác lọan nhân tâm. Mặt khác phe nhóm thượng tướng quân Lô Chi Nhánh và đại tướng quân Cầm Huy đã bị sát hại vì bị ghép vào tội âm mưu làm phản.
Quân Mông Cổ đã xâm lược nước Cao Ly vào một thời điểm như vậy.
Tướng Mông Cổ San-li-tai dẫn hơi mười vạn kỵ, bộ binh đánh vào Cao Ly, chúng tràn vào các miền vùng tây bắc như nước vỡ bờ. Và cuối cùng chúng đã tiến sát đến kinh đô Khai Kinh. Đương nhiên triều đình cũng cử quân đến những nơi có giặc để chống đỡ, nhưng lực lượng không ngang sức, ít không địch nổi nhiều. Tướng địch San-li-ti đã tiến đến ngòai cổng kinh thành. Đáp lại lời cầu hòa của Cao Ly, y đòi phải nộp nhiều vàng bạc, da lông thú quý, quốc ấn, vương tôn công tử, trẻ con nam, trẻ con nữ.
Đòi hỏi của tướng địch lớn quá không sao đáp ứng nổi, nên triều đình có ý kéo dài thời gian, thực hiện hõan binh chi kế. thấy vậy, một phó tướng của San-li-tai là nguyên soái Đường Cô đã dẫn hơn một vạn quân lính bắt đầu cướp phá khắp nơi trong tỉnh Hòang Hải như vùng Hoàng Châu, Phụng Sơn…
Nghe tin quân Mông Cổ mạnh về lục chiến nhưng yếu về thủy chiến, nên không những quân lính mà cả dân thường cũng đều tìm đường lánh nạn ra bờ biển, số người đông vô kể.
Triều đình ra lệnh huy động nhất phẩm quân, tức lính công bình trong cả nước đến đắp đê dọc bờ biển phía tây.
Miền đất Ủng Tân đang trong cảnh thái bình yên bĩnh bỗng chốc trở nên náo lọan do dân tụ nạn gồng gánh bồng bế nhau đổ dồn về quá nhiều.
Tin đồn quân Mông Cổ thủy chiến yếu lan truyền khắp đất nước, ngay đến đứa trẻ con lên ba cũng biết, nên mọi con đường tản cư của dân tỵ nạn đề đổ dồn về phía bờ biển.
Dọc con đường lớn từ bên ngòai cửa đông của thành ủng Tân nối liền với Thâm Xuyên, Hòang Châu, ngày này qua ngày khác, dân tỵ nạn lũ lượt kéo về không ngớt.
Từ chỗ giao nhau giữa hai con đường ở làng Giao Chỉ bên ngòai cửa đông, quân lính từ sáng sớm đã phải tiếp đón từng người dân tản cư đổ về đưa họ vào trong thành. Dù có sợ thám báo của quân Mông Cổ trà trộn vào với những người tỵ nạn đáng thương này cũng đành chịu. Biết làm sao được phải lo chăm sóc cho những người tỵ nạn đáng thương này trước đã.
Hơn hai mươi người tỵ nạn đang về đây. Đàn ông thì địu một chiếc gùi trên lưng, trong đó đựng các đồ đạc hoặc đặt một đứa con nhỏ, còn những người đàn bà thì đội trên đầu một gói lớn. Cả một đòan người lang thang, dáng vẻ mệt mỏi.
Hai người lính bước đến trước mấy người tỵ nạn trông có vẻ còn trẻ, lân la hỏi chuyện.
- Chà, di tản cư chắc vất vả lắm. Các anh từ đâu tới đây vậy?
- Vâng, chúng tôi từ Hòang Châu đến đây.
Một người đàn ông trẻ đáp lại, chiếc gùi vẫn còn địu trên lưng.
Hai người lính trông thấy họ có vẻ tội nghiệp, bèn bảo họ nghỉ một chốc rồi hẵng đi và đến đỡ giúp mấy chiếc gùi của họ đặt xuống đất.
Những người dân tỵ nạn dáng mệt mỏi, ngồi phịch xuống đất.
- Các anh rời Hoàng Châu được bao nhiêu ngày rồi?
- Đã hơn mười ngày rồi.
- Vậy nhìn thấy bọn giặc Mông Cổ rồi chứ.
- Còn phải nói. Hơn hai mươi ngày qua, chúng tôi đã chứng kiến những hành vi tàn ác của chúng, không một ai còn có thể chịu nổi nên đã bỏ trốn đến đây…
- Bọn Mông Cổ dã man lắm.
Nghe người lính nói vậy, một ông già trong số người tị nạn, trông có vẻ nhiều tuổi bèn đứng dậy nói:
- Bọn Mông Cổ tàn ác đã đành, nghe nói trong bọn lính của chúng còn có cả lính Tàu nữa. Những hành vi thất đức của bọn lính Tàu này thật không sao nói hết được.
Người lính nghe nói tỏ vẻ ngạc nhiên, bèn hỏi lại:
- Bọn lính Tàu ấy à? Có phải bọn lính người nước Tống đó không?
- Không phải binh lính nước Tống mà là những người nước Tống bị quân Mông Cổ bắt vào lính trên đất Tống. Cho nên chúng cũng là quân Mông Cổ.
Những người lính ngồi nghe bây giờ mới gật gù, tỏ vẻ như đã hiểu, bèn nói với vẻ khâm phục.
- Bà con đã thoát khỏi bàn tay của chúng như vậy thật giỏi quá.
Một ông già đến trước mặt mấy người lính, nói:
- Các chú không biết rõ hành vi tàn ác của chúng nên mới khen chúng tôi giỏi. Nếu các chú đã một lần gặp phải bọn chúng, các chú sẽ biết rõ bọn chúng tàn ác như thế nào. Tất nhiên quốc dân trăm họ nhìn thấy đất nước mình bị bon man di dày xéo, có ai mà không phẫn uất căm thù. Làm sao có thể nén nỗi căm giận đứng nhìn thảm cảnh do bọn giặc gây ra, như cảnh chúng dùng giáo mác và mã tấu đâm những người dân vô tội chẳng khác gì chúng đâm con vật. Chúng cướp đọat tài sản của dân, chúng hãm hiếp phụ nữ… Cả gia đình tôi nghĩ muốn tự vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc, nhưng thấy mạng sống vẫn còn đáng quý nên đã chạy trốn về đây.
Vốn người huyện thành Ủng Tân này, ông Phác Khuê Hòa là quan huyện của xứ này đã cùng với Hoa sơn quân bàn bạc và thỏa thuận với nhau: phần thành nội do Hoa sơn quân trông coi, còn phía ngoài thành do một võ tướng quân phòng vệ sơn thành giữ chức đốc binh có tên Kim Khuê Vạn phòng giữ. Do vậy ở cửa thành mỗi khi có dân tỵ nạn kéo đến, lính phòng vệ ngòai thành đều đến gặp gỡ, xét hỏi xong đưa họ vào trong thành nội. Còn ở trong thành nội, thì Hoa sơn quân cho dựng những chiếc lều lớn để thu nhận họ.
Hoa sơn quân chăm sóc họ, cho họ ăn uống đầy đủ và cung cấp quần áo cho họ. Bởi thế, người lính gác cửa thành sau khi nghe ông già nói vậy, cảm thấy rất xót thương. Anh ta không nói gì thêm bèn chạy về doanh trại của mình lấy một tờ giấy chứng chỉ mang ra, ghi quê quán và tên họ ông già vào bên dưới tờ giấy rồi đưa vào ông và nói:
- Này cụ ơi, cụ hãy cất giữ cẩn thận tờ giấy này. Sau khi cụ vào trong thành, đưa tờ giấy này ra, lính trông coi sẽ hứơng dẫn cụ thêm. Tuy mệt nhưng cũng phải đúng bữa. Cụ hãy vào đi để ăn cơm sáng.
Nghe nói vậy ông già uể ỏai đáp:
- Nghe chú nói biết vậy. Nhưng lương thực hết rồi chỉ mong được lót dạ bữa hồ bữa cháo cũng đã quý.
Người lính nghe nói rất thương cho cảnh ngộ của người lánh nạn, bèn nói:
- Cụ ơi, đừng lo. Trong thành đã làm xong cơm nước đang chờ phát cho những dân tỵ nạn. xin mời cụ vào. Khi cụ vào cụ nhớ đưa tờ chứng chỉ có người lính gác trong đó.
Đúng vào lúc ấy, từ phía đằng xa, bụi bốc lên mù mịt, một đòan người cưỡi ngựa hiện ra và chạy về phía cổng thành. Những người lính gác lộ ra vẻ ngạc nhiên, ngóai nhìn với cặp mắt căng thẳng. Còn những người lánh nạn trông thấy vậy, hỏang hốt thu vén đồ đạc vào trong thành.
Đòan người cưỡi ngựa tiến đến chỗ có quân lính đang đứng. Đám quân sĩ nhìn kỹ ra mới biết đó là một đòan khỏang gần một trăm người, tất cả đều cuỡi ngựa chiến của quân Mông Cổ, mặc trang phục Cao Ly, tay cầm trường thương hoặc mã tấu.
Đám quân sĩ chạy ra giữa đường, giơ giáo vây chéo ngang cản đường. Họ bắt ngựa dừng lại không có đi qua. Bỗng có một người từ phía sau chạy đến, nhảy xuống ngựa nói:
- Xin chào mọi người. Chúng tôi là những người đánh nhau với quân Mông Cổ ở Hoàng Châu. Chúng tôi đến đây để xin gặp Hoa sơn quân. Xin các vị cho chúng tôi được vào trong thành.
Đám quân sĩ nghe những người không mặc quân phục này nói họ đã đánh nhau với quân Mông Cổ bèn lấy làm lại. Họ giơ trường phương lên chặn lại.
- Vậy các anh có phải là quân nhân không?
- Chúng tôi không phải là quân nhân mà chỉ là những người dân thường sống ở huyện Hoàng Châu. Chúng tôi căm thù bọn giặc Mông Cổ xâm lược nên đã tổ chức ra đội nghĩa binh để đánh lại chúng. Nay chúng tôi muốn xin gặp đức ông Hoa sơn quân để lập ra kế hay diệt sạch bọn chúng.
Người đó nói oang oang ra vẻ khí thế. Có lẽ lúc này, đám quân sĩ mới hiểu hết câu chuyện bèn nói:
- Như vậy mấy anh vất vả quá. Nhưng mấy anh mang vũ khí thế này, chúng tôi không đưa được các anh vào trong thành nội đâu. Vậy mong các anh chịu khó đứng đây chờ cho một chốc. Chúng tôi sẽ báo ngay lên cho đốc binh biệt quân sơn thành để cho phép các anh vào trong thành nội.
Một người trong đám quân sĩ lên ngựa phóng vào thành. Năm người quân sĩ còn lại nhìn khắp lượt đòan người mới đến. Họ thấy có một người trong đòan tàu đầu đội khăn xếp nhà sư, mình mặc áo thụng nhà sư, tay cầm một cây thương dài ngồi trên lưng ngựa.
Người lính trông thấy có vẻ ngộ nghĩnh, bèn hỏi:
- Anh có phải là nhà sư không?
Cả đòan người nghe vậy đều phá lên cười. Người đàn ông đó cũng đỏ mặt lúng túng không trả lời được.
Một người đứng sau lưng an ta nói đùa:
- Anh này là nhà sư nổi tiếng nhất ở nước ta đó.
Nghe nói vậy, cả đòan lại phá lên cười. Mấy người lính nhìn kỹ thấy người đàn ông này không mặc áo lót, chỉ đội chiếc khăn xếp và mặc chiếc áo thụng nhà sư. Đã thế lại còn cầm một cây thượng rõ dài, coi như mình cũng có một vũ khí chiến đấu.
Người lính càng thấy khác thường, bèn đến bên cạnh người đàn ông hỏi:
- Này anh ơi, sao anh không trả lời câu hỏi của tôi?
Lúc này người đàn ông mới đáp lại vẻ nghiêm chỉnh.
- Vì tôi đội mũ mặc áo nhà sư, nên anh tưởng tôi là nhà sư đó thôi. Nhưng tôi không theo đạo Phật. Chiếc áo này là của một sư trị ở ngôi chùa trong núi cho tôi đấy. Khi cả đòan chúng tôi bị bọn chúng tập kích phải chạy tháo thân, không kịp mặc áo, nên nhà sư đã cho chiếc áo này mặc tạm.
Nghe nói, người lính gật gật đầu, tỏ vẻ như đã hiểu bèn nói:
- Như vậy mấy ông sư đó đã báo cho bọn giặc chỗ các anh nấp có phải không?
- Lúc đầu chúng tôi cũng tưởng lầm như vậy, nhưng về sau mới biết bọn giặc đến chùa để cúng Phật.
- Thế vậy… bọn giặc không làm hại các ông sư trong chùa chứ?
- Không những không làm hại, mà chúng còn đem gạo cho. Sư còn cầu Phật phù hộ cho chúng không bị giết chết.
Người lính nghe nói, dở cười, dở khóc, nhếch mép để lộ hai hàm rằng trắng nhởn. Một chốc sau anh ta mới cất giọng:
- Như vậy phải diệt sạch mấy lão thầy chùa đã đi cầu Phật cho lũ giặc ác ôn đáng chết đó đi.
- Thì có ai bảo là không. Nhưng cách xử thế của nhà Phật là đại từ đại bi, cấm sát sinh, bởi thế nên không còn cách nào khác. Hơn nữa mấy ông sư đó bị đặt trước mũi giáo lưỡi gươm của lũ giặc, bị buộc phải phục tùng chúng chứ họ đâu có phải không thương xót đồng bào. Mấy ông sư đó có khác gì chúng tôi. Thôi ta không nói chuyện ấy nữa. Chiếc áo cũng khó khăn lắm mới kiếm được đấy.
Lúc này người lính chạy về bản doanh sơn thành báo tin đã trở ra, Lý công tử cùng đi ra phía ngòai thành. Người lính cúi đầu chào Lý công tử.
Lý công tử đưa mắt nhìn khắp lượt người lính cùng với đòan người mới và bảo người đứng ở hàng đầu hãy lập danh sách đòan. Tổng cộng có tất cả một trăm lẻ tám người.
Lý công tử nhìn vào danh sách và hỏi người đứng ở hàng đầu:
- Tên họ anh là Tống Cơ Phương có phải không?
- Vâng, đúng thế ạ.
- Các anh đã dấy lên được nghĩa binh, đánh nhau với đại quân của địch như vậy là giỏi lắm.
- Tôi phụng sự cho đất nước tôi là lẽ đương nhiên thôi.
- Các anh vất vả nhiều. Nào, hãy theo tôi.
Lý công tử lên ngựa đi vào trong thành. Cả đội nghĩa binh thế sau.
Chú thích
(1)Ông vua thủy tổ đã khai sinh ra nước Triều Tiên cũng tương tự như vua Hùng của Việt Nam (ND)

CHƯƠNG 16: SẴN SÀNG LÂM CHIẾN
H
Hoa sơn quân Hoàng thúc lập gia đình mới với Trịnh Anh Cơ, bước vào cuộc sống mới đến nay đã được sáu năm.

Thời gian ấy, Hoàng thúc đã cùng với Trịnh Anh Cơ sinh hạ được hai người con trai, con trưởng tên là Cán, con thứ đặt tên là Nhất Thành.
Tuy thuộc dòng dõi hòang tộc của một nước, nhưng sau khi lưu vong sang nước Cao Ly, Hoàng thúc đã hòan tòan trở thành người Cao Ly, người của huyện thành này và sống hòa hợp với những người dân vùng biên cương xa xôi nơi đây.
Bỗng tin đồn quân Mông Cổ sang xâm lược Cao Ly đã làm náo động khắp hang cùng ngõ hẻm trong cả nước, chẳng khác nào như một trận cuồng phông phổi ào tới miền đất nơi đây giữa lúc trăm hoa đua nở trong ngày xuaan hòa bình yên vui.
Có một hôm vào năm trước đó, Tiêu Vĩnh Vạn trở lại thăm đất nước Cao Ly này, mọi lai lịch của anh đều được giữ kín.
Người khác chỉ biết về anh như một gia nhân của Hoàng thúc, thời gian trước đó, anh trở về gặpvị đạo sĩ trên đất Tóng kể lại mọi chuyện đã xảy ra, rồi anh lại sang nước Kim và nước Liêu, ra sức thuyết phục dân tộc Phù Dư (tức là dân tộc của nước cổ Triều Tiên) hãy đòan hết lại đấu trang để thu phục lãnh thổ đã bị mất. Nhưng mọi việc đều không thành. Nước Kim tuy sắp đến ngày tận số vẫn thả sức ăn chơi, còn vua nước Liêu là Yarul Yuka, tuy đã mấy lần kêu gọi bán quốc của mình là Cao Ly đứng lên hợp sức đấu trang, nhưng Cao Ly không nghe lên cũng đành bó tay.
Tiêu Vĩnh Vạn mất hết hi vọng, chỉ lo một nỗi quân Mông Cổ không chừng sẽ sang xâm lược Cao Ly, nên đã quay lại đất nước này, một mặt để cấp báo cho các quan chức nước này biết, mặt khác cũng để ghé thăm Hoàng thúc, biết tin tức để được yên tâm hơn.
Hoàng thúc đã bàn với Tiêu Vĩnh Vạn, chuẩn bị đối phó với cuộc chiến lọan tới, trước hết bàn với quan huyện xây cao thành xung quanh huyện ủng Tân.
Ngòai ra trên núi Hoa sơn cũng xây cao thêm thành đất.
Giữa lúc đang chuẩn bị như vậy thì quân Mông Cổ đánh sang, dân tỵ nạn ùn ùn kéo về. Hoàng thúc đã cho sơ tán người già, phụ nữ, trẻ em ra đảo Xương Lân nằm phía mặt phía trước mặt biển tây và chọn hơn một nghìn trai tráng khỏe mạnh cho luyện tập quân sự ngày đêm lo phòng bị.
Cả gia đình của Hoàng thúc cũng đã cho sơ tán ra đảo Xương Lân còn Hoa sơn quá, ngôi nhà riêng của Hoàng thúc, đã có các tráng đinh đến trông cao.
Buổi sáng hôm đó, Hoàng thúc thức dậy sớm ở trong thành Việt Nam cạnh núi Hoa sơn và đang ngồi nói chuyện về tình hình thời cuộc với Tiêu Vĩnh Vạn, thì Lý công tử bước vào báo tin có đôi nghĩa binh từ Hòang Châu kéo tới. Hoàng thúc bèn bảo Lý công tử:
- Lý công Tử hãy đi bảo họ thay quần áo đi, cho họ ăn uống đầy đủ và nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Sau đó cắt cử họ đến bổ sung trấn giữ cửa nam là nơi việc canh phòng có phần còn lỏng lẻo.
- Thưa vâng.
Sau khi bảo Lý công tử đi rồi, Hoàng thúc nói với Tiêu Vĩnh Vạn:
- Tiêu đại nhân này, chúng ta hãy đi kểm tra một vòng các thành trì xung quanh huyện lỵ này xem sao.
- Vâng đúng thế bọn giặc xâm lược kéo tới đây chỉ còn là vấn đề thời gian thôi.
Hoàng thúc cầm tấm bản đồ tác chiến đang được trải trên bàn và bước ra ngòai bản doanh.
Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn vừa bước tới, các tráng đinh đã mang ngựa đến chờ sẵn. Con ngựa được Hoàng thúc yêu quý là một con ngựa trắng. Con ngựa nhìn thấy chủ, một chân nó co lên, xương quai hàm bạnh ra, nó hý lên mấy tiếng.
Hai người lên ngựa đi ra phố. Trên bến nước, công việc đưa người tỵn nạn lên thuyền để chở ra đảo Xương Lân diễn ra khá tấp nập, tại cửa lạch, các thuyền đánh cá bất kể lớn bé đều được huy động neo đậu ở đó để chuẩn bị đánh nhau.
Trên mỗi thuyền treo một lá cờ to màu lam. Các thuyền đều được bố trí neo đậu trật tự ngay hàng thẳng lối, toát lên khí thế của những chiến thắng sắp xung trận.
Hoàng thúc quay nhìn Tiêu Vĩnh Vạn nói:
- Tiêu đại nhân nhìn kìa, những chiếc thuyền bé tý mà cũng cầm cờ sắp hàng neo đậu trông có khí thế đấy chứ.
Tiêu Vĩnh Vạn tỏ vẻ hết sức hài lòng, bèn đáp:
- Đúng vậy ạ, ở những bờ biển lớn phía nam nơi tổ quốc của Hoàng thúc cần nhiều chiến hạm lớn. Nhưng chiến đấu ở vùng duyên hải xứ này thì ngược lại, rất cần đến những đòan thuyền nhỏ như thế này.
- Quân Mông Cổ hải chiến kém, nên với đòan chiến thuyền kia cũng đủ sức để phòng vệ huyện trấn này.
Tiêu Vĩnh Vạn cũng cho lời nói của Hoàng thúc là đúng, song có điều chưa được mãn nguyện lắm bèn nói:
- Sách có câu khinh địch tất bại. Lần này bọn giặc từ phía Nghĩ Châu – áp Lục giang đánh vào, nên về mặt thuyền bè, chắc chúng đã chuẩn bị ở mức đáng kể. Bởi thế, cả vùng duyên hải phía tây nay chẳng đã lọt vào tầm tay của chúng là gì.
Hoàng thúc gật đầu nói.
- Tiêu đại nhân nói phải đấy.
Tiêu Vĩnh Vạn lại nhìn THoàng thúc, trình bày kế họach để phòng quân địch tiến từ phía bắc xuống theo đường biển.
- Thưa Hoàng thúc, nếu quân giặc tiến xuống đây theo đường biển thì đã có lực lượng thủy quân mạnh ở vùng phụ cận Nam phố. Có lẽ chúng sẽ không chọc thủng nổi phòng tuyến đó để tràn xuống đây. Nhưng chúng ta cứ đặt giả thiết là chúng có thể đánh xuống đây, thì với số dân tỵ nạn đông đảo đã được sơ tán ra đảo Xương Lân, chúng ta cần sử dụng tốt lực lượng này để lập kế họach để phòng sự tấn công của địch.
Hoàng thúc thấy trong câu nói của Tiêu Vĩnh Vạn có cách đặt vấn đề giống như một điều gì đó mà mình đã suy nghĩ, bèn nói:
- Tôi cũng đã có suy nghĩ như vậy, ta hãy trao cho những người dân tỵ nạn kia nhiều cờ xí. Khi quân giặc kép đến, họ sẽ giương cao các cờ xí đó lên, để làm tiên tan sĩ khí của quân giặc. Mặt khác, đòan thuyền ở phía nam kia, nếu có thể được sẽ vòng lên phía bắc đảo Xương lân hình thành "thế trận Ngư – Long" phục sẵn đấy. Tiêu đại nhân thấy thế nào?
- Hoàng thúc quả thật là bậc đại gia về binh pháp. Bây giờ nếu bầy thêm thế trận như Hoàng thúc vừa nói thì tuyến phòng vệ trong thành sẽ vững chắc như bàn thạch. Dù quân giặc có từ phía Hòang Châu đánh tới, chúng cũng không tài nào phá vỡ nổi bức thành này.
- Công việc này hôm nay cần nói với Lý công tử để bắt tay thực hiện ngay. Còn bây giờ chúng ta hãy đi kiểm tra tiếp tư thế sẵn sàng chiến đấu ở phía cửa đông xem sao. Hoàng thúc giục ngựa tiến bước. Tiêu Vĩnh Vạn cũng thúc ngựa đuổi theo. Cả hai người đi thẳng một mạch đến cửa đông. Số quân sĩ bố trí trên mặt thành cũng như quân lính bố trí ở hai bên và phía ngòai cổng thành đều cầm lăm lăm trong tay giáo gương sáng hóang rất có uy thế của một đội quân dũng cảm. Thực ra lúc đầu không ai nghĩ tới những người thanh niên vốn bình dị của các làng mạc làm nghề trồng lúc và nghê chài lưới kia nếu được giáo dục rèn luyện tốt sẽ trở thành những người lính đáng tin cậy như vậy. Thế là qua một năm giá dục rèn luyện, nay họ đã trở thành đội quân dũng cảm.
Tất cả binh sĩ đều dựng giáo gươm ra phía trước đứng nghiêm kinh lễ.
Hai con ngựa cưỡi đến được giao cho quân sĩ bên dưới thành trông coi Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn thì leo lên thành lầu.
Phía bên ngòai thành địa thế không cao lắm, nhưng là vùng đấy đồi lúp xúp, lớp lớp nối tiếp nhau, có những con đường từ Hòang Châu tới và những con đường đi về phía Hải Châu hoặc Trường Diên.
Tóm lại, đây là một vùng địa hình có thể tiếp cận đánh địch bất kể chúng từ đâu xâm nhập tới.
Sống ở đất Cao Ly đã sáu năm rồi nhưng Hoàng thúc vẫn chưa thông thạo lắm tình hình địa lý của nước này. Người đứng ngắm nhìn chỗ ngã ba nối liền các con đường từ ba mặt đông, nam, bắc rồi nói:
- Tiêu đại nhân xem có nhiều khả năng quân giắc sẽ xâm nhập từ phía nào vào đây?
Tiêu Vĩnh Vạn lấy tay chỉ về phía đông rồi nói:
- Quân giặc sẽ lợi dụng vùng đất không người thừa thắng xốc tới, cho nên thế tất chúng sẽ chọn con đường từ Hòang Châu tới. Đặc biệt vì chúng tiến bằng kỵ binh, nên quân của triều đinh khó chống cự lại, sẽ tìm cách tránh vào vùng rừng núi. Nếu như vậy, viên đốc binh chỉ huy biệt quân sơn thành có thống sóai cả quân triều đình lẽ dĩ nhiên phải nằm dưới quyền chỉ huy của Hoàng thúc. Mặt khác về phía quân giặc chúng sẽ chọn con đường bằng phẳng để tiến đến đây.
Nghe Tiêu Vĩnh Vạn trình bày như vậy, Hoàng thúc có vẻ tán thành:
- Tiêu đại nhân nói phải đấy.
- Khu vực do Hoàng thúc cai quản chỉ là bên trong thành nội ủng Tân, còn các thành bên ngòai do quân triều đình nắm giữ. Vì vậy, phía chúng ta, chúng ta không thể lập ra kế họach tác chiến chung được. Nhưng nhỡ chẳng may quân triều đình vỡ mặt trận vùng gò đồi ở phía đông và chạy lánh vào trong vùng núi ở phía đông – bắc thì quân giặc sẽ đánh thẳng vào cửa thành này của chúng ta. Trong tình hình đó, binh sĩ của sơn thành ít, vậy nên cần huy động thêm nghĩ quân của chúng ta. Chúng ta sẽ bố trí khỏang ba trăm tay bắn cung ở khu gò đồi kia, và mai phục khỏang hơn một trăm thớt kỵ binh ém trong hai thung lũng hai bên. Làm được như vậy thiết nghĩ là tốt, thưa Hoàng thúc.s
Nghe xong Tiêu Vĩnh Vạn trình bày Hoàng thúc gật đầu:
- Tôi cho kế họach này hay đấy. Nhưng quân giặc vốn là một lũ kiêu ngạo gian ác lại rất liều mạng. Một khi chúng đã tiến thẳng vào thành này như nước vỡ bờ, chúng ta không thể xem thường.
Hoàng thúc nhìn thấy Lý công tử, lòng mừng rỡ bèn nói:
- Lý công tử đến đúng lúc quá. Nếu Lý công tử trải tấm bản đồ tác chiến ra trước mặt Lý công tử và trình bày kế họach.
Nói đọan Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn trải tấm bản đồ tác chiến ra trước mặt Lý công tử và trình bày kế họach.
Lý công tử gật đầu, tỏ ý đã hiểu rõ, nói với Hoàng thúc:
- Xin chấp hành thượng lệnh.
Nghe trình bày kế họach, Lý công tử cảm thấy bừng lên niềm tin có thể chiến thắng được quân Mông Cổ, dù chúng có hùng mạnh bao nhiêu.
Hoàng thúc tỏ vẻ hài lòng nói với Tiêu Vĩnh Vạn:
- Tiêu đại nhân, xem ra quân, của chúng ta khác với quân triều đình cơ mà.
- Làm gì có quân triều đình tồn tại một cách biệt lập, cho dù quân của Hoàng thúc có nghĩa binh đi nữa, chỉ cần cản được bước tiến của giặc cũng giỏi lắm rồi chứ sao.
Lý công tử nhận lệnh của Hoàng thúc, một mặt liên hệ với đốc binh chỉ huy biệt quân sơn thành họ Kim, một mặt truyền đạt mệnh lệnh đó xuống các tráng đinh dưới quyền mình.
Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn trở về thành Việt Nam.
Vốn dĩ Hoàng thúc chỉ đảm trách việc phòng vệ khu vực huyện lỵ ủng Tân. Còn việc phòng vệ phía ngời thành của huyện lỵ này thì do quân đốc binh biệt sơn thành đảm trách. Quân đốc binh nằm dưới quền quản hạt của An tây đô hộ phủ. Do vậy mà một số lượng nhỏ quân lính của biệt quân sơn thành trực thuộc An tây đô hộ phủ đang làm nhiệm vụ phòng vệ mọt chu vi với bề rộng năm dặm kể từ huyện thành trở ra. Bởi vậy, kế họach tác chiến tổng quát cho cả địa phương này dũng do đô hộ phủ tức quân triều đình họach định và thực hiện. Còn Hoàng thúc chỉ phụ trách bên trong thành nội của huyện Ủng Tân thôi.
Sau khi hòan thành mọi việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu một cách hết sức vững chắc. Hoàng thúc đã ngày đêm lặn lộn đi thăm hỏi cổ vũ binh sĩ động viện khích lệ những cố gắng vất vả của họ.
Hơn một vạn quân Mông Cổ, do nguyên sóai Đương Tô thống lĩnh đã chiếm được Thâm Thôn và truy kích quân triều đình đang bỏ chạy. Theo đường chính, chúng tiễn thẳng về ủng Tân, đóng quân cách ngòai thành ủng Tân ba mươi dặm.
Trong tình thế đó, bỗng một hôm An tay đô hộ phủ cử một phó tuớng của án sát sử có tên là Trương Hanh ích đến gặp đốc binh biệt quân sơn thành ủng Tân. Nội dung cuộc gặp gỡ đại để như sau; quân Mông Cổ hiện nay đang chiếm đánh miền biên cương xa xôi này; chúng đang tấn công về phía An Tây và ủng Tân. Như vậy địa phương này sẽ đứng ra nhận trách nhiệm phản kích lại quân địch và bảo vệ lấy mình. Do vậy, ở Ủng Tân, đề nghị Hoa sơn quân đứng ra thống nhất chỉ huy cả việc phòng vệ sơn thành mà hiện nay đang nằm dưới sự quản lý của quan huyện.
Tướng Trương Hanh Ích và quan đốc binh Biệt Sơn Thành cúi gập đầu cầu khẩn Hoàng thúc:
- Thưa Hoa sơn quân, quan án sát cử tiểu tướng về đây xin có lời thưa với quân đại giám Hoa sơn quân, mong đại giám hãy đứng ra thống lĩnh chỉ huy giúp công việc phòng vệ của Đô hộ phủ. Vạn sự xin phó thác cùng Hoa sơn quân.
Hoàng thúc cảm thấy rất khó xử. Nếu từ chối chẳng hóa ra mình khiếp nhược sao, còn nếu đứng ra nhận lĩnh, thì bản thân vốn là người chỉ huy quân nghĩa binh chứ không phải là người chỉ huy quân triều đình, nay thống lĩnh cả quân triều đình phải thấy là nan giản. Nhưng trong giờ phút vận mệnh đất nước như ngàn cân treo sợi tóc, tấm lòng nghĩ khí bùng lên mạnh mẽ trong tim Hoàng thúc. Người cảm thấy không thể trốn tránh trách nhiệm, bèn nói:
- Tôi hiểu rồi. Quan án sát sứ là chỗ rất quen thân với tôi, là vị ân nhân đã hết lòng giúp đỡ tôi. Hơn nữa bản thân tôi đã nhận thấy được bao ân sủng như trời biển của đại vương Cao Tông, nay đất nước lâm nguy thế này, chẳng lẽ tôi còn tiếc mạng sống của mình hay sao. Có điều phận tôi nhỏ bé, không có danh phận gì để tự tiện chỉ huy đại quân của đại vương. Đó không những là một điều trái đạo lý mà còn là một điều thất lễ. Chỉ vì nghĩ như vậy mà tôi không dám nhận thôi. Nhưng việc đã như vậy rồi, dù tài hèn chí mọn, tôi cũng sẽ mang hết sức mình để bảo vệ đất nước.
Tướng Trương Hanh Ích và quan đốc binh Kim Khuê Vạn đã ba ngày cố trình bày ý định của quan án sát sứ và thỉnh cầu Hoàng thúc chấp nhận, nhưng người vẫn từ chối. Không còn cách nào, hai người lại van nài Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử nói hộ, nhưng cũng không xong. Đến lúc này mới là được sự chấp thuận của Hoàng Thúc, nên họ không giấu nỗi niềm sung sướng. Một lần nữa họ lại cúi đầu bái tạ Hoàng thúc và bày tỏ lời chúc mừng.
- Xin cảm ơn Hoàng thúc, không những các tiểu tướng chúng tôi trở về còn chút mặt mũi thưa lại với quan án sử mà trăm họ của xứ huyện này cũng sẽ hết sức vui mừng trước quyết tâm của Hoàng thúc đứng ra gánh vác sơn hà.
Hoàng thúc nhìn Lý công tử đang ngồi bên cạnh, ra lệnh chỉ tiếp nhận thủy thủ quân và lục quân thuộc quân đội triều đình do tướng Hanh ích đưa đến.
- Lý công tử hãy nhanh chóng tiếp quản một nghìn năm trăm quân sĩ và đoàn thuyền được biết đang đậu ngoài khơi đảo Xương Lân do Trương tướng quân đưa tới để biên chế vào đội quân của chúng ta.
- Xin tuân lệnh.
Trương tướng quân và quan đốc binh Trương Khúc Vạn cũng Lý công tử đứng dậy bước ra ngoài. Một chốc sau, Hoàng thúc quay lại nhìn Tiêu Vĩnh Vạn nói:
- Cũng như trước đây Tiêu đại nhân đã từng giúp, lần này xin Tiêu đại nhân hãy nghĩ cho kế hay. Quân địch đóng cách ngoài thành ta ba mươi dặm. Thành của chúng ta đang ở trong tình thế bị bao vây cô lập, không còn đường tiếp viện. Chúng ta phải liều thân sống chết chiến đấu đến cùng, ngoài ra không còn cách nào khác.
Thấy Hoàng thúc hạ quyết tâm cao như vậy. Tiêu Vĩnh Vạn mỉm cười thán phục và nói hết nỗi lòng mình:
- Hoàng thúc nghĩ đúng lắm. Tình hình như chúng ta biết rồi đấy. nếu hoàng thúc chỉ huy quân triều đình giỏi bảo vệ được huyện thành cô lập này thì chẳng nói chi, nhưng chẳng may thất bại e rằng thanh danh sẽ mất hết. Thế nhưng Hoàng thúc đã chấp nhận rồi, tôi cũng xin quyết một lòng phò Hoàng thúc.
Hoàng thúc nghiêm mặt, tỏ lời cảm ơn đối với Tiêu Vĩnh Vạn:
- Tiêu đại nhân là vị ân nhân mà trời đã ban xuống cho tôi. Từ khi rời Thanh Châu sang định cư trên đất này đến nay, Tiêu đại nhân đã giúp cho tôi rất nhiều. Tôi xin được thực lòng cảm tạ Tiêu đại nhân.
- Hoàng thúc nói gì vậy. Nếu tôi không được Hoàng thúc cứu cho thì đâu còn được sống đến bây giờ.
- Chuyện đã qua, bây giờ nghĩ lại chúng ta càng cảm thấy quý mến nhau hơn. Điều quan trọng sắp tới là chúng ta phải làm thế nào để đẩy lùi được quân Mông Cổ xâm lược và cứu lấy đấy nước này.
- Vâng đúng thế ạ. Bây giờ chỉ có mỗi một việc là phải làm thế nào để đập tan quân giặc.
- Nào, chúng ta hãy đi một vòng kiểm tra xem thành trì của chúng ta đã được phòng thủ như thế nào rồi.
Hoàng thúc đứng dậy, Tiêu Vĩnh Vạn cũng đứng dậy theo.

