Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

Số phận Lữ đoàn dù 3 Nguỵ Sài Gòn năm 1975

 SỐ PHẬN LỮ DÙ 3 NGỤY SÀI GÒN

Trời tối đã khá lâu. Trong trại dù Hoàng Hoa Thám kế bên sân bay Tân Sơn Nhất, đại tá lữ đoàn trưởng lữ dù 3 Nguyễn Văn Thọ đang ngồi một mình trước chiếc bàn làm việc đã được thu dọn sạch quang. Sổ sách, giấy tờ... đã đóng hòm ném lên xe từ hồi sáng. Trên tường cũng không còn một tấm bản đồ nhỏ. Chỉ còn trở lại một tấm lịch bìa, ghi ngày: 1 tháng 2 năm 1971, (Mồng năm tháng giêng Tân Hợi, theo âm lịch Sài Gòn). Toàn thể lữ dù 3 đã sẵn sàng để di chuyển. Theo kế hoạch đã hợp đồng, lẽ ra toàn lữ đã được không vận ra vùng chiến thuật 1 từ sáng. Nhưng không rõ bọn Mỹ, bọn trên sư đoàn làm ăn trục trặc ra sao. bây giờ vẫn còn vận chuyển sư đoàn bộ chưa xong.

Thọ ngồi đấy,đôi mắt long lanh dữ tợn trừng trừng nhìn ra những mảng sáng: mảng tối bên ngoài hành lang,đầy vẻ sốt ruột, bực bội. Bộ đồ dù loang lổ chặt căng bó lấy tấm thân cao lớn, to béo của y làm cho y càng có vẻ đẫy đà, to béo hơn. Đôi giày cao cổ nửa da nửa bạt đầy những khuy đồng cũng bó chặt lấy đôi cẳng của y làm cho vết thương ở ống chân bên trái chưa lành hẳn càng thêm khó chịu, đôi lúc đau nhức lên. Đó là vết thương do súng phòng không nhẹ của Campuchia bắn hồi cuối tháng 5-1970 khi lữ dù 3 của y đang tiến hành cuộc hành quân xâm lược theo kế hoạch Mỹ ở vùng Lưỡi Câu. Một băng đạn đã bắn lủng bụng chiếc trực thăng. Một viên đã xuyên chéo bắp chân y, sát ống xương, động tới một số dây thần kinh. Y đã được đưa về trại Hoàng Hoa Thám, nằm ở nhà thương Đỗ Vinh - cái nhà thương đặc biệt của quân dù - suốt từ cuối tháng 5-1970 tới trung tuần tháng 1-1971 nghĩa là trước Tết Tân Hợi này có ít bữa mới được tạm trở về nhà.

Nhưng đùng một cái lại được lệnh phải tham gia hành quân (Chiến dịch.) "... Thưa trung tướng sư trưởng, cái chân tôi còn đau, chưa lành hẳn... "; " Xía! Đi đứng cho thẳng thắn, đường hoàng lên chút nào! Chi mà cà nhắc, cà nhót? Khó coi dữ đa? Lịnh trên đi là đi! Cứ ngồi hầm mà chỉ huy thôi!”; “Đ... mẹ có chi mà nặng nhọc, ông đại tá?".

Vô học, nóng nảy, thô lỗ, đầu óc đặc sệt như đất, không biết nghĩ cái gì hết, cũng chẳng chịu nghĩ cái gì hết, đó là đặc điểm cơ bản của Dư Quốc Đống, viên tướng dù cao lớn, đen cháy, lúc nào cũng làm ra vẻ nghênh ngang, "oai dũng". Đống leo lên chức trung tướng, Tư lệnh trưởng dù chỉ vì có một lẽ: y là người của Thiệu. Có vậy thôi? Cả Sài Gòn này, ai cũng đều biết rõ điều đó.

…Lẽ cố nhiên, cuối cùng khi ra khỏi phòng họp, Đống cũng có khích lên cấp dưới của y được một câu: "Nè, tôi không thể thiếu một lữ trưởng như ông trong cuộc hành quân này. Ông hiểu bụng tôi chớ? Đ... mẹ, tôi nói thiệt đó, ông đại tá!”.

Ấy là cuộc họp tại bản doanh sư dù cũng tại trại Hoàng Hoa Thám nhằm ngày 27 tháng Chạp âm lịch (Sài Gòn). Tức là ngày 22-1-1971. Có đủ mặt các tên tiểu đoàn trưởng trong toàn sư và các tên lữ trưởng. Lữ 1: tên đại tá Lưỡng, một con người khoan thai, độ lượng nhưng lại là một viên chỉ huy hay do dự, thiển cận. Lữ 2: tên đại tá Lịch, mới từ tiểu đoàn trưởng lên, một con người chỉ huy chiến trận có vẻ hung hăng nhưng thật ra chẳng ra sao: lại tài xảo trá, làm thì láo báo cáo thì nhiều. Và Thọ, người mà Đống tỏ ra có phần vì nể trong công việc hành quân, chiến trận hơn cả, nhưng lại ghét vì thói kiêu căng, tự phụ. Tại cuộc họp ấy Đống chỉ phổ biến nhiệm vụ sơ sơ: toàn sư dù sẽ di chuyển ra vùng chiến thuật 1, hành quân dài ngày.

Nhiệm vụ có vẻ bình thường. Cách phổ biến của Đống cũng không có gì đặc biệt cho lắm. Y chỉ dặn thêm: ngoài vùng 1, thời tiết không giống ở đây. Phải cho binh lính mang áo phòng lạnh. Có vậy thôi. Nhưng cả ba tên lữ trưởng đều dưa mắt nhìn nhau. Có điều gì còn chưa rõ đây! Mấy bữa liền, báo chí nước ngoài và Sài Gòn đang lao xao bàn tán về một cuộc hành quân lớn của Việt - Mỹ có thể sẽ xảy ra mai mốt ở Ai Lao. Báo nói là Bô-lô-ven. Báo nói là vùng A So, A Lưới. Báo lại nói là đường 9... Thọ nghi hoặc. Y lựa lời ướm thử:

“Năm 1968, người Mỹ giữ Khe Sanh, tôi còn là trung tá cũng có ở đó. Tôi thuộc địa hình ít nhiều...". Nhưng, Đống đã cau mặt lại : "Khe Sanh, Khe Đỏ chi! Đ... mẹ! Trên bảo ra vùng 1, chỉ biết có thế thôi!". Rồi y quay về phía các lữ trưởng khác dặn: "Các ông nữa, nhớ giữ bí mật. nghe. Lộ ra, lính nó lại trốn như mọi cuộc hành quân trước, tôi sẽ không tha các ông đâu! Để cho lũ nó ăn Tết vui vẻ song đã"

Cuộc họp tan. Chiếc xe gíp lao vút ra khỏi cổng trại, chạy vô trung tâm đô thành xuyên thẳng đại lộ Lê Văn Duyệt, rồi rẽ về hướng nhà Thọ. Y ngồi khoanh tay trước ngực, đôi mắt xếch, dữ, mở trừng trừng nhìn về một điểm vô hình phía trước. Trong lòng y hết sức buồn bực, khó chịu. Hành quân! Lại hành quân! Họ không còn coi cái mạng y ra sao hết. Chân y vẫn còn đau, họ còn lạ chi! Hơn nữa, nếu như báo chí đoán đúng, họ lại muốn làm một chuyện gì đó ở Ai Lao, thì thật điên rồ? Cam- bốt đang kẹt chưa xong.

Nhưng cũng dễ hiểu thôi, Mỹ muốn, tức trời muốn! Đống là cái chi? - Cũng là một tên lính dù như Thọ mà thôi. Thậm chí Thiệu, Kỳ cũng thế! Hai tên lính? Người ta bảo "uýnh" thế là chúng “uýnh!” vong mạng. Nhưng có cái khác, hai tên lính đó “uýnh” không phải bằng máu chúng mà bằng máu của người khác. Rồi sau đó bao nhiêu cái béo bở, chúng lại được Mỹ cho nghiễm nhiên hưởng hết. Cuộc đời bây giờ là như vậy!

Đã quá ngán từ lâu. Muốn ẩn ở một nơi, muốn vứt bỏ cái áo dù bông (hoa) này đi cho rồi. Nhưng còn biết bao cái ràng buộc: vợ con, đồng lương, tài sản... Và cũng phải thú thiệt: dẫu sao cũng đã có một nghề làm ăn khá rôm rả - nghề quân sự - và cũng đã là một sĩ quan cao cấp có một vị trí khá lớn trong xã hội. Vì vậy thật ra cũng tiếc!

Ngoài ra cứ như lũ báo chí ở đây thì "bên kia" e cũng đáng sợ. Một bi kịch đã âm thầm phá hủy trong tâm hồn y, từ khá lâu, tất cả những cái gì là trong sáng, yên ổn. Cuối cùng, như vào ngõ cụt, y nhắm mắt lại cố quên hết mọi chuyện và chỉ cốt lo sao giữ cho lòng tự trọng khỏi bị tổn thương, cho những bông mai (cấp hiệu) trên ve áo khỏi rụng. Vì vậy đã làm thì ra làm, đã "uýnh” thì ra “uýnh". Để cho họ hiểu rằng: thằng Thọ này dầu sao cũng không bao giờ là thằng hèn hoặc một thằng tồi tệ chỉ biết nhận lấy những bông mai. nhận lấy đồng lương mà không chịu làm cái chi cho tử tế hết?

Đi Cam-bốt cũng vậy thôi: không còn thấy hứng thú chi? Nhưng mệnh lệnh: đi! Là đi. Và đã đi, y gắng không để cho cái lữ dù của y bị chửi là một lũ ăn hại! Y dốc hết tâm lực ra, cố tấn công, phòng thủ... cố tránh sao cho binh lính của y khỏi bị những tổn thất đau đớn nhất.

Và bây giờ, tất cả những sự việc ấy lại tái diễn. Nhưng không phải ở Cam-bốt. Họ sẽ ném bọn y vào đâu?. Khe Sanh, Ai Lao? Tuy nhiên, đã phải đi thì đi. Và đi cho nhanh. Đáng ghét nhất là sự lằng nhằng, mất thì giờ...

Trong lúc Thọ ngồi đấy, sốt ruột và buồn bực, ngoài hành lang bọn sĩ quan tham mưu của y đang đứng tán chuyện phiếm về dịch nuôi và kinh doanh chim cút ở Sài Gòn, về cái Tết "mùa xuân chiến sĩ" do cái Tổng cục Chiến tranh chính trị của chúng chủ trương vừa qua với những đêm văn nghệ ở nhà hàng Ritz, nhà hàng "Đêm màu hồng" cùng những danh ca: Khánh Ly, Lệ Thu, Giô Mác-xen (Jo Marcel) ưỡn ẹo, điệu đến chảy nước, và hề Trần Văn Trạch rẻ tiền cùng đội múa nhảy của Huê Kỳ hớ hênh, cuồng giật...

- Đ… mẹ! Chiến sĩ chẳng thấy đâu, chỉ thấy rặt những "phu nhơn” và lũ tỉ phú được bữa hả! - Tên thiếu tá tham mưu trưởng Hiền bình luận. Nhưng lời bình luận ấy không được những tên khác chú ý cho lắm. Bọn chúng còn đang mải nghe thiếu tá Đức trưởng ban hành quân (Ban tác chiến.) nói về những ngón chơi bài lá. Đức tuy là trưởng ban dưới quyền Hiền, nhưng được số đông những tên sĩ quan trong bộ tham mưu lữ nể hơn. Vì Đức rất thạo việc. Y là dân Bắc. Vào lính từ 1953, hồi Còn Pháp. Cả gia đình y di cư vô đây.

Tuy nhiên ai cũng biết: Thọ một mặt rất cần Đức, một mặt cũng không ưa Đức, coi y là một đứa khôn ngoan xảo trá, đầy những tham vọng. Đức cao dong dỏng: mặt dài có mấy vết sẹo nhỏ lấm tấm ở gò má phải. Đó là dấu vết một trận mìn của Quân giải phóng ở Quảng Trị năm 1968. Y đeo một cặp kính cận nhẹ (để làm dáng nhiều hơn là có tác dụng thiết thực). Y nói giọng Bắc giả Nam Bộ. Mỗi lần nghe cái giọng "Nam Bộ giả cầy" ấy. Thọ lại thấy khó chịu.

Đức đang đứng nói thao thao thì Thọ tập tễnh bước ra. Đức vội im bặt. Cả lũ sĩ quan tham mưu cùng vội đứng nghiêm chỉnh lại. Thọ nóng như lửa và nghiệt ngã trong công việc. Bọn sĩ quan cấp dưới rất nể sợ.

- Sư đoàn di chuyển song chưa? Có điện gọi ra phi trường chưa?

Đức cất cái giọng ngọt ngào, lễ phép:

- Thưa đại tá chưa!

- Điện hỏi lại đi!

- Xin tuân lệnh!

Bọn sĩ quan tham mưu được dịp, tản vội đi. Thọ cau có định trở lại phòng mình. Đức vẫn còn cố nán lại, vẻ mặt thật kính trọng và ưu ái:

- Thưa đại tá, chẳng hay cái chân đau của đại tá...

- Cám ơn. Không hề chi - Thọ lạnh nhạt.

- Thưa đại tá tôi nghĩ lý do chậm trễ có lẽ vì đây là lần đầu tiên quân dù ta, toàn sư đoàn di chuyển cùng một lần. Trung tướng sư đoàn trưởng tránh sao khỏi... lúng túng.

Đức đã trích đúng vào cái điều mà y biết: Thọ vốn không phục Đống, hơn nữa, không ưa Đống cũng như Đống không ưa Thọ. Quả nhiên Thọ gật đầu, tán thành ngay ý kiến của hắn một cách hăng hái:

- Rồi! Còn lẽ chi nữa! Nắm một sư đoàn mà không tổ chức nổi một cuộc di chuyển cho ra hồn! Như vậy đó! Cuối cùng nếu có chết thì tôi chết, anh chết và những thằng lính chết. Ngoài ra, có ai chết đâu?.

Đức thoáng rợn người. Y vốn tin tướng số và các điềm lành, dữ. Trước lúc ra quân, Thọ nói như gở mồm. Y vội lảng sang chuyện khác.

Nửa đêm mới có điện lệnh cho lữ dù 3 bắt đầu ra sân bay. Lũ sĩ quan tham mưu rầm rập lên xe. Các đơn vị khác trong lữ bộ cũng ồn ào, náo động, bắt đầu từ từ tiến ra khỏi trại. Bên chiếc máy siêu tần số, Thọ gọi tên trung tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 Trần Văn Thạch, lệnh cho y nhanh chóng vào đường băng trước tiên. Kế hoạch đã ấn định thứ tự di chuyển như sau: tiểu đoàn 2 - lữ bộ - tiếp đó là tiểu đoàn 3, kế tới là tiểu đoàn 1, cuối cùng là tiểu đoàn pháo. Những đơn vị mới được tăng cường: trung đội truyền tin, đại đội quân y, đại đội thám báo (trinh sát) đi cùng lữ bộ.

Đơn vị đầu tiên của chúng tôi đã tới phi trường. - Tiếng tên Thạch vang lên, đanh giòn trong máy - Thạch vốn từ hàng binh lính, qua chiến trận mà lên tới trung tá tiểu đoàn trưởng. Rất ngổ ngáo, mặc dầu công tác tham mưu và chỉ huy phối hợp của y còn non. Đó là một tên lính dù thực sự. Thọ vẫn nghĩ vậy. Y vốn tin ưa những người có lịch sử chiến đấu tương tự như y. Thạch mỗi khi nói bọp mép thường sùi ra, giống hệt một con chó dại.

Lát sau, Thọ cùng bộ tham mưu của y đã tới bên đường băng dành riêng cho những chiếc máy bay khổng lồ C.130 mang tên Héc-quyn bốc lữ đoàn của y ra Đông Hà. Lúc đó, những toán lính dù cuối cùng của tiểu đoàn 2 đang lục tục leo lên máy bay, chúng nai nịt gọn gàng, mang toàn súng Mỹ kiểu hiện đại nhất, đội mũ sắt Mỹ, đeo ba-lô Mỹ và những túi vải cũng Mỹ để làm công sự.

Thọ ngồi xuống một hòm đạn pháo binh. Đêm mùa xuân Sài Gòn nồng nực như mùa hạ. Sân bay rộng lớn, rực sáng cả một vùng trời làm cho không khí càng có vẻ thêm oi bức. Tiếng máy bay lên xuống liên tục trên nhiều đường băng khác nhau, gầm vang, căng thẳng, nhức nhối.

Chợt có tiếng chân người phía sau. Thọ quay lại toán cố vấn Mỹ đang bước tới. (Từ năm ngoái, để cho... dễ nghe hơn. Thiệu, Kỳ đã xin với Mỹ đổi tên những toán cố vấn thành những toán yểm trợ hành quân). Một tên thiếu tá cao lêu đêu, mũi nhọn và khoằm như mỏ quạ. Một tên đại úy to béo, lạnh lùng và mệt mỏi. Hai tên hạ sĩ giúp việc. Đây là toán cố vấn mới tới lữ đoàn từ trước Tết. Thọ chưa thuộc hết tên tuổi và tính tình chúng (Lũ cố vấn hồi sang Cam-bốt đã đổi đi nơi khác). Thọ vốn không ưa bọn cố vấn Mỹ, chỉ vì có một lẽ: tài năng chúng xoàng, nhưng chúng lại luôn tỏ ra là những ông chủ hách dịch, mặc dầu có thằng cũng biết giữ ý: hách dịch một cách khéo léo. Thọ miễn cương chìa tay ra.

- Sức khỏe đại tá tốt chứ?. - Tên thiếu tá Mỹ niềm nở.

- Cám ơn! Bình thường!

- Đại tá đã nổi tiếng là một trong số những sĩ quan được nhiều huân chương nhất, cũng lại là một trong những người gan dạ, từng trải nhất. Lần này quả là không thể thiếu mặt đại tá được!

Thọ uể oải :

- Trung tướng Đống cũng đã nói với tôi điều mà ông vừa nói. Cám ơn!

Tên Mỹ vẫn cố giữ vẻ lịch sự, khẽ nghiêng mình, mỉm cười.

Đúng hai giờ sáng, chiếc C.130 khổng lồ trắng lóa dưới các ngọn đèn ở sân bay chở Thọ cùng toán cố vấn Mỹ bắt đầu rời dường băng. Sài Gòn rực sáng bên dưới xa dần. Rồi chỉ còn thấy một màn đêm thăm thẳm bốn bề, và ngọn đèn đỏ ở đầu cánh hiện lên lẻ loi như một ngôi sao lạc bay lướt mãi trong vũ trụ tối tăm, giá lạnh. Thọ ngồi bên thiếu tá Mỹ.

- Đại tá có cảm tưởng gì về cuộc di chuyển lớn chưa từng có này? Tên Mỹ cất tiếng hỏi trước.

- Thế còn ông, ông thiếu tá, ông có cảm tưởng gì?

Tên Mỹ cười vang:

- Ồ! Có lẽ chúng ta cùng chung một ý nghĩ thôi, ông đại tá! Ý nghĩ của các ông cũng là của chúng tôi, ý nghĩ của chúng tôi cũng là của các ông.

Nó nói đểu rồi ! Nó muốn bảo thẳng vào mặt tên Thọ: "Các ông phái làm theo ý kiến của chúng tôi. Ông hiểu chưa?". Nhưng dầu cay đắng, dầu tự kiêu đến mấy, cuối cùng, cũng như mọi khi, Thọ lại đành nghiến răng chịu đựng. Làm sao được? Đã có khá nhiều tấm gương: những kẻ vì tự ái chống lại bọn cố vấn Mỹ, cuối cùng đã bị bóp chết dưới bàn tay của Thiệu, Kỳ.

Nỗi buồn bực càng trĩu nặng trong lòng. Thọ nhắm mắt lại, cố ngủ cho quên đi. Nhưng không sao ngủ được. Sự bực bội dịu đi, thì những nỗi băn khoăn, hồ nghi, lo lắng hôm nào lại bùng dậy trong lòng y. Rồi đột nhiên những hình ảnh của vùng Khe Sanh 1968 lại hiện về với những trận pháo kích ác liệt của Quân giải phóng, những cuộc chạy dài không phải của riêng quân ngụy Sài Gòn mà cả quân Mỹ...

Khe Sanh! Phải chăng lần này chiến trận lại diễn ra ở cái vùng đáng sợ ấy? Hoặc, đúng như các báo xì xào, lại diễn ra ở tận đất Ai Lao? Mà có lẽ một chuyện gì, một mưu đồ gì đó to lớn ở đấy thật chăng? Bây giờ mới thấy chuyến thăm viếng Sài Gòn của Le-đơ Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đầu tháng Giêng, rồi liên tiếp sau đó là viên chủ tịch Ban tham mưu liên quân Mỹ, Mắc Kên, Tư lệnh quân lực Mỹ ở Thái Bình Dương tới Thái Lan và Sài Gòn trong tháng qua là không bình thường. Đáng chú ý hơn cả cuộc hội đàm kín giữa Le-đơ và Thiệu vào ngày 29-1-1971 - nghĩa là đúng mồng 2 Tết (Sài Gòn). Có gì mà phải vội vã, bí mặt thế? Và cũng đúng ngày ấy, ở Mỹ, Râu-giơ bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã họp báo úp mở nói rằng: Mỹ đang có những sự tăng cường hoạt động quân sự ở Cam-bốt và cả Ai Lao nữa, nhằm đảm bảo cho tính mạng binh lính Mỹ và để cho cuộc rút quân của Mỹ được nhanh hơn.

Nếu vậy, thì quả là lần này cuộc hành quân sẽ không một chút nào đơn giản như người ta đã cố làm ra vẻ bình thường và đơn giản với bọn chúng ở Sài Gòn...

Do việc tổ chức di chuyển rất kém. đúng bốn giờ ba mươi phút sáng ngày 2-2-1971, chiếc máy bay của bọn tham mưu lữ dù 3 mới tới sân bay Đông Hà. Trời hãy còn tối. Lất phất mưa bay; gió lạnh căm căm. Quả là thời tiết phía Bắc có khác thật. Bọn Thọ đứng co ro xít xoa. Lính tiểu đoàn 2 cũng còn đứng đầy ùn ở dọc đường băng cùng xe cộ, đạn dược ngổn ngang.

Một lúc lâu sau mới thấy xe của Phòng 4 của sư đoàn tới đón đưa bọn Thọ tới một địa điểm cách sân bay bốn ki lô mét về phía nam. Đó là một thôn nhỏ, có một ngôi trường học một gian dài ở sát bên đường xe lửa, hạ trại; ở phía sau thôn là những quả đồi cằn cỗi đầy sim, mua - vùng đồi Ái Hữu. Ngôi trường học gần như bỏ hoang: bàn ghế gãy, đổ lỏng chỏng, mạng nhện dăng dầy trên mái. Một hình tổng thống Thiệu treo lệch lạc bên một chiếc bảng đen đầy những hình vẽ đàn ông, đàn bà giao cấu và nhữn câu chửi rất tục.

Bọn lính công vụ dọn ngôi trường cho sạch sẽ lại, lấy bạt ngăn làm ba gian. Một gian dành cho Thọ cùng tên trung tá Mai xử lý thường vụ phụ trách lữ đoàn phó ở. Gian giữa, ày một chiếc bàn gấp, sáu chiếc ghế gấp làm phòng hành quân. Gian cuối, dành cho lũ sĩ quan tham mưu. Mỗi tên đều có một chiếc ghế bố mang theo. Riêng các binh lính công vụ và trung đội truyền tin, đại đội trinh sát... thì tràn vào trong xóm, treo võng la liệt trong nhà dân, bất kể họ có đồng ý hay không. Thiếu chỗ, chúng treo võng cả bếp và ngoài hiên.

Một cảnh tượng náo động diễn ra trong cái xóm nghèo tội nghiệp ấy. Cha gọi con, chồng gọi vợ... thất thanh. Những cô gái vội vã bịt kín mặt chạy tóe ra khỏi xóm như một bầy gà con nom thấy diều hâu. "Mấy ông mũ đỏ đã về đấy!"; “Lính dù đã đến đấy...!"; "Ô! Chi mà ồn lên vậy cô Ba? Coi chừng, chạy ra đồi cũng toàn mấy ông mũ đỏ thôi! Đằng nào cũng vậy, mấy cô, ở lại với các anh cho vui!"... Thọ đã quá quen với những cảnh lộn xộn ấy và y cũng thấy đó là lẽ thường của con nhà lính, không có gì lạ hết. Ngay chiều ấy, y được triệu tập lên họp ở quân đoàn.