CHƯƠNG 17: CUỘC QUYẾT CHIẾN VỚI QUÂN MÔNG CỔ

Sáng ngày hôm sau, mặt trời tháng bảy từ sáng đã chiếu le lói. Những bầy quạ đen bay đến trên nóc thành lầu, kêu "quạ… quạ…" inh ỏi. Phía trong thành, người già, phụ nữ và trẻ em đều đã đi sơ tán. Chỉ còn lại những thanh niên trai tráng và quân sĩ đang chấp hành nghiêm chỉnh nhiệm vụ được giao, nên quang cảnh rất vằng vẻ. Nếu không phải là vị tướng có tài thao lược, trí tuệ hơn người thì không thể đề ra được kế sách như vậy.

Các vị danh tướng đã tạo nên tư thế sẵn sàng chiến đấu cao độ. Quân sĩ tràn đầy niềm tin bất kỳ lúc nào cũng có thể giáp chiến với kẻ thù, cơ mưu linh hoạt đánh trả lại quân địch.
Người dân trong nội thành nhìn đãn quạ bay trên nóc thành lầu, ai nấy đều lẩm bẩm phỏng đoán theo cách của mình.
"Bọn giặc Mông Cổ sắp kéo đến rồi!"
Buổi sáng sớm ngày hôm đó, theo tin của lính thám báo cho hay, bọn giặc Mông Cổ đóng cách ngoài thành ba mươi dặm đang sắp sửa tấn công vào huyện thành ủng Tân ngay trong ngày.
Trên lầu cửa đông, ba tướng soái là Hoàng thúc, Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn đang bàn luận công việc với nhau.
Tiêu Vĩnh Vạn trải tấm bản đồ tác chiến ra nói:
- Thưa Hoàng thúc, dù sao thành trì của chúng ra hãy còn yếu so với thế lực của quân giặc. Mặt khác, xét về địa lý, vị trí của huyện thành cũng không phải là vị trí tốt. Trước hết về mặt thế trận của cũng ta, tuy có thể bẻ gãy tinh thần chiến đấu của quân địch, song dù vậy có chỗ vẫn chưa được chuẩn bị đầy đủ. Cho nên hôm nay tôi xin được làm người tiên phong xung trận.
Hoàng thúc tỏ vẻ không tán đồng:
- Không. Tiêu đại nhân sao lại định thế? Bọn giặc có kỵ binh thiện chiến, chúng ta lại sử dụng thương kiếm thành thào. Như vậy, hà tất Tiêu đại nhân lại chiu vào hang cọp?
- Dù có thể không bắt được cọp, ta cũng phải mang lửa vào trong hang cọp. Bọn giặc dù tàn ác tôi cho rằng cũng không dám xông tới.
Nhưng Hoàng thúc và Lý công tử vẫn lo ngại cho Tiêu đại nhân làm tiên phong ra ngoài thành chiến đấu, nhỡ chẳng may, có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Tiêu Vĩnh Vạn kề vào tai Hoàng thúc trình bày một chập về mưu kế của mình. Đến lúc đó mới phần náo thuyết phục được Hoàng thúc.
- Nếu vậy hãy làm theo mưu kế của Tiêu đại nhân xem sao. Thế nhưng phải hết sức thận trọng đấy.
- Tôi đã rõ. Trong chiến tranh kẻ trượng phu phải biết quý mạng mình.
Vào lúc ấy bỗng có một lính truyền lệnh hối hả chạy về phía ngoài thành hướng đông. Chắc là lính hỏa tốc chạy về cấp báo cho quân giặc đang đánh vào nơi đây.
Thấy vậy, Lý công tử liền chạy xuống chân thành. Tiêu Vĩnh Vạn và Hoàng thúc cũng xuống theo sau, hoảng hốt định quay lại, suýt đâm bổ vào nhau.
Hoàng thúc không hài lòng trước vẻ hoảng hốt của Lý công tử, nói như quở trách:
- Bình tĩnh đã nào!
Lúc ấy Tiêu Vĩnh Vạn đứng bên cạnh, đăm chiêu nhìn gương mặt của Hoàng thúc nói với vẻ trầm tĩnh:
- Như đã thưa với Hoàng thúc, tôi xin xuất chiến. Mọi việc còn lại nhờ cậy Hoàng thúc.
- Tiêu đại nhân vất vả.
Bốn mắt của hai người nhìn nhau chớp chớp, như đang nói lên một sự hứa hẹn thần bí nào đó.
Tiêu Vĩnh Vạn mặc chiếc áo giáp, cưỡi ngưạ chiến của địch, trên lưng khoác cây cung dài, hai bên người giắt hai ống tên, một tay cầm cây thương dài. Tiêu đại nhân siết dây cương, con ngựa chồm lên hai chân trước hí vang, chạy lao về phía trước. Theo sau Tiêu đại nhân là đoàn kỵ binh hơn một trăm thớt ngựa. Cách đó năm dặm gò đồi, phục binh và tau bắn cung thiện xạ của quân Cao Ly đã được bố trí sẵn sàng.
Đoàn kỵ binh của Tiêu Vĩnh Vạn tiến được năm dặm bỗng trông thấy ven đường cái lớn trước mặt, bụi bốc lên mù mịt. Đúng là đoàn kỵ binh của quân Mông Cổ đang xông tới.
Từ trên thành lầu cao. Hoàng thúc đưa mắt nhìn ra xa, thấy trên cánh đồng cách huyện chưa đầy năm dặm, có vẻ như quân ta và quân địch đang bày thế trận đối mặt nhau. Hoàng thúc không khỏi lo lắng, bèn giao cho Lý công tử hơn năm mươi thớt kỵ binh và ra lệnh khi có nguy cấp phải xông ra ứng cứu.
Tiêu Vĩnh Vạn dần hơn một trăm thớt kỵ binh tiến ra dàn trận tại phía đông khu gò đồi.
Tường tiên phong của địch dẫn hơn năm trăm thớt kỵ binh xốc tới và chạm trán ngay với quân Cao Ly. Tướng tiên phong của giặc đi hàng đầu đoàn quân, đưa mắt đảo nhanh, thấy quân Cao Ly dựa lưng vào ngọn đồi đã bày xong thế trận sẵn sàng nghênh chiến. Lúc này vào đầu hạ tuần tháng bảy, cỏ lên xanh, đồng lúa tốt tươi, có phần nào che chắn cho quân Cao Ly, song nhìn qua vẫn có thế đoán biết được.
Tướng giặc là nguyên soái Đường Cô đang đi giữa đoàn quân để đốc chiến, thấy quân đi tiên phong đúng lại, bèn thúc người tiến lên phía trước:
- Tại sao chúng mày không tiến lên?
Hắn nói xong bèn nhìn ra phía trước quay lại hỏi tên lính hộ vệ đi bên cạnh:
- Thành trước mặt kia là thành gì?
- Thưa đó là Ủng Tân.
Tướng giặc Đường Cô nhìn thế trận của quân Cao Ly xong bèn quay về phía sau nói:
- Ta cũng không tiến lên nữa, hãy dừng lại để bố trí trận địa.
- Tuân lệnh.
Như vậy là quân Mông Cổ dừng lại cuộc hành quân của chúng để dàn thế trận. Nguyên soái Đường Cô gọi tên tướng tiên phong đến ra lệnh:
- Nhà ngươi hãy tiến về phía chúng, bảo chúng hàng phục nhanh lên.
Tướng tiên phong của địch cưỡi một con ngựa ô, hai bên tả hữu kèm theo hai lính hộ vệ. Hắn thúc ngựa xông lên. Không bao lâu tướng tiên phong của giặc Mông Cổ đã tiến đến trước cửa trận địa quân Cao Ly thét lớn:
- Chủ thành Ủng Tân biết điều hãy mau mau ra hàng phục nghênh đón đại quân Mông Cổ chúng ta!
Lúc này Tiêu Vĩnh Vạn cũng đã biết ý đồ của tướng tiên phong phía địch bèn thúc người chạy ra của trận địa.
Nghe tiếng quát của giặc. Tiêu đại nhân cười ha hả, mắng rằng:
- Thằng kia mày còn chưa bằng loài cầm thú. Bọn man di phương bắc chúng mày, lại dám cả gan xâm lược nước chúng tao, giết hại bao người dân vô tội, cướp bóc bao nhiêu của cải. Chúng mày đã gây bao tội ác trời không dung đất không tha. Như thế vẫn còn chưa đủ, chúng mày lại còn xâm phạm vào huyện Ủng Tân nhỏ bé này nữa.
Tướng tiên phong có vẻ hơi bị bất ngờ, cười hô hố nói rằng:
- Thằng chuột nhắt kia, mày không biết trời cao đất dày, còn dám mở mồm như thế?
Với tiếng Mông Cổ lưu loát, Tiêu Vĩnh Vạn mắng chửi như tát nước vào mặt bọn giặc.
Tướng tiên phong của địch giương cờ phát hiệu. Trận địa đại địch nhìn qua đó biết rằng quân Cao Ly sẵn sàng quyết chiến chứ không chịu hàng. Nguyên soái Đường Cô bèn xông ra, hai bên tả hữu của y, hơn ba trăm thớt kỵ binh giương cờ xốc tới.
Tướng giặc Đường Cô lại gầm lên:
- Này thằng mọi rợ kia, mày không biết ta là ai à? Ta chính là tướng quân Đường Cô, nguyên soái của nước đại Mông Cổ. Này, ta bảo cho nhà người đừng có liều như chó con không biết sợ cọp, phải mau mau xuống ngựa quy hành!
Tiêu Vĩnh Vạn đã nhiều lần sang nước Mông Cổ và cả nước Kim, nước Tống không có nơi nào là chưa đi. Anh biết rất rõ tình hình trong thiên hạ. Anh còn lạ gì tên nguyên soái Đường Cô kia và cả nhân cách của y nữa.
- Ta thừa biết tướng Đường Cô đang lớn tiếng tự xưng là một nguyên soái của quân Mông Cổ kia. Nhưng tổ tiên của nhà ngươi chẳng nhẽ không cảm thấy xấu hổ có một thần dân của nhà Đường đã phản bội lại đất nước, ôm chân quân Mông Cổ để trở thành một gian tướng hay sao? Nếu nhà người còn có chút lương tâm hãy mau mau hạ mũ quy hàng, trở về với tổ quốc của nhà ngươi.
Tiếng nói oang oang của Tiêu Vĩnh Vạn đã chẳng khác nào như một mũi dao đâm vào tim nguyên soái Đường Cô. Tên tường giặc uất ức đến tận cổ bèn ra lệnh cho tướng tiên phong của hắn:
- Hãy mau chặt đầu thằng kia mang về đây cho ta!
Tên tướng tiên phong của Đường Cô được lệnh liền hươ cây thương dài chạy tới.
Tiêu Vĩnh Vạn cũng lăm lăm cây thương dài xông ra.
Hai tường bắt đầu giao phong quyết chiến với nhau. Trận địa của hay quân vang lên tiếng hò reo dậy đất. Tiếng hai thương va vào nhau chan chát, tiếng ngựa hí, tiếng quân reo hò làm cho cả một vùng phía đông Ủng Tân bốc lửa.
Đánh được hai mươi hiệp, rồi ba mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại, hai tướng chưa có gì lộ vẻ mệt nhọc. Nhưng đánh được hơn sau mươi hiệp, thì ngọn thương của tướng tiên phong của giặc bị cụt đi còn ngọn thương của Tiêu Vĩnh Vạn vẫn không hề suy suyển, con chiến mã của Tiêu Vĩnh Vạn xông tới. Tên tướng giặc đã thấm mệt liệu bề không địch nổi, bèn quay đầu ngựa định tháo chạy thì bất thần ngọn thương của Tiêu Vĩnh Vạn đã đâm phập vào cánh tay phải của hắn, làm hắn ngã nhào xuống ngựa. Nguyên soái Đường Cô trông thấy thế vội vã xông ra định cứu tên tướng tiên phong. Lúc này Tiêu Vĩnh Vạn xông thẳng vào trận địa địch tả xung hữu đột, khiến quân Mông Cổ bắt đầu dao động.
Thừa cơ, hơn năm mươi thớt ngựa kỵ binh do Lý công tử dẫn đầu, hơn một trăm kỵ binh của nghĩa quân đột tiến thẳng vào trận địa của địch ra sức tung hoành. Tiếng quân Cao Ly reo hò vang trời dậy đất.
Phía quân Mông Cổ núng thế không còn cách nào khác bèn ra lệnh rút lui.
Hoàng thúc đứng trên thành lầu nhìn thấy quang cảnh đó, khắp người nổi gai ốc, bản thân cũng muốn nhảy ngựa ra với Tiêu Vĩnh Vạn. Lúc đó cũng là lúc quân Mông Cổ tháo chạy. Tiêu Vĩnh Vạn không đuổi theo truy kích theo quân giặc mà ra lệnh toàn quân rút về.
Giữa lúc Hoàng thúc đang bôn tẩu đó đây tìm Tiêu Vĩnh Vạn thì phía sau lưng có người cũng đã tìm ai đó, lên tiếng gọi:
- Hoàng thúc ơi!
Hoàng thúc quay lại nhìn thì đó là Tiêu Vĩnh Vạn. Hoàng thúc không giấu nổi niềm vui sướng:
- Tôi đang tìm Tiêu đại nhân, Tiêu đại nhân vẫn bình an chứ?
Tiêu Vĩnh Vạn cười sảng khoái đáp lại:
- Không sao đâu ạ, để Hoàng thúc là chủ tướng mà cũng xông ra giữa trận tiền như thế này thật không phải. Tôi vẫn bình an thưa Hoàng thúc.
Lúc này Lý công tử cũng chạy tới:
- Kìa, Hoàng thúc cũng đến đây? Tiêu đại nhân có bị thương chỗ nào không?
- Hà hà, tôi vẫn nguyên vẹn, chẳng có thương tích gì. Nào chúng ta vào trong đại bản doanh đi.
Tiêu Vĩnh Vạn cùng Hoàng thúc và Lỹ công tử bước vào trong lều đại bản doanh. Lúc đánh nhau quên hết nóng. Nay bước nào trong lều, mồ hôi vã ra như tắm. Hoàng thúc đã cho chở nước lạnh vào tự lúc nào để chỉ huy và chiến sĩ cùng uống. Hoàng thúc mời Tiêu Vĩnh Vạn uống trước. Lúc này cả tướng tá và binh lính đề đã có được niềm tự tin - thì ra quân Mông Cổ không mạnh như người ta đồn.
Hoàng thúc xoa lên lưng Tiêu Vĩnh Vạn, hết lời khen ngợi là võ nghệ của anh:
- Tôi đã biết tài võ nghệ của Tiêu đại nhân, nhưng không ngờ điêu luyện đến mức như vậy.
- Thưa đâu dám, tôi chỉ biết võ vẽ vài miếng. Hoàng thúc quá khen, làm tôi rất đỗi khó nghĩ.
Lý công tử ngồi bên cạnh lấy khăn tay lau mồ hôi chảy trên cổ Tiêu Vĩnh Vạn và nói:
- Tài võ nghệ của Tiêu đại nhân ngày trước tôi đã được trông thấy ở Thanh Châu nhưng không ngờ lại cao cường đến mức như đã thấy hôm nay.
- Ối chao, Lý công tử cũng nói đùa như vậy sao?
Cả ba đều cười ồ lên. Trong lúc họ đang chuyện trò với nhau như vậy thì quân giặc đã lùi ra bên ngoài khoảng mười dặm và xây dựng trận địa ở đó.
Lúc này Hoàng thúc nhìn xa xa về phía trận địa quân địch một chốc, có vẻ như nghĩ ngợi điều gì rồi quay nói với Tiêu Vĩnh Vạn:
- Tiêu đại nhân này, tối hôm nay quân giặc thế nào sẽ tập kịch vào trận địa của ta. Do vậy, chúng ta cần có đối sách phòng bị.
- Hoàng thúc nói đúng đấy. Nay là cuối tháng bảy. Bọn giặc chắc chắn sẽ lợi dụng đêm không trăng để tập kích ban đêm. Lực lượng quân sự lợi dụng đêm không trăng để tập kích ban đêm. Lực lượng quân sự của chúng ta còn yếu, do vậy có lẽ chúng ta phỉa rút vào trong thành thôi.
Lý công tử ngồi bên cạnh nói với giọng nghiêm trang:
- Thưa Hoàng thúc, tối nay tôi xin ở lại để giữ trận địa. Như vậy có lẽ tốt hơn.
Hoàng thúc nghe thế chỉ cười, không trả lời. Tiêu Vĩnh Vạn tuy cũng cảm phục trước nghĩa cử đó của Lý công tử, nhưng đã không ngần ngại can ngăn:
- Không được đâu. Lý công tử muốn làm tù binh sao? Đại binh đoàn của giặc ban đêm tập kích vào đây, liệu có cách gì ngăn nổi?
Đến đây, Lý công tử đã hiểu ra mưu kế của ta.
Đêm hôm ấy, lợi dụng lúc trời tối, tất cả quân sĩ đều được lệnh rút hết vào trong thành, và đóng chặt cửa thành lại.
Màn đêm buông xuống từ lúc nào. Phía bên này không đèn đuốc. Còn phía quân giặc, có lẽ chúng cũng sợ nên chỉ đốt leo lét bốn bề yên tĩnh.
Gần đến canh ba quân Mông Cổ bỗng hò reo ào tới bao vây, khu gò đồi mà quân Cao Ly đang chốt. Tướng giặc Đường Cô dốc hết sức lực bao vây trận địa quân Cao Ly. Nhưng rốt cuộc chỉ thấy những con bù nhìn được cắm khắp đó đây, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng một quân sĩ nào. Y kéo cả đám binh lính đã mệt mỏi vì cả đêm không được ngủ vào đến chân thành quân Cao Ly thì thấy của thành đóng chặt. Nhìn lên thành lầu, chỉ thấy hai lính đang ngồi ngủ gật.
Nguyên soái Đường Cô biết mình đã bị mắc lừa quân Cao Ly, bèn gầm lên:
- Quân bay đâu, phá cửa thành này cho ta!
Đám quân lính quá mệt mỏi, đành miễn cưỡng kéo nhau tới định phá cửa thành.
Bỗng đột nhiên từ trên thành lầu vang lên tiếng quân reo hò rung trời chuyển đất, cùng lúc những mũi tên lửa bắn xuống tới tấp, đá tảng lớn từ trên cao ném xuống. Quân Mông Cổ đứa trúng tên ngã gục, đứa trúng đá toác đầu lăn ra chết, đứa bị vó ngựa của chính quân lính chúng dẫm xéo lên chết gục, con số nhiều vô kể không sao đếm được. Lúc ấy, cửa thành bỗng mở loang ra, kỵ binh của quân Cao Ly xông ra chém giết quân giặc. Quân Mông Cổ hồn phi phách tán, đạp lên xác chết của đồng ngũ chạy tháo thân.
Nguyên soái Đường Cô khó nhọc lắm mới thoát chết trở về doanh trại. Trong trận chiến này quân giặc đã mất hơn một nghìn binh sĩ. Ngoài ra, quân Cao Ly còn thu được mấy trăm thớt ngựa chiến và nhiều binh khí!
Tướng giặc Đường Cô sau khi về đến doanh trại, bắt đầu suy nhận ra: quả là chủ thành này là một doanh tướng đấy. Bây giờ nếu vội vã muốn thắng ngay, chỉ tổ tổn thất binh mã mà thôi. Vì vậy phải có được sự hậu viện của thủy quân quan Mông Cổ đã được tiến vào vùng biển tây, từ mặt biển đánh vào mới dễ công phá được thành này.
Nghĩ vậy, nên y cho quân sĩ bám lấy trận địa, tiếp tục tại đó để chờ thủy quân đến.
Mặt khác, lúc bấy giờ thủy quân Mông Cổ đã vượt sông áp Lục tiến vào định chiếm cả một vùng Ngĩa Châu – Long Nham phố, nhưng đã bị thủy quân Cao Ly tiêu diệt, nên chúng phải vòng ra biển tây, định đổ bộ lên Nam Hải phố nhưng cũng thất bại. Quân Mông Cổ vốn dĩ yếu về thủy chiến nên chỗ nào cũng bị ăn đòn. Nhưng đến đầu tháng tám năm đó, quân địch sau khi đã chiếm được sơn thành An Lăng đã đưa chiến thuyền đến vùng duyên hải, nhằm theo hướng Ủng Tân.
Quân Mông Cổ xâm nhập vào vùng biển trước cửa ngõ Ủng Tân đã chiếm được Đại Thanh.
Vào lúc chập tối, Hoa sơn quân triệu tập các chư tướng như Lý Công tử, Tiêu Vĩnh Vạn, Tướng Trương Hanh Ích để bàn kế hoạch đối phó.
Bỗng có một người tên là Lý Thành Thất, một á tướng thủy quân trước đây được cử ra đồn trú tại đảo Đại Thanh vội vã đi tới và bước thẳng vào đại bản doanh. Mọi người đang ngồi họp nhìn thấy á tướng thủy quân Lý Thành Thất mặt mày ủ rũ bước vào đều đoán biết được tình hình hải chiến ở đảo Đại Thanh.
Á tướng Lý Thành Thất vốn xuất thân thủy quân ở Việt Nam quốc, cũng là một danh tướng đã từng có nhiều chiến tính về mặt hải chiến.
Lý công tử biến sắc mặt hỏi:
- Sao lại chạy về như thế này?
Lý Thành Thất cúi gặp đầu, nói với dọng thống thiết:
- Tôi thật có tội. Đảo Đại Thanh đã bị địch chiếm mất rồi.
Lý công tử cúi nhìn xuống đất, không nói câu nào.
Một bầu không khí trầm uất bao trùm lấy đại bản doanh. Nhưng Hoàng thúc không một chút dao động. Người lên tiếng:
- Thất bại một lần là chuyện thường tình của các binh gia. Cái Đảo Đại Thanh bé nhỏ ấy dù có bị giặc cướp đi cũng đừng nên chán nản. Vậy trong cuộc sống chiến đấu trên đảo Đại Thanh, phía quân ta có bị tổn thất nhiều không?
Hoàng thúc muốn biết trước hết về tình hình cuộc chiến đấy ở đó. Lý Thành Thất hiểu được suy nghĩ của Hoàng thúc nên đã trình bày cặn kẻ mọi việc vừa xảy ra.
Vốn dĩ lực lượng thủy binh của Ủng Tân mỏng, không đủ sức trải rộng ra để giữ một đảo nhỏ như đảo Đại Thanh, nên chỉ cắt cử hơn một trăm lính cùng với năm chiến thuyền ra đó để theo dõi và báo cáo tình hình vùng biển gần. Lý Thành Thất được cử ra để chỉ huy số binh sĩ này. Một hôm vào buổi tối quân Mông Cổ huy động hơn hai mươi thuyền, đốt đuốc sáng rực trời, hò reo xông tới bao vây đảo Đại Thanh.
Lý Thành Thất theo dõi kỹ lực lượng địch, thấy trên mỗi thuyền chiến thuyền lớn có hơn một trăm quân thủy quân, mỗi chiến thuyền lại còn dắt theo một đoàn thuyền nhỏ có đến mấy chục chiếc, ngoài ra chúng còn chở rất nhiều ngựa đi theo. Như vậy là địch có kế hoạch đánh điểm Ủng Tân. Lý Thành Thất nghĩ vậy và ra lệnh cho lực lượng thủy quân dưới quyền mình lợi dụng sương mù rút lui về đảo Kỳ Lân. Cũng may không bị thiệt hại về sinh lực.
Hoàng thúc ngồi bên cạnh, nghe trình bày xong bèn nhìn lên gương mặt Tiêu Vĩnh Vạn, như có ý muốn hỏi Tiêu đại nhân có kế sách gì hay không.
Tiêu đại nhân mỉm cười, nhìn Lý Thành Thất nói:
- Lý á tướng vất vả nhiều. Kế hoạch tác chiến đã diễn ra đúng như dự định. Đây không phỉa là thất bại, mà ngược lại là một thành công.
Mọi người trong cuộc họp đều nhìn Tiêu Vĩnh Vạn với vẻ ngạc nhiên. Song Tiêu Vĩnh Vạn không nói gì. Hoàng thúc có phần sốt ruột, hỏi:
- Vậy Tiêu đại nhân có kế sách gì hay?
- Vâng xin Hoàng thúc đừng bận tâm. Hiện nay tướng đich là nguyên soái Đường Cô đang trù quân tại phá của đông thành Ủng Tân đang muốn phá vỡ thành này nhưng đã liên tiếp bị thất bại. Không còn cách nào khác, nay chúng dự định huy động cả hải quân đánh chiếm thành Ủng Tân từ mặt biển. Hiện nay có vẻ như Đường Cô đang liên hệ với lực lượng địch đã đổ bộ lên đảo Đại Thanh, ý đồ của chúng là lực lượng thủy quân này sẽ hợp đồng với cuộc đại tấn công của lục quân, thừa cơ đánh chiếm Ủng Tân. Bởi thế việc Lý á tường rút đảo Đại Thanh cho địch một cách dẽ dàng như vậy sẽ làm cho địch yên tâm phối hợp với lục quân. Nếu chúng ta đập tan được lực lượng thủy quân này trong khi chúng đang yên tâm ngồi đợi mệnh lệnh tác chiến trên bộ thì là xong mọi việc.
Đến lúc bấy giờ. Hoàng thúc mới lấy hai tay vỗ vào đầu gối mà nói rằng:
- Tiêu đại nhân quả thực có trí tuệ thần kỳ.
- Thưa không dám.
Tiêu Vĩnh Vạn trả lời xong bèn đứng dậy nói với Hoàng thúc:
- Thời gian gấp lắm rồi, vậy tôi sẽ cùng Lý công tử đi xem sao.
- Tôi cũng cùng đi.
Hoàng thúc cũng đứng dậy. Nhưng Tiêu Vĩnh Vạn thấy trong thành không còn ai trông coi, nên muốn xin Hoàng thúc ở lại. Nhưng Hoàng thúc coi đây là điều đạo lý phải làm nên quyết định đi cùng Tiêu Vĩnh Vạn không còn cách nào khác đành nói:
- Nếu Hoàng thúc đã quyết như vậy thì chỉ một mình Lý công tử ở lại, còn tôi và Hoàng thúc sẽ đi. Dù sao thì quân địch cũng chưa thể mở cuộc tấn công trong ngày một ngày hai được.
Như vậy là Lý công tử ở lại trong thành còn Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn thì đi ra đảo Xương Lân.
Sau khi đến đảo Xương Lân, hai người thấy việc bố trí thủy quân ở đây rất đúng với kế hoạch, tinh thần quân sĩ rất cao.
Tiêu Vĩnh Vạn đi thuyền kiểm tra một vòng quanh đảo xong bèn cùng với Hoàng thúc thầm thì bàn bạc với nhau điều gì. Sau đó, Tiêu Vĩnh Vạn lên thuyền đi về nơi nào không ai biết.

CHƯƠNG 18: LẬP MƯU TIÊU DIỆT HAI ĐẠO LỤC HẢI QUÂN CỦA GIẶC

Quân Mông Cổ đi đến đâu là cướp bóc và gây ra những hành vi man rợ đến đấy, nên không những xung quanh thành Ủng Tân mà khắp dải bờ biển tây, những người dân làm ruộng và làm nghề chài lưới hầu hết đều bỏ đi lánh nạn. Những người còn lại chỉ là những người già cả trong các gia đình nghèo.

Sau khi quân Mông Cổ xâm chiếm đảo Đại Thanh, của Lạch Nguyệt Xuyên vốn một thời là cửa lạch sông nay trở thành chợ cá trên biển.
Từ cửa lạch Nguyệt Xuyên vòng qua Giao Đình và đi hết làng Trường Hiền, xong đi quá một chập nữa thì đến vòng đóng quân của quân Mông Cổ ở bên ngoài của đông thành Ủng Tân. Bên cạnh con đường lớn từ của lạch Nguyệt Xuyên đi Giao Đình có hai gian nhà. Một gian trong đó là quán rượu. Chỉ có quán rượu này là không đi lánh nạn, tối hôm nay vẫn tiếp tục mở cửa.
Tiết trời đã sang thu. Tối đến chủ quán cho trải chiếu lác đác ngoài sân, thắp đèn nến sáng rực đón khách.
Nhưng trong tình hình lúc đó không thể có ai đến đây uống rượu.
Cô chủ quán mới trạc ngoài ba mươi, dáng điệu lúng túng định bắt mấy con bọ hung bay táp vào ngọn nến.
Lúc ấy có ba người mặc quân phục đi ngang qua phía trước.
Những người này là quân Mông Cổ. Sau khi chiếm được đảo Đại Thanh, chúng định đánh vào Xương Lân và từ đó đánh chiếm gọn thành Ủng Tân, nên chúng đã cho lập hai doanh trại bí mật của thủy quân trên đảo Đại Thanh. Mấy tên lính này là những tên lính liên lạc đã dùng thuyền nhỏ đổ bộ lên của lạch Nguyệt Xuyên, để từ đó đi dọc theo đường cái lớn đến gặp nguyên soái Đường Cô tại bản doanh quân Mông Cổ quán mở rộng. Chúng đưa mắt nhìn vào sân trước, thấy bên dưới ánh nên có một vò rượu to đặt ở đấy và một thiếu phụ còn trẻ đứng một mình. Một tên lính trong bọn đưa mắt nhìn hai tên kia thì thầm to nhỏ:
- Từ ngày đổ bộ đến giờ, lần đầu tiên thấy người.
- Thấy người làm cái quái gì. Ta vào uống chén rượu rồi đi có phải hơn không.
Tên lính trả lời nhìn thấy vò rượu, mồm chảy nước dãi. Tên lính còn lại móc trong túi một dúm tiền lá Cao Ly xem và nói:
- Dùng tiền này mua được rượu chứ.
- Chà, thằng này có nhiều tiền quá, quỷ thần ơi, mày cướp ở đâu mà lắm tiền thế!
Tên lính mở miệng đầu tiên vừa rồi nói vậy, tên lính nhìn vò rượu bèn nói:
- Nào ta vào đi. Mỗi đứa làm một chén nhá! Một chén rồi đi quan đại tướng nào biết được.
Tên lính vừa bước vào trong cổng, đã thấy cô chủ quán mỉm cười duyên dáng, đon đả ra mời chào.
- Xin mời các vị quan quân vào trong này.
Nói đoạn, cô chủ đưa chúng vào ngồi trên chiếc chiếu trải ngay ngắn giữa sân.
Ba tên lính ngồi xoái chân, chúng nhìn say đắm cô chủ quán xinh đẹp. Một tên thò tay vào túi lấy một vốc tiền xòe trong lòng bàn tay và nói:
- Này chị chủ quán ơi, cho bát rượu, giá bao nhiêu tiền chị lấy đủ thì thôi.
Hắn nói bằng một thứ tiếng Cao Ly trọ trẹ, nhưng cũng hiểu được.
Cô chủ quán vừa nhìn vào mặt tên lính như muốn bật cười, chọn nhặt ra ba đồng tiền lá và nói:
- Giá tiền ba chén rượu là ba đồng đủ rồi. Các vị có cần thức nhắm nữa không?
Cô chủ quán vừa nói vừa cố nhịn cười, thấy vậy tên lính nọ cười hì hì:
- Thế à… cũng đã quá bữa rồi, mang ra cho mấy đĩa.
Cô chủ quán lại nhặt thêm năm lá tiền trong lòng bàn tay tên lính và đi vào nhà.
Một chốc sau rượu và thức nhắm mang ra. Người bưng mâm rượu ra là một ông già trạc trên bảy mươi.
Cô chủ quán rất ý tứ, biết quân Mông Cổ có tính đa nghi, nên đã rót ra một chén, uống hết và các thức nhắm mỗi thứ một ít ăn trước mặt chúng. Đến lúc ấy, bọn lính có vẻ yên tâm mới uống hết bát rượu lớn.
Không hiểu sao bọn lính vừa mới uống hết chén đầu tiên đã nhanh chóng lăn ra ngủ.
Ông già ở dưới bếp có lẽ đang đợi giờ phút này, bèn bước ra nhặt lấy chiếc túi truyền lệnh mà bọn giặc mang theo vào trong nhà xong, lại cầm mang ra đặt trả chỗ cũ cạnh mấy tên lính. Ba tên lính và cô chủ quán cũng chỉ mê đi trong chốc lát xong lại tỉnh lại, mọi vật xung quanh vẫn như cũ. Chúng có vẻ như không cảm thấy có điều gì xảy ra, lại tiếp tục uống rượu và ăn các thức nhắm. Bọn lính còn muốn uống nữa và thích ngồi vui chơi với cô chủ quán xinh xắn, nhưng chúng cũng biết rằng nếu làm trái lệnh của đại tướng thì chắc chắn chúng sẽ vị đầu lìa khỏi cổ trên đất Cao Ly này. Do vậy chúng nhăn mặt bảo nhau:
- Nào ta đi thôi!
Nhưng một tên trong bọn tay cầm chai rượu, chép chép miệng, nói như tiếc rẻ:
- Ta chỉ uống thêm một chén nữa thôi rồi đi.
Nghe vậy một tên trong bọn trợn mắt quát:
- Mày có mấy cái đầu?
Có thể hắn thấy ngượng vì đã nói quá lời, bèn chữa lại:
- Thôi, đợi lượt về sẽ cùng nhau uống cho thỏa thích.
Nói xong cả bọn cùng đứng dậy. Cô chủ quán như tỏ vẻ luyến tiếc:
- Còn nhiều rượu và thức ăn quá mà các vị nỡ bỏ đi sao.
- À, ngay tối nay chúng tôi sẽ quay lại.
Nghe thấy thế, cô chủ quán tỏ vẻ vui mừng, cũng đứng dậy theo, nói với giọng trong trẻo:
- Thế nào các vị cũng đến nhé. Chúng tôi sẽ làm thức nhắm ngon chờ các vị đấy.
Bọn lính nửa như nghe thấy nửa như không, vội vã rảo bước ra đi.
Sau khi bọn lính đi rồi, quán rượu lại vắng bóng khách như trước.
Không biết có phải chờ bọn lính trở lại hay chăng mà tuy đêm đã khuya, quán rượu vẫn chong đèn mở rộng cửa.
Vào khoảng ba giờ sáng, quả nhiên bọn lính quay trở lại.
Có lẽ đã quen với cô chủ quán, nên bọn lính nói bằng thứ tiếng Cao Ly giọng lơ lớ:
- Này chị chủ quán ơi, chúng tôi đã quay lại rồi đây.
Tất cả bọn chúng ngồi sà vào chỗ.
- Mấy vị vất vả quá!
Cô chủ quán đon đả mời chào và bưng mâm rượu cùng thức nhắm ra.
- Nào, lần này thế nào cũng mời chủ quán một chén nhé!
Một tên lính ra vẻ tỉnh bơ, mời rượu cô chủ quán.
- Vâng, tôi xin uống trước để các vị an tâm cùng uống.
Cô chủ quán mắt đung đưa, cầm chén rượu lên uống và gắp đều các thức nhắm mỗi thứ một ít nếm thử.
Bọn lính yên tâm cầm chén rượu do cô chủ quán rót cho uống cạn.
Chả hiểu làm sao vừa mới uống hết chén đầu tiên, tất cả đều lăn ra ngủ. Nhưng cũng chỉ là chén đầu tiên, còn những chén rượu sau đó thì không việc gì.
Khi họ uống hết chén đầu và bị mê lịm đi thì ông già lại như lần trước từ trong bếp bước ra, nhấc lấy chiếc túi truyền lệnh đặt bên cạnh bọn lính vào phòng xong lại bước ra và đặt nguyên vào chỗ cũ.
Một chốc sau, tất cả đều tỉnh lại. Mọi việc diễn ra chỉ trong khoảng khắc. Tất cả mọi thứ trong bữa rượu không có gì thay đổi, nên bọn lính không hay biết gì.
Một chốc sau khi đã lặng lẽ ăn hết thức ăn và uống hết rượu. Một tên lính lấy mu bàn tay quệt ngang cái mồm nhờn những mỡ và nói:
- Nào, ta đi thôi!
Hắn cầm lấy chiếc túi truyền lệnh để bên cạnh và đứng dậy. Hai tên còn lại tỏ vẻ tiếc rẻ, nhưng cũng đứng dậy theo.
Cô chủ quán lại tươi cười đon đả.
- Mời các vị ở lại chơi thêm chốc nữa rồi hãy đi nào. Trời chưa sáng mà.
Nghe thấy vậy, một tên trong bọn đáp lại giọng thều thào:
- Này, chủ quán đừng nói thế. Nếu trước khi trời sáng mà không về kịp thì ba cái cổ chúng tôi sẽ bị phạt bằng!
Bọn chúng hốt hoảng đứng dậy bước ra ngoài. Một tên lính xỏ chân vào giày, hắn đạp một chân lên thùng rượu để buộc dây giày.
Tên lính nhìn thùng rượu bèn quay lại cô chủ quán:
- Này, chủ quán ơi! Đây là thùng rượu đấy chứ?
Cô chủ quán đến bên cạnh tên lính nói:
- Vâng, phải đấy. Đây là thùng rượu vốn được làm để bán vào dịp mùa thu này. Nhưng gặp thời buổi loạn lạc, cứ để nằm một chỗ không bán được. Mời các vị mang về một ít biếu lên ngài đại tướng.
Nói đoạn, cô chủ quán bước vào bếp bưng ra một chiếc thùng to đẹp hơn và sang đầy rượu cho bọn lính mang về. Bọn lính cười hí hửng.
- Cảm ơn, cảm ơn, chúng tôi sẽ lại đến nữa.
Nói xong, chúng vác thùng rượu ra về.
Lúc này là thượng tuần tháng tám, đêm tối mịt mùng. Không trăng, chỉ có ánh sao lấp lánh. Người nữ chủ quán đứng trông cho đến khi bọn lính xuyên qua bức màn đêm đen kịt khuất xa mới quay vào trong ngõ, áo của cô ướt đẫm sương đêm từ lúc nào.
Vì mặc áo dệt bằng sợi gai mỏng, ăn hồ nhiều lúc đầu trông rất phẳng phiu, nhưng đến giờ bị sương đêm làm ướt, chất hồ nhũn đi dính bết vào da, trông nhàu nát hẳn đi. Trên vầng trán trắng trẻo của cô lấm tấm những giọt mồ hôi chảy xuống hai má, trông có vẻ mệt nhọc.
Người thiếu phụ bước vào trong phòng, mắt liếc ngang nhìn ông già, nói:
- Rõ khiếp quá! Em chả hiểu ra thế nào. Lần đầu tiên trong đời phải làm cái việc ghê sợ như thế này…
Ông già nhìn người thiếu phụ với ánh mắt đầy cảm kích, an ủi cô:
- Quý cô sẽ là vị công thần số một của đất nước này đấy.
Người thiếu phụ như chẳng để ý đến lời nói đó, nét mặt lộ vẻ sợ sệt nói:
- Bây giờ nếu mọi việc đã xong xuôi thì hãy đi nhanh khỏi nơi này thôi. Chao ôi em sợ quá…
Trước cảnh đó ông già không thể chần chừ thêm được nữa, bèn đứng dậy tắt hết tất cả nến trong phòng, nhìn một lượt khắp gian phòng rồi quay sang nói nhỏ:
- Ra đứng đợi ở cạnh đường cái trước mặt nhà nhé. Tôi sẽ dắt ngựa ra đó.
Người thiếu phụ tỏ vẻ lo lắng.
- Ông đến nhanh cho, em sợ lắm…
- Quý cô đã làm được một việc như vậy còn sợ gì…
Ông già nói đoạn cười hà hà rồi đi ra phía ngoài cửa sau nhảy lên lưng ngựa đã buộc sẵn ở đó đi ra phía đường cái lớn.
Vừa trông thấy người thiếu phụ, ông dùng một tay bế thốc chị ta lên cho ngồi phía trước mặt mình bằng một động tác chẳng có một chút gì gọi là già cả, rồi người ngựa rẽ vào con đường mòn phóng chạy mất hút.
Trong khi đó, trên đảo Xương Lân, Hoàng thúc ngồi một mình trong bản doanh thủy quân thức suốt cả đêm để chờ, nhưng người được chờ chưa đến, nên Hoàng thúc lại bước ra ngoài, đi lên đi xuống bến thuyền, tỏ vẻ rất sốt ruột.
Nước biển vỗ bì bọp vào ghềnh đá dưới chân đảo.
Lúc này, từ trên mặt biển đen ngòm, có tiếng khua mái chèo vọng lại.
Lính tuần canh đi trên thuyền lắng tai nghe, chăm chú theo dõi về phía có tiếng động. Hoàng thúc cũng hết sức chú ý dõi nhìn về phía đó.
Bỗng có một chiếc thuyền lướt nhanh như tên về phía này, người lính bình tĩnh hỏi giọng vừa phải:
- Ai?
Nhưng đêm vẫn lặng lẽ, chỉ có tiếng vọng xa xa đáp lại.
- Tôi đây… Tiêu Vĩnh Vạn!
Nghe tiếng Tiêu Vĩnh Vạn, Hoàng thúc đang ngồi thu mình trên bến thuyền nhìn ra biển, không giấu nổi vui mừng, vội vàng chạy ra đón.
- Tiêu đại nhân đã về đó phải không?
Tiêu Vĩnh Vạn cười hì hì, khua tiếp mấy mái chèo nữa cho thuyền cập bến. Anh định neo thuyền vào bờ, nhưng sóng biển buổi sớm mai tương đối mạnh làm cho thuyền chòng chành, lúc trao bên nọ, lúc lắc bên kia.
Hoàng thúc một chân giẫm xuống nước, đưa tay nắm giữ lấy thuyền. Thuyền nhanh chóng cập ngay được vào bến.
Thuyền vừa đứng yên, Tiêu Vĩnh Vạn bèn xốc nách người thiếu phụ đang mê man bất tỉnh nằm bẹp trong thuyền đưa lên bờ.
Hoàng thúc thấy vậy, bèn lo lắng hỏi:
- Bị thương hay sao?
Tiêu Vĩnh Vạn buột miệng trả lời:
- Làm gì mà phải bị thương. Say sóng chỉ mê man một tý thôi, thưa Hoàng thúc.
Nói đoạn bèn ôm lấy người thiếu phụ bước đi.
Biết Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn đã về, bốn năm tráng đinh chạy ra đón.
Các tráng đinh cõng người thiếu phụ trên lưng đi theo Hoàng thúc về bản doanh.
Hoàng thúc bước vào bản doanh, được nhìn lại mặt của Tiêu Vĩnh Vạn, cảm thấy yên tâm, trút đi được nỗi lo trong lòng, nên cứ nhìn anh không chớp mắt.
Trên khuôn mặt Tiêu Vĩnh Vạn, râu dài mọc tua tủa.
Hoàng thúc nhìn Tiêu Vĩnh Vạn nói:
- Tiêu đại nhân vất vả quá chừng!
Đôi mắt Tiêu Vĩnh Vạn bừng sáng long lanh.
- Hoàng thúc ơi, kỳ này chắc sẽ đại thành công.
Nghe nói, Hoàng thúc xúc động, mừng rỡ.
Người thiếu phụ nằm bên cạnh mê man khi nãy, bắt đầu cựa mình, rên nhè nhẹ:
- Mẹ ơi! Nước…
Hoàng thúc bước đến bên người thiếu phụ, đổ từng ít nước một vào môi cô ta. Người thiếu phụ lè lưỡi ra liếm nước dính trên môi cho đỡ khát.
Một chốc sau, nàng bắt đầu tỉnh lại và ngồi dậy.
Nàng đưa hai mắt nhìn khắp gian phòng một chặp. Đến bây giờ mới nhận ra Hoàng thúc và Tiêu đại nhân.
- Ôi chao, tiện nữ em xấu hổ quá…
Nàng đưa hai tay túm lấy áo xống và đầu tóc rũ rượi, úp mặt vào hai đầu gối.
Nhìn thấy vậy, Hoàng thúc không giấu nổi vui mừng, lấy khăn tay lau những giọt mồ hôi chảy trên trán thiếu phụ và nói:
- Thu Nguyệt của chúng ta đã làm được việc lớn đó…
Tiêu Vĩnh Vạn ngồi bên, nhìn người thiếu phụ khen ngợi.
- Thưa Hoàng thúc, công của Thu Nguyệt lớn lắm. Lúc đầu tôi cũng rất lo. Nhưng khi bước vào cuộc mới thấy cô ấy mạnh dạn mà chu tất làm sao.
Lúc này người thiếu phụ mới ngước đầu lên nhìn Hoàng thúc:
- Thưa Hoàng thúc, tiện nữ cứ tưởng như mình đã chết rồi. Thật tiện nữ nằm mơ cũng chẳng nghĩ được mình còn sống trở về gặp Hoàng thúc.
Tiêu Vĩnh Vạn nói to:
- Cô em cứ nói chết. Chết làm sao được. Dễ chừng cô em chán cuộc sống rồi, có phải không nào?
Nói đoạn anh cười ha hả.
Hoàng thúc gọi một người lính vào ra lệnh bảo đưa Thu Nguyệt sang phòng bên thay áo sống và ngủ nghê cho lại sức.
Trong bản doanh chỉ còn lại hai người Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn đang bí mật thì thầm với nhau về một điều gì đó. Bỗng Tiêu Vĩnh Vạn phá lên cười vang động cả bản doanh. Nếu có ai trông thấy chắc sẽ nghĩ chuyện chiến tranh mà lại như thế này ư. Nhưng trong trướng nội bản doanh nếu không có một chủ trương quyết thắng cho chiến trường thì chuyện bách chiến bách thắng là một điều khó khăn.
Huống hồ trong giờ phút đại quân Mông Cổ đang bao vây và định đè bẹp thành Ủng Tân này thì phải làm thế nào để phá tan được mưu gian của giặc?
Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn đang thì thầm bàn bạc. Một chốc sau, khi kế hoạch tác chiến đã lập xong, một phần vì suốt đêm không được ngủ, một phần nữa vì kế hoạch tác chiến tối nay đã có rồi nên toàn thể các tướng sĩ đều được lệnh phải đi ngủ.
Tiêu Vĩnh Vạn gọi viên phó tướng đến lệnh cho toàn thể các tướng sĩ đều phải đi ngủ cho đầy giấc, không được đánh thức họ dạy cho đến tối hôm nay.
Lại nói đến ba tên lính Mông Cổ. Chúng uống rượu ở quán rượu bên cạnh đường từ Nguyệt Xuyên lý đến Giao Đình xong, còn mang cả một thùng rượu to về bản doanh thủy quân của chúng. Sau khi về đến nơi, chúng liền chuyển đến đại tướng Ô – Khan Ka – Tan mệnh lệnh tác chiến của nguyên soái Đường Cô và cả thùng rượu nữa. Tướng thủy quân Mông Cổ Ô – Khan lắc đầu, nhưng vì đây là mệnh lệnh của nguyên soái Đường Cô, không còn cách nào khác, đành phải phục tùng. Vốn dĩ, nếu theo kế hoạch của đại tướng thủy quân Ô – Khan thì tối hôm nay sẽ bất ngờ đánh chiếm gọn đảo Kỳ Lân và đảo Xương Lân. Nhưng nguyên soái Đường Cô đã ra lệnh để chậm một ngày cho đến đêm mai.
Ý đồ của nguyên soái Đường Cô là muốn mở cuộc tổng công kích bằng thủy quân thì phải mở cuộc tấn công của lục quân ở mặt trận phía đông trước để hút lực của quân Cao Ly trong thành Ủng Tân về phía đông, thừa cơ lúc đó thủy quân sẽ tấn công vào bờ biển tây bị bỏ trống.
Mệnh lệnh của cấp trên đã như thế rồi, không thể làm khác được. Tướng Ô – Khan nhìn trừng trừng vào tên lính đi truyền lệnh về.
- Mày mang rượu này ở đâu về?
Bọn lính cúi gầm mặt, sợ líu cả lưỡi.
- Dạ thưa đại tướng, khi tiểu tốt từ cửa lạch gọi là lạch Nguyệt Xuyên đi về đất Giao Đình có trông thấy một quán rượu. Trước mặt quán có mấy chục thùng rượu bày la liệt. Chỉ có mỗi nhà này là có một đứa con gái bán rượu. Và bọn tiểu tốt đã lấy một thùng rượu trong số các thùng rượu để trước sân mang về dâng lên tướng quân.
Nghe nói tướng quân Ô – Khan tỏ vẻ ngạc nhiên bèn lườm nhìn tên lính một chặp.
Bọn lính đã làm trái lệnh chỉ huy của chúng – trên đường đi truyền lệnh chúng đã ghé vào quán mua rượu uống.
Nhưng ba tên lính cố giấu biệt việc ăn nhậu: chúng tỏ vẻ thản nhiên như không. Nhìn chằm chằm vào bọn lính một chốc, tướng Ô – khan hỏi:
- Chúng mày có uống rượu trong quán đó không?
- Dạ thưa, hoàn toàn không có việc đó ạ.
Cả ba tên mạnh dạn trả lời như đã có hẹn với nhau từ trước.
Ô – Khan có vẻ yên tâm bèn hỏi tiếp:
- Thế chúng mày có trông thấy con chủ quán đó không?
Nghe hỏi vậy, bọn lính định nói là một mỹ nhân tuyệt thế, tiếng nói và cử chỉ thật là dịu dàng, nhưng ngộ nhỡ nói ra lỡ mồm thì đầu cả ba đứa sẽ lìa khỏi cổ. Nghĩ vậy nên chúng không thể trả lời đã trông thấy cũng không thể trả lời chưa thấy. Một tên trong bọn giả vờ như không biết gì cả, bèn nhìn sang tên đứng cạnh. Tên này hiểu ý bèn trả lời:
- Dạ thưa chỉ có mình tiểu tốt trong thấy mặt của nó.
- Thế mày làm thế nào trông thấy nó?
- Dạ thưa trên đường về, hai anh này vào lấy trộm thùng rượu còn tiểu tốt đứng ngoài nhìn qua khe cổng trông chừng xem con chủ quán có bước ra không. Vừa hay lúc ấy, tiểu tốt nhìn thấy gương mặt của nó từ phòng khách đi vào trong nhà bếp.
Tướng Ô – Khan nghe thấy lời nói của mấy tên lính có lý, nên cũng cho rằng sự thực có thể như vậy. Cặp mắt gian ác của hắn xếch ngược trên bộ mặt đen sạm, hắn nhìn thẳng vào mặt tên lính hỏi:
- Thế mặt mũi của nó có xinh không?
Tên lính ngớ ra, nhưng rồi hắn kịp trấn tĩnh lại:
- Vâng, thưa đúng là một mỹ nhân đẹp tuyệt trần ạ.
Lúc này tướng Ô – Khan mới cười hì hì, nhe ra cả hai hàm răng trắng nhởn.
Y định tối hôm nay sẽ mở cuộc tổng công kích chớp nhoáng, đổ bộ lên Ủng Tân. Nhưng rốt cuộc hôm nay cả ngày mai vẫn phải nghỉ; đến đêm mai vào lúc canh hai sẽ bắt đầu cuộc chiến. Do vậy suốt thời gian đó phải ngồi chờ một cách vô vị trên đảo Đại Thanh không một ngụm rượu uống.
Vậy chi bằng ta sai mấy tên lính đến bắt con chủ quán rượu và mang hết rượu về đây, cho binh sĩ uống thoải mái để tăng thêm sĩ khí có phải hay hơn không. Nghĩ thế nên hắn lấy làm đắc ý cho rằng trời đã phù hộ tất cả mọi việc của tướng Ô – Khan này. Hắn nhìn tên lính và nói.
- Nếu mày đi có thể tìm lại quán rượu đó được không?
- Dạ được.
Tên lính trả lời vậy nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm. Nếu cô gái ấy để lộ chuyện lính uống rượu ở quán thì dứt khoát ta sẽ làm ma nơi đất này, à không, nơi biển sâu thăm thẳm này chứ chẳng chơi. Nghĩ vậy nên hắn cảm thấy rùng mình. Nhưng việc đã thế rồi, không còn cách nào khác, phải tìm phương kế sau vậy. Tướng Ô – Khan tỏ vẻ hài lòng, bèn gọi viên phó tướng đến bảo:
- Này, nhà anh hãy cử năm mươi lính đi cùng với mấy tên này, tìm đến quán rượu mà bọn này biết, bắt đứa con gái bán rượu và mang toàn bộ các thùng rượu về đây cho ta.
- Xin tuân lệnh.
Hơn năm mươi tên lính do mấy tên lính truyền lệnh đi trước dẫn đường, leo lên thuyền và mang nhiều quân xa đi thẳng đến quán rượu.
Mặt trời đã nhô lên từ phương Đông.
Hơn năm mươi tên lính Mông Cổ đi vào những phố xá không một bóng người. Quán rượu mà chúng xăm xăm tìm đến cũng trống không.
Vừa đến nơi, tên lính truyền lệnh bèn sục tìm cô chủ quán, nhưng việc chẳng may mà lại hóa ra may. Tìm mãi vẫn không thấy cô chủ quán đâu, ông giá dưới bếp cũng không thấy. Có lẽ họ đã đi lánh nạn cả rồi chăng. Chúng sục tìm cả trong nhà lẫn ngoài sân vườn, lùm cây bụi cỏ, nhưng vẫn không thấy người con gái.
Tuy vậy, các thùng rượu vẫn còn xếp gọn gàng nguyên chỗ cũ. Không có cách nào khác, bọn lính chỉ còn biết lấy hết các thùng rượu chất lên xe mang về.
Tướng Ô – Khan từ lâu ước ao muốn được tìm thú vui với người đẹp xứ Cao Ly. Nhưng người đẹp chẳng có. Bọn lính chỉ chở về được mấy quân xa rượu.
Tướng Ô – Khan nổi trận lôi đình:
- Thế nào, đứa con gái chạy mất rồi à?
Mấy tên lính hầu cúi đầu sát đất thưa:
- Không những quán rượu mà cả vùng xung quanh, tất cả mọi người đều chạy đi lánh nạn cả rồi. Có lẽ đứa con gái cũng đi lánh nạn rồi ạ.
Nghe bọn lính nói vậy, tướng Ô – Khan đành nuốt hận gọi tên phó tướng đến bảo:
- Cho mang số rượu này chia cho tất cả tướng sĩ hôm nay nghỉ chơi cho thoải mái!
Thế là rượu được mang chia cho tướng sĩ thủy quân trên tất cả các chiến thuyền để cho chúng tha hồ uống và chơi thả cửa. Bọn lính Mông Cổ bấy lâu thèm khát rượu cao lương, nay được một bữa thỏa thích, chúng vui mừng thích thú không sao kể xiết.