Quân đoàn viễn chinh xâm lược Sài Gòn cùng bọn Mỹ tổ chức cuộc họp ở trên một quả đồi, trước là căn cứ Mỹ nay do bọn quân ngụy vùng 1 chiếm giữ. Đồi đỏ loét nham nhở hầm hố, hàng rào phòng thủ dày đặc như mạng nhện. Trên đỉnh đồi có mấy ngôi nhà gỗ lợp tôn. Phòng họp tuy không sang trọng như ở Sài Gòn, nhưng không khí nghiêm trọng khác thường.

Khi Thọ tập tễnh, kềnh càng bước vào đã thấy ở giữa dãy bàn, tên tướng Hoàng Xuân Lãm mặt dày những thịt, đội chiếc mũ nồi lệch về một bên, đang thì thào xun xoe nói gì với tên trung tướng Mỹ Su-dớc-len (Sutherland). Tên Mỹ mặt đỏ như gà trọi. giọng nói khàn khàn khô lạnh. Hai bên tả hữu bộ đôi quan trọng vào bậc nhất ấy là đủ bộ những tên tướng lĩnh trọng yếu: Dư Quốc Đống trung tướng sư trưởng dù, Phạm Văn Phú chuẩn tướng sư trưởng sư đoàn 1, Luật đại tá thiết giáp, Hiển đại tá biệt động quân và toàn thể bộ tham mưu quân đoàn. Đặc biệt: tất cả bọn cố vấn Mỹ của lũ Đống, Phú, Hiển, Luật cũng đều đến đông đủ.

Chỉ còn thiếu bọn tướng lĩnh của lũ thủy quân lục chiến. Nhưng ai cũng biết: Lê Nguyên Khang không thèm đến. Khang vốn có hiềm khích và rất khinh Lãm. Mặc dầu chỉ là tướng hai sao, nhưng Khang không hề phục tùng Lãm. Trước đây, Lãm còn là cấp dưới của Khang. Chỉ vì tài nịnh bợ Mỹ và được lòng Thiệu mà Lãm đã nhanh chóng leo lên tướng 3 sao.

Thọ ghé ngồi xuống một chiếc ghế cạnh tên tướng lữ trưởng sư 1 ở góc phòng, ngước mắt nhìn lên tấm bản đồ xanh rì phía sau Lãm. Ai Lao rồi! Không còn nghi ngờ gì nữa! Nam Ai Lao và đường 9. Rõ ràng rồi, một mưu đồ quá lớn! Thọ không khỏi bàng hoàng. Y liếc nhìn khắp mặt các tên lữ trưởng khác kể cả dù, cả thiết giáp, cả những tên trung đoàn trưởng thuộc sư đoàn 1. Không một tên nào không tỏ ra đăm chiêu. Lát sau, một tên sĩ quan ăn mặc chải chuốt đến sau lưng Lãm báo cáo: cuộc họp đã đông đủ. Lãm đẩy ghế đứng đậy, nghiêng mình lễ phép xin phép tên Su-dớc-len nói trước. Tên Mỹ cười khố khố:

- Ồ! Ngài trung tướng quá lịch sự! Chúng tôi muốn từ nay các ngài sẽ đóng vai chủ chốt trong tất cả mọi việc kia mà!

Lãm lại nghiêng mình để đáp lại lời nói mà y cho rằng rất có duyên và ý nhị ấy. Sau đó y cầm chiếc que dài bước lại gần tấm bản đồ lớn bắt đầu dõng dạc, hùng hồn trình bày về mục đích cuộc hành quân cùng những ý đồ lớn trong kế hoạch của quân đoàn.

Đây là một cuộc hành quân, theo lời y, đã được hai bên Việt - Mỹ trao đổi chuẩn bị từ lâu, đặc biệt đã được Tổng thống Ních-xơn đích thân xem xét và đồng ý. Một cuộc hành quân quy mô lớn chưa từng có của Mỹ bằng "Quân lực cộng hòa" cộng với hỏa lực của pháo binh, không quân Huê Kỳ. Một cuộc hành quân có một ý nghĩa cực kỳ trọng đại: để chứng minh học thuyết Ních-xơn là đúng, chương trình "Việt Nam hóa" thành công. Quân lực Việt Nam cộng hòa (ngụy) từ nay có thể tự mình đảm đương lấy chiến tranh với sự yểm trợ hỏa lực của Huê Kỳ. Một cuộc hành quân có tầm chiến lược quan trọng: sẽ làm thay đổi cục diện chiến tranh ở Đông Dương, dồn Cộng sản tới chỗ bế tắc, quy liệt...

Cuộc hành quân Đi-nây-can-nhơn 2 này để có vẻ Việt Nam thuần túy hơn, đã được cải là Lam Sơn 719. "... Các ngài Le-đơ, Mắc Kền... đã đến tận chiến trường Việt Nam ta để kiểm tra lại lần cuối mọi tình hình, xét duyệt lại lần cuối toàn bộ kế hoạch này và rất hài lòng... Ngài A-bram tác giả chủ yếu của kế hoạch tuyệt vời này cũng đã tỏ ra hoàn toàn hài lòng về mọi công việc chuẩn bị...".

Về cụ thể. mục tiêu cuộc hành quân trước hết là tiến đánh vùng Nam Lào cắt đứt mọi đường tiếp tế của đối phương, lục soát phá hủy mọi kho tàng của đối phương, thiết lập các căn cứ hỏa lực. Khi thắng lợi, sẽ phát triển xuống Hạ Lào, vùng Bô-lô-ven chiếm hoàn toàn vùng này, nối liền với Nam Lào thành cả một vùng hoàn chỉnh. Rồi mục tiêu tiếp theo sẽ là: phía Bắc Lào và miền Bắc Việt Nam, tùy theo tình hình lúc đó sẽ ấn định...

- Thưa các chiến hữu, ngày 3 tháng 2 năm 1971 Tổng thống Ních-xơn đã ký lệnh bảo đảm với Tổng thống Thiệu của Việt Nam cộng hòa là cuộc hành quân sang Ai Lao sẽ được Mỹ yểm trợ tuyệt đối. Bởi lẽ đó, Tổng thống Việt Nam cộng hòa sẽ đích thân phát động cuộc hành quân lịch sử này! Bởi lẽ đó, chúng ta lần đầu tiên trên một chiến trường không rộng lắm, sẽ tập trung gần như toàn bộ lực lượng tinh nhuệ trù bị chiến lược quốc gia với sự yểm, trợ tối đa của không lực Huê Kỳ, quyết sẽ giành lấy một chiến thắng vĩ đại.

Càng nói Lãm càng hăng hái, kích động hơn lên, mặt đỏ dừ, mắt điên đại. Y càng nói càng gào lên cho thêm hùng hồn. Nhưng vì hăng hái kích động, hùng hồn quá y không kịp nhận thấy những bộ mặt tướng lĩnh thuộc cấp của y, nhất là hàng ngũ các tên lữ trưởng, trung đoàn trưởng - những tên sẽ phải trực tiếp nhảy vào lửa - vẫn không hề có một sắc thái nào hào hứng hoặc xúc động hơn lên dầu chỉ là chút ít.

Lãm nói xong, hổn hển ngồi về chỗ cũ. Tên tham mưu trưởng quân đoàn lên trình bày tiếp về những điểm lớn trong kế hoạch cụ thể.

Chiến trường sẽ được chia làm 3 khu Vực:

Khu A : La Tương - Cha Ki - Điểm cao 500.

Khu B: Khu vực trung tâm: trục chính là đường 9, mở rộng sang hai bên nam, bắc, mỗi chiều trên dưới mười ki lô mét.

Khu C: vùng các điểm cao nam đường 9: 660, 462... và Phu Cốc Tôm, Phu Khe Gio.

Nhiệm vụ giai đoạn đầu của cuộc hành quân: đánh chiếm Bản Đông và các vùng nam, bắc đường 9 rồi thẳng tiến tới Sê Pôn. Sê Pôn được coi như trọng điểm tấn công, mục tiêu lớn nhất, quan trọng vào bậc nhất trong giai đoạn này. Nhiệm vụ tiếp theo sẽ là Sa-va-na-khét và tiến xuống phía nam... Thời gian cuộc hành quân: hết tháng 5-1971 (nhưng cũng có thể sẽ để lại một số binh lực, nếu lúc đó xét thấy có thể và cần thiết).

Lực lượng Việt Nam cộng hòa (ngụy) được sử dụng: Sư dù (trụ cột của lực lượng trù bị chiến lược quốc gia). Sư thủy quân lục chiến (cũng thuộc lực lượng trù bị chiến lược quốc gia). Liên đoàn biệt động quân số 1 nổi tiếng ác ôn. Sư 1 tinh nhuệ (mới được huấn luyện, bổ sung, và trang bị mạnh tương đương với mọi sư đoàn bộ binh Mỹ). Ngoài ra còn các lực lượng thiết giáp, pháo binh hùng hậu của trù bị chiến lược quốc gia và của vùng chiến thuật 1. Lực lượng yểm trợ Mỹ: Sư đoàn bộ binh cơ giới 5, lữ đoàn dù không kỵ 101, sư đoàn A-mê-ri-cơn. Những đơn vị này sẽ đóng rải từ Cửa Việt qua Khe Sanh tới Lao Bảo. Cộng thêm nhiều đơn vị pháo tầm xa cực nhanh, pháo tầm xa cỡ lớn 175 sẽ được bố trí dọc biên giới Lào - Việt. Riêng về không lực sẽ có: 500 trực thăng vận chuyển, 1.500 máy bay chiến đấu.

Phân nhiệm: Liên đoàn biệt động quân sẽ đảm nhiệm Khu A (Cha Ki - La Tương - Điểm cao 500). Sư đoàn dù phụ trách trục trung tâm cuộc hành quân: đường 9. Sư đoàn 1 bộ binh sẽ tiến chiếm khu C. Ngày tiến quân vượt biên: N + 9 (8-2-1971). Ngày chiếm Bản Đông: N + 12 ((11-2-1971).

- Như vậy, thưa các chiến hữu, chúng ta đã nắm chắc chiến thắng trong tay ngay từ bữa nay rồi!

Lãm lại đứng lên hớn hở nói. Nhưng một tên sĩ quan cao cấp nào đó ngồi lấp ở xa đột ngột xin hỏi về tình hình địch. Lãm quay lại trao đổi ý kiến với viên tướng Mỹ, một lúc mới trả lời. Y cho biết đây cũng lại là một điều rất thú vị, một cuộc vừa đấu sức nhưng cũng vừa đấu mưu giữa quân lực Việt Nam cộng hòa với Cộng sản. Y cho biết: một chiến dịch tuyên truyền nghi binh vừa qua trên các báo chí đã đưa tới kết quả: Quân cộng sản đã bị lừa, tin là Sài Gòn được Mỹ yểm trợ lớn sẽ đánh vào vùng Bô-lô-ven Hạ Lào.

Mặt khác, tướng A- ram vừa đưa một lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ (1.500 tên) vào vịnh Bắc Bộ, do đó miền Bắc có thể lo sẽ bị tấn công "một ngày gần đây"; một số đơn vị chủ lực khác của họ tất sẽ bị kìm chân ở các tỉnh thuộc phía Bắc vĩ tuyến.

Như vậy Lãm đắc chí quả quyết, với những sự tính toán chính xác nhất của các máy móc điện tử, của các tài liệu thám sát đường không, đường bộ, của tình báo quốc gia... thì hiện nay có thể biết: trên khu vực mà quân đoàn (ngụy) hành quân, sẽ chỉ có lực lượng vận tải và bảo vệ đường. Nếu chủ lực đối phương vận động, di chuyển tới vùng này thì ít ra cũng phải đầu tháng 3-1971.

Như vậy, khi ấy quân Sài Gòn đã đứng chân rất vững ở tất cả các chốt hỏa lực, và ở cả Sê Pôn rồi. Đối phương dù có tài trời cũng không xoay chuyển lại được tình thế nữa...