CHƯƠNG 19: NHỮNG CHIẾC HÒM CHÂU BÁU CÓ MA

Bọn lính suốt ngày uống rượu say túy lúy.

Đêm về khuya, sóng biển càng mạnh, các chiến thuyền rung rinh chao đảo. Bọn lính say rượu cảm thấy như đất trời đang quay cuồng, các chiến thuyền chỉ còn là những chiếc xuồng con, quay cuồng cùng trời đất. Hơn nữa sương mù dày đặc, hai thuyền ở cạnh nhau mà không trông thấy nhau.
Giữa lúc ấy, từ trong một một chiếc thuyền nào đó bỗng "đoành" một tiếng nổ lớn của một khối diêm tiêu vang lên, và một cột lửa bốc lên cao.
Tướng Ô – Khan say rượu, nhìn thấy kinh hoàng. Ngọn lửa bốc lên trời cao, trong nháy mắt cháy lan vào lòng thuyền. Bọn lính trên thuyền kêu la inh ỏi.
Nhưng đâu phải chỉ có một chiến thuyền đó. Hết chiếc này đến chiếc khác đều bùng cháy dữ dội, ngọn lửa bốc ngút trời. Đến bước này, dù tướng Ô – Khan có khờ dại đến đâu cũng không thể không nhận ra là đã bị mắc lừa quân đội nước Cao Ly. Bọn lính Mông Cổ lớp nhảy xuống biển chết đuối, lớp bị cháy thiêu chết trong thuyền, số lượng nhiều vô kể. Cùng lúc đó, bốn bề tiếng quân reo hò vang động cả mặt biển. Tướng Ô – Khan thét lên: "Ta bị mắc lừa quân địch rồi!"
Nhưng đã muộn.
Thật là họa vô đơn chí! Cùng với lửa cháy, quân Cao Ly tràn lên các chiến thuyền, tay cầm giáo mác, mã tấu xông vào đâm chém bọn giặc Mông Cổ.
Tướng Ô – Khan khó nhọc lắm mới dập tắt được ngọn lửa trên chiến thuyền của y và tìm cách chạy thoát thân. Hắn chạy về phía cửa lạch Nguyệt Xuyên, định tìm đường chạy về trận địa của nguyên soái Đường Cô tại mặt trận phía đông, nhưng đã bị quân Cao Ly chặn đầu phía trước.
Tướng Ô – Khan không còn cách nào đành hốt hoảng quay mũi thuyền chạy vào biển tây. Thế là hơn ba mươi chiến thuyền và hơn ba nghìn binh lính Mông Cổ đã chìm sâu xuống đáy biển. Ô – Khan chạy thoát chết nhưng lòng hắn ngổn ngang bao nỗi đắng cay.
Hiển nhiên trận chiến này được thực hiện theo mưu kế ban đầu của Tiêu Vĩnh Vạn được Hoa Sơn quân bổ sung và thẩm duyệt.
Đã nhiều lần sang Mông Cổ, hiểu biết thông thạo tiếng nói và chữ viết của nước này, khi nghe tin quân địch chiếm đảo Đại Thanh, anh biết rằng thế nào thủy quân địch cũng sẽ tìm cách liên lạc với tướng Đường Cô. Do đó đã cử người ra phục ở vùng bờ biển gần với cửa lạch Nguyệt Xuyên và cho dựng quán rượu bên cạnh đường mà bọn lính liên lạc sẽ đi qua, đồng thời cho chở đến chất đầy các hòm rượu trước quán rượu.
Dân trong vùng ai nấy đều đã đi lánh nạn hết, nên việc chọn địa điểm không có gì khó khăn.
Sau khi trù liệu công việc xong xuôi, anh đưa cô quan kỹ Thu Nguyệt tới. Bản thân anh đóng vai ông già nấu bếp, còn Thu Nguyệt đóng vai cô chủ quán.
Khi cho bọn lính uống rượu, anh đã cho một thứ thuốc bột gọi là "mộng hồn dược" vào trong rượu để cho chúng uống. Chúng uống xong thì hồn vía bay lên mây không còn biết gì. Thừa lúc đó anh móc túi lấy bức mật thư tác chiến của tướng Ô – Khan gửi tướng Đường Cô ra xem và nhanh chóng chữa lại rất khéo ngày giờ cuộc tổng tấn công.
Sau đó anh thay bình đựng rượu có "mộng hồn dược" bằng bình đựng rượu không pha "mộng hồn dược" nhưng cũng y hệt như bình kia. Tất cả các thứ nguyên vị như cũ, cho nên sau khi tỉnh rượu rồi, bọn lính không hề có cảm giác gì khác lạ.
"Mộng hồn dược" vốn là một thứ thuốc uống vào phải sau một thời gian dài mới tỉnh. Nhưng do Tiêu Vĩnh Vạn phải đi lại nhiều vùng nguy hiểm thuộc nhiều nơi nên vị đạo sĩ Đông Hải ở Thanh Châu đã đặc biệt làm ra một thứ thuốc bằng phương pháp bí truyền để tặng anh. Thuốc này uống xong sau một giờ sẽ tỉnh táo trở lại bình thường nhưng không hề biết mình đã bị mê. Trong thư của Ô – Khan Ka – Ta gửi cho Đường Cô có đề nghị tiến hành cuộc tổng tấn công vào đêm ấy, đề cập đến việc phối hợp của lục quân. Cả điều này cũng đã được thay đổi chuyển sang đêm ngày hôm sau. Kế hoạch tác chiến của quân Cao Ly đề ra là cho bọn lính Mông Cổ đang thèm khát rượu uống thật say, nên đã cho chở thật nhiều rượu đến xếp đầy trước quán rượu và đưa cả Thu Nguyệt đến quán rượu để lôi kéo bọn lính. Các yếu tố đó cuối cùng đã giúp cho thủy quân Ủng Tân của Hoa Sơn quân tiêu diệt được quân giặc mà không phải tốn bao nhiêu công sức.
Tướng thủy quân Mông Cổ Ô – Khan Ka – Ta bị quân Cao Ly tập kích bất ngờ ban đêm, đã bỏ chạy tháo thân, chỉ mang theo được hơn một trăm quân. Tiếp đó, các tướng sĩ dưới quyền chỉ huy của Hoa Sơn quân thành Ủng Tân với khí thế ngút trời đã xông vào chém giết số thủy quân Mông Cổ còn sót lại. Trận thắng lợi giòn giã của quân Cao Ly kết thúc, trời đã rạng sáng. Từ phía đông, mặt trời nhô lên chiếu nắng xuống mặt biển. Xác thuyền bị cháy dập dềnh theo sóng biển lúc bị đẩy lại chỗ này, lúc giạt sang chỗ kia. Xác chết quân Mông Cổ ngã gục trên thuyền la liệt khắp nơi.
Hoa Sơn quân động viên khen ngợi tất cả binh sĩ, thưởng công cho họ tùy theo công lao của từng người.
Nhưng ở phía đông, đại quân Mông Cổ vẫn còn đấy.
Ngày hôm ấy, sau khi trở về thành Ủng Tân, Hoàng thúc, Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử lên thành lầu cửa đông nhìn về mặt trận phía đông, và đề ra kế hoạch tác chiến mới.
Tiêu Vĩnh Vạn trải tấm bản đồ tác chiến ra và trình bày với Lý công tử:
- Tướng địch Đường Cô vào đầu giờ tối hôm nay sẽ tấn công vào đây. Do vậy phải cho quân sĩ của chúng ta đi ngủ trước cho đầy đủ.
Nói xong Tiêu Vĩnh Vạn còn ghé vào tai Lý công tử thì thầm điều gì đó một chập nữa.
Hoàng thúc đối với kế hoạch tác chiến mới cảm thấy vững tâm.
Sau khi khen ngợi công lao của Tiêu Vĩnh Vạn, Hoàng thúc bảo:
- Chúng ta cũng phải về bản doanh ngủ một giấc cho lại sức.
Nghe nói vậy, Tiêu Vĩnh Vạn đến lúc này mới thấy thấm mệt. Anh nhìn lên gương mặt Hoàng thúc cũng lộ vẻ mệt nhọc, bèn mỉm cười nói:
- Vâng, xin lĩnh ý. Đã hai hôm nay, Hoàng thúc cũng bị mất ngủ, chắc là mệt lắm.
Lý công tử bước xuống thành lầu, đôn đốc việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu trên tất cả mọi mặt đêm hôm đó. Còn Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn đi về bản doanh nằm ngủ thiếp.
Đến đêm hôm đó, quân Mông Cổ mở cuộc tấn công định đập nát thành Ủng Tân. Trước hết, ngay từ buổi tối, chúng bắt đầu mở những cuộc tấn công lẻ tẻ có tính chất thăm dò. Nhưng quân Cao Ly vẫn đóng chặt cửa thành, không chống cự, mặc cho bọn lính Mông Cổ đến tận chân thành chế nhạo, chửi bới.
Tướng giặc nhìn quanh cảnh đó, tỏ vẻ đắc chí cười và quát:
- Quân bay, trong đêm nay chúng mày phải cướp lấy thành này cho ta.
Hắn nói như vậy, nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm chưa yên.
Đêm mỗi lúc một khuya dần, thời gian từng khắc từng khắc trôi qua, thành Ủng Tân vẫn chìm trong yên lặng, không thấy nổi lửa.
Vì đã có hẹn một khi thủy quân vào chiếm thành nhất định sẽ đốt lửa lên nên chúng chỉ chờ có thế.
Giữa lúc nguyên soái Đường Cô ngồi trong bản doanh thấp thỏm lo âu thì bất ngờ từ chân núi Tú Đài nằm về mạn đông nam trận địa quân Mông Cổ vang lên tiếng hò reo dậy đất, lửa bốc ngụt trời. Quân Mông Cổ đã chiếm được Tú Đài sơn nhưng do không cần thiết về mặt tác chiến quân sự nên chúng chỉ để hai trăm quân ở lại canh giữ. Nhưng nếu Tú Đài sơn bị quân Cao Ly chiếm thì trận địa của quân Mông Cổ không những mất đi giá trị về mặt tác chiến mà nếu quân Cao Ly chiếm lĩnh Tú Đài sơn cùng với quân Cao Ly trong thành Ủng Tân phối hợp tiến công cả mặt trước lẫn mặt sau quân Mông Cổ thì quân Mông Cổ sẽ lâm vào tình trạng nguy khốn.
Tướng Đường Cô hoảng hốt vội vã gửi điện viện quân ra Tú Đài sơn, đồng thời lùi khoảng mười dặm về phía tây bắc, cắm chốt trận địa tại đó.
Nhưng viện binh quân Mông Cổ ra Tú Đài sơn nửa đường bị phục binh của quân Cao Ly diệt sạch. Tại Tú Đài sơn, quân Mông Cổ cũng đã bị tiêu diệt bởi quân triều đình được tăng viện từ Đô hộ phủ theo lời thỉnh cầu của Hoàng thúc, ở đời, khi thời vận đã hết thì những việc chẳng may cứ liên tục xảy ra hết việc nọ đến việc kia. Đến sáng ngày hôm sau, tướng Đường Cô mới biết tin thủy quân bị thảm hại.
Rốt cuộc, chờ mãi chẳng thấy lửa bốc lên ở thành Ủng Tân là nơi tiền phương của chúng, ngược lại chỉ thấy lửa bốc lên phía sau hậu phương của chúng. Đến bước này, ngay cả nguyên soái Đường Cô, một danh tướng của Mông Cổ cũng đành chịu bó tay.
Trái ngược hẳn với cảnh tượng của quân Mông Cổ, lúc này ở trong thành Ủng Tân, Hoàng thúc, Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử đang nâng chén chúc mừng thắng lợi.
Lúc này tổng chỉ huy quân Mông Cổ là San-lì-tai đang cho quân tràn qua các địa phương ở tây bắc và đóng quân gần Khai Kinh là kinh thành Cao Ly. Bởi vậy, bản thân Đường Cô không thể tự ý rút lui, và y bị buộc phải chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu lâu dài.
Mặt khác y cũng nghĩ rằng dù người chủ soái của thành Ủng Tân có tài giỏi đến đâu, quân sĩ Cao Ly có thiện chiến đến đâu thì lực lượng phòng thủ đó cũng chỉ là một lực lượng với quân số nhỏ của một sơn thành heo hút không thể nào tiêu diệt nổi đại quân Mông Cổ đông đến trên mười vạn. Cho nên lực lượng này chỉ chú tâm vào việc bảo vệ thành Ủng Tân mà thôi.
Nghĩ như vậy, nên tướng giặc Mông Cổ bèn chuyển sang dùng mẹo để chiếm lấy thành Ủng Tân.
Vào một ngày cuối tháng chín, có một tướng Mông Cổ cưỡi ngựa tiến đến dưới chân thành Ủng Tân.
Đúng vào lúc đó, Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn đứng trên thành lầu nhìn kỹ xuống bên dưới thấy người cưỡi ngựa đến một mình rõ ràng ăn mặc quần áo cấp tướng. Tướng địch đến bên ngoài thành giương một lá cờ đỏ lên làm tín hiệu.
"Tên tướng địch này không phải định đánh nhau mà là có điều gì đó muốn thương nghị, nên xin chúng ta cho hắn vào trong thành." Hoàng thúc nghĩ vậy và nói:
- Bọn này chắc đang bày ra mưu kế gì đây. Thế nhưng thấy một tên tướng giặc tìm đến mà lại sợ không dám tiếp nó thì còn làm được việc gì lớn…
- Vâng, đúng thế ạ. Dù sao ta cũng nên gặp tên này để xem chúng định giở trò gì…
Tiêu Vĩnh Vạn ra lệnh cho một người lính chạy xuống chân thành mở cửa thành ra.
Cửa thành đóng chặt. Khi mở ra kêu ken két. Tướng Mông Cổ bước vào trong thành.
Cửa thành đóng chặt lại cũng kêu ken két.
Tướng địch trao cho Tiêu Vĩnh Vạn bức thư của tướng Đường Cô do y mang đến.
Tiêu Vĩnh Vạn sai một binh sĩ đưa viên tướng Mông Cổ vào ngồi chờ ở chỗ có lính gác, xong cùng với Hoàng thúc mở xem bức thư. Nội dung bức thư viết đại để hai bên đừng đánh nhau nữa; nếu tướng lĩnh của hai bên gặp nhau bàn bạc, đi đến hòa thân với nhau thì quân Mông Cổ sẽ tự rút lui. Ngoài ra trong thư còn nói sẽ biếu Hoa Sơn quân nhiều vàng bạc châu báu.
Hoàng thúc, Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử bàn bạc với nhau, cuối cùng thống nhất ý kiến cho rằng trước hết cần đàm phán với địch để biết mưu đồ của chúng. Ngày hôm sau, phía quân Cao Ly quyết định đàm phán với sứ giả của địch và để cho tên tướng địch ra về.
Hoàng thúc cho rằng nội dung bức thư của quân địch là một mưu kế nên chỉ thị cho Lý công tử:
- Binh pháp có dạy rằng người cầm quân nếu tối mắt trước vàng bạc châu báu thì không thể dũng mãnh được. Bọn giặc kia không hề có lý gì mang vàng bạc châu báu cho không chúng ta. Cho nên chúng nói như vậy là một thủ đoạn để ướm thử lòng chúng ta. Việc chúng nói gặp tôi cũng là điều không hợp với lẽ thường. Còn một điều chúng ta cần nghĩ sâu là, theo binh pháp thì Chính và Kỳ hợp lại với nhau thì chính là cái gì đó, còn chiến thuật kỳ diệu là chiến thuật như thế nào, đó là những điều không thể biết được. Điều đó cũng giống như một chiếc nhẫn vàng, có hình tròn nhưng không biết đâu là chỗ bắt đầu và đâu là chỗ kết thúc. Bởi vậy, dù biết là mưu gian của giặc, nhưng nếu chúng muốn đàm phán với ta ắt là có điều quanh co là gì đây nên chúng mới làm thế. Do vậy, Lý công tử phải cùng với Tiêu đại nhân ở trên thành lầu theo dõi chặt động thái của bọn chúng để xử lý cho tốt. Còn tôi sẽ ở trong bản doanh này. Biết vậy để hết sức đề phòng.
Sau khi để cho tên tướng giặc đến liên lạc về rồi, bộ chỉ huy quân Cao Ly liền bắt tay vào chuẩn bị cuộc gặp gỡ và đàm phán với sứ thần của địch.
Nhận lệnh của Hoàng thúc xong, Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn cùng trở về thành cửa đông.
Khí thế của các binh sĩ trong thành hôm nay càng đặc biệt lên cao; cờ xí rợp trời, trông uy nghiêm lẫm liệt… ánh mặt trời hắt những tia nắng vàng rộm lên đầu hồi phía Đông của thành lầu.
Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn lấy tay che ánh nắng chiếu vào mặt, đưa mắt dõi nhìn về phía xa xa, dáng như đang chờ sứ thần của phía trận địa địch tiến đến.
Tiêu Vĩnh Vạn chớp chớp cặp mắt đen nhìn ra xa, bỗng chau nói:
- Lý công tử này, bọn kỵ binh đang chạy đến kia có lẽ sẽ tiến đến thành chúng ta đấy. Hôm nay chắc thế nào cũng có chuyện gì xảy ra.
Lý công tử lúc này mới nhìn ra xa, lấy tay làm hiệu và nói:
- A không, bọn sứ thần đấy. Sứ thần gì mà đông quá. Có lẽ đến hơn nghìn tên.
Trong khi hai người đang nói chuyện với nhau thì quân Mông Cổ đã đến dưới thành lầu.
Quân địch đã đến bên ngoài cửa quân môn dưới chân thành, có tất cả hơn một nghìn kỵ binh. Chúng chở trên các cỗ xe ngựa những chiếc hòm to bọc lụa. Đằng sau mỗi chiếc xe ngựa có hơn mười binh sĩ cầm vũ khí hộ tống. Có đến năm chiếc hòm to như vậy. Cái gọi là đoàn sứ giả quân Mông Cổ đến ngoài quân môn thì dừng lại. Sứ thần dẫn dầu đoàn liên hệ với người canh cửa.
Lý công tử và Tiêu Vĩnh Vạn đứng trên thành lầu nhìn xuống thấy quang cảnh như vậy bèn bước xuống.
Tiêu Vĩnh Vạn nói thạo tiếng Mông Cổ, có vẻ như đã có mưu kế gì trong đầu.
- Các vị từ xa đến đây vất vả quá. Tôi được Hoa sơn quân cử ra đây để đón quý vị, và đang chờ quý vị ở đây.
Tiêu Vĩnh Vạn nói chuyện bằng tiếng Mông Cổ, khiến sứ thần của quân Mông Cổ có vẻ lúng túng khó mở miệng. Sứ thần nhìn vào bên trong cửa thành một chốc rồi nói lớn.
- Cảm ơn. Tất cả chúng tôi là những sứ thần được nguyên soái Đường Cô cử đến đây. Xin ông cho vào thành để được gặp ngay Hoa sơn quân.
Nhìn tướng mạo của hắn, Tiêu Vĩnh Vạn có vẻ sửng sốt, hỏi lại:
- Sứ thần sao lại nhiều thế.
Sứ giả Mông Cổ có lẽ chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng. Hắn ngập ngừng một chút rồi nói:
- Ông hãy nhìn lại cả đoàn chúng tôi. Người đến đông như thế này là có lý do của nó.
Nói đoạn, hắn lấy tay chỉ về phía những chiếc hòm lớn ở đằng sau, rồi tiếp tục giãi bày thêm:
- Vì mang những chiếc hòm lớn đựng vàng bạc châu báu quý giá nên cần có nhiều người đi theo, mặt khác còn sợ bị cướp, nên trên đường đi cũng phải nghiêm mặt.
Tiêu Vĩnh Vạn nhìn kỹ thấy hơn một nghìn quân Mông Cổ đều mang theo gươm giáo, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, sát khí đằng đằng. Người nóng ran lên, anh nói:
- Chúng tôi hiểu ý các ông. Nhưng chúng tôi không thể để nhiều kỵ binh như thế này vào trong thành. Trước hết các ông hãy cho lui đoàn kỵ binh và những chiếc hòm đựng châu báu kia ra xa một nghìn bước, và sau đó chỉ một mình ông vào gặp đại giám Hoa sơn quân chúng tôi.
- Sao ông lại ăn nói vô lễ như vậy. Làm gì lại có kiểu lễ nghi bắt những người đến với tư cách sứ thần phải đứng bên ngoài cổng thành không được vào! Nếu vậy thì Hoa sơn quân phải ra ngoài cổng thành đón tiếp chúng tôi mới là hợp đạo lý thông thường trong thiên hạ.
Nghe những lời thô lỗ của tên sứ thần phía địch, Tiêu Vĩnh Vạn uất quá bàn to tiếng mắng lại hắn:
- Nếu ông đến với tư cách sứ thần, thì ông phải có lời lẽ và hành động thận trọng để xin gặp Hoa sơn quân thực hiện sứ mạng của ông. Nếu các ông biết trọng phép lớn trong thiên hạ thì các ông đừng có xâm phạm nước chúng tôi trái với lẽ trời, phi đạo lý như thế. Trước hết các ông phải rút về nước và cử sứ giả sang đây, đến lúc ấy chúng tôi sẽ tiếp đãi sứ thần các ông theo phép tắc lễ nghi trong thiên hạ.
Trước thái độ cứng rắn đó của Tiêu Vĩnh Vạn, sứ thần của quân địch buộc phải thay đổi thái đọ và nói tương đối dịu giọng:
- À, tôi biết nước các ông nổi tiếng trong thiên hạ là một nước coi trọng lễ nghi. Khi trao đổi sứ thần với nước Tống chẳng phải các ông đã cử những một nghìn tùy tùng đi theo là gì. Nước Đại Mông Cổ chúng tôi còn mạnh hơn cả nước Tống, thế thì chúng tôi mang theo hơn một nghìn tùy tùng có gì là nhiều. Nếu quý ông cứ một mực khăng khăng không chịu thì đoàn tùy tùng kỵ binh không vào cũng được, nhưng vì đây là những lễ vật mang đến để biếu Hoa sơn quân cho nên năm chiếc hòm và số người mang vác cần thiết, quý ông nên để cho họ vào thành.
Trước lời thỉnh cầu của sứ thần bên địch, Tiêu Vĩnh Vạn trả lời không chần chừ:
- Được.
Sứ thần bèn cho đoàn kỵ binh lùi về phía sau hơn một nghìn bước, chỉ để lại năm chiếc hòm to.
Mỗi chiếc hòm chở trên một chiếc xe ngựa lớn đầy khít nên phải dùng năm cỗ xe để chở năm chiếc hòm. Trên mỗi hòm đều phủ lụa đỏ trông rất sang trọng hào nhoáng. Sau khi buộc đoàn kỵ binh hơn một nghìn tên của quân Mông Cổ lùi xa, phía quân Cao Ly đã mở cửa thành đón sứ thần quân Mông Cổ vào.
Sứ thần Mông Cổ liếc nhìn, thấy các cột gỗ làm hàng rào chắn trước cổng thành rất kiên cố, thành đắp bằng đất rất vững chắc, ý chừng bản thân y cũng đã thấy không một đội quân nào có thể phá vỡ nổi.
Nhưng đâu phải chỉ có thế. Bước chân vào bên trong thành, hắn còn thấy quân sĩ Cao Ly sắp thành hàng trật tự trang nghiêm, binh lính người nào người lấy trông rất hiên ngang hùng dũng.
Tướng giặc thấy thế không khỏi không cảm phục.
- Thành trì kiên cố lại thêm quân đội dũng mãnh vô song như thế kia, thì việc đại quân Mông Cổ ta công phá mấy tháng nay mà vẫn không hạ nổi là chuyện không có gì lạ.
Y thở dài và theo sự hướng dẫn của Tiêu Vĩnh Vạn đi đến ngoài cửa thổ thành Việt Nam.
Sau khi bảo sứ thần chờ trước hàng rào gỗ chắn ở quân môn, Tiêu Vĩnh Vạn bước vào bản doanh cùng bàn bạc với Hoàng thúc. Hai người cho rằng trong năm chiếc hòm kếch xù nói là đựng vàng bạc châu báu kia chắc chắn là có chất chứa những gì gian ác, nên hãy đưa chúng vào để riêng trong hang, mà chỉ gặp riêng sứ thần; đồng thời bảo chúng trao tín thư ở trước rào gỗ chắn.
Nhưng sứ thần của địch chẳng có tín thư gì cả. Hắn chỉ xưng tên họ của hắn là A-tan Ma- li.
Thay vì tín thư, hắn chỉ khăng khăng đòi đàm phán trực tiếp với Hoa sơn quân, và mang các hòm bảo vật mà hắn nói là đựng vàng bạc trong đó trực tiếp trao cho Hoa sơn quân.
Nghe vậy, Hoa sơn quân càng thấy khó hiểu, bèn chỉ thị cho Tiêu Vĩnh Vạn và Lý công tử:
- Tướng giặc A-tan Ma-li cứ cố chấp đòi gặp tôi để tiến dâng những chiếc hòm nói là có đựng vàng, bạc. Như vậy, không chừng trong đó, có người hoặc có những con vật hung dữ gì đó cũng nên. Tôi cho rằng: nếu trong những hòm kia có đựng những con vật hung dữ như cọp hoặc rắn độc, thì khi mở hòm hắn sẽ không đứng chỗ đó mà sẽ tránh đi. Còn nếu trong hòm đó có những tên thích khách mai phục thì tướng giặc sẽ yên tâm đứng đó, không tránh đi nơi khác. Vì vậy cần hết sức chú ý điều đó để xử trí cho tốt.
Tiêu Vĩnh Vạn nghe Hoàng thúc phán đoán như vậy, bèn nghĩ ra một kế:
- Thưa Hoàng thúc, tôi nghĩ rằng sự phán đoán của Hoàng thúc là đúng. Vậy trước hết, Hoàng thúc hãy trực tiếp đàm phán với tướng địch và nói với hắn rằng sau đó sẽ mở các nắp hòm mà hắn mang đến tiến lễ. Trong khi đó, ta đưa các hòm vào trong hầm. Sau khi tìm hiểu được những thứ chứa trong đó, Hoàng thúc mới ra cùng với tướng địch chứng kiến việc mở nắp.
Hoàng thúc đồng ý với ý kiến đó của Tiêu Vĩnh Vạn. Anh bước ra gặp A-tan Ma-li đang chờ trước cửa thổ thành.
- Theo ý kiến của ông, tôi đã thưa lại với Hoàng thúc, chúng tôi đồng ý sẽ làm theo như vậy. Xin mời ông vào trong thành.
Nghe nói vậy tướng địch A-tan Ma-li thay đổi nét mặt, gật đầu tỏ vẻ hài lòng:
- Hoa sơn quân là người nhân từ, rất tốt. Nếu được như thế, hai nước Mông Cổ và Cao Ly chúng ta có thể hòa thân với nhau.
Một lát sau, theo sự hướng dẫn của Tiêu Vĩnh Vạn, cửa thành được mở ra, A-tan Ma-li bước vào thành cùng với năm chiếc hòm châu báu.
Tướng giặc A-tan Ma-li nhìn một lượt trong thành, tặc lưỡi:
- Thành Ủng Tân quả là thành bất khả xâm phạm. Tôi đã đi khắp thiên hạ, nhưng không đâu thấy trong thành rồi lại còn có thành, xây cất công phu như thế này.
Trong lúc hắn lẩm bẩm một mình như vậy thì cả đoàn của hắn đã đến bên ngoài đại bản doanh. Tiêu Vĩnh Vạn quay về phía A-tan Ma-li nói một cách trịnh trọng:
- Tướng quân đi đường xa đến đây, người chắc là mệt nhọc. Vậy xin ông hãy chờ cho một lát trong đại bản doanh. Còn các hòm này thì sẽ đưa vào để tạm trong hầm chứa bảo vật kia, đợi để Hoa sơn quân ra mở nắp.
Nghe nói vậy, A-tan Ma-li không nghi ngờ gì. Y bước vào bên trong đại bản doanh theo sự hướng dẫn của Tiêu Vĩnh Vạn.
Lý công tử nhân lúc này đem rượu và thức nhắm ra cho bọn lính Mông Cổ đi theo áp tải năm chiếc hòm ăn uống, một mặt sai lính của mình ra đưa năm chiếc hòm vào để trong kho bên cạnh. Kho này vốn là một cái hầm, được sửa sang lại sạch sẽ giống như một kho chứa những đồ bảo vật châu báu.
Sau khi đưa các hòm chất vào trong kho, Lý công tử bèn lấy một chiếc dùi thật sắc chọc thủng lớp gỗ, tạo nên một cái lỗ và và ghé mắt nhìn vào bên trong thấy có năm tên lính cầm dao tuốt trần đang ém mình trong đó. Có tất cả năm hòm lớn như vậy, vị chi có hai mươi lăm tên thích khách đang núp sẵn ở trong.
Lý công tử cứ cách một đoạn lại khoét một lỗ và đổ nước sôi vào các lỗ đó.
Thế là những tên thích khách ở bên trong hòm đều chết sạch không kêu nổi một tiếng.
A-tan Ma-li không hay biết gì chuyện này, nên đã đồng ý theo sự sắp xếp của Tiêu Vĩnh Vạn là sau khi đàm phán với Hoa sơn quân ở trước nhà kho nơi để các hòm lớn mà chúng nói là đựng vàng trong đó, mọi người sẽ ra mở hòm.
Hoa sơn quân chờ sẵn ở đại bản doanh trước nhà kho, được sự giới thiệu của Tiêu Vĩnh Vạn đã gặp A-tan Ma-li, sứ thần của quân Mông Cổ.
- Tôi là Hoa sơn quân Lý Long Tường.
Hoàng thúc mỉm cười, ngỏ lời chào sứ thần quân địch. A-tan Ma-li cũng cúi người chào lại.
- Xin chào ngài. Tôi là A-tan Ma-li của quân Mông Cổ. Danh tính cao cả của quý ngài chúng tôi đã được nghe và biết rõ.
Hai ánh mắt của Hoàng thúc và A-tan Ma-li bắt gặp nhau. Trong ánh mắt của Hoàng thúc đượm nụ cười nhân hậu, như gặp lại nơi đất khách một người bạn chứ không phải đang đối diện với một tướng giặc… Nhưng trong hai con mắt của A-tan Ma-li thì sát khí như bốc lửa.
Có lẽ vẻ sát khí của tướng giặc đã bị bẻ gãy trước thái độ nhân từ của Hoàng thúc, nên y cứ cúi đầu, hai mắt nhìn dán xuống đất.
Hoàng thúc nhìn bộ dạng của y bèn nói:
- Tướng Đường Cô của quý quốc cử tướng A-tan đến xin hòa thân, chúng tôi cảm ơn; lại còn gửi biếu năm hòm lớn vàng bạc châu báu, chúng tôi cảm ơn.
Lời nói của Hoàng thúc vô tình như có xương đâm vào ngực tên tướng giặc. Nhưng tướng địch vẫn im lặng.
Hoàng thúc đưa mắt nhìn vào kho châu báu nói tiếp.
- Tướng quân A-tan đã có công khó nhọc mang đến những hòm vàng như thế này. Nào chúng ta hãy vào kho để nhận lĩnh trước sự chứng kiến của tướng quân.
Lúc này A-tan mỉm cười, đã nhanh nhảu đến ngay trước từng hòm. Y dùng con dao cài trong thắt lưng gõ gõ vào hòm mấy tiếng. Đó là tín hiệu báo cho bọn bên trong biết sắp mở hòm, hãy chuẩn bị nhảy ra hành thích. Lúc ấy Hoàng thúc đứng sau lưng tướng địch, nói lời xã giao:
- Tướng Đường Cô đã mấy tháng nay một mực đòi chúng tôi phải trao nộp thành nhỏ này, chúng tôi chưa kịp mở cửa thành để đón tiếp thì nay lại gửi cho nhiều vàng bạc châu báu; chúng tôi nhận thế này thật cảm thấy áy náy quá.
- Dạ… không có gì.
Tướng địch có vẻ bối rối…
Tiêu Vĩnh Vạn cầm cây thương dài đứng giữa Hoàng thúc và tên tướng địch, theo dõi động thái của y. Lý công tử với thái độ thận trọng bước đến trước hòm lễ vật và mở nắp.
- Trời đất… không phải vàng mà là xác chết!
Hoàng thúc và Tiêu Vĩnh Vạn cùng mọi người đi theo nhìn thẳng vào mặt A-tan Ma-li
- Cái gì? Xác chết à?
Tướng địch bối rối đưa mắt nhìn vào trong hòm, thấy tất cả năm tên lính được chọn làm thích khách nằm ém mình trong đó đều chết sạch, mặt bợt ra, quần áo ướt sũng. Một cảnh tượng khiến cho quỷ khốc thần sầu! Đã phải chọn những tên lính giỏi môn kiếm thuật để có thể làm nên trò trống, nào ngờ đâu đến nông nỗi này!
Tên tướng địch biến sắc mặt, chạy đến hòm tiếp theo mở nắp ra xem. Nhưng lại cũng giống như hòm trước. Y mở đến hòm cuối cùng. Trong hòm này bốn tên đã chết, chỉ còn một tên còn sống nhưng bị thương đang ngắc ngoải. Tuy vậy, sau khi nhận ra cấp trên của mình, hắn van xin với giọng rên rỉ.
- Thưa tướng quân, mong tướng quân tha chết cho con một lần này. Nước sôi dội vào chết hết cả, chỉ một mình con còn thoi thóp thế này…
Tiếng kêu ai oán của người lính trong hòm bay đến tai những người đang chứng kiến mọi sự việc diễn ra. Tướng địch tái mặt. Hắn muốn giết chết người lính để bịt mồm, bèn rút chiếc dao găm chạy tới.
- Thằng khốn kiếp, đứa nào đã bày ra cái trò vô lễ này?
Trong nháy mắt, khi lưỡi dao sắc nhọn của dao găm trong tay A-tan Ma-li sắp sửa cắm vào cổ người lính thì Tiêu Vĩnh Vạn nhanh như cắt dùng bàn tay hộ pháp của mình nắm chặt lấy tay của A-tan Ma-li lại.
- Này, người lính kia có tội tình gì. Lâm vào cảnh như thế này mà còn sống sót được là người có thiên mệnh đấy.
Cánh tay của viên tướng địch không còn sức nữa, chiếc dao găm bị buông ra rơi xuống đất kêu đánh "keng" một tiếng khô khốc.
Hoàng thúc đứng phía sau nhìn thấy cảnh tượng đó, bèn đến cạnh tướng địch nhẹ nhàng nói:
- Mong tướng quân đừng quá buồn. Người ta hay nói thất bại là chuyện thường tình đối với người cầm quân. Việc đã như thế này rồi coi như chuyện đã qua, mong rằng hai nước sẽ hòa thân với nhau.
Tướng địch A-tan Ma-li tưởng mạng sống của mình chỉ còn trong khoảnh khắc, giờ đây nghe những lời nói nhân từ đó của Hoàng thúc, lòng không khỏi cảm thấy ngỡ ngàng. Y ngước đầu lên nói:
- Xin cảm ơn quý ngài đã tha cho tội chết. Nếu được quý ngài thả cho về, tôi sẽ thưa lên tướng Đường Cô xin rút quân ngay.
Trước mặt tên tướng địch đang van xin tha cho mạng sống, Hoàng thúc nói như an ủi:
- Là quân Mông Cổ, các ngài định tìm cách hại tôi cũng là lẽ đương nhiên. Tôi tha cho tướng quân, cũng không có gì phải cảm ơn. Nếu tướng quân trở về, thuyết phục được việc rút quân như tướng quân đã nói, ấy là việc đáng khen… Còn người lính kia, có lẽ vết thương không quá nặng, hãy cho chữa lành vết thương rồi dẫn anh ta về.
Nhưng viên tướng địch vẫn cúi gầm mặt xuống đất, im lặng không nói một lời.
Hoàng thúc quay sang nói với Lý công tử:
- Lý Công tử hãy chữa chạy nhanh vết thương cho người lính này chuẩn bị để trả anh ta trở về phía bên kia.
Chỉ thị xong, Hoàng thúc bàn lấy tay vỗ lên lưng tướng địch và nói nhỏ:
- Tướng quân hãy yên tâm mà về. Nếu có duyên nợ với nhau, biết đâu ngày sau chẳng gặp lại.
Tướng địch Atan cảm kích trước thái độ rộng lượng đến như vậy của Hoàng thúc, bèn cúi đầu đáp lại:
- Tôi là người đáng tội chết mà Hoa sơn quân quý ngài còn xử sự khoan hồng tha cho về như thế này, tôi thật đội ơn muôn vàn.
Nói xong, y leo lên mình ngựa. Còn người lính cũng được cấp cứu nhanh và cho lên cáng thương chở về.
Hoàng thúc cưỡi ngựa trắng ra tận ngoài cổng thành đông môn tiễn viên tướng địch.
Trên bục lễ tiễn khách ngoài cổng thành, Hoàng thúc còn gửi tặng tướng địch Đường Cô đỗ sứ, một đặc sản của Cao Ly và nhiều vật phẩm quý hiếm khác, nhờ A-tan Ma-li mang về và nói những lời tốt đẹp khuyên giải.
Lại nói về phía bên kia, sau khi nhốt các thích khách vào trong những chiếc hòm lớn rồi gửi đi trong đó, tướng địch Đường Cô cứ phấp phỏng đứng ngồi không yên. Giữa lúc y đang sốt ruột chờ đợi, thì được tin đoàn sứ giả đã trở về, y vui mừng ra đón…
Sau khi nghe hết đầu đuôi câu chuyện, y thấy kế hoạch của y không ngờ bị thảm bại, chỉ còn có phó tướng A-tan Ma-li và một người lính may mắn sống sót mang tử thương trở về. Đã thế chủ tướng thành Ứng Tân là Hoa sơn quân lại còn thản nhiên như không, gửi sang cho nhiều đồ lễ vật quý hiếm.
Dù là một viên tướng giặc, có lòng dại như cầm thú chăng nữa, y vẫn còn có chút lương tâm. Y lắc đầu nói với A-tan:
- Chủ tướng thành Ứng Tân là con người siêu việt; một danh tướng thần kỳ!
Atan đang cúi đầu. Dù đầu óc đang u mê, y vẫn đáp lại bằng một giọng trầm tĩnh.
- Khen tướng địch trước mặt tướng quân là điều thất lễ, song cũng phải thừa nhận rằng, tướng địch đã thấu hiểu mưu mô của ta, cho nên kết cục, âm mưu mới bị tan tành như vậy. Xem ra, Hoa sơn quân là một con người cao cả, đã không đối xử với tôi bằng thái độ hằn thù. Ông ta mong tôi hãy về nói với tướng quân nên rút quân.
Tướng Đường Cô nghe rồi hỏi lại với nỗi đau đớn hiện lên trong ánh mắt.
- Tình hình phòng thủ trong thành như thế nào?
- Thưa tướng quân, thành có hai lớp thành ngoài và thành trong rất kiên cố. Thành Việt Nam là thành đất được đắp cao, lại còn dựng thêm rào gỗ chắn nữa, cực kỳ vững chắc. Không những thế, tinh thần quân sĩ lại rất cao. Muốn phá thành này, có lẽ phải có thêm viện binh và phải mở cuộc đại tấn công mới được.
Nghe vậy, tướng Đường Cô chau mày nói:
- Ta cũng còn thể diện của ta nữa chứ. Với lực lượng đại quân trong tay, một cái thành bé tí teo thế kia không phá nổi, còn mặt mũi nào xin thêm viện binh. Hãy báo cáo lên nguyên soái Saili Fai nói rõ tình hình xin cho rút quân.
Nói như vậy có nghĩa là tướng Đường Cô đã từ bỏ ý định mở cuộc tấn công vào thành Ứng Tân. Tướng A-tan hiểu được ý định của chủ tướng bèn nói:
- Nếu ý định của chủ tướng như vậy, tôi xin sẵn sàng đi gặp nguyên soái Sali Fai hiện đang đóng quân trước thành Khai Kinh. Xin chủ tướng ra lệnh.
Tướng Đường Cô cảm nhận tấm lòng chung thủy và sự trung thành của viên phó tướng của mình, bèn nói:
- Chả nhẽ bây giờ tôi lại cử đi một lần nữa một vị tướng mới từ cõi chết trở về, người vẫn còn chưa hoàn hồn.
A-tan rất hiểu tấm lòng đó của tướng Đường Cô. Nhưng nếu bây giờ mà cử một người khác đi, đến ăn nói không ra đầu ra đũa, nguyên soái Sali Fai nghe không lọt tai, lại ra lệnh tổng công kích thành Ứng Tân trở lại thì chỉ tổ đẩy binh sĩ vào chỗ chết vô ích. Không những thế, lại còn mang tiếng là một kẻ trượng phu mà bội ước với Hoa sơn quân. Nghĩ thế nên tướng Atan cho rằng mọi việc phải do tự bản thân mình tháo gỡ mới là thượng sách. Sau khi được chủ tướng Đường Cô cho phép, tướng Alan bèn lên đường ngay để đi gặp nguyên soái Sali Fai đang đóng quân ở ngòai thành Khai Kinh.

CHƯƠNG 20: THAN KHÓC NHỚ QUÊ

Thời gian qua, triều đình Cao Ly sau khi xem xét những điều kiện nghị hòa do Sali Fai, tổng chỉ huy quân Mông Cổ đang đóng đại bản doanh ở vùng Khai Kính đưa ra, đã chủ trương tránh xung đột trực tiếp với địch. Tân dương hầu Thôi Di, người nắm giữ quyền bính là một nhân vật vốn dĩ có ác cảm với Mông Cổ cho nên không thể có nghị hòa chân thành. Nhưng vì thực lực của Cao Ly lúc bấy giờ không thể ngăn nổi bước tiến xâm lược của đại quân Mông Cổ hùng mạnh, nên không còn con đường nào khác ngoài việc lợi dụng nghị hòa do phái địch đưa ra để thoát khỏi cơn hiểm nghèo trước mắt. Do vậy, phía Cao Ly đã phải thỏa hiệp hết bước này đến bước khác, cuối cùng quyết định chấp nhận một phần các điều kiện do chúng nêu ra, cống nạp cho chúng vàng bạc, da lông thú quý v.v… và đến tháng giêng năm sau thì quân Mông Cổ bắt đầu rút. Tiếp đó, quân Mông Cổ đóng ở ngoài thành Ứng Tân cũng cùng rút theo.