Cuối cùng đến lượt Su-dớc-len đứng dậy nói. Giọng y khô khốc, đều đều:

- Thưa các ngài sĩ quan Việt Nam cộng hòa, chắc các ngài đã biết từ tháng 11 năm 1970, tức là đã ba tháng qua, các pháo đài bay B.52 đã đánh liên tục, giẫm nát hết những vùng mà các ngài sẽ đi tới. Và B.52 sẽ còn tiếp tục rải thảm... nhiều hơn nữa ngay trong cuộc hành quân của các ngài. Nếu ví dụ có chủ lực, thì sẽ không có một đơn vị bộ đội chủ lực nào của đối phương có thể tồn tại được nếu chưa nói tới chuyện tập trung để tác chiến. Chúng sẽ bị nghiền ra tro bụi dưới sức nặng của các pháo đài bay. Đó là chưa tính đến tất cả những phi cơ oanh tạc, cường kích khác mà chúng tôi sẽ tập trung cao độ nhất trong cuộc chiến tranh này để yểm trợ cho các ngài. Chúng ta sẽ chiến thắng! Nhất định sẽ chiến thắng. Điều đó không có thể nào khác được, như Chúa đã phán quyết

Thế là đã rõ ràng, quá rõ ràng cái mưu đồ lớn, có lẽ là quá lớn của người Mỹ và những "thượng cấp" ở Sài Gòn bằng cái cuộc hành quân đẻ ở Mỹ nhưng lại mang tên Việt này. Cứ kể ra binh lực tập trung trên một chiến trường không lớn như thế làm nên chuyện nếu như tình hình diễn biến bình thường. Nhưng đã qua Cam-bốt rồi, Thọ và nhiều tên tướng, tá khác đã hiểu rất rõ một điều: Không mấy khi mọi việc lại diễn ra đúng như ý muốn của các "thượng cấp"! Vậy lần này họ có lưu ý tới những kinh nghiệm Cam-bốt không?

- Quân Cộng sản chỉ có thể chống đỡ được ở Cam-bốt. Và họ cũng chỉ có đủ lực lượng ở Cam-bốt! Bây giờ họ đang khánh kiệt về quân số chủ lực. Nói chung, lực lượng họ từ hai năm nay đã suy yếu...

Viên tướng Mỹ lại cất tiếng nói tiếp như vậy. Ngoài trời vẫn mù mây. Gió lạnh lướt trên các hàng rào dây kẽm gai bật lên những tiếng kêu buồn bã. Một tốp B.52 từ phía đông bay ngang qua, hướng thẳng phía tây. Tiếng hú như ma quỉ trên vòm trời ảm đạm. Tiếng trọng pháo nổ rền rền ở đâu đây.

Trong lúc đó, ở ngôi trường nhỏ bên đường xe lửa thuộc khu đồi Ái Hữu, những tên sĩ quan trong bộ tham mưu lữ dù 3 cũng đang quây quanh chiếc bàn gấp. Chồng bản đồ từ trên sư đoàn gửi xuống đã được tên đại úy Trụ, tên đại úy “sữa" nhất trong bộ tham mưu, trợ tá cho tên thiếu tá Đức ráp lại. Ai Lao! Nam Ai Lao và đường 9. 

Tất cả những khuôn mặt đều ngao ngán, hết ngẩng lên nhìn nhau lại cúi xuống tấm bản đồ xanh rì một màu với những ký hiệu dày đặc.

- Chết cha! Phen này bị ném sang cái đất này, gay rồi đó! Tên thiếu tá Đức lẩm bẩm! - Cứ tưởng ra vùng 1 thế cho thủy quân lục chiến nó về Sài Gòn nghỉ. Ai ngờ...

Trụ đứng bên. Y mới ở trường huấn luyện tân binh ra được hơn một năm, còn rất ít kinh nghiệm chiến đấu, nên rất phục Đức, con người đã hai lần dính đạn Việt cộng mà không chết. Trụ thành thực khẽ hỏi:

- Sẽ khó khăn hơn ở Cam-bốt nhiều phải không, thưa thiếu tá?

Đức nhún vai, lấy một ngón tay đẩy chiếc kính tụt ở sống mũi lên:

- Sao không? Tôi đã biết Khe Sanh 1968 - Khe Sanh coi như toàn Mỹ hồi đó cũng không còn ăn thua, nữa là bây giờ? "Họ" pháo kích khủng khiếp lắm. Thêm nữa, nay sang Ai Lao, mình chưa rõ địa hình, "họ" lại quá quen rồi... Chuyến này đi, giữ được cái đầu về là phúc đó!

Trụ đứng ngẩn ra. Thốt nhiên một nỗi lo sợ đến đau đớn choán ngập hết tâm hồn y. Y nhớ tới cô nữ sinh bé nhỏ Sài Gòn, người yêu của y mà y đã định bụng năm nay sẽ làm lễ cưới. Ôi. Em bé nhỏ của anh? tại sao khi ra đi, anh đã ngu đần không hiểu gì hết, không từ biệt em bằng tất cả nỗi đau buồn nhất của một cuộc chia tay có đi mà không thật hoàn toàn có khả năng trở lại... Tay Trụ như run lên, khi gấp tấm bản đồ. Đôi mắt sầu thảm của y liếc nhìn về phía Đức. Tên này đang ngồi cúi đầu im lặng, mặt hơi quay vào tường. Đức đang nghĩ gì? Đang lo gì? Đang mưu tính gì? nào Trụ có biết!

Họp quân đoàn, rồi họp sư đoàn, rồi họp tới lữ đoàn. Một loạt những cuộc họp liên tiếp, rối bận, căng thẳng và chồng chất những lo âu. Có lẽ chỉ có cuộc họp của lữ đoàn với các tiểu đoàn trưởng là còn làm cho tên đại tá lữ trưởng có phần đỡ lo, nếu không muốn nói: tin tưởng được đôi chút. Bởi lẽ các tên trung tá tiểu đoàn trưởng của lữ dù 3, cái lữ dù kỳ cựu này đều là những "hổ, sói", cả Thạch tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1, con người có vẻ ngổ ngáo, hễ nói là sùi cả bọt mép, ai cũng biết rồi.

Phước tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6, là một tên cứng nhất trong ba tên. Y cũng từ hàng binh lính mà lên, có khá nhiều kinh nghiệm, có nghị lực tốt. Y luôn luôn cố tạo cho mình một bộ mặt "người hùng" sắt lạnh, không mấy khi cười. Lính dù 3 đã đùa bảo nhau: "Phước mà cười là trời mưa!".

Riêng Phát, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 dù. tinh thần không được can trường cho lắm, nhưng tháo vát, linh lợi, lại được tên tiểu đoàn phó và trưởng ban hành quân giỏi việc, nên cũng vào loại tin cậy được.

Cả ba đều có vẻ hăng hái, mặc dầu cũng có lo chiến trường xa lạ, chưa rõ đối phương thực hư ra sao. Có một điều, Thọ hiểu, có lẽ nếu chúng có háo hức chút nào thì cũng là do lời hứa của Đống: sau cuộc hành quân này tất cả sẽ được lên một cấp. Ngoài ra, Đống rồi cả Lãm đã trực tiếp xuống tận nơi. cổ súy rất sôi động “những thiên thần mũ đỏ" làm cho lũ binh lính cũng tỏ ra bớt lo lắng. Hơn nữa, phần lớn lũ chúng ít hiểu biết, nếu không muốn nói là ngu đần nên cũng chẳng lo xa.

Một buổi sáng, khi đi ngang qua một đại đội. Thọ thấy lính tráng của y đang kéo ra vẫy chào những đoàn "cua sắt" của tên đại tá Luật nườm nượp kéo trên lộ số 1. Có thằng lính nhỏ tuổi mặt non choẹt, ngây thơ dại dột một cách tội nghiệp đã khoái trí reo ầm lên. Nó có biết đâu chủ tướng của nó thì lại đang ngày đêm phải tính từng việc lo từng cái vỉ sắt, viên đạn... đến thắt cả ruột lại.

Bước qua ngày 5-2-1971, toàn lữ dù 3 được bốc vào một địa điểm cách Khe Sanh 4 ki lô mét. Lần này không phải bằng C.130 mà toàn trực thăng. (Tuy nhiên, do tổ chức kém, pháo binh của lữ phải kéo bộ).

Khe Sanh! Có đặt chân tới đây mới thấy quả là quân đội Mỹ đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc hành quân Lam Sơn 719 này. Xe, pháo chúng đã kéo tới đây từ hồi nào. Rất nhiều căn cứ chúng đã bỏ hoang từ cuộc rút chạy 1968 nay đã được khôi phục lại, đỏ loét như những mụn lở khổng lổ giữa một vùng đồi núi, rừng rậm xanh um.

Con đường số 9 cũng đã được công binh Mỹ phát quang và sửa sang lại. Những hố bom, hố đại bác đã được lấp bằng. Những cây cầu lớn nhỏ đã được làm lại hoàn toàn. Xe tải, xe tăng Mỹ gầm rú suốt ngày đêm vận chuyển binh lính, đạn dược, lương thực, từ Cửa Việt vào Đông Hà; từ Đông Hà vào Khe Sanh; từ Khe Sanh vào Làng Vây: Làng Vây rồi đến Lao Bảo. Máy bay phản lực quần đảo như quạ trên bãi tha ma. Không gian chẳng lúc nào không sặc sụa mùi xăng, mùi dầu nhớt, mùi thuốc súng.

Chốc chốc lại thấy tiếng hú man rợ khác biệt của B.52 vượt trời bay sang Lào. Chốc chốc lại thấy một toán quân xa Mỹ chở lính đi tuần tiễu trên đường. Những tên lính Mỹ nom thấy lũ lính dù la lên như chó sói để bỡn cợt có thằng giơ năm đấm. Lũ dù cũng không kém. Có thằng vạch quần ưỡn ngửa ra cho tụi Mỹ. Đó là kiểu chào "thân hữu", kiểu chào "đồng minh" quen thuộc của cả hai bên.

Khe Sanh! Đất dữ. Vừa đổ quân xuống, toàn thể quân dù 3 phải tức tốc đào hầm hố, đề phòng pháo kích hoặc tập kích. Sau đó mới chém cây, phát quang đất, căng dựng tăng, bạt...

Nơi lữ dù 3 đổ xuống, cây cối khá rậm rạp nhưng còn rất non, mới cao tới đầu người. Sau thấy có rất nhiều cây cối: mít, cà-phê và từng vườn mía, từng vườn củ mì, (củ to tới bắp chân người) mới đồ chừng đây là một khu làng trù phú cũ, nay dân đã bị gom về Cửa Việt hết.

Bọn lính công vụ căng cho Thọ một lều nhỏ, làm cho bọn tham mưu một lều lớn, đồng thời đấy cũng là phòng hành quân. Sau đó chúng chia nhau đi canh gác, lùng sục rộng ra bốn phía chung quanh. Khe Sanh! Đây là nơi tập kết cuối cùng của lữ dù 3 và của tất cả các đơn vị ngụy quân khác để chuẩn bị một đợt chót, hoàn tất toàn bộ kế hoạch, rồi sẽ bước thẳng vào cuộc chiến đấu xâm lược.

Ba ngày liền, ngày nào Thọ cũng phải lên tham mưu sư đoàn (hạ trại ngay kế đó) để nhận tình hình mới và thảo luận hợp đồng chi tiết thêm mọi mặt với sư đoàn. Trời vẫn u ám lạnh giá. Không gian ảm đạm, rầu rĩ. Hình như thiên nhiên không muốn họa theo cái nhịp độ chuẩn bị càng ngày càng nóng bỏng của cuộc tấn công xăm lược đại quy mô này của Mỹ - ngụy.

Đã là ngày N + 8. Thọ cưỡi một chiếc OV.10 (máy bay thám thính và chỉ điểm cho phi cơ, pháo binh) bay sang Lào trước để thám sát địa hình. Nhiệm vụ của lữ dù 3: phải đổ quân xuống dải đồi ở bắc đường 9 khoảng 10 ki lô mét đường chim bay, thiết lập 3 căn cứ, lấy tên: căn cứ 30 (ám danh Hoa Đại, bọn Mỹ lấy chữ H và chữ D ở đầu hai chữ gọi là Hotel Delta). Căn cứ 31, căn cứ trung tâm toàn lữ (ám danh: Tuyết Châu. Bọn Mỹ cũng lấy hai chữ T và C gọi là Tango Charli) và căn cứ 32 (chưa có ám danh).

Căn cứ 30, sẽ thiết lập trên ngọn đồi 655 (bản đồ Mỹ: 727 ) cách biên giới Lào - Việt 8 ki lô mét. Căn cứ 31, sẽ lập ở mỏm 456 (bản đồ Mỹ: 534). Mỏm này nằm về phía tây điểm cao 655 khoảng 10 ki lô mét đường chim bay. Căn cứ 32 dự tính sẽ được thiết lập ở tây 31, 10 ki lô mét. Như vậy lữ dù 3 có nhiệm vụ sẽ tạo nên một lá chắn thép ở sườn bắc của toàn sư đoàn. Nếu tính cả quân biệt động ở Khu A (Cha Ki - La Tương - điểm cao 500), thì lữ dù 3 cùng quân biệt động sẽ tạo nên một bức tường thép của cả quân đoàn ở hướng Bắc. Mà hai điểm then chốt nhất trong cánh bắc này là điểm cao 500 của biệt động và căn cứ 31 của lữ dù.

Kế hoạch tiến quân đã được ấn định như sau: ngày N + 9 (8-2-1971) đại bộ phận sư dù với quân biệt động và đại bộ phận sư đoàn 1 bộ binh bắt đầu cùng ồ ạt tiến quân sang Lào dưới sự yểm trợ đồng loạt của hàng chục trận địa pháo binh cực nhanh nòng dài mạnh mẽ của Mỹ và dưới sự phối hiệp của các máy bay chiến đấu phản lực Mỹ, kể cả những phi vụ B.52 ném ở vòng ngoài liên tục trong ngày.

Đội hình của riêng sư dù sẽ như sau: Lữ 2 ở lại vùng Lao Bảo làm đội dự bị. Lữ dù 1 cùng hai thiết đoàn 11, 17 hợp thành một lữ đoàn đặc nhiệm đi đường bộ thẳng đường 9, tiến tới cầu Ka Ki rồi đánh chiếm bản Đông. Lữ 3 sẽ được không vận, ném tiểu đoàn 2 cộng hai pháo đội xuống điểm cao 655 trước, thiết lập căn cứ 30. Căn cứ này hoàn tất sẽ dùng trọng pháo của nó bắn vươn tới điểm cao 456 để cho bộ chỉ huy lữ cùng bộ chỉ huy tiểu đoàn pháo binh, pháo đội dù 105 cùng tiểu đoàn 3 dù đổ xuống đấy, thiết lập căn cứ 31. Riêng tiểu đoàn dù 6 (lữ 3) vẫn phải tạm nán lại Khe Sanh, đợi lữ 1 và thiết giáp chiếm xong Bản Đông mới có thể nhảy sang vượt qua 31, lập căn cứ 32 theo kế hoạch đã định. Nếu vì lý do nào đó, lữ dù 1 và thiết giáp chưa tới Bản Đông theo đúng hạn. thì tiểu đoàn 6 vẫn cứ phái đợi .

Kế hoạch đã được vạch ra như vậy. Nhưng vẫn chỉ toàn trên bản đồ. Cần phải được tận mắt nhìn xuống cái 30, cái 31 ấy xem nó thực sự ra sao, có thể đổ quân được không, hoặc cần phải lựa một điểm cao khác. Nhưng trời vẫn đầy mây. Chiếc OV.10 bay cao, máy kêu to, rất khó chịu. Thọ không quen loại này. Người y nôn nao. Nhìn xuống, chỉ thấy toàn một màu mây xám chì dày đặc cuồn cuộn như sóng biển. Thất vọng, Thọ yêu cầu tên Mỹ lái quay về.

Y vừa đau chân, vừa mệt mỏi, vừa tức giận, tập tễnh bước tới chiếc lều bạt lớn. Ngó vào thấy một lũ sĩ quan đang túm tụm quanh một cỗ bài lá, vẻ bí mật và thành kính. Một tên trong đám đông bỗng mừng rỡ reo lên:

- Đ... mẹ! Lành nhiều dữ ít! Không có can chi mấy cha!".

- Đại tá” - một tên khác nom thấy Thọ, la to. Cả bọn ném vội cỗ bài, sợ hãi quay lại.

- Các ông bói bài?

Bọn sĩ quan xanh mắt nhìn nhau. Một tên đánh bạo, ấp úng đáp thay đồng bọn:

- Thưa đại tá không? Rỗi buồn, chúng tôi nghịch chơi chút ít.

Lẽ ra như mọi khi Thọ sẽ lập tức "nổi trận lôi đình", thậm chí có thể đập vào mặt chúng. Nhưng lần này. Thọ chỉ nhìn chừng chừng một lát, rồi thở dài lẳng lặng quay ra. Lát sau, y gọi tên thiếu tá Hiền tham mưu trưởng cùng tên trung úy trưởng ban 5 (tâm lý chiến) tới lều riêng:

- Họ lo ngại điều chi nhiều hơn cả?

- Thưa đại tá, lo nhất là đối phương...

- Sư đã thông báo: ở đây chỉ có quân vận tải!

- Thưa đại tá không một ai tin. - Thiếu tá Hiền nói - gạt đứa con nít thì được nhưng gạt những thằng này sao nổi 

- Họ lo đối phương sao?

- Họ nói: đánh đây giáp miền Bắc. Đánh đây là đánh vào khu vực đường tiếp tế trọng yếu. Như vậy, không thể nào chỉ có vài tiểu đoàn vận tải được. Họ nói: lần này sẽ khác Cam-bốt rất nhiều. Đối phương sẽ không đế yên cho ta...

- Sao nữa?

- Tối qua, họ lại nghe đài BBC nói: quân chủ lực của cả hai bên đã dàn sẵn ở biên giới, chỉ còn chờ lệnh là xông vào một cuộc tử chiến. Họ càng sợ, sợ lắm!

- Sao nữa?

- Họ nói chuyến này có đi sẽ không có về.

- Sao nữa?

- Họ nói bọn Mỹ thì mù vì chủ quan. còn Tổng thống thì vẫn... bảo sao gật vậy! Bây giờ ném quân sang đó là ném vào hang hùm!

- Sao nữa?

- Họ bảo binh lính mà biết chúng sẽ trốn hết đêm nay!

- Lệnh ngay: tuần tra nghiêm ngặt. Tối, đêm ai ra khỏi lều trại không có lệnh: bắn bỏ tại chỗ! Bất kể sĩ quan hay lính.

- Tuân lệnh!

- Họ nói sao nữa?

- Họ nói tất cả mọi chuyện này đều do người Mỹ hết.

- À à cái đó thì... lẽ cố nhiên rồi! Họ nói sao nữa?.

- Họ nói... đại tá cũng lo!

- À! À! À! Thiệt bậy! Thiệt bậy! Nhưng không có sao. Nói tiếp đi?.

- Có người nói: thà chết quách ở đây cho rảnh còn hơn sang đó mà chết mất xác.

- Đồ chó đẻ! Chúng nó nói sao nữa?

- Họ còn nói: các tướng lĩnh bảo Cộng sản đã bị gạt vì kế nghi binh, nhưng chưa chắc! Khéo ta bị gạt cũng nên !

- Hừm! Hừm! Nói điều chi mà kỳ quá xá!

N + 9! Từ sáng sớm, nhiều tờ báo ở Sài Gòn đã in bức thông điệp của tên tổng Thiệu nổi bật trên trang đầu. Bức thông điệp tội ác. Tổng Thiệu đã công khai, ngang nhiên tuyên bố cuộc hành quân xâm lược, mở rộng chiến tranh sang Lào...

Cũng từ mờ sáng ấy, từng đợt máy bay B.52 Mỹ đã ném thêm hàng nghìn tấn bom xuống quanh Sê Pôn, Bản Đông và dọc hai bên đường 9. Rồi, khi trời vừa hửng sáng, Đống rồi Lãm, xuống tận lữ dù 3, đội tiên phong toàn sư dù, mũi tiên phong toàn quân đoàn, thi nhau gào thét điên cuồng để cổ súy tinh thần binh lính

Lều trại đã nhổ gọn. Toàn lữ dù 3 hoàn toàn sẵn sàng để lên trực thăng. Tuy nhiên, vẫn cần thám sát tình hình địa hình lại một lần cuối, Thọ ra lệnh cho Phát, Thạch theo mình. Ba tên cưỡi ba chiếc HU.1D (trực thăng loại nhỏ chở được năm, sáu người, động cơ tốt) cùng nhằm thẳng hướng tây tiến tới. Trời Việt vẫn mù mây. Chốc chốc mới thấy một ngọn núi nhô lên khỏi biển mây trắng xóa. Nhưng khi vượt qua Lao Bào, mây nhẹ dần, đã thấy trời trong ra và nhìn rõ ở bên dưới.

Đường số 9 kia rồi! Một sợi chỉ màu xám mốc bò ngoằn ngoèo giữa những dải núi non, trùng trùng điệp điệp. xanh rì. 655 kia rồi: Một quả đồi trọc nổi lên khá tròn trĩnh. Mé nam đồi có nhiều cây xanh. Phía đông, phía bắc là rừng rậm.

- 802 (Số hiệu mật danh của Thạch)! 802! 601 (Số hiệu mật danh của Thọ) gọi?

- 802 nghe rõ!

- Ông có nhìn thấy cái Hotel Delta của ông chưa?

- Rõ! Rõ lắm!

- Đồng ý xuống đấy được chứ!

- Tốt! Tốt lắm!

Lượn vòng xem xét quanh cái 30 ấy thêm mấy phút nữa. Thọ cùng Phát, Thạch tiếp tục bay sâu vào phía điểm cao 456. Đó là một ngọn đồi trọc hình dài, một đầu nhô cao hẳn lên (đầu phía bắc) một đầu thấp hẳn xuống (đầu phía nam) ở giữa, chính đỉnh lại là một yên ngựa khá rộng. 456 cũng trọc, toàn một màu vàng úa. Phía tây, dưới chân đồi là một dòng suối nhỏ thấp thoáng hiện ra dưới những bụi cây rậm. Quanh 456, các đồi khác cũng gần như trọc, cây cối lưa thưa. Xế dưới chân đồi, ở mỏm nam có một vạt đất lớn bằng phẳng có thể làm bãi đổ quân rất tốt.

- 803 (Số hiệu mật danh của Phát)! 803! 601 gọi!

- 803 nghe rõ.

- Ông đã nhìn thấy cái Tango Charli của ông chưa?

- Rõ lắm! Rõ lắm!

- Ông đồng ý xuống đây chứ?

- Rất tốt! Tôi muốn xem rộng thêm ra, nhất là dải đồi không tên trong bản đồ có ghi cách đây bốn ki lô mét.

- Ta đi!...

Theo kế hoạch đã được vạch ra trên bản đồ, Phát đã được Thọ và cả Đống đồng ý phải chú ý tới dải đồi không tên ấy. Phải chiếm nó làm một tiền đồn - một bình phong - án ngữ đường tiến quân của đối phương vào 31. Bởi lẽ, theo phán đoán hướng ấy có nhiều điều kiện thuận tiện về địa hình để đối phương triển khai binh lực lớn

Đồi không tên đây rồi! Nó xanh rì một màu cây non, mấy mỏm cao nổi rõ lên, chạy dọc theo con đường giữa vùng rừng núi ngút ngàn này. Đó là con đường tiếp vận thần thoại mà từ lâu bọn Thọ đã được nghe nói. Nhưng ở xa xa, lại hiện lên thêm một con đường tương tự. Đó là con đường nào? Con đường này chạy sâu mãi, xuống phía nam, sát đường 9 thì nối với một con đường khác.

Thọ không khỏi sửng sốt. Trong trí tưởng tượng của y từ trước tới nay, con đường tiếp tế của Cộng sản chỉ là một con đường mòn, phải, một con đường mòn cho hươu chạy nhưng nay, kìa, nó là một, không phải một nữa, mà là cả một chùm những con đường lớn, hình như có rải đá nữa thì phải. Cả một chùm những con đường, lạ lùng đến mức không thể hiểu nổi.

- 802! 803! - Có nhìn thấy những con đường không? Phải chú ý! Chú ý!

- 802 nghe rõ! Nhìn tốt

- 803 nghe rõ! Nhìn tốt.

Quả là trên bản đồ, không thể hình dung được hết tầm quan trọng của cái vị trí đồi 456 này, mà bọn y sẽ thiết lập căn cứ 31. Tới đây mới nhìn rõ, thấy rằng nếu cắm được một cái chốt hỏa lực mạnh ở đây, và đứng vững được, hiển nhiên sẽ khống chế được cả một cụm đường và cái ngã ba chiến lược này: ngã ba Bản Đông.

Thế rồi ba chiếc HU.1D cùng hối hả bay trở lại Khe Sanh. Mệnh lệnh quyết định được phát ra.

Cuộc pháo hỏa, oanh tạc để dọn bãi trên đồi 655 cho tiểu đoàn 2 lữ dù 3 đổ quân, bắt đầu.

Tất cả những trận địa pháo binh Mỹ bố trí sẵn ở suốt dọc biên giới Việt - Lào trên một bình diện hơn hai mươi ki lô mét, cùng gầm lên một loạt. Lửa đỏ rực trời biên giới. Những pháo đội Mỹ bắn phá liên tục hai mươi phút. Sau đó là những chiếc phản lực cường kích Mỹ đã từ một khu chờ đợi lao tới. Bom, rốc-két dốc xuống như từng trận mưa thép.