Tuy nhiên do không thể chấp nhận toàn bộ những đòi hỏi vô lý của quân Mông Cổ, nên những bất đồng giữa hai nước vẫn cứ luôn luôn âm ỷ. Trong dân gian còn loan truyền lời đồi đại quân Mông Cổ sắp sang xâm lược lần nữa, làm cho lòng người chồng chất bao nỗi lo lắng, không yên. Lúc bấy giờ, Thôi Di chấp nhận ý kiến của phái cứng rắn trong triều đình đối với Mông Cổ, và tháng sáu năm Cao Tông thứ 19 đã dời đô ra đảo Giang Hoa.
Quân Mông Cổ xem việc dời đô của triều đình Cao Ly như một dấu hiệu cho thấy họ sẽ không thực hiện điều kiện giảng hòa với Mông Cổ, nên đã trao quyền cho tướng Sali Fai đưa đại quân sang đánh Cao Ly một lần nữa. Nhưng tháng mười năm đó, Sali Fai đã bị tử trận trong một trận chiến đấu tấn công vào thành Thiên Nhân ở Long Nhân, nên đại quân Mông Cổ lại rút về nước.
Sau đó đến năm Cao Tông thứ 20, quân Mông Cổ lại sang bình định nước Đông Trân ở phía bắc Cao Ly, năm sau đó tiêu diệt nước Kim, nên trên thực tế đã bình định hết cả phần đất bắc Tống mà nhà Đường đã chiếm trước đây.
Không những thế, thế lực của Mông Cổ đang dần vươn bàn tay xâm lược ra đến tận nước Tống, và ngày càng lớn mạnh khôn gì ngăn cản nổi.
Thời gian đó, Mông Cổ cử sứ thần là Cho Kha sang Cao Ly thương lượng nhưng triều đình Cao Ly đã dời đô ra đảo Giang Hoa, và do chính sách của phái Thôi Di chủ trương đối xử lạnh nhạt với Mông Cổ nên sứ thần Mông Cổ không đạt được ý định bỏ về. Trong vòng bốn năm từ năm thứ 22 đến năm thứ 24 đời vua Cao Tông, Mông Cổ đã nhiều lần sang xâm lược nhưng do nội tình trong nước nên đã tự rút lui.
Lại nói về thành Ủng Tân, dân chúng trong thành bị quân Mông Cổ xâm lược bao vây, khi được tin chúng rút về, đã reo hò mừng vui, mở toang bốn cửa thành đông, tây, nam, bắc. Dân tỵ nạn lũ lượt đi về, quang cảnh rất nhộn nhịp. Hoàng thúc đích thân cưỡi ngựa trắng đi xem xét các nơi trong và ngòai thành, vừa thăm hỏi những người dân tị nạn vừa cho người sửa giúp những nhà dân bị cháy đổ, ra sức gắng công khôi phục lại xứ sở sau chiến tranh.
Dân cư vùng Ủng Tân vốn chỉ khoảng hơn một nghìn hộ, nhưng thời gian qua, do Hoàng thúc hậu đãi hết lòng những người dân tỵ nạn, nêu sau khi quân Mông Cổ rút về rồi, họ vẫn không quên ơn đức của Hoa sơn quân. Số người tự nguyện xin ở lại thành Ủng Tân ngày càng tăng, trong vòng ba mươi năm đã lên đến hơn hai nghìn hộ.
Mọi sự trên đời không phải đứng im một chỗ mà luôn luôn thay đổi. Hàng ngàn vạn sự việc xảy ra xung quanh Hoa sơn quân cũng thay hình đổi dạng không ngừng.
Tiêu Vĩnh Vạn thoắt đến trước đây như một cơn gió, nhưng chiến tranh vừa kết thúc, cũng lại thoắt cái ra đi chẳng khác gì một cơn gió. Hình ảnh của anh đã lùi về một dĩ vãng xa xôi. Còn công tử Lý Quân Tất mấy năm trước đây được thăng lên chức tướng soát thủy quân dưới quyền của thượng tướng quân Kim Lý Sinh, chỉ huy sứ Đông nam đạo thuộc khu vực tỉnh Trung Thanh, đảm đương công việc phòng thủ vùng biển tây, nên cũng đã rời khỏi Ủng Tân. Cả đất nước biến động loạn lạc, may sao chỉ có thành Ủng Tân vẫn còn được thanh bình. Hoa sơn quân chỉ còn biết chú tâm vào việc chăm sóc đời sống của người dân trong thành, và coi đó là niềm vui lớn nhất.
Bởi vậy, ngay từ đứa trẻ thơ cũng biết đến Hoa sơn quân. Mỗi khi Hoa sơn quân cưỡi ngựa trắng xuất hiện trên đường phố, tất cả già trẻ gái trai đều đi theo bạch mã tướng quân. Họ trầm trồ nói với nhau:
"Bạch mã tướng quân đang đi kìa".
"Tướng quân anh minh đang đến kìa."
Nhưng cuộc đời mang nặng quá khứ đau thương của Hoa sơn quân trong hai mươi năm qua, toàn bộ đâu có phải chỉ như vậy. Có lẽ phần lớn chỉ có đau buồn. Gần đây nếu không nhận biết tấm lòng của người dân trong thành đối với Hoàng thúc, có lẽ đôi khi có thể nhìn thấy hình ảnh của Hoàng thúc không còn có vẻ là Hoàng thúc nữa.
Năm tháng trôi đi, mọi vật trên đời đều sinh thành biến đổi theo quy luật của chúng, chỉ duy có tấm lòng thương nhớ quê hương cố quốc đang ấp ủ trong trái tim của Hoàng thúc là không sao có thể lắng dịu nguôi quên…
Hoàng thúc không quên được cố quốc, lại trèo lên núi Hoa Sơn, nhìn lên trời ôm mặt khóc nức nở. Trong cảnh nhàn hạ, Hoàng thúc vẫn canh cánh trong lòng niềm mong nhớ về quê hương vô vọng mịt mùng.
Cùng với không gian biến đổi, những người anh hùng rồi cũng phải tuân theo quy luật và sự thuần hóa của thiên nhiên. Giữa Hoàng thúc và Trịnh Anh Cơ chỉ có hai người con trai, người con trưởng là Cán năm nay hai mươi bảy tuổi, người con thứ là Nhất Thanh hai mươi bốn tuổi. Cả hai anh em đều rất thông minh, tài trí, đã đỗ đạt ra làm quan và được điều động đến đảo Giang Hoa.
Như vậy, Hoàng thúc không tránh khỏi cảnh cô độc. Về già, không có con bên cạnh là một trong ba nỗi cô đơn.
Ngày đầu mới đến nước Cao Ly, Hoàng thúc là một chàng thanh niên mới hơn ba mươi tuổi, nay đã là ông già tóc bạc quá sáu mươi.
Năm tháng trôi đi, thời thanh xuân mới ngày nào đây nay đã là chuyện dĩ vãng xa xôi. Mới đây mà đã ba mươi năm trôi qua như một giấc mơ.
Trong thời gian ấy, quân Mông Cổ đã nhiều lần trong nhiều năm sang xâm lược. Nhưng may mắn chúng không xâm phạm vào thành Ủng Tân.
Cùng lúc ấy, triều đình Cao Ly cũng xảy ra nhiều chuyện. Tấn dương hầu Thôi Di đã qua đời, người thừa kế không có. Nhưng có một người con trai tên là Khang do kỹ nữ Đoan Diên Phòng sinh ra, được xem là con thứ thất mang huyết thống họ Thôi lên kế nghiệp triều chính.
Trong trào lưu thời bấy giờ, để lo liệu cuộc sống, Hoàng thúc cũng không thể không để tâm đến nhiều sự việc có liên quan.
Bản thân vốn là dòng dõi chính thống của vương triều Lý, đế chế Đại Việt, nhưng vương triều Lý đã chuyển sang vương triều Trần, do đó phải lánh nạn đến nơi đất khách quê người sống cuộc sống cô đơn. Cứ mỗi lần nỗi xót đau ấy bùng lên, Người lại lần hồi từng bước mệt nhọc leo lên con đường mòn trên núi Hoa sơn, rẽ lối qua những lùm cây, làm cho những con chim núi giật mình. Người cũng không quên những cánh đồng mà người đã nhiều lần đi lại trước đây. Có đôi lúc người vào quán rượu bên dưới núi Hoa sơn uống vài chén như muốn quên đi nỗi nhớ mong cố quốc tha thiết đang day dứt trong lòng không sao quên được.
Trong hơn ba mười năm qua, để xây dựng cuộc sống mới, Hoàng thúc cũng đã từng chiến đấu, đã từng làm nên những việc đầy ý nghĩa nhưng vẫn không quên tổ quốc cũ của mình. Nỗi lòng ưu tư đó, vợ con của Người đều không hay biết. Vợ con của Người chỉ biết Người là Hoa sơn quân, một trung thần của triều đình Cao Ly hơn là một Hoàng thúc của đế chế Đại Việt. Bản thân Hoàng thúc cũng phải tự nhận như vậy. Hiện thực song trùng đó có vẻ như một định mệnh không sao cưỡng lại được.
Có một hôm vào một ngày mùa thu năm thứu 39 đời vua Cao Tông, Trịnh phu nhân cảm thấy những ngày vừa qua, nỗi buồn nhớ quê hương đang sống lại trong lòng người chồng của mình.
Ngày hôm ấy, phu nhân thấy chồng sáng sớm dậy ăn cơm xong định đi lên núi Hoa sơn, bèn mỉm cười nói nhỏ nhẹ:
- Này mình ơi, gần đây mình có thì giờ thảnh thơi nên định lên núi Hoa sơn có phải không?
Hoàng thúc thấy vợ đã đoán biết ý định của mình, bèn lấy tay vuốt vuốt chòm râu, lưỡng lự một chập rồi nói lảng sang hướng khác:
- Thành Hoa Sơn có đôi chỗ cần đắp lại…
Lúc ăn cơm, phu nhân theo dõi thấy chồng trong suốt bữa ăn chỉ im lặng, không nói một câu nào.
Ăn cơm xong, Hoàng thúc đẩy bát nước lạnh sang một bên và nói với vợ:
- Mình ơi, mình cho tôi một bát nước cơm cháy với.
Phu nhân mỉm cười âu yếm:
- Mình cũng thích uống nước cơm cháy ư?
Hoàng thúc cười theo:
- Thích chứ… Dưa "kim chi" tôi cũng rất thích.
Phu nhân cảm thấy vui vui trước sự yêu thích đó của chồng, bèn nói:
- Mình muốn thưởng thức hương vị thì phải trả giá cho hương vị đó đấy nhé. Vì vậy hôm nay mình đừng lên núi Hoa Sơn nữa mà nên ngồi ở gian thư trai nhà ngoài. Hôm qua có nhiều người đến thăm rồi lại về không, thật không phải với khách.
Trước những lời nói ân cần đó của vợ, Hoàng thúc cũng cảm thấy ấm lòng. Thời gian qua, cứ nhọc công leo lên núi nhớ lại những ngày qua rồi lại buồn bã khóc lóc chẳng có ích gì. Dĩ nhiên quá khứ cũng đáng trân trọng. Nhưng hiện thực cũng đáng như thế. Bản thân mình sống trong hòan cảnh hết sức éo le, nay đã là ông già đầu tóc bạc phơ. Nghĩ đến những ngày sắp tới của các con, nghĩ đến tương lai xa hơn, Hoàng thúc cảm thấy không thể làm ngơ trước những lời khuyên nhủ tha thiết đó của vợ.
- Vâng, thôi bây giờ tôi nghe bà. Kể từ hôm nay tôi sẽ ngồi ở gian thư trai nhà ngòai.
Vừa lúc ấy, người hầu chạy vào, cúi rạp mình trước thềm, thưa:
- Bẩm quan, có khách từ kinh đô đến ạ.
- Vậy, khách từ kinh đô đến là ai thế?
Nghe Hoàng thúc hỏi vậy, người hầu hơi ngoẹo đầu suy nghĩ một chốc rồi đáp:
- Thưa, có lẽ Chu đại giám ạ…
Hoàng thúc suy nghĩ một chốc, chừng như hiểu ra người đó là ai, bèn nói:
- Có phải Chu thượng thư là anh cả của thượng tướng quân Chu Thúc đại giám, có phải không?
Lúc này người hầu ra vẻ như đã biết rõ, bèn cười hỉ, thưa lại:
- Dạ, đúng đấy ạ. Chính là Chu thượng thư đại giám đấy ạ.
- Ra mời nhanh vị ấy vòa thư trai nhà ngoài, ta mặc áo rồi ra ngay…
Bảo người hầu xong, Hoàng thúc bèn ăn mặc chỉnh tề và bước ra thư trai.
Bên ngoài thư trai, thượng thư Bộ Lễ Chu Mạc đang ngồi đợi ở ghế trên, vừa trông thấy Hoàng thúc đã vui vẻ chào hỏi.
- Đến thăm đại giám đột ngột như thế này thật không phải quá.
- Thưa đại giám. Đại nhân quý hóa hạ cố cho như thế này, tôi rất lấy làm cảm kích.
- Không có gì đâu. Hôm trước, tôi ghé lại thăm Thôi Khang đại giám, có nói chuyện nhiều về Hoa sơn quân.
- Xin cảm ơn. Tất cả cũng nhờ ơn đại nhân, và thượng tướng quân đại giám là hiền đệ của đại nhân, luôn luôn che chở cho rất nhiều.
Chu thượng thư tỏ vẻ hài lòng trước thái độ khiêm tốn của Hoàng thúc, bèn nói:
- Đại giám khiêm tốn quá.
Hoàng thúc đang sốt ruột, không biết cái ông Chu Mạc này đột nhiên tìm đến có việc gì, bèn nói:
- Sau khi dời đô ra đảo Giang Hoa, khoảng năm năm về trước, tôi đã định ra đó để thăm, nhưng rồi rốt cuộc vẫn không đi được. Thời gian qua, chắc là đã có nhiều thay đổi lắm?
- Vâng kể cũng có nhiều thay đổi. Nay đã khác trước nhiều lắm. Bọn Mông Cổ quá quắt lắm…
Hoàng thúc thấy Chu thượng thư nói có vẻ ngập ngừng như vậy, tự nhiên nhớ lại cuộc xâm lược của quân Mông Cổ trước đây, bèn nói:
- Mông Cổ phải suy vong thì chúng ta mới có thể trở về lại kinh đô cũ.
Chu thượng thư lắc đầu, có vẻ như không tán thành câu nói đó của Hoàng thúc:
- Còn lâu bọn chúng nó mới suy vong. Chúng nó đang thừa thắng tiến lên định nuốt chửng cả nước Tống. Nghe đâu chúng đang chuẩn bị lại sang xâm lược nước ta lần nữa.
Hoàng thúc cũng biết chính vì việc này mà ông ta đến đây, song nói trước điều ấy không tiện nên cứ phải tìm cách đưa đẩy câu chuyện để thăm dò. Nay thấy quan thượng thư nói thẳng đuột ra là quân Mông Cổ lại sắp sang xâm lược lần nữa nên không khỏi ngạc nhiên. Hoàng thúc im lặng, vẻ mặt trầm ngâm.
Hai người ngồi đăm chiêu tư lự,
Sau một chốc, quan thượng thư cúi mình nói với vẻ nghiêm trang, gần như van lơn:
- Trước đây Hoa sơn quân đã vì đất nước mà lập nên công lớn, cả triều đình và thần dân đều biết rõ điều đó. Quả thực trấn Ủng Tân này là nơi yếu địa nối liền với đảo Giang Hoa trên vùng bờ biển phía tây, cho nên Hoa sơn quân đại giám hãy cố gắng công cho một lần nữa.
- Thưa đại giám, quan thương thư dạy quá lời. Trước đây tôi có làm được gì đâu. Tất cả là do trăm họ nơi đây đã dũng cảm chiến đấu, quyết tâm bảo vệ thành trì nhỏ bé này nên mới được thế.
Đương nhiên, nếu sau này quân Mông cổ lại xâm lược lần nữa, thì tôi cũng sẽ quyết liều thân chiến đấu để bảo vệ bờ cõi non sông.
Nghe Hoàng thúc giải bày quyết tâm của mình, Chu thượng thư tỏ vẻ yên tâm:
- Có một việc muốn xin nhờ đại giám. Thật cũng quá thất lễ, nhưng biết nói sao…
Nghe quan thượng thư định nói ra nhưng lại ngập ngừng như vậy, Hoàng thúc nhìn kỹ ông ta, mỉm ười mà rằng:
- Đại giám đã có lời muốn cần đến bản thân, vậy chẳng hay là việc gì vậy?
Đến lúc này, Chu thượng thư có vẻ như cũng quyết tâm, bèn nói:
- Chẳng là kinh thành của chúng ta nay đã đến bước này, mọi người chẳng kể già trẻ gái trai đều lánh nạn ra đảo Giang Hoa. Nhưng thuyền không có, làm sao vận chuyển họ ra đảo được. Do vậy, triều đình sau khi bàn bạc, thấy không còn cách nào nên cử tôi đến đây mạo muội xin thương lượng với đại giám cho mượn khoảng hai mươi chiếc thuyền của thủy quân dưới quyền cai quản của đại giám, và chỉ sử dụng trong khoảng mười ngày, sau đó sẽ trả lại.
Hoàng thúc nghe Chu thượng nói vậy, bèn cười mà rằng:
- Đất nước đang trong cơn nguy biến, nếu thấy cần thì dù là thuyền của cá nhân tôi hay thuyền của thủy quân, đều phải được huy động để đi làm các việc công vụ. Một việc nhỏ như thế, thượng thư đại giám không cần đích thân đến, mà chỉ cần cử người đến đây báo là đủ.
Tất nhiên trong tầu thuyền của thủy quân Ủng Tân có thuyền của quân đội triều đình cho, cũng có thuyền do Hoa sơn quân tự bỏ tiền tư của mình ra đóng.
- Đại giám vui vẻ nhận lời như thế này, tôi rất lấy làm biết ơn.
Lúc này các người hầu đã bưng mâm rượu lên.
Hoàng thúc nhìn một lượt mâm rượu tôi mời Chu thượng thư lên ngồi ngôi trên và nói:
- Khách quý không quản đường sá xa xôi đến đây, rất tiếc vùng sơn dã hẻo lánh, thức nhắm chẳng có gì.
Chu thượng thư tỏ vẻ ngạc nhiên, nói:
- Ôi chao, thức ăn tuyệt vời thế này, chứng tỏ tài nấu nướng khéo lắm, ngay ở kinh thành cũng hiếm thấy.
Theo sự hướng dẫn của các người hầu, các cô quan kỹ bước vào phòng.
- Xin có lời vấn an đại giám từ kinh thành tới ạ. Tiện nữ là quan kỹ Ngô Minh Nguyệt ạ.
- Tiện nữ là quan kỹ Bùi Hương Lan xin có lời vấn an quan đại giám. Quan đại giám đi đường xa đến đây chắc là vất vả lắm ạ.
Minh Nguyệt và Hương Lan mặc những chiếc váy dài lượt thượt mầu hồng bằng lụa giáp sa, một vạt được cắt chéo lên giắt vào bên dưới nách, chân đi chữ bát, bước vào vấn an và cúi đầu chào nhanh nhảu. Hoàng thúc nhìn các cô quan kỹ, thấp giọng bào:
- Các cô nhớ tiếp đãi chu đáo Chu thượng thư đại giám ở kinh đô về nhá!
Minh Nguyệt cầm lấy chén rượu lên mời quan thượng thư:
- Thưa quan lớn, xin mời quan lớn dùng rượu ạ.
Chu thượng tư cầm chén rượu lên uống hết, rồi đưa chén sang mời Hoàng thúc.
- Lâu ngày mới gặp nhau, xin mời đại giám một chén rượu.
Nói đoạn, Chu thượng thư đưa chén rượu sang. Lúc này, Hoàng thúc cũng đã uống hết chén rượu và đưa sang phía Chu thượng thư:
- Tôi định mời trước đại giám một chén… Vậy ta hãy cùng trao đổi chén cho nhau. Ha, ha, ha…
Hương Lan ngồi bên cạnh Hoàng thúc, nhanh rót rượu vào chén của Chu thượng thư.
- Xin mời đại giám dùng rượu ạ.
Hai người trao đổi chén qua lại, uống với nhau được một chốc đã ngà ngà. Chu thượng thư như nghĩ ra điều gì, đột nhiên hỏi Hoàng thúc:
- Tôi có việc muốn xin hỏi Hoa sơn quân đại giám. Chả là nghe nói ở trấn này có một cô quan kỹ tên là Thu Nguyệt có phải không?
Nghe nói Thu Nguyệt, Hoàng thúc chưa trả lời, quan kỹ Minh Nguyệt ngồi bên cạnh đã nói trước:
- Quan kỹ Thu Nguyệt là một kỹ nữ danh tiếng đã lập được công đầu trong việc phòng vệ thành Ủng Tân đấy ạ.
Hoàng thúc cười, gật gật đầu nói:
- Chu đại giám biết chuyện ấy rồi. Cô ấy đã có công lớn trong cuộc chiến đấu ở Ủng Tân. Cho nên việc ấy đã được tâu lên với triều đình.
Đến lúc này Chu thượng thư tỏ vẻ có biết đầu đuôi câu chuyện, bèn nói:
- Thời gian qua, triều đình bận nhiều việc như dời đô cùng các việc khác nữa nên chưa kịp xét. Nhưng không bao lâu nữa, triều đình sẽ có khen thưởng.
Nghe nói vậy không những Hoàng thúc mà cả các cô quan kỹ cũng đều vỗ tay biểu lộ sự vui mừng.
Minh Nguyệt lại mời Chu thượng thư một chén rượu.
- Xin đa tạ Chu thượng thư đại giám đã quan tâm nhiều đến chị gái chúng tôi như vậy. Vậy xin kính mời quan đại giám một chén rượu này.
Chu thượng thư cầm chén rượu lên, đang định uống thì Hương Lan lại mời thêm một chén nữa.
- Xin mời quan đại giám uống cả chén này nữa, để cho hoa nở đều hai tay ạ.
- Chà, như thế này thì cả hai cùng hối lộ cho tôi nhiều quá! Tôi sẽ cố uống hết cả hai chén rượu trên hai tay tay do hai cô mời nhưng thế thì say mất.
Nói vậy nhưng vẫn cố uống hết cả hai chén.
Chu thượng thư quên cả phép lịch sự vì đáng lẽ khi uống chén rượu đầu tiên cũng nên nói qua một câu rượu này là rượu gì vậy. Nhưng đằng này ông đã quên khuấy đi mất, chẳng có lấy một lời hỏi han, cứ thế uống hết chén này đến chén kia, say chếch choáng rồi vẫn còn ưỡn ngực tiếp tục uống.

CHƯƠNG 21: QUÂN MÔNG CỔ LẠI SANG XÂM LƯỢC

Lại nói về quân Mông Cổ. Chúng sang xâm lược nước Cao Ly, rồi quay về. Được mấy năm chúng sang xâm lược lần nữa.