Ba mươi phút sau. những chiếc phản lực đã trút hết bom đạn, bay đi thì mười chiếc phản lực trực thăng võ trang hiện đại Cô-bra, cũng bay lượn sẵn ở một khu chờ đợi, lập tức rào rào bay tới. Lũ Cô-bra bắn xói, bắn moi, rỉa từng khe núi, từng lùm cây. Bắn rốc-két rồi bắn phóng lựu; hết sức tỉ mỉ và độc ác.

Và trong lúc lũ Cô-bra đang làm cái việc quét dọn lần cuối ở quanh cái 655 ấy thì tất cả tiểu đoàn 2 của lữ dù 3 đã được bốn mươi chiếc HU.1d cộng với hai chiếc Húc (trực thăng lớn để câu pháo nặng) bốc gọn, cất cánh vang động khắp trời, đen kịt trên không trung y như một bầy nòng nọc kỳ quái, cùng hướng phía đất Lào lao tới.

Thọ vẫn cưỡi chiếc HU.1D riêng của y do tên trung tá Mỹ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn trực thăng lái. Chiếc máy bay của Thọ bay ở trên cao, bầy trực thăng của tiểu đoàn 2 bay phía dưới.

655 kia rồi. Khói bom, đạn vẫn còn như mây dày đặc quánh quanh nó. Tên trung tá Mỹ liếc nhìn Thọ mỉm cười nháy mắt, hất hàm. Nó muốn nói: "Hãy nom, Người Mỹ chuẩn bị cho chúng mày được đấy chứ?". Thọ không nói không rằng. Y đã có thói quen: lúc ra trận là quên hết mọi chuyện, kể cả vợ con, kể cả mọi nỗi lo sợ. Tên lính dù chuyên nghiệp nhà nghề đã chồm dậy mãnh liệt trong lòng y. Đầu óc y căng lên nhức buốt. Tâm trí, tình cảm y bị kích động dữ dội và tập trung tới cao độ vào có một việc: uýnh!

- 802! 601 gọi - Cho đổ xuống đi! Rất tốt, dọc đường ta đã may mắn vô sự!

- 802 nghe rõ? Tuân lệnh! Chúng tôi xuống đây.

Thọ nhìn rõ: chiếc trực thăng đầu tiên đã sà xuốngngọn đồi. Một toán lính từ trong bụng nó tuôn ra. Nom tựa một con nòng nọc vừa đẻ ra một đám trứng. Rồi chiếc thứ hai, rồi chiếc thứ ba... cả đoàn trực thăng ầm ầm nối tiếp nhau lần lượt đổ xuống.

- 601! 601! 801 gọi, nghe rõ trả lời ?

- 601 nghe rõ!

- 601! 601! 802 xin phép hạ cánh! Chỉ còn pháo đội cuối cùng.

- 601 nghe rõ! Chuẩn y! Chúc thắng lợi!

Một giờ ba mươi phút trôi qua. Tiểu đoàn dù 2 đã xuống trót lọt. Thọ mừng rỡ nói với tên Mỹ quay trở lại Khe Sanh để lấy dầu. Thế rồi đến lượt tiểu đoàn dù 3 cùng lữ dù bộ, bộ chỉ huy pháo cùng pháo đội chuẩn bị lên máy bay. Sau hai giờ đặt chân lên 655, hai pháo đội trực thuộc tiểu đoàn 2 (một pháo đội 105, một pháo đội 155) đã có thể hoạt động. Các nòng pháo cùng hướng về đồi 456 bắt đầu bắn phá. Tất cả đồi, núi quanh ngọn 456 chìm ngập trong lửa khói. Rồi, cũng theo quy luật cũ, hai mươi phút sau bọn pháo vừa câm họng thì các máy bay phản lực ào tới. Sau đó lại là những chiếc Cô-bra mình dẹt như rắn độc lại quần đảo, rỉa rói, xoi móc... Khói lại cuốn lên dày đặc thành cả một vành đai quanh ngọn 456.

Nhưng mọi việc đã diễn ra không hoàn toàn giống như trước. Khi đoàn trực thăng chở tiểu đoàn 3 vừa ầm ầm bay tới gần Bản Đông thốt nhiên, Thọ thấy những toán HU.1d bay dẫn đầu tóe ra như một bầy nhặng bỗng bị một nhát quạt quét mạnh. Tiếp đó, thấy những dòng đạn lửa từ dưới đất bay vọt lên chi chít.

- 601! 601! - Tiếng Phát gọi hoảng hốt! - Gặp trận địa phòng không phía nam mười lăm độ...

Nhưng, lệnh vừa phát ra. Thọ ngoảnh lại đã thấy ở phía sau y hai chiếc trực thăng bốc cháy như hai bó lửa lớn đang vùn vụt rơi xuống. Thế là chỉ trong khoảng khắc cả bầy trực thăng toán loạn trước một lưới lửa rất dày từ dưới mặt đất tung lên. Lưới lửa dữ dội tới mức Thọ phải dựng cả tóc gáy. Tên trung tá Châu với bộ ria rất bẩn ngồi sau, cũng tái nhợt. (Châu là tiểu đoàn trưởng pháo binh, vốn là lính ngụy của Pháp ngày trước).

Mất mười phút sau, đoàn trực thăng mới tập trung lại được, vòng chéo xuống phía nam đường 9, rồi tiếp tục vượt lên 456.

- 803 - Cho đổ nhanh! Càng nhanh càng tốt! Xuống bằng bất cứ giá nào!

- 803 nghe rõ! Xin tuân lệnh! - Nghe thấy cả tiếng thở gấp của tên Phát.

Lại thoáng nghe một tiếng nói nào lọt vào máy. "Đ... mẹ! Tử địa đây rồi! Hê-lô! chào cuộc đời!”.

Hấp tấp, cuống quít, từng chiếc trực thăng sà xuống, rồi lại hấp tấp cuống quít bay vọt lên, y như những con nhặng vừa bay thoát khỏi một cái chảo lửa.

Thọ vẫn bay lượn bên trên, hết sức lo lắng. Cho đến khi tên Phát báo cáo đã đổ xong quân và lữ đoàn bộ cũng đã xuống đủ cùng pháo binh, bấy giờ y mới thở trút ra.

- Tuyết Châu! Tuyết Châu! 601 xuống đây - 601 xuống đây!..

Chiếc trực thăng rung lên. Mặt đồi vàng úa, nhốn nháo binh lính, ngổn ngang xe, pháo vùn vụt hiện ra mỗi tích tắc một lớn dán dưới bụng máy bay. Rồi chiếc HU.1D từ từ đáp xuống đúng chỗ yên ngựa trên đỉnh đồi. Thọ cùng Châu vội vã nhảy xuống. Hai tên lính mang máy truyền tin ra sau cùng.

Một quang cảnh bừa bộn, ồn ào, láo nháo kinh người phô bày ra trước mặt y. Lũ lính dù, ba-lô, súng đạn còn để vung vãi khắp nơi đang ra sức đào công sự khắp bốn chung quanh sườn đồi, và cả trên đỉnh đồi. Hai chiếc xe ủi đang gầm gào, hục hặc đào dũi đất để làm hầm chỉ huy của lữ. Một toán công binh đang dùng cưa máy cưa một thân cây đã bị bom đạn chém gần cụt. Lũ pháo thủ đang dùng xe GMC hối hả kéo những khẩu pháo nặng nề lên mỏm cao phía Bắc. Những tên sĩ quan, mặt mũi căng thẳng, khác hẳn mọi lần đổ quân trong tất cả các cuộc chiến đấu từ trước tới nay, đang vừa la hét vừa chửi bới ầm ĩ. Một tên đại úy đại đội trưởng đang nghiến răng cầm roi quất như mưa vào mặt một tên lính súng máy. Một tên trung úy đang cầm cổ áo một tên lính súng cối lôi đi xềnh xệch... Những tên sĩ quan truyền tin đang ngồi ôm lấy những chiếc máy gào lên chửi bới om xòm những đứa nói ồn ở chung quanh làm cho tai chúng điếc đặc...

Thọ đứng tại chỗ, đưa cặp mắt dữ tợn và tối tăm nhìn bao quát cả khu đồi rồi gọi Phát lại báo cáo.

- Đã vẽ xong sơ đồ phòng thủ và lập được bản đồ hỏa lực chưa?

- Thưa đại tá, đang làm.

- Đã tung các đại đội ra chưa hay còn để ùn ở đây?

- Thưa đại tá đã tung đi theo đúng kế hoạch. Hiện chỉ còn đại đội 34, ở trên căn cứ này. Đại đội 33, đang hướng tới đồi không tên sẽ chiếm lấy điểm cao ấy và lục soát quanh đó. Đại đội 31 ở phía Bắc, hướng theo đường 16. Đại đội 32 phía tây...

- Ông phải giữ máy liên lạc với chúng nó?

- Tuân lệnh!

- Sau hai giờ, toàn căn cứ có thể sẵn sàng để chấp nhận chiến đấu tập kích.

- Tuân lệnh! Nhưng... chống pháo kích thì...

- Các ông phải làm nắp hầm cho nhanh, cho kiên cố. Chậm nhất là sau bốn mươi tám giờ phải hoàn tất!

- Tuân lệnh?

Trên bầu trời đã gần tối chiếc OV.10 thường trực hai mươi bốn giờ trên 24 vẫn đang è è bay lượn. Tiếng tên sĩ quan ngụy ngồi trên chiếc máy bay ấy léo nhéo gọi xuống:

- Tăng-gô Sác-li! Tăng-gô Sác-li! Có phi xuất khu trục Mỹ tới yểm trợ cho các anh thiết lập căn cứ! Chú ý! Chú ý!

Không quá mười phút sau hai chiếc phản lực Mỹ vùn vụt lao tới kéo theo sau một màn tiếng động rung chuyển. Rồi những trái bom nối tiếp nhau dựng khói dựng lửa ở khắp các ngọn đồi chung quanh căn cứ 31, tạo thành một hàng rào dày đặc. Bọn dù có phần yên tâm hơn, ra sức đào hầm, rải dây thép gai, cài mìn, chỉnh pháo...

Đúng như mệnh lệnh của Thọ, hai tiếng đồng hồ sau, trận địa pháo binh đã báo cáo: sẵn sàng khai hỏa, tiểu đoàn dù 3 cũng báo cáo: đã đủ hầm hố chiến đấu, lập xong hàng rào phòng thủ, tổ chức xong hệ thống hỏa lực Trời vừa nhá nhem tối. Thọ đứng nhìn bao quát lại cả căn cứ một lần nữa. Có thể nói căn cứ đã hình thành gần hoàn chỉnh và đã khá vững chắc. Tuy nhiên, bỗng sực nhớ lại cuộc bói bài của lũ sĩ quan chiều hôm qua, Thọ lại thấy buồn bực. Cái cần vững chắc nhất lại là cái tinh thần.... Nhưng phải chăng ở đây, cái ấy lại là cái đang thiếu, thậm chí rất thiếu...

Đêm xuống dần. Hầm chỉ huy mới đào xong nhưng chưa có nắp. Hầm hình chữ L rộng hai mét rưỡi, thân dài mười mét, đoạn ngang sáu mét. Thọ cùng cả bộ tham mưu của y phải nằm tạm trong căn hầm không nắp giống như một cái huyệt lớn chưa lấp ấp. Đêm đầu tiên trên chiến trường, sao mà phấp phỏng? Đối phương sẽ pháo kích hay chưa pháo kích? Đối phương đã có mặt ở đây hay chưa có mặt ở đây? Nhưng, căn cứ trên tuyến phòng không đáng sợ hồi chiều gần Bản Đông thì có lẽ đối phương đã có mặt ở đây rồi!

Rõ ràng hơn nữa: tin tức về lữ dù 1 cùng thiết giáp trên đường số 9 đang rất mập mờ. Tụi trên sư đoàn không hò hét: không tuyên truyền rầm rì như mọi khi. "... Đang gặp địch" . "Đang tiến”, "Có một số khó khăn"... Chúng chỉ thông báo rất rời rạc và vắn tắt như vậy.

Tuy nhiên, Thọ cùng bộ tham mưu của y, nhất là tên thiếu tá Đức tinh khôn ranh mãnh ấy đều thừa hiểu rằng: thế là trên đường 9, lữ dù 1 và thiết giáp đang bị chặn đánh mạnh. Thế là lữ dù 1 cùng thiết giáp đã không đến được Bản Đông đúng như kế hoạch đã ấn định.

Nhưng lực lượng nào đã có thể chặn được bước tiến của cả một lữ dù cộng một lữ thiết giáp như vậy? Chắc chắn không phải là một "đơn vị vận tải" nào đó với toàn súng trường cũ kỹ và những chiếc xe cam nhông chở gạo như người ta đã phổ biến.

Tin tức về biệt động quân và sư đoàn 1 bộ binh cũng mù mờ không kém! Thọ rất bực bội. Y đoán rằng bọn Mỹ và bọn sư đoàn đã cố tình giấu giếm những khó khăn.

Thọ đã đoán không sai. Quả là ngày hôm đó chỉ riêng lữ dù 3 ra quân là có phần may mắn. Lữ dù 1 với hai thiết đoàn hợp thành lữ đoàn đặc nhiệm tiến dọc đường 9 đã bị Quân giải phóng Lào và nhân dân Lào chặn đánh quyết liệt ngay từ phút đầu. Những chiếc xe bọc thép Mỹ bốc cháy suốt dọc đường. Các bến suối đều sụt lở nát nhừ. Các xe vận tải, chiếc sa lầy, chiếc bị bắn đổ ngổn ngang khắp nơi. Suốt một ngày ròng rã, toàn bộ lữ đoàn đặc nhiệm ấy chỉ tiến được tới đầu cầu Ka Ki. "Cả một lữ đoàn đẫm máu". Các phóng viên quốc tế đã nói lại như vậy.

Về phía cực bắc và phía nam của cuộc tiến quân này, bọn biệt động quân, bọn sư đoàn 1 cũng đều bị quân dân Lào bám sát, chặn đánh từng bước. Chúng đang rên lên. La lên. Những chiếc máy bay lên thẳng Mỹ ở các phía ấy cũng đã bị bắn rơi lả tả. Xác những tên cố vấn và giặc lái Mỹ đã bị cháy thiêu trong những cánh rừng Lào.

Trong lúc đó, Thọ ngồi dựa lưng vào vách hầm cùng với lũ tham mưu của y. Tất cả đều ít nói hẳn đi. Cái tâm trạng được kích thích nhất thời lúc tiến quân, đổ quân, dường như đã tiêu tan hết rồi. Lúc này, giữa đêm Lào mênh mông. huyền bí đầy những sự kiện bất ngờ nguy hiểm, lũ sĩ quan dù chỉ còn biết phấp phỏng lo âu, chỉ biết bám níu lấy một sợi dây liên lạc vô hình duy nhất với cuộc sống, với đồng bọn của chúng, ở bên căn cứ 30, và ở hậu cứ Hàm Nghi (Khe Sanh). Đó là làn sóng điện được phát thường xuyên liên tục 24 trên 24 giờ, qua chiếc OV.10 làm trung chuyển đang bay lượn è è lẻ loi trên không trung mù tối. Đó là làn sóng điện của chiếc máy siêu tần số cũng liên tục mở 24 trên 24 giờ đế liên lạc giữa lữ đoàn với sư đoàn mà thôi.

- Thiếu tá Hiền. Sư đoàn đã cho bổ sung về địch tình chưa?

- Thưa đại tá, tôi đã giục. Sư hẹn ngay mai!...

Thọ nhăn mặt lại. Đối với y, điều đáng sợ trước nhất của một người cầm quân, chưa phải là bom đạn, mà là: không hiểu địch. Không còn nghi ngờ gì nữa: bọn y đã bị ném vào một nơi mà bọn y mù tịt y như một võ sĩ lên đài nhưng bị bịt mắt... Bọn tham mưu lo nhất là đối phương. Chúng không lo vô lý một chút nào hết! Đối phương! Đối phương đã nắm được đầy đủ tình hình về cuộc tiến quân ồ ạt ngày hôm qua của bọn chúng chưa? hoặc đã sẵn sàng để tấn công chưa? Hoàn toàn, hoàn toàn không một ai rõ.

Đúng! Chúng làm sao mà biết rõ được! Trong lúc bọn tên Thọ cũng như tất cả những bọn sĩ quan binh lính ngụy khác đang ngồi như chuột trong những cái huyệt lộ thiên trên các điểm cao của rừng Lào mênh mông đêm nay thì trong tất cả những khu tập kết chiến đấu của Quân giải phóng đang có biết bao cuộc di chuyển rầm rộ, to lớn. Âm mưu của Mỹ-ngụy như thế nào, Bộ tư lệnh tối cao mắc lừa chúng. "Gậy ông đập lưng ông". Cuộc đấu trí đã ngã ngũ. Kẻ mắc mưu lại chính là Mỹ-ngụy. Quân thù đã đem đầu vào “cửa tử". Đêm nay Bộ tư lệnh tối cao Quân giải phóng, một niềm vui tràn ngập trong lòng mọi người. Trận thế đã bày rồi. Cuộc chiến đấu đã bắt đầu mở màn. Bây giờ chủ yếu đã bước sang giai đoạn đấu sức .

Sáng ra rồi! Thế là đã qua được một đêm - đêm đầu tiên hãi hùng - trên cái đất Lào xa lạ này. "Chúa đã che chở", "Trời, Phật đã phù hộ" cho chúng tạm an toàn, vô sự! Ba đại đội dù từ căn cứ 31 được tung ra nhằm thực hiện chiến thuật phòng ngự cơ động kiểu Mỹ, tiếp tục dò dẫm tiến. Sáng rồi! Nhưng là một buổi sáng đầy mây, sương. Mưa lay bay. Ba đại đội dù trên ba hướng khác nhau có điện đài mang theo đầy đủ để bất cứ lúc nào cũng có thể liên lạc với căn cứ, gọi máy bay, và có cả tiền sát viên pháo binh đi cùng để bất cứ lúc nào. Ở chỗ nào cũng có thể gọi pháo ở căn cứ bắn tới yểm trợ...

Nhưng, cả ba đều vẫn cảm thấy rất sợ. Chưa một lần nào trong đời lính, chúng lại cảm thấy sợ như lần này, sợ cái hoang sơ. huyền bí của rừng Lào - nhưng sợ nhất vẫn là sự cô độc. Cô độc giữa núi rừng Lào mà chúng biết rằng đối phương ở đây có thể lại hùng mạnh hơn ở đâu hết. Cũng vì vậy, một lần nữa chúng lại nhận thấy rất rõ cái kiểu đóng chốt hỏa lực với những mũi nhọn cơ động được tung ra, khui rộng ra chung quanh để mở vùng an toàn, chỉ có thể thích hợp ở một vài nơi nào đó mà đối phương nhỏ yếu. Chính Nguyễn Văn Thọ cũng đã từng nhận xét thẳng thừng như vậy mà chê chiến thuật này của Mỹ là khá dở.

Dò dẫm từng bước. Đầu óc căng thẳng. Tất cả sự che chở, yểm trợ cho chúng giờ đây chỉ còn biết trông vào phi pháo Mỹ. Lẽ cố nhiên, người Mỹ đã lớn tiếng tuyên bố trong cuộc hành quân này: yểm trợ tới mức tối đa. Nhưng, dầu sao vẫn cứ cảm thấy có cái gì bấp bênh, không thể yên lòng được. Bởi, cũng đã nhiều lần vừa qua, trong một số trận lớn, hỏa lực Mỹ hiển nhiên vẫn không thể nào như một phép thánh chuyển bại thành thắng được...

Càng đi, rừng càng rậm. và cái cảm giác cô đơn trống trải, hở sườn, hở đuôi càng tăng lên, lạnh giá. Hơn thế nữa cái cảm giác: mỗi lúc một đi sâu vào vùng cạm bẫy của đối phương cũng càng hiện lên rõ rệt, mặc dầu chúng đã cố gạt nó đi, xóa nó đi. "Sự yên lặng ở đây đáng ngại hơn bất cứ sự ồn ào ngay tức khắc tự ban đầu nào, như ở các nơi khác". Tên thiếu tá Đức tinh khôn ấy đã nói như vậy với mấy tên đại úy đại đội trưởng ngay từ lúc mới chạm chân tới đồi 31.

- Tuyết Châu! Tuyết Châu! Chúng tôi chưa thấy gì hết

- Tuyết Châu! Chúng tôi đang tiến, Dạ! Đang tiến!

- Tuyết Châu! Chúng tôi đang ở tọa độ ... Rừng bị nhiều hóa học và bị B.52. Rất khó đi... Dạ! Rất khó đi!

Những tiếng gọi chốc chốc lại cất lên vượt trên không trung bay về 31, đầy nỗi lo âu và dè dặt.

- Tuyết Châu ! Thấy "hàng"! Tọa độ ...! Rất khả nghi là có "khách"!...

- Tuyết Châu! Có lẽ chúng tôi bị bao vây! Cho phi tuần tới mau! Tọa độ...

Chốc chốc, những lời báo cáo và thỉnh cầu lại hấp tấp hoảng hốt réo lên. Thật ra cả ba đại đội dù ấy chưa một lúc nào gặp Quân giải phóng cả. Nhưng, để cho đỡ sợ cả mấy tên đại đội trưởng cứ “tố" bừa lên như vậy. miễn là có tiếng khu trục, có tiếng trọng pháo ầm ầm lên là tốt rồi, ít ra cũng giảm được nỗi cô đơn...

Nhưng rồi chúng cũng đã thấy. Đại đội dù mang số hiệu 31 đã chạm tới một trong cả chùm những con đường vận chuyển của Quân giải phóng - những con đường mà bọn chúng đã nghe nói từ lâu với tất cả những câu chuyện ly kỳ như huyền thoại. Từ trên một sườn núi rậm, lũ lính dù 31 đều sững lại, nép sau những thân cây, há hốc miệng ra kinh ngạc nhìn xuống. Kinh ngạc và - chúng không thể tự ái hoặc sĩ diện tự giấu mình được nữa - cả một niềm kính phục: con đường khá rộng, hai xe tải tránh nhau được. Mặt đường có rải đá hẳn hoi. Lẽ cố nhiên xe đi đã quá nhiều, ổ gà cũng lắm - những ổ gà lớn và kéo dài như từng con suối nhỏ - đất đá nhiều quãng cồn lên cuồn cuộn như sóng.

Con đường..! Con đường thần thánh đây thật sao? Giữa cái sâu thẳm. cái ngút ngàn, mênh mông ghê gớm của núi rừng Lào này: con đường hiện lên mới kỳ lạ làm sao! Tưởng như là một ảo ảnh vậy. Ai đã đã tới được đây? Tự lúc nào? Ai đã phá được muôn ngàn sườn núi trập trùng hiểm trở kia? Ai đã lặn lội vượt qua bao suối, bao khe kia, dựng cầu, phá đá mở đường?...

Và đã bao nhiêu xe, bao nhiêu pháo qua đây. - Những vết hằn bánh xe dày đặc, và còn mới tinh ...

- Tuyết Châu! Tuyết Châu! Chúng tôi đã tới con đường vận chuyển Dạ? Trúng? Không thể lầm được. Trúng. Trúng nó. Trời? Sao mà chúng tôi lại lầm được?

Tên đại đội trưởng vừa nói vừa như run lên. Y không thật hiểu vì sao. Vì quá sung sướng bởi nhiệm vụ mình đã đạt? Vì nỗi kinh ngạc và kính phục không thê giấu được khi nhìn thấy con đường? Hoặc vì y cũng hiểu được răng: thế là bọn y đã gần đối phương lắm rồi và tất cả mọi nỗi gian nguy thể là cũng sắp tới.

Cùng lúc ấy, ở hướng khác, đại đội dù số hiệu 33 cũng đã tới được một ngọn trên dải đồi không tên mà tên lữ trưởng đã cùng tên tiểu đoàn trưởng đã thám sát bằng máy bay bữa trước. Toán lính đi đầu làm nhiệm vụ sục sạo bỗng hoảng hốt nằm xuống mặt đất. Nhưng, cuối cùng chỉ là mấy cái nền kho đã cũ hiện ra ở phía trước. Người ta đã chuyển kho đi, có lẽ khá lâu rồi. Nền đất đã rã ra, cỏ đại đã mọc loáng thoáng. Cạnh đó là một cái hầm trú ẩn cũng đã sụt lở, những khúc gỗ hiu quạnh đội đất nhô lên, đã có nấm. 

- Tuyết Châu! Tuyết Châu! Chúng tôi đã lục soát, tìm thấy năm kho gạo, một kho xăng, hai kho cối 82!...

Tên đại đội trưởng, một thằng cha nhút nhát nhưng chúa khôn vặt gào lên hoan hỉ và sung sướng một cách thành thực với chính cái chiến công tưởng tượng, bịa đặt của y.