Vào năm Cao Tông thứ 39, bị đặt trong tình thế đó, triều đình đã cử sứ thần Lý Hiên sang Mông Cổ tìm cách đánh lừa, nói rằng Cao Ly sẽ thực hiện tất cả những gì mà Mông Cổ yêu cầu, và rằng triều đình đã dời đô từ Giang Hoa trở lại Tùng Đào rồi. Nhưng Mông Cổ không tin Cao Ly, nên sau khi sứ thần Lý Hiên trở về rồi, họ bèn cử một đoàn sứ giả đông đến ba mươi bảy người do Ta Kha dẫn đầu sang Cao Ly để xem rõ thực hư. Lý Hiên biết rõ điều đó nên đã sai viên ký lục của mình là Trương Giám bí mật về báo với triều đình kế hiểm đó của Mông Cổ.
Nhưng rồi đến đầu tháng tư năm Cao Tông thứ 40, cuối cùng Yakul của Mông Cổ cùng với em vua là Long Chu cử Amukhan làm tướng tiên phong kéo đại quân sang xâm lược Cao Ly. Quân Mông Cổ tiến quân như thế trẻ che. Chúng đã chiếm hết cả vùng quan bắc và xâm nhập vào vùng biển tây. Theo đó cúng dần dần tiến quân về phía nam, xâm nhập vào tận trung châu.
Trong tình hình đó, dĩ nhiên bàn tay xâm lược của quân Mông Cổ cũng đã vươn đến thành Ủng Tân.
Tháng tám năm đó, á tướng của Đường Cô là Khalitan dẫn hơn một vạn kỵ binh và bộ binh tiến đánh vào Ủng Tân.
Khalitan đã quét sạch cả một vùng biển tây của tỉnh Hoàng Hải; đến tháng chín năm đó thì bắt đầu bao vây thành Ủng Tân.
Để bao vây thành Ủng Tân, Khalitan đã thay đổi cách đánh so với cách đánh của Đường Cô trước đây; Y mở ra hai mặt trận. Một vừa để kiềm chế quân phòng vệ cửa tây bắc thành Ủng Tân, vừa để đối chọi với quân Cao Ly ở núi Quảng Đại. Một mặt trận khác chúng bố trí ở mạn Đông Nam, dựa lưng vào núi Liên căn, chuẩn bị tấn công vào thành Việt Nam ở núi Hoa Sơn và cửa thành phía đông nam.
Tình hình đã đến bước này, nên cả quan huyện Ủng Tân coi sóc nơi này, cũng như đốc binh biệt quân sơn thành và cả quan mục sứ ở Hải Châu tất cả đều cuống cuồng lo tìm cách đối phó.
Sơn thành của trấn Ủng Tân này nằm dưới quyền quản hạt của Mục sứ Hải Châu. Mục sứ trước đây được gọi là An tây đô hộ phủ sứ, nhưng từ năm Cao Tông thứ 34 trở đi, đổi cách gọi là mục sứ. Mục sứ Hải Châu - gọi như vậy vì Hải Châu là nơi đặt An tây đô hộ phủ - bên cử quan truyền lệnh đến gặp đốc binh biệt quân sơn thành Trác Vĩnh Phúc và quan huyện Ủng Tân An Ngọc, báo cho hai người biết, trong việc phòng vệ thành Ủng Tân, dựa theo kinh nghiệm chiến đấu lần trước, cần bàn bạc với Hoa sơn quân, và phối hợp với nghĩa binh của Hoa sơn quân.
Đốc binh biệt quân sơn thành Trác Vĩnh Phúc là người hay cố chấp, thường xung khắc ý kiến với quan huyện, không phục ông này nên quan mục sứ đã có lời phê phán nghiêm khắc.
Do quân Mông Cổ nhiều lần sang xâm lược, nên triều đình đã huy động dân binh toàn quốc đắp cao các con đê dọc theo vùng bờ biển, tăng cường nhiều biện pháp phòng thủ.
Ở thành Ủng Tân cũng vậy. Quan huyện và đốc binh sơn thành đã chấp nhận chỉ thị của Hoa sơn quân, xây dựng lại thành lâu, và gia cố nhiều công trình phòng vệ khác.
Mỗi lần quân Mông Cổ sang xâm lược. Mục sứ Hải Châu lại khẩn khoản liên hệ với Hoa sơn quân. Còn quan huyện An Ngọc và đốc binh Trác thì nhiều lần tìm đến cúi rạp mình nhờ Hoa sơn quân giúp đỡ. Song không hiểu sao Hoa sơn quân cứ từ chối không muốn ra khỏi thành Việt Nam.
Nhưng quan huyện An và đốc binh Trác cứ tìm đến nằng nặc van nài.
Quan huyện An là người nhã nhặn, luôn đưa mặt nhìn lên hai khuôn mặt của Hoa sơn quân và đốc binh sơn thành nói:
- Hoa sơn quân đại giám cứ từ chối như thế này thì nguy lắm ạ. Trấn Ủng Tân của chúng tôi mà thất thủ thì mối nguy sẽ không lường hết được.
Lời nói đó của Quan huyện như đấm vào tai đốc binh Trác. Quan huyện An không phải con nhà binh mà lại ăn nói một cách tùy tiện như vậy trong khi đốc binh là con nhà binh đang ngồi bên cạnh rõ ràng làm cho đốc binh khó chịu, nhưng ông ta không thể chống lại mệnh lệnh của thượng cấp cũng như không thể phản ứng lại quan huyện trước mặt ông cụ già.
Bởi thế, ông ta đành phải cúi đầu xuống đất nhận rằng lời nói của quan huyện An là đúng. Có lẽ thấy tội nghiệp trước những lời van xin của quan huyện và đốc binh đã nhiều ngày nay, cuối cùng Hoa sơn quân vuốt vuốt một chặp bộ râu trắng như cước, chép miệng nói:
- Tôi nay cũng đã già, tuổi cao sức yếu mà quan huyện An và đốc binh Trác vẫn có lòng đến bảo tôi gánh vác trách nhiệm, tôi xin cảm ơn hai vị nhưng thật lòng rất lo. Quan huyện An thì đã đành rồi, nhưng đặc biệt có đốc binh Trác, võ nghệ rất cao cường, cho nên mong hai vị đừng nghĩ rằng tôi chịu trách nhiệm là tôi sẽ làm tổng chỉ huy mà cả ba chúng ta hãy thỏa thuận cùng nhau bảo vệ thành Ủng Tân. Được như vậy mới là quý.
Nghe Hoa sơn quân nói vậy, đốc binh Trác phấn khởi, niềm vui mừng hiện trên nét mặt. Nhưng nhớ lại việc này là mệnh lệnh đặc biệt của mục sứ giao cho nên chấp hai tay vái lạy Hoa sơn quân mà nói rằng:
- Thưa Hoa sơn quân, có tin hiện nay quân Mông Cổ đã đến cách ngoài thành có mấy chục dặm. Vì vậy, càng vào lúc này, càng cần phải thống nhất quân lệnh chỉ huy. Hoa sơn quân có chấp nhận cho lời cầu khẩn này thì mới bảo vệ được thành và mục sứ của chúng tôi cũng giữ được thể diện.
Hoa sơn quân suy nghĩ rất nhiều. Ngày trước, Lý án sát sử là chỗ quen thân đặc biệt với Người, nhưng nay quan mục sứ mới đến, tuy có quen biết nhau nhưng không phải là bạn bè thân thiết. Ông ta thông qua đốc binh dưới quyền mình có thể nay bảo phải làm thế này, mai bảo phải làm thế nọ. Ngộ nhỡ bại trận, thì mình sẽ phải hứng chịu những lời oán thán. Hoa sơn quân rất ngại điều đó, nhưng thấy đốc binh Trác mũi chấm đất, cúi đầu van lạy như vậy và trong giờ phút quân Mông Cổ đã tiến đến cách ngoài thành chỉ có mấy mươi dặm, nên tình thế không cho phép trì hoãn thêm được nữa. Không còn cách nào khác, Hoàng thúc bèn chấp nhận.
- Hai vị đã có lòng. Tôi cũng xin nhận lãnh trách nhiệm tổng chỉ huy vậy.
Quan huyện An và đốc binh Trác cúi đầu tạ lễ.
- Xin cảm ơn Hoa sơn quân. Vậy chúng tôi xin trở về báo lên quan mục sứ, xong sẽ quay lại.
Nói xong hai người bèn đứng dậy, chẳng kịp đợi Hoa sơn quân có nói lại điều gì không.
Hoa sơn quân thấy họ mấy ngày nay van vỉ mãi, nay mới được chấp nhận, mà lại có thái độ như vậy kể cũng có phần xem thường. Song, nghĩ lại thấy bổn phận của người lính trước hết là phải báo cáo ngay điều đó lên cấp trên, nên Người chỉ cười, ngồi nhìn theo bóng hai người đang đi ra khỏi cổng.
Hai người đi rồi, trong lòng Hoàng thúc lại nói lên bao nỗi suy tư ngổn ngang trăm mối. Ngày trước bên cạnh Hoàng thúc còn có Lý công tử Lý Quân Tất, và Tiêu Vĩnh Vạn, tất cả đều hết lòng giúp đỡ, hơn nữa thể lực của Hoàng thúc lúc ấy còn cường tráng. Mặt khác, hai đứa con trai của Người nếu có ở đây cũng giúp đỡ được cho bố, nhưng đằng này chúng nó cũng theo con đường của chúng nó, đi làm quan ở triều đình, đang đảm đương những công việc quan trọng hơn, nên không biết phải xoay sở sao đây.
Lúc này có một người tráng đinh chạy vào báo cáo.
- Thưa Hoa sơn quân, ngựa đi tuần tra đã sắp đến rồi ạ.
Hoàng thúc muốn đi xem xét một lượt trong ngoài thành, nên đã lệnh cho những người lính hầu cho rơm cỏ để ngựa ăn no và đóng yên lên con ngựa trắng mà người rất yêu quý.
- Thế thì hãy đi quanh một vòng xem sao.
Nói đoạn, người bước lên lưng ngựa và đi ra phố.
Trên đường phố, thấy Hoa sơn quân xuất hiện, mọi người già trẻ gái trai đều lộ nét mặt vui mừng hoan hỉ.
- Bạch mã tướng quân của chúng ta đã cao tuổi nhưng trông còn khỏe.
- Tướng quân chiến đấu bằng sức mạnh, nhưng cũng bằng cả trí tuệ nữa đấy! Hoa sơn quân của chúng ta là vị tướng anh minh, quân Mông Cổ là cái thá gì.
Trên đường phố, người nọ gặp người kia, bàn tán rôm rả, thể hiện lòng dân trong thành muôn người như một đoàn kết nhất trí với Hoa sơn quân, cho nên sự thắng bại của thành này coi như có thể biết trước được.
Quan huyện An và đốc binh Trác sau khi lên thư lại với mục sứ Hải Châu, đã quay lại gặp Hoàng thúc báo cáo công việc.
- Thưa, Hoa sơn quân đi đâu vậy! Chúng tôi đang có một trác thư gấp muốn được trình lên Hoa sơn quân.
Trời rét cóng mà Hoa sơn quân thấy họ chạy đến vã cả mồ hôi trán, bèn mỉm cười nói:
- May quá, nào chúng ta hãy cùng nhau đi xem xét trong thành một lượt rồi về nhà nói chuyện.
Đốc binh Trác, thấy Hoa sơn quân đã xiêu lòng thì rất biết ơn, nhưng không nói được nên lời, chỉ biết đi theo sau Hoàng thúc.
Quan huyện và đốc binh Trác đi theo hai bên, Hoàng thúc đi giữa, cảm giác trống trải đã mất đi. Không những vậy, họ còn cảm thấy có thể nghĩ ra được những sáng kiến hay. Ba người vừa đi vừa suy nghĩ, chẳng bao lâu đã đến núi Quảng Đại ở phía ngoài cửa Bắc. Núi Quảng Đại là nơi đốc binh Trác dàn trận địa lập phòng tuyến bảo vệ cửa thành phía tây bắc. Quân Cao Ly binh lực ít, không chiếm nổi vùng núi Thanh Nham là nơi đội quân đi trước của Mông Cổ đang dồn trú, nhưng do đã bố trí những lực lượng tinh nhuệ ở chân núi phía tây bắc núi Quảng Đại cho nên đã tạo ra một thế trận tốt, có thể diệt gọn quân Mông Cổ dám liều lĩnh tấn công vào trong thành Ủng Tân. Sau khi đi thăm một lúc thế trận đó, Hoàng thúc tỏ vẻ hài lòng khen:
- Trận pháp của đốc binh Trác khá đấy!
Với vẻ đắc ý hiện trên nét mặt, đốc binh Trác khiêm nhường đáp lại:
- Trận pháp này do bản quan học được của mục sứ. Nhưng năng lực chỉ huy của bản quan vốn kém lắm ạ.
Hoàng thúc nhìn đốc binh Trác, rồi lại nhìn ra trận nói:
- Sách có câu "Thiên thời bất như địa lọi" gặp thời cơ tốt không bằng gặp địa thế tốt. Hình thế của núi Quảng Đại chẳng phải thế sao? Đúng vậy, thế trận này là "bát trận đồ".
Đốc binh Trác nở cả ruột gan, cười hi hi nói:
- Thưa Hoàng thúc, thế trên này có làm được đúng theo quy cách không ạ?
- Khá lắm. Khi còn ở cố quốc, tôi đọc sách thấy nói ngày xưa Gia Cát Khổng Minh đã lập ra bát trận đồ rất giỏi. Tôi sang nước Cao Ly thấy dường như ai cũng làm giỏi bát trận đồ.
Nghe câu chuyện trao đổi giữa Hoa sơn quân với đốc binh Trác như vậy, quan huyện An là quan văn không biết có phải vì ghen tức hay không, bèn nhăn trán nói một câu:
- Thưa Hoa sơn quân, làm tốt bát trận đồ cố nhiên là tốt rồi. Nhưng có được trí tuệ tốt như vậy mà lại không làm được cái việc "bổ lưới tứ phương" để bắt quân Mông Cổ, không buộc được chúng phải co vòi bó tay mà cứ để chúng luôn luôn sang đánh [há nước ta như vậy, thử hỏi chẳng phải đã là tốt hay sao?
Đốc binh Trác tỏ vẻ khó chịu, nhìn chằm chằm vào quan huyện An. Nhưng Hoàng thúc gật gật đầu, nói:
- Quan huyện An nói như vậy cũng có cái lý của mình. Một vị danh tiếng dù có tài ba lỗi lạc bao nhiêu, nếu không gặp thời thì cũng không thể nổi danh được. Biết đâu, một ngày nào đó, nhờ tài năng của đốc binh Trác chúng ta sẽ đánh lui được đại binh của Mông Cổ chỉ trong một trận cho mà xem. Chỉ có điều, thời thế đã vậy, thì đất nước này phải chịu vậy thôi.
Trong lúc mọi người đang nói chuyện với nhau bỗng có ba người trong đó có cô á tướng sơn thành Lư Quân Đạt đến Thanh Nham sơn trinh sát địch tình trên đường trở về, trông thấy đốc binh bèn cúi chào thưa rằng:
- Thưa, chúng tôi vừa được tin tướng Mông Cổ Khalitan đã tập kết gần ba nghìn kỵ binh và hơn năm nghìn bộ binh ở chân núi phía nam của Thanh Nham sơn, dàn trận địa ở đó và bố trí khoảng hơn năm nghìn kỵ binh và ba nghìn bộ binh ở phía núi Liên Căn.
Hoàng thúc đứng bên cạnh nghe trình bày như vậy, bèn quay lại hỏi Lưu Quân Đạt:
- Vậy, cờ soái của chúng treo ở núi nào?
Nghe hỏi vậy, Lưu Quân Đạt vẹo đầu suy nghĩ một chốc rồi trả lời:
- Dạ, vốn dĩ trên trận địa của quân Mông Cổ cắm rất nhiều cờ không phân biệt rõ được. Nhưng ở Liên Căn sơn thì không có cờ lớn, còn ở giữa trận địa Thành Nham sơn có vẻ như có một lá cờ rất to. Có thể đó là cờ soái của tướng Khalitan cũng nên.
Cả quan huyện An và đốc binh Trác đều có vẻ như đang chờ Hoa sơn quân nói tiếp. Hoàng thúc suy nghĩ một chập rồi nhìn đốc binh Trác nói:
- Như vậy chủ lực của địch chắc chắn đông ở Thanh Nham sơn, có lẽ chúng đang chuẩn bị đánh vào cửa thành phía bắc của chúng ta.
Đốc binh Trác đến lúc này chừng như đã hiểu, ít nhiều tỏ vẻ lo lắng.
- Thưa Hoa sơn quân, binh lực của bản quan ít quá…
- Tôi cũng nghĩ như vậy. Cho nên ngay tối hôm nay cần điều động gấp một số binh lực ở phía ngoài cửa nam lên cửa bắc.
Hoa sơn quân chỉ thị như vậy, quan huyện An biết phải điều lực lượng của khu vực mình phụ trách lên phía bắc, ít nhiều muốn cưỡng lại, bèn lắc đầu nói:
- Thưa Hoa sơn quân, binh lực ở phía nam chúng tôi cũng mỏng lắm.
Đốc binh Trác thấy quan huyện An nói năng không hợp lẽ, nhưng trước mặt Hoa sơn quân không tiện vặn lại hỏi quan huyện. Hoàng thúc nhìn dáng vẻ đó của họ một chặp rồi nghiêm sắc mặt ra lệnh:
- Các ông là những tướng lĩnh dưới quyền chỉ huy của tôi. Theo binh pháp kẻ nào chống quân kỷ, sẽ chịu số phận bi thảm. Không cho phép cưỡng lại mệnh lệnh, phải chấp hành nhanh lên.
Lúc bình thời, Hoàng thúc rất ôn hòa nhưng trong giờ phút đối mặt với quân địch, khí phách của Người tưởng như có thể lay chuyển được cả núi Thái Sơn. Quan huyện An và đốc binh Trác bị áp đảo trước vẻ uy nghiêm đó của Hoa sơn quân, đã cúi đầu sát đất cùng đồng thanh hứa: "Xin tuân lệnh".
Hoàng thúc mỉm cười trên khuôn mặt đã ôn hòa trở lại. Người thấp giọng nói:
- Quan huyện An này, công việc phòng vệ ở cửa nam, tôi đã biết rồi, chúng ta sẽ có cách, cứ yên tâm.
Hai người thở phào nhẹ nhõm trước lời nói đó của Hoa sơn quân. Người ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Quân Mông Cổ mới từ xa tới, còn mệt mỏi, nên trong vòng hai ba ngày tới chúng chưa thể tấn công ngay được. Do vậy đốc binh Trác cứ yên tâm củng cố trận địa cho thật vững chắc. Còn quan huyện An hãy cùng tôi đến cửa nam môn xem xét thế trận ở đó như thế nào rồi.
Hoa sơn quân cùng với quan huyện quay lại cửa nam, điều động một số binh lực ra phía cửa bắc. Còn quan huyện an thì chuyển hành dinh vào trong thành đất, tức thành Việt Nam ở núi Hoa Sơn. Ở phía cửa Nam cửa thành, ngược lại cho cắm cờ xí rợp trời, khiến quân địch ở Liên Căn sơn sợ không dám xâm nhập. Sau đó ở núi phía tây-bắc, đặt phục binh ở núi Quảng Đại sơn, biến trận địa thành một nơi gần như trống vắng.
Lý do của việc nghi binh này là vì chủ lực của quân địch đóng ở núi Thanh Nham sơn, nên trước hết cần dụ lực lượng chủ lực của địch đánh vào cửa phía bắc.
Mặt khác về phía quân địch, tướng Khalitan sau khix em xét hình thế của thành Ủng Tân, cũng đã xây dựng một kế hoạch tác chiến đánh vào cửa Bắc trước. Chủ lực ở Thanh Nham sơn áng binh bất động, nhưng lại sử dụng binh lực ở Liên Căn sơn bắt đầu đánh vào cửa nam. Tuy vậy, các cuộc tấn công của chúng rất tản mạn. Âm mưu của chúng là kéo hết chủ lực của quân Cao Ly về phía đó để chúng tấn công vào cửa bắc.
Nhưng Hoa sơn quân đã biết trước kế hiểm đó của giặc và đã ra tay trước.
Lúc bấy giờ vào khoảng thượng tuần tháng mười.
Những bông tuyết đầu mùa bay lả tả, sương giá bắt đầu phủ trắng mặt đất. Quân Mông Cổ dù sống quen ở xứ lạnh cũng không thể không lo lắng.
Tại bản doanh đặt ở Thanh Nham sơn, tướng Khalitan lúc này chỉ còn chờ thời cơ để xông vào đánh chiếm thành Ủng Tân. Sau khi quyết định tổng công kích, tối hôm đó y gọi tất cả các tướng lĩnh dưới quyền chỉ huy của y đến và ra lệnh. Các tướng sau khi nhận được lệnh có liên quan đến phần việc của chính mình đều lần lượt ra về.
Cũng do vậy mà tối hôm đó, ngay từ đầu hôm đã có tiếng hò reo của quân Mông Cổ đánh vào cửa nam thành Ủng Tân.
Mặc khác, vế phía quân Cao Ly, Hoa sơn quân đã gọi đốc binh Trác và quan huyện đến, lập kế hoạch phòng bị cuộc tổng tấn công của quân Mông Cổ sẽ nổ ra vào tối hôm đó.
Trong căn lều dùng làm bản doanh, các ngọn nến được thắp sáng rực. Thời tiết đầu tháng mười, trời rét căm căm, nhưng bên trong lều, lửa trong lò cháy rực bùng lên những tàn lửa sáng lấp lánh nên không ai cảm thấy lạnh.
Đốc binh Trác chờ đợi mệnh lệnh tác chiến của Hoa sơn quân. Nhưng hình như Người vẫn đang đăm chiêu suy nghĩ một điều gì…
Trong lều chỉ huy, không khí tạm lắng xuống. Nhưng đôi mắt của Hoa sơn quân bỗng sáng lên khác thường.
Một chốc sau, Hoa sơn quân nói:
- Giờ đây quân Mông Cổ đang tấn công rời rạc vào phía nam. Chúng tấn công sớm như vậy là để tiến hành cuộc tổng công kích vào lúc canh hai. Do đó, đốc binh Trác hãy tổng huy động toàn bộ binh lực ở Quảng Đại sơn chuẩn bị xuất kích!
Nghe chỉ thị như vậy, đốc binh Trác ít nhiều có vẻ ngạc nhiên, bèn hỏi:
- Thưa, vậy công việc phòng thủ cửa bắc phải làm thế nào ạ?
Hoa sơn quân gật đầu có vẻ cho đốc binh Trác hỏi đúng, bèn trả lời:
- Đúng vậy, tối hôm nay tôi sẽ lo liệu việc phòng thủ cửa bắc.
Đốc binh Trác tỏ vẻ mãn nguyện. Bản thân đốc binh Trác cũng muốn đề nghị như vậy nhưng đã cố nín lặng vì không thể nói điều như vậy với Hoa sơn quân nay đã già yếu.
- Thật chúng tôi không phải với Hoa sơn quân.
Không để ý đến câu nói đó, Hoàng thúc giở tấm bản đồ tác chiến ra, lấy tay chỉ chỗ nọ, chỗ kia. Bằng giọng nói hết sức nhỏ nhẹ, người ra chỉ thị rồi lệnh cho mọi người:
- Nếu tất cả đã rõ cả rồi thì hãy xuất phát ngay.
Đốc binh Trác đứng dậy, kính cẩn chào tạm biệt Hoa sơn quân trước khi ra trận. Như để bày tỏ niềm kính trọng lớn lao nhất đối với Hoa sơn quân, không những là người rất đáng tin cậy mà còn hiểu sâu sắc nỗi lòng của mình, đốc binh Trác cảm kích nói.
- Bản quan về xin làm hết trách nhiệm theo mệnh lệnh.
Hoa sơn quân cũng đứng dậy, lấy tay vỗ lên lưng đốc binh Trác.
- Số phận của thành này nằm trong tay đốc binh mong đốc binh chiến đấu hết sức mình. Tôi tin ở đốc binh. Mong đốc binh chú ý giữ gìn.
Đốc binh Trác rời bản doanh với vẻ mặt trầm lắng, lòng được khích lệ vô hạn trước lời nói đó của Hoa sơn quân.
Hoa sơn quân nhìn theo bóng dáng phía sau của đốc binh Trác rồi đưa mắt về phía quan huyện An nói:
- Tôi sắp đi ra cửa bắc. Quan huyện hãy ra cửa nam, phòng thủ cho tốt.
- Thưa vâng.
Nhìn thấy quan huyện đứng dậy, Hoa sơn quân lại lưu ý ông ta:
- Quân Mông Cổ tối hôm nay sẽ mở trận đánh rất khác thường. Đừng có chửi bới hoặc cho rằng lực lượng địch ít rồi xem thường chúng, mà phải đóng cửa thành thật chặt, chốt giữ bên trong. Cấm không được có bất kỳ hành động nào như mở cửa thành ra truy kích quân địch để lập công. Rõ chưa?
- Vâng, rõ rồi ạ!
- Vậy quan huyện hãy đi nhanh đến cửa thành xem xét tình hình xem sao!
Tiễn xong mọi người ra các vị trí chiến đấu thì đêm đã khuya.
Đêm không trăng, tối đen như mực. Chỉ có các vì sao nhấp nháy.
Hoa sơn quân lên ngựa cùng với tráng đinh và dân binh tiến thẳng ra cửa Bắc.
Ở đây chỉ có người đội trưởng giữ cửa thành và một số dân binh nữa đang phòng thủ cửa thành. Tất cả họ đều đã ngủ, quang cảnh im lặng như tờ.
Sở dĩ như vậy là do lệnh của đốc binh Trác cho lính nghỉ ngơi đầy đủ từ đầu hôm đến giờ tý.
Hoa sơn quân leo lên thành lầu, nhìn ra bốn phía, đêm đã khuya, cảnh vật chìm trong im lặng.
Về phía trận địa địch, chỉ có ánh sáng leo lét, tất cả chỉ là đêm tối mịt mùng.
Nhưng chòm sao Bắc đẩu đêm hôm nay không hiểu sao bỗng rực sáng lạ lùng, dáng chừng như đang tự hào về hiện diện của Hoa sơn quân ở thành Ủng Tân này. Lúc này đã là giờ tú, nhưng đang có chiến tranh, cấm đánh trống báo giờ nên trong thành vẫn im phăng phắc, không ai biết đã mấy giờ rồi.
Một khắc trôi quan, tất cả quan và lính đều đã thức dậy và ăn cơm sáng.
Trong thành đã có lệnh của đốc binh Trác bắt buộc tất cả quan lính đều phải hết sức nhẹ nhàng trong lời nói và hành động, không được tạo nên tiếng động. Do vậy binh sĩ chú ý tuân theo hành động rất lặng lẽ.
Hoa sơn quân gọi các tướng đến, cho triển khai xây dựng trận địa theo kế hoạch tác chiến.
Hoa sơn quân đứng trên thành lầu chăm chú theo dõi trận địa quân Mông Cổ ở Thanh Nham sơn, thấy ánh đèn bập bùng chỗ này chỗ nọ, nhiều hơn so với lúc đầu hôm. Rõ ràng quân Mông Cổ đang hối hả chuẩn bị tổng công kích. Người bèn ra lệnh cho toàn thể quân lính trong thành sẵn sàng chiến đấu.
Lúc này là canh hai.
Hoa sơn quân báo cáo cho toàn thể quân lính biết sự thật đó.
Tướng Khalitan của quân Mông Cổ trực tiếp chỉ huy toàn bộ quân địch từ núi Thanh Nham mở cuộc tổng tấn công, tiến về phía thành Ủng Tân.
Trong lúc quân Mông Cổ tiến về phía thành Ủng Tân, bỗng nhiên từ chân núi Quảng Đại, những ngọn đuốc nhất tề vụt sáng lên, cùng với tiếng quân reo vang trời dậy đất.
Quân Mông Cổ tạm dừng cuộc hành tiến. Tướng Khalitan lệnh cho cánh quân đi đầu tấn công vào núi Quảng Đại, còn bản thân y thì đốc suất cánh quân đi giữa và cánh quân đi sau đột kích vào cửa bắc thành Ủng Tân.
Đúng lúc đó, từ mé gò đôi đối diện với núi Quảng Đại, tiếng quân reo hò vang động khắp nơi, quân Cao Ly lao tới đánh vào lưng quân Mông Cổ.
Đêm tối như mực, quân Mông Cổ bị quân Cao Ly tấn công bất ngờ, không tiến lên được, bắt đầu hoang mang nháo nhác bỏ chạy tán loạn, đội binh rối tung. Thừa cơ, trong thành Ủng Tân khắp nơi nổi đuốc sáng rực. Cửa thành phía bắc bỗng mở toang, một đội kỵ binh từ trong thành lao ra như một mũi tên. Đoàn kỵ binh xông tới đánh vỗ mặt vào quân Mông Cổ, làm cho chúng dù có là đại quân hùng mạnh đến đâu cũng không thể nào thoát khỏi cảnh hỗn loạn.
Thế là chỉ với số quân của Ủng Tân không đán bao nhiêu, nhưng do được tổ chức hiệp đồng tuyệt vời nên đã giáng cho bọn địch một đòn thất điên bát đảo.
Tướng Khalitan hoảng hốt trước đoàn phản kích bất ngờ không còn cách nào, đành ra lệnh rút lui.
Nhưng quân Cao Ly lợi dụng bóng đêm, vừa reo hò vang trời dậy đất vừa xông vào chém giết quân giặc. Bị tấn công bất ngờ từ ba mặt, quân Mông Cổ bị tổn thất mấy trăm tên. Chúng vất bỏ cả ngựa chiến, quân xa và tất cả các chiến cụ khác, chạy thục mạng về Thanh Nham.
Thời gian qua có nhiều cuộc đụng độ lẻ tẻ, nhưng đụng độ lớn thì đây là lần đầu tiên. Phía quân Cao Ly đã lợi dụng đêm tối không trăng, và hiểu rõ lợi thế địa hình cũng như tình hình quân địch khi chúng tấn công vào đây, nên chỉ với một binh lực nhỏ đã phản kích rất hữu hiệu. Còn quân địch thì do đêm tối như mực, chúng không nắm được thực lực của quân ta, nên chúng đã thất bại cay đắng.
Mờ sáng ngày hôm sau, trong thành Ủng Tân những bữa tiệc khao quân lớn đã được mở ra.
Hoa sơn quân ủy lạo quan huyện An và đốc binh Trác.
- Đốc binh Trác vốn là một võ quan nổi tiếng lập được công như vậy là lẽ đương nhiên, còn quan huyện An không phải quan võ mà là quan văn, nhưng trong cuộc chiến đấu lần này cũng lập được công lớn như vậy, thật là một kỳ tích đó.
Quan huyện An nghe nói vậy, nét mặt không giấu nổi bối rối, bèn nói:
- Hoa sơn quân đã khen ngợi một quan huyện không có công lao gì. Tôi xin cảm ơn. Công lao trong cuộc chiến đấu lần này là do hai vị lập nên đó ạ.
Hoa sơn quân nghiêm mặt nói:
- Tất nhiên như vậy không có nghĩa là đốc binh Trác hoặc tôi không chiến đấu. Thế nhưng để đưa cuộc chiến đấu lần này đi đến thắng lợi, phải nói là quan huyện An đã chiến đấu tốt ở phía cửa nam nên viện binh của địch ở núi Liên Căn không đến được. Nếu cuộc tác chiến của quan huyện không tấn công giỏi cắt đứt liên lạc của địch mà lại để cho chúng huy động được lực lượng ở núi Liên Căn ra yểm trợ thì chúng tôi có tài thánh cũng chẳng làm nên sự tích gì.
Đốc binh Trác và cả quan huyện nữa nghe Hoa sơn quân giải thích như vậy đều cảm thấy có lý.
Hoa sơn quân quả là một vị tướng anh minh theo phong cách "dưới tướng của một danh tướng không có người lính tồi:. Bất kỳ người lính nào nếu thực hiện đầy đủ mệnh lệnh của người chỉ huy đều có thể lập nên công trạng.
Về phía quân Mông Cổ, tướng Khalitan khinh thường thành Ủng Tân, tưởng rằng chỉ trong một trận có thể chiếm gọn, nào ngờ đã nuốt phải quả đắng, khiến y không khỏi khiếp đảm. Trong tay có hơn một vạn binh lực, nhưng y cứ ngỡ trong thành Ủng Tân có khá nhiều quân, nên đã phải liên lạc với nguyên soái Amokhan yêu cầu cho thêm viện binh.
Lúc này nguyên soái Amokhan đã tiến đến tận tỉnh Trung Thanh, không thể đưa viện binh đến sớm được, nên phải hơn một tháng sau, tức là vào trung tuần tháng một, khoảng hơn một vạn viện quân gồm cả kỵ binh và bộ binh mới đến được. Như vậy là Khalitan đã phải dùng một đại quân hơn hai vạn tên để tìm cách tiến đánh trấn Ủng Tân một sơn thành nhỏ chỉ có hơn một nghìn quân sĩ Cao Ly trấn giữ.
Thành Ủng Tân biết rõ mọi việc lớn nhỏ xảy ra ở phía trận địa quân địch. Nhưng vì binh lực nhỏ và chủ yếu lấy phòng vệ làm chính nên không có đủ binh lực để có thể đương đầu với đại quân Mông Cổ và cũng không còn cách nào khác.
CHƯƠNG 22: THÀNH ỦNG TÂN BỊ BAO VÂY CÔ LẬP
Từ trung tuần tháng một, quân Mông Cổ đã hoàn toàn bao vây thành Ủng Tân và bắt đầu mở trả các cuộc tiến công liên tục. Quân dân trong thành kiên quyết chống trả, bắn tên lửa và lăn đá xuống để cản quân địch trèo thành đột phá vào. Nhưng quân Mông Cổ vẫn liên tục tấn công hơn mười ngày liền. Chúng dựng những chòi cao gọi là "phi lâu" hòng tìm cách vượt qua bờ thành.

Thời gian qua, Hoa sơn quân một mặt khích lệ đốc binh Trác và quan huyện An, một mặt đôn đốc động viên toàn thể tướng tá binh lính ra sức phòng giữ nhưng trong hoàn cảnh bị bao vây cô lập tứ bề, không được chi viện từ bên ngoài nên không còn cách nào giữ nổi thành này. Sau hơn mười ngày chiến đấu không nghỉ, Hoa sơn quân bèn triệu tập quan huyện An và đốc binh Trác đến họp bàn.
- Thời gian qua, quan huyện An và đốc binh Trác với tấm lòng trung thành tận trung báo quốc đã ra sức chống giữ thành này, nhưng sắp tới, tình hình sẽ còn khó khăn hơn, vậy hai vị có kế sách gì hay không?
Khuôn mặt Hoa sơn quân gầy xọp đi. Người nói gần như kêu gọi.
Đốc binh Trác đáp lại với giọng yếu ớt, đầy đau xót:
- Xin Hoa sơn quân thứ lỗi. Thất bại một lần là chuyện bình thường của người cầm quân. Lực lượng của ta ít, không cân sức với quân địch. Tình thế đã như vậy rồi, xin mời quan huyện An và Hoa sơn quân hãy tạm lánh ra đảo Xương Lân. Còn bản quan sẽ ở lại trong thành, tứ thủ đến cùng.
Quan huyện An nghe nói vậy, bèn nghiêm nét mặt phản bác lại:
- Không thể thế được. Đốc binh Trác nói quá lời rồi đấy. Chúng ta đã cùng chiến đấu bên nhau. Nay để một mình đốc binh Trác ở lại, còn chúng tôi chạy trốn, thử hỏi còn mặt mũi nào nhìn thấy nhau nữa.
Nghe nói vậy, đốc binh Trác đỏ mặt, không biết trả lời thế nào.
Nhìn thấy vậy, Hoàng Thúc nở nụ cười hài lòng:
- Tấm lòng của hai vị cũng như tấm lòng của già này không có gì khác nhau. Điều tôi định nói thì đốc binh Trác đã nói trước rồi...
Nghe Hoàng thúc nói vậy, cả hai người chỉ biết ngồi im lặng. Lúc này trong lòng họ dù vẫn tin rằng Hoa sơn quân sẽ có được phép mầu nào đó, song trước mắt thái độ của họ vẫn là tuyệt vọng.
Ngừng một chốc, Hoa sơn quân nói tiếp:
- Ngày nào bọn địch cũng tấn công dữ dội, thương vong của quân ta tăng lên. Cứ như thế này mãi thì sẽ dẫn tới chỗ tự diệt vong. Không những thế, tất cả các thành quách ở đông, tây, nam, bắc đều sẽ bị phá hủy. Như vậy, thay vì phải chịu đựng những hy sinh không cần thiết để bảo vệ một khu vực đất đai rộng lớn, nay nếu ta dời vào trong thành Việt Nam ở núi Hoa Sơn và chỉ tử thủ một chỗ đó thôi thì chúng ta có thể làm được.
Nghe xong một lát, đốc binh Trác nói:
- Thưa Hoa sơn quân, nếu vậy ta hãy mở cửa cho quân Mông Cổ kéo vào trong thành có phải thượng sách không?
Quan huyện An chừng như hiểu được ý nghĩa câu nói đó, bèn đáp:
- Tất cả mọi quyền chỉ huy của thành này vẫn là do Hoa sơn quân nắm giữ. Hoa sơn quân mà ra lệnh, chúng ta sẽ chấp hành. Chúng ta hãy đừng nghĩ này nghĩ nọ làm gì. Nếu là thượng sách, Hoa sơn quân khắc ra lệnh.
Nét mặt quan huyện không giấu nổi nỗi đau khổ. Hoa sơn quân ngồi nghe những lời bàn luận của họ, không khỏi tự cảm thấy trách nhiệm đè nặng lên hai vai mình. Không khí trong phòng chìm lắng đi một chốc. Từ trong bản doanh, Hoàng thúc nhìn ra ngoài với vẻ đăm chiêu.
Chỉ còn mấy ngày nữa đến đông chí. Đêm nay hoa tuyết rơi lả tả.
Cho đến ngày hôm sau, biết bao trận đánh một mất một còn đã diễn ra để giành giật lấy thành này. Giờ đây những bông tuyết trắng ngần đang rời lả tả xung quanh bức tường thành và trên khắp mặt đất thắm đầy máu như muốn làm dịu đi nỗi thảm khốc của chiến tranh.
Thỉnh thoảng một cơn gió bấc mạnh thổi ào tới, đập vào chiếc lều bản doanh, chiếc lều rung lên bần bật. Không chỉ riêng chiếc lều bản doanh mà cả đất trời tưởng chừng như cũng đang rung lên, chao đảo. Chỉ riêng có tấm lòng của Hoa sơn quân, của quan huyện An và của đốc binh Trác là vẫn vững chắc như bàn thạch chẳng hề chuyển lay.
Một chốc sau, ánh mắt của Hoa sơn quân quay sang phía quan huyện An rực sáng lên. Bộ râu dài trắng như cước của Người trong đêm nay càng trở nên uy nghiêm lạ thường. Người nói với giọng nghiêm trang:
- Tấm lòng trung hậu của hai vị, cả đất trời, thần linh đều cảm động... Đánh đuổi quân Mông Cổ rồi, chúng ta còn phải sống. Hãy tỏ rõ dũng khí của mình, đừng lo lắng gì hết. Toàn bộ binh lực của chúng ta nội trong đêm nay phải chuyển vào trong thành đất Việt Nam. Sáng sớm ngày mai, hãy mở toang tất cả các cửa thành ra!
Đây không phải là kỳ tích mà là một quyển sách bất đắc dĩ cuối cùng. Trước mệnh lệnh mở cửa thành đang bị đại quân của giặc bao vây cô lập chẳng khác nào như ngọn đèn trước gió, cả hai người – quan huyện và đốc binh Trác, đứng dậy cùng đáp lại bằng một giọng cương quyết và không chút bận tâm:
- Chúng tôi xin thực hiện từ bây giờ.
Nói xong họ liền bước ra ngoài.
Việc di chuyển nhiều quân sĩ, binh khí và ngựa chiến đã được bố trí ở bốn cửa thành vào hết trong thành đất nội đêm nay là một công việc khá vất vả, nhưng vẫn phải kiên quyết làm. Trong binh pháp có nói: rút lui còn khó hơn tiến công. Điều đó đến nay càng thấy rõ.
Về phía quân Mông Cổ, tướng Kha Litan huy động đại quân hơn hai vạn tên, bao vây chặt thành Ủng Tân, liên tục tấn công hơn hai mươi ngày nay. Hắn hò hét quân lính:
" Chúng mày phải nhanh chóng đạp nát thành này cho ta!"
" Chúng mày hãy xây dựng phi lâu trèo vào trong thành!"
" Chúng mày hãy giết chết hết quân Cao Ly cho ta!"
Mặc cho hắn gào thét, quân lính của hắn mỗi lần tiến lên đầu gặp phải thất bại do đá lớn ném xuống và tên lửa từ trong thành bắn ra.
Quân Mông Cổ vốn sinh ra ở xứ rét, nên thấy tuyết xuống, sĩ khí của chúng lại tăng lên. Tên tướng Khalitan càng hăng thêm do tuyết xuống đêm qua, gọi tên phó tướng đến ra lệnh:
- Tối hôm qua tuyết xuống là điềm trời báo cho chúng ta biết hôm nay phá vỡ được thành này. Do vậy, hôm nay dù có phải hi sinh bao nhiêu cũng phải phá thành xông vào. Nghe rõ chưa?
- Tuân lệnh!
- Vậy thì phải chuẩn bị tấn công. Hôm nay ta sẽ đi tiên phong!
Dưới sự thống lĩnh của Khalitan, quân Mông Cổ phất cờ, hò reo vang trời, nhằm hướng thành Ủng Tân thẳng tiến.
Vì đêm nào chúng cũng sợ quân Cao Ly tập kích, phải đóng cách xa thành khoảng ba dặm nên chúng phải dò dẫm tiến lên từng bước và cuối cùng đã đến được cửa thành. Thấy cửa thành đã mở toang, nhìn lên thành lầu, không thấy một bóng người.
Quân Mông Cổ cố ráng sức tiến tới đây, nhưng đến nơi thấy quang cảnh thế này, chúng cảm thấy rụng rời. Kalitan ngồi trên mình ngựa nhìn vào trong thành, một chặp bỗng quay sang ra lệnh cho tên phó tướng:
- Này, toàn quân hãy dừng ngay lại cuộc tiến công. Có lẽ ta mắc mưu quân Cao Ly rồi!
Nói xong hắn ra tiếp một lệnh nữa cho tên phó tướng:
- Có ai vào bên trong cửa thành thăm dò xem sao. Không chừng lợi dụng tuyết xuống đêm qua, quân Cao Ly đã làm nhiều hầm chông cũng nên.
- Vâng, tiểu tướng xin đi xem xét.
Tên phó tướng dẫn hơn mười tên lính dò dẫm từng bước trên tuyết đi vào bên trong. Chúng tìm xem hết chỗ này đến chỗ khác nhưng chẳng thấy một bóng người lính Cao Ly nào.
Đến tối, tên phó tướng mới về báo cáo lại. Nghe xong, Khalitan ra lệnh ngay đêm hôm đó đưa một bộ phận quân lính vào đồn trú trong thành Việt Nam ở núi Hoa Sơn.
Nhưng quân Mông Cổ đã bị đặt trong tình thế dù có sợ trúng kế của quân Cao Ly vẫn buộc phải bao vây thành đất Việt Nam.
Khalitan bị buộc trong cái thế phải bao vây, tấn công thành đất Việt Nam, cũng có nghĩa là y phải chấp nhận nỗi khổ tâm đi kèm theo đó. Bốn cửa lớn của thành Ủng Tân bị đại quân Mông Cổ tổng công kích một tháng trời mà vẫn không suy chuyển, nay bỗng nhiên mở toang ra như vậy, ắt phải có chuyện gì đây: hoặc chờ viện quân đến, hoặc có thâm kế gì chứ chẳng không. Tướng giặc nghĩ như vậy và buộc phải đưa một số binh lực ra xây dựng trận địa ở vành ngoài của thành. Do vậy, số quân được huy động để tấn công chưa được mấy ngày thì một số đoạn bờ thành đã bị sụp đổ và họ lâm vào một tình tiết hết sức nguy ngập.
Quân Mông Cổ từ sáng đến tối liên tiếp đột phá không nghỉ. Chỉ có ban đêm, chúng sợ bị tập kích và có viện quân tới nên mới rút về mà thôi. Thời tiết lúc này đã là tháng chạp nên trời rất rét. Có một đêm tại lều bản doanh trong thành, Hoàng thúc cùng quan huyện An và đốc binh Trác ngồi lại với nhau, trên nét mặt người nào cũng lộ vẻ đau sót.
Đốc binh Trác lấy tay xoa vết thương trên cánh tay trái của Hoa sơn quân, và nói:
- Vết thương của Hoa sơn quân nặng quá.
Hoa sơn quân chăm chú nhìn đốc binh Trác, nói với giọng cảm thương:
- Vết thương trên tay không việc gì đâu. Tôi nay đã già rồi có chết cũng không sao. Chỉ lo cho tính mạng của quý quan nhân và những người còn đầu xanh trẻ tuổi trong thành này.
" Hoa sơn quân!"
Đốc binh nghẹn ngào thốt lên, đầu cúi xuống đất. Anh ta chăm chú nhìn vào đôi chân của Hoa sơn quân, một ông già bảy mươi tuổi, bó chân đi giày da thú. Một bên giày rách một lỗ rõ to.
Đốc binh Trác quá ư xúc động. Anh ngước đầu lên, lấy lại khí thế, hai bàn tay nắm chặt thành hai nắm đấm.
- Xin Hoa sơn quân đừng lo lắng. Chúng tôi sẽ chiến đấu đến chết.
Quan huyện An cũng đứng lên, hừng hực khí thế: " Hoa sơn quân!"
Hoa sơn quân cũng đứng lên theo. Tay phải Người nắm chặt tay quan huyện, tay trái Người nắm chặt tay đốc binh Trác.
- Kẻ đại trượng phu chiến đấu hi sinh trong chiến tranh bảo vệ đất nước thì có gì mà sợ. Chúng ta sẽ chiến đấu đến người cuối cùng để bảo vệ thành này!
" Hoa sơn quân!"
" Hoa sơn quân!"
Cả quan huyện An và đốc binh Trác rất đỗi cảm kích, chỉ biết gọi " Hoa sơn quân!" và đó cũng là lời thề bật lên từ trong trái tim của họ.
Trước những cuộc tiến công càng dồn dập của quân địch, thành trì dần dần bị sụp đổ, cả ba người đều thương tích đầy mình, chỉ duy có tấm lòng của họ là mỗi lúc càng cứng rắn thêm lên.
CHƯƠNG 23: CHA TRUYỀN CON NỐI
Cuộc tấn công của địch mỗi ngày một thêm quyết liệt, sức phòng vệ của quân Cao Ly càng thêm suy yếu, Quân lính chẳng còn được bao nhiêu. Và tất cả đều được huy động ra quyết tử để bảo vệ thành. Tình thế của họ thật chẳng khác nào như ngọn đèn trước gió!

Vào một hôm, từ sáng họ đã phải lao vào cuộc chiến đấu gay go, ác liệt. Họ xông vào đánh giáp lá cà với quân địch đã làm cho đoạn bờ thành cạnh cửa đông bị đổ nhào. Lợi dụng đoạn tường bị đổ, bọn lính Mông Cổ ào ào tràn vào như nước vỡ bờ.
Thế là một trận đánh giáp lá cà với quân địch đã diễn ra bên trong thành. Vào giờ phút thành đất Việt Nam sắp bị quân Mông Cổ chiếm lĩnh thì đột nhiên từ phía sau lưng quân Mông Cổ ở bên ngoài thành, những tiếng hò reo nổi lên, một đội kỵ binh lao thẳng vào như một mũi tên, bắt đầu chém giết quân Mông Cổ.
Tướng giặc Mông Cổ vốn thấp thỏm lo sợ bị viện binh hoặc phục binh của quân Cao Ly, nên khi hắn trông thấy cảnh tượng đó, hắn nghĩ ngay rằng các đơn vị quân Cao Ly đang hiệp đồng đánh úp sau lưng trận địa của hắn. Thế là hắn hoảng hốt tưởng đã mắc mưu quân Cao Ly, tức tốc ra lệnh:
" Toàn quân rút lui"
Nhưng quân Mông Cổ bị đột kích đã không phân biệt được địch ta, chỉ biết hoảng hốt lo chạy tháo thân.
Binh sỹ Cao Ly và binh lính Mông Cổ lẫn lộn vào nhau, không còn phân biệt được nữa. Tên tướng Khalitan quá đỗi hoảng sợ đã phóng ngựa chạy trước tiên, vọt ra cửa bắc trốn thoát. Tất cả quân Mông Cổ đều trốn ra ngoài thành.
Tướng lính quân Cao Ly sau khi đuổi được quân Mông Cổ ra ngoài thành liền cho đóng chặt cửa thành lại và bố trí quân lính canh giữ.
Trong lúc Hoa sơn quân đang ra sức động viên đôn đốc quân sĩ trong thành đất ngăn chặn quân Mông Cổ phá sập thành tràn vào, bỗng nghe có tiếng reo hò đột nhiên nổi lên bên ngoài thành và thấy quân địch tháo chạy, cứ nghĩ trong hàng ngũ quân địch có nổ ra nội biến bèn cho đắp lại đoạn bờ thành bị đổ và đóng chặt cửa thành lại.
Sau đó Hoa sơn quân đã cùng nhiều tướng tá và binh sĩ đứng trên thành lầu nhìn ra xa quan sát, thấy có năm sáu tướng lĩnh cưỡi ngựa chạy về phía cổng thành.
Khoảng cách càng gần càng nhìn rõ sắc phục của họ. Đốc binh Trác trông thấy vậy bèn nói:
- Trông kìa, các vị tướng ấy là tướng lĩnh của quân ta!
Quan huyện An quá ư xúc động reo lên:
- Đúng rồi, đúng là quân triều đình của chúng ta rồi.
Trong lúc mọi người đứng trên thành lầu bàn tán như vậy, thì những người kia đã đến bên ngoài cổng thành đất.
Quan huyện An đã rời khỏi chỗ đứng của mình từ lúc nào, đến bên nói với Hoa sơn quân:
- Thưa Hoa sơn quân, chúng ta cùng ra ngoài thành xem nào, không biết quân triều đình từ đâu tới vậy?
Mọi người cùng bước xuống cổng thành. Lúc này, Biện Thành Thất là người canh giữ cửa thành đất trông thấy đoàn người đi tới đã nhận ra ngay hai viên tướng mặc quân phục quân đội Cao Ly đi đầu không phải ai khác mà chính là hai người con trai của Hoa sơn quân đã lên ở kinh đô, đó là Cán và Nhật Thanh.
Anh ta quá đỗi vui mừng bèn chạy đến mở toang cửa thành.
Giữa lúc Hoa sơn quân chưa rõ đầu đuôi ra sao, có vẻ lo ngại, thì người con trai út Nhất Thanh, chẳng kể nghi thức, vội chạy đến ôm chầm lấy Người reo lên:
- Bố ơi!
- Sao, con đấy hả?
- Bố ơi, anh con cũng cùng về kia kìa.
Lúc ấy, người con trai cả là Cán bước lên cúi đầu chào bố:
- Thưa bố, đã lâu con không được gặp bố.
Hoa sơn quân dang tay ôm lấy hai con vào lòng, không nén được nổi xúc động.
Hoa sơn quân vốn dũng mãnh và trầm tĩnh trong chiến đấu với quân Mông Cổ là vậy mà giờ cũng rơm rớm nước mắt.
Quả thật có nằm mơ cũng không nghĩ ra được rằng chính hai người con trai của mình chứ không phải ai khác đến cứu thành này giữa lúc vận mệnh của nó đang được tính từng khắc một. Tất cả mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía ba bố con Hoa sơn quân.
Một chốc sau người con cả là Cán quay lại trịnh trọng nói:
- Thưa bố, chúng con không ngờ thành của chúng ta bị nguy ngập đến mức này. Lần trước nghe tin Mông Cổ đã rút quân. Hầu như cả nước không ai không biết đến. Kỳ này ở kinh thành Giang Hoa đã lan truyền tin viện binh của quân Mông Cổ lại sang và chắc chắn sẽ gây nhiều tai họa cho thành Ủng Tân. Đức đại vương tính toán hạ lệnh cho Tấn dương hầu Thôi Khang trao một nghìn quân cho anh em chúng con. Do vậy mà chúng con đã kịp về đến nơi. Thật suýt nữa thì xảy ra họa lớn.
Mọi người nghe xong những lời tường thuật của người con trai cả là Cán mới hiểu hết nguồn cơn việc hai anh con trai của Hoa sơn quân kéo viện binh về thành.
Nghe lời con nói, Hoa sơn quân rất đỗi cảm kích trước công ơn của đức đại vương.
- Đức đại vương đã ban cho kẻ hạ thần nhiều ân sủng thế này....
Người con trai cả là Cán, chỉ những người đứng ở phía sau mình.
- Thưa bốn vị này là thượng thư Bộ Lễ Lư Vũ Trấn, đặc phái viên của đức vua đến với bố đấy ạ
Lư thượng thư trịnh trọng kính chào Hoa sơn quân:
- Thời gian qua, Hoa sơn quân phải chiến đấu chống lại đại quân của địch, thật là gian khổ nhiều lắm.
Nghe Lư thượng thư nói vậy, Hoa sơn quân bèn đáp lại với lời lẽ nhỏ nhẹ:
- Lư thượng thư phụng mệnh đức đại vương lặn lội đến đây còn gian khổ biết bao nhiêu so với chúng tôi đánh giặc ở nơi đây. Chính nhờ có ân đức đó mà già trẻ trai gái trong thành đất này đã được cứu sống. Công ơn trời biển đó, dù chết chẳng dám quên.
Nói đoạn, Người quay về phía quan huyện An và đốc binh Trác.
- Hiện nay đây tuy là nơi trận mạc chiến đấu chống giặc không một giờ khắc nào nguôi, nhưng được vị khách quý của triều đình đến thăm, nên dù bận mấy chúng ta cũng dành thời gian mời quý khách vào bản doanh trong thành để tiếp đãi.
Quan huyện An và đốc binh Trác cúi đầu kính lễ và mời Lư thượng thư vào trong thành đất.
Đến lúc này, người con trai cả là Cán mới báo lại để thân phụ biết được viện binh đã đánh đuổi toàn bộ bọn giặc Mông Cổ ra ngoài cổng thành rồi, và các cổng thành đang được canh gác chặt chẽ.
Hoa sơn quân tỏ vẻ hài lòng, nhiều lần bày tỏ sự kính trọng đối với quan thượng thư họ Lư:
- Tất cả nhờ ơn đức của Lư thượng thư
Ngược lại, Lư thượng thư cảm thấy bối rối trước những lời tri ân đó của Hoa sơn quân.
- Không phải thế. Dầu tôi vốn xuất thân quan văn, không được am tường về binh pháp, binh sự. Hôm nay sở dĩ đánh đuổi được quân Mông Cổ là nhờ tài nghệ tuyệt vời của hai người con trai của Hoa tướng quân. Tục ngữ có câu "cha truyền con nối". Hoa sơn quân là bậc văn võ kiêm toàn như vậy thì làm sao các con của mình có thể khác được.
Nghe nói vậy, Hoa sơn quân tự dưng cảm thấy chẳng khác nào như mình gợi chuyện ra để cho người ta khen, nên chẳng biết nói sao.
Nhất Thanh, người con thứ hai của Hoa sơn quân hiểu được suy nghĩ của bố, nên hết nhìn lên gương mặt của Lư thượng thư lại nhìn lên gương mặt của bố, song lại nhìn quan thượng thư rồi chớp chớp mắt nói.
- Thưa quan thượng thư, ngày chúng tôi còn nhỏ, bố tôi ngày đêm huấn luyện cho chúng tôi cách đánh quân trong thành này ạ!... Chúng tôi đã nhiều lần bị bố phạt, đánh vào bắp chân.
Nghe nói vậy, Lư thượng thư gật gật đầu như hiểu ý.
Đoàn khách quý được mời vào nhà đón khách được gọi là " Nghênh tân quán" nằm ngay cạnh Độc thư đường ở trong thành đất.
Cán, người con cả thay mặt bố hướng dẫn khách vào nhà.
Trong đoàn khách có hai tùy tùng của Lư thượng thư, đưa vào phòng một cái hộp văn thư màu đỏ được bọc trong một tấm lụa màu xanh nửa hở. Tất nhiên những người trong đoàn đều biết trong đó đựng tấm ngự bài do triều đình sắc phong.
Cán bước vào phòng, bưng một chiếc án thư nhỏ màu đỏ đặt lên trên chiếc hòm gỗ lớn để ở phía đông gian phòng. Sau đó, theo chỉ thị của Lư thượng thư, đặt cẩn thận chiếc tráp đựng văn thư lên trên chiếc án thư.
Vốn dĩ khi tiếp nhận ngự bài được sắc phong theo lệnh của nhà vua, tất thảy đều phải tuân theo nghi lễ được quy định. Thế nhưng theo quy định của triều đình Cao Ly, khi sắc phong cho các tướng lĩnh ngoài mặt trận, không cần phải làm đủ các lễ nghi phức tạp. Bởi thế, buổi lễ trao ngự bài hôm đó đã được cử hành trước bản doanh mặt trận.
Từ sau khi về sống ở thành Ủng Tân, Hoa sơn quân đã hai lần đánh lui quân Mông Cổ. Điều đó đã hiển nhiên. Song hơn thế nữa, Người còn chăm lo giáo dục dân địa phương và xây dựng nơi đấy thành một thị trấn hòa thuận yên vui. Đối với công lao về mặt xã hội đó, triều đình đã tâu lên đại vương Cao Tông. Đại vương rất đỗi vui mừng, đánh giá cao công lao đó. Nhà vua cử Lư thượng thư đi làm thích sứ về phong cấp thực ấp là đất Ủng Tân với hai nghìn hộ dân, đồng thời trao tặng tước vị cho Hoa tướng quân.
Hai người con của Hoa sơn quân cũng nhân dịp này kéo viện binh về đi cùng với quan thích sứ.
Một chốc sau, không khí trong phòng trở lên nghiêm trang hẳn lên. Hoa sơn quân được hai con dìu hai bên, hai tay run run giơ lên cao đỡ lấy chiếc tráp đựng văn thư do Lư thượng thư trao lại bằng hai tay, đoạn đặt xuống phía trước.
Hoa sơn quân nhìn một chập chiếc tráp văn thư bên trong đặt ngự bài của đại vương Cao Tông, không ngăn được nỗi xúc động, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi trên hai gò má. Người sụp lạy trước chiếc tráp, giọng nghẹn ngào:
- Niềm ân sủng này của đức đại vương, hạ thần xin đời đời ghi xương khắc cốt.
Nghe tiếng khóc xúc động của Hoa tướng quân, mọi người có mặt trong phòng cũng rơm rớm nước mắt khóc theo.
Cán và Nhất Thanh đứng hai bên lấy lời an ủi bố và dìu bố đứng dậy.
Bình thời, Hoa sơn quân là người trầm tĩnh, nay nhận được thánh chỉ của đức vua, trong lòng có nhiều mối cảm kích là điều có thể hiểu được. Nhưng không ngờ niềm xúc động đó đã bật thành tiếng khóc, thể hiện tình cảm trung thành tận đáy lòng của Người.
Trong lúc đó, bỗng nhiên viên phó tướng chạy vào báo cáo tình hình với Hoa sơn quân:
- Tướng Khalitan của Mông Cổ ngay từ đầu thấy bốn cửa thành mở toang đã sinh nghi. Hắn không ngờ bị quân Cao Ly tập kích từ phía sau lưng, bởi vậy hắn cứ tưởng đó là cuộc tập kích của phục binh quân Cao Ly đã được sắp sẵn từ trước, do đó hắn hoảng sợ chạy thoát thân ra ngoài thành. Đúng vào lúc đó, nguyên soái A Mô Khan của quân Mông Cổ hạ lệnh rút quân. Vì quân của Khalitan là đơn vị đi trước nên chúng đã bắt đầu rút.
Mọi người đang căng thẳng đầu óc, nay nghe báo cáo bỗng trở nên sôi nổi hẳn lên.
Quan huyện An ngồi thu mình ở trên ghế cuối bỗng đứng dậy như có điều gì khẩn cấp muốn nói ngay:
- Bản quan là quan huyện An Ngọc ở xứ này. Hôm nay được gặp Lư thượng thứ là thích sứ của đức đại vương và Hoa sơn quân là người chẳng khác gì phụ mẫu của trăm họ ở xứ này, bản quan xin có một lời muốn nói. Dám mong quý vị ở đây cho phép.
Mọi người cảm thấy khó xử trước lời thỉnh cầu bất ngờ của quan huyện.
Giữa lúc trang nghiêm như thế này, lỡ nói ra điều gì thất thố sẽ rất phiền. Nhưng nghĩ lại, thấy lời thỉnh cầu đó có lẽ quan huyện định nhằm nói với ai cũng nên. Nên khi ánh mắt của quan huyện vừa nhìn sang Lư thượng thư, Lư thượng thư không một chút chần chừ, liền nói:
- Quan huyện An có điều gì cần nói hãy thử nói nghe xem nào
Được cấp trên cho phép, quan huyện vốn ít hiểu biết phép xã giao bèn giơ hai cánh tay lên cao hô to:
"Đại vương Cao Tông nước Đại Cao Ly chúng ta muôn năm"
"Hoa sơn quân Ủng Tân chúng ta muôn năm"
Tiếp theo tiếng hô muôn năm vang dội, mọi người đều ra sức dõng dạc hô theo " Muôn năm!"
Không chỉ các cấp chỉ huy và binh lính ở đây mà tất cả mọi người dân trong thành Ủng Tân dường như cũng hô vang lên như vậy.

HẾT