Và đại đội 32. Cái đại đội ấy cũng dò dẫm tiến với một tốc độ chậm chạp, nhùng nhằng chưa từng có. Tên đại đội trưởng cũng là một tên khôn ngoan không hề thua kém lên đại đội trưởng 33. Dại gì mà xông xáo? Dại gì mà tiến nhanh! Thằng ăn đòn ở đây dứt khoát không phải là thằng Phát, thằng Đống, thằng Lãm rồi!... Y cứ cho lính đi quanh đi quẩn chán, lại tìm một địa điểm lợi thế dừng lại nghỉ và gọi máy bay, gọi pháo bắn loạn xạ bốn chung quanh.

- Có nhiều dấu vết khả nghi! Một đoàn cam nhông đang đậu ở tọa độ... Bộ binh địch rút chạy về hướng...

Nhưng đã đến lúc y không cần phải tưởng tượng quá nhiều nữa. Y cùng cả đại đội của y bỗng cuống cả lên khi nghe thấy ở cách bọn y không xa lắm, những loạt đạn phòng không đột ngột cất lên, bắn rất mạnh lên hai chiếc phản lực Mỹ đang quần đi đảo lại ở phía đó. Nhưng cái làm cho bọn y hoảng hồn và kinh ngạc hơn: không phải chỉ có tiếng súng phòng không nhỏ mà nghe có cả những loạt đạn pháo cỡ khá lớn.

- Ủa! Họ đem đượv cả những "của" ấy vô đây sao? Trời Phật! Phen này thì thật chết thấy mồ rồi - Tuyết Châu! Tuyết Châu!...

Trên căn cứ 31. Sau một đêm và một buổi sáng còn tạm thời yên ổn, lũ lính dù đã dốc sức ra đào hầm hố, tổ chức các tuyến phòng thủ, không cần phải đợi lũ sĩ quan gào thét, đốc thúc nhiều lần như mọi lần hành quân khác. Ngọn đồi 456 mới hôm trước còn trơ trọi, hoang vu giờ đây đã biến đổi hoàn toàn. Cả ngọn đồi như đã lột hết lần da bên ngoài, trơ ra đỏ loét. Ụ súng, hầm ngầm, chiến hào nham nhở, chi chít. Những lỗ châu mai như trăm ngàn con mắt đen ngòm. man rợ. hau háu nhìn ra bốn phía. Những nòng pháo vươn cao, đen sì, như những chiếc răng nanh của một con quái vật khổng lồ đang nhe ra, dữ tợn.

Nhưng không phải chỉ có nằm đấy nhe răng, vươn vuốt ra gầm gừ, con quái vật ấy chốc chốc lại trợn trừng những con mắt đến tóe lửa rồi chồm dậy gầm lên, rống lên lay chuyển cả rừng núi. Những cơn gầm thét ghê gớm ấy lại được những con quạ Mỹ đen sì bay đi đảo lại liên tục trên bầu trời. chốc chốc nhào xuống khạc lửa phụ họa, càng làm cho con quái vật 31 thêm vẻ dữ tợn, hung hăng . Nhưng thật ra, trong ruột con dã thú ấy lại không hoàn toàn như thế.

- “Tuyết Châu! Tuyết Châu! Đối phương đã xuất hiện! Nhiều dữ! Nhiều quá xá!..."

Trong hầm chỉ huy đã đước lát vỉ sắt đắp bao cát, chia ra từng ngăn. sắp hoàn thành, tên lữ đoàn trưởng lẳng lặng gật đầu. Y biết rồi! Không cần phải đợi cái đại đội 33 ấy báo về mới rõ. Trong ngăn hầm dùng làm phòng hành quân (Phòng tác chiến.) ấy, Thọ đang chau đôi lông mày, mắt tối sầm, nhìn xuống tấm bản đồ về tình hình quân giải phóng. Đôi mắt y nhìn mãi xuống những vòng xanh chi chít, những ký hiệu đơn vị lớn nhỏ, lát sau mới ngẩng lên. Dường như y cố dấu một tiếng thở dài và cũng cố giấu cả những nét kinh ngạc, lo lắng trên nét mặt.

- Nhiều quá xá! Vậy đánh sao nổi? - rồi gặng hỏi lại - Sư đoàn điện tới cho các ông chấm, phải không?

- Thưa đại tá phải!

- Hỏi xem còn bổ sung không! Nói với họ, tôi cần có sự bổ sung hoặc xác minh từng ngày. Đều đặn từng ngày?

- Thưa. rõ

- Hỏi lại bọn 33! Nó báo cáo nhiều quá xá, là bao nhiêu (là cái gì?) Lệnh cho nó: từ giờ phút này phải báo cáo thật rành mạch, cấm ngặt sự hồ đồ, nghe!

Y lại cúi xuống tấm bản đồ gần như xanh lè những ký hiệu; đôi mắt lại tối xầm. Nếu quả đúng thế này, hiển nhiên đối phương một là đã chờ đợi sẵn ở đây - nếu đúng như vậy, thật đáng sợ cái tầm mắt chiến lược của họ biết nhường nào; và như vậy là "cạm bẫy đã giăng", "cờ đã bày thế", có tài trời cũng không thể thắng họ được? Giả thuyết thứ hai: họ không chờ đợi sẵn ở đây mà đã vận động di chuyển cấp tốc từ xa tới. Giả thuyết này nếu đúng, cũng không kém phần đáng sợ. Phải là quân tinh nhuệ như thế nào, phải có tài dùng binh như thế nào, mới tổ chức được một cuộc hành quân di chuyển thần tốc đến như thế?

Nói tóm lại, bất cứ giả thuyết nào, cũng chỉ đi tới một kết luận để xác minh là đúng tất cả những gì mà Thọ đã hồ nghi hoặc thầm lo sợ ngay từ đầu. Bọn Mỹ và lất cả những thượng cấp của y quả là vừa chủ quan vừa độc ác. Họ đã lừa dối binh sĩ, để ném họ một cách không tiếc thương vào canh bạc rất có thể cháy túi này...

Và Thọ tự quyết định lại phải trực tiếp nói chuyện với Đống một lần nữa, lần thứ ba kể từ đêm qua tới giờ.

- Bạch Long! Tôi đã nhận được tình hình địch! Tôi thấy rất đáng phải quan tâm. không thể coi thường. Rõ ràng không phải như các ông phổ biến ở Hàm Nghi (Bí danh của căn cứ Khe Sanh.).

- Rồi! ông muốn nói cái chi nữa, ông 601?

- Chính vì vậy, các ông phải cho chúng tôi thêm vật liệu để củng cố thêm căn cứ. Cần lắm! Cần lắm lắm!

- Rồi! Cho ông thế vẫn chưa đủ sao? ông còn muốn cả trời nữa hả?

- Tôi không muốn nài nỉ ông làm chi đâu! ông cần hiểu chúng tôi...

- Hiểu hả? Đ... mẹ? Tôi còn hiểu cả cái sư đoàn này? ông có hiểu bọn biệt động, bọn sư 1 ra quân hiện nay ra sao không? Đang vỡ mặt ra! Còn ông Lưỡng cũng đang trầy trật, đã tới được A Lưới (Bí danh của Bản Đông.) đâu! ông có biết từ sớm nay phòng không chúng đang nhai đang nuốt các trực thăng Mỹ ra sao không? ông không hiểu cái chi hết? ông cóc có hiểu chi hết, ông 601!

- Bạch Long! ông chớ có chửi tôi nhiều vậy! ông có nói đâu mà tôi biết! Nhưng vẫn xin nhắc là về cánh bắc của tôi, ông thông báo có thiết giáp địch...

- Đó mới là nghi hoặc thôi! Chưa chắc đã đúng! Có thể xe tải cũng nên!

- Trời! Chỉ huy mà ông toàn nói chuyện "nghi hoặc" với chưa chắc!".

- Tôi không muốn nói với ông nữa, ông 601! Nè, sao vẫn chưa cho tiểu đoàn dù 6 vào lập cái 32?

- Tôi cũng đang rất cần phải có ngay căn cứ ấy? Nếu không? thế liên hoàn yểm trợ của lữ tôi sẽ rất yếu! Nhưng quân ông Lưỡng chưa tới được A Lưới thì nó vô sao nổi?

Thế là viên tướng đầu óc đặc sệt như đất bùn, chỉ tài nổi cơn điên và chửi càn ấy tắt máy, cắt đứt câu chuyện.

Thọ tập tễnh quay trở vào căn hầm riêng của y. Chiếc máy nổ đặt ở sườn đồi đã bắt đầu hoạt động. Những ngọn đèn trong gian hầm tỏa xuống một vùng ánh sáng đỏ kè. Màu đỏ nhức nhối ngột ngạt ấy lại càng làm cho y muốn khó thở, thêm rối ruột. Y lại tập tễnh, lách tấm thân to béo qua cái ngách nhỏ, bước ra phòng hành quân.

Bên bàn máy truyền tin, tên thiếu tá Đức trưởng ban tác chiến đang mẫn cán và hăng hái ra rả hết gọi căn cứ 30, gọi tiểu đoàn dù 3 của tên Phát, lại gọi tới công binh, trinh sát... bắt phải báo cáo tình hình các mặt; rồi gọi trực thăng tiếp tế, gọi máy bay oanh tạc đến bắn quét, bắn cào thêm bốn chung quanh căn cứ. Y gọi cả tiểu đoàn pháo của tên trung tá Châu, bắt bắn yểm trợ theo yêu cầu của các đại đội đang đi khui rộng bên ngoài. Y làm việc nhanh nhẹn và thành thạo như một cái máy.

Cạnh y là tên đại úy Trụ - Trụ "sữa" - đang ngồi nghiêm chỉnh, thành kính như một tên học trò nhỏ bên thầy học, hết "dạ" lại “tuân lệnh", nhanh nhẹn tuân theo mọi chỉ bảo hoặc mệnh lệnh của Đức. Tuy nhiên, với đôi mắt tinh tường, Thọ cũng vẫn nhận thấy Trụ "sữa" không giấu nổi vẻ lo lắng của y. Lẽ cố nhiên nỗi lo lắng của Trụ không hoàn toàn giống của Thọ, Trụ chỉ lo cho cái mạng của riêng y, còn Thọ, dầu sao y cũng phải lo cho tất cả cái lữ đoàn này...

- Gọi cho tôi trung tá Châu và đại úy Phương của tiểu đoàn pháo!

- Tuân lệnh !

Cách đấy không bao xa, trên mỏm cao ở phía bắc của mặt đồi, tên trung tá Châu và tên đại úy Phương đang ngồi trong căn hầm quan sát, mặt buồn rười rượi, trao đổi từng câu nhát gừng với lũ sĩ quan tham mưu của tiểu đoàn. Không riêng một ai, tất cả bọn chúng đều đang cùng có chung một nỗi băn khoăn: căn cứ 32 chưa lập được, chỉ có độc cái 30 có thể bắn vươn tới đây lúc 31 bị nguy khốn. Như vậy hỏa lực sẽ khá yếu. Ngoài ra, ở đây địa hình phức tạp, xa lạ, việc phản pháo chắc chắn sẽ rất khó khăn. Nếu đối phương có pháo tầm xa nữa thì thật chỉ có... "tử". Bởi lẽ 105 không có thể đấu được với pháo lớn hơn nó; và bọn Châu sẽ không sao biết được thật đích xác các trận địa của đối phương một khi không nghe được tiếng nổ từ đầu nòng. Sẽ chỉ còn trông chờ ở OV10. Nhưng nếu ở những trận địa pháo của Cộng sản cũng sẽ có những mạng lưới phòng không mạnh như vừa xuất hiện ở dọc đường 9 thì sao? OV.10 tất sẽ bị bẻ gãy cổ nếu không sẽ phải bay lên tận tít mù xanh. Và đã lên tới đó thì nó chỉ còn thấy... mây và gió.

- Tôi muốn trao đổi ý kiến với các ông thêm về việc phản pháo!

- Dạ! thưa chúng tôi cũng đang rất lo về việc đó!...

- Đối phương chưa có hoạt động gì ở đây cả, nhưng không có nghĩa là họ khòng hoạt động...

- Dạ?

- Sự yên lặng trong ngày hôm nay là một điều đáng chú ý. Chắc chắn chỉ bữa mốt bữa mai họ sẽ bắt đầu. Mà trước hết sẽ là pháo kích! Các ông, dầu sao cũng phải rán hết sức mình, nghe không?

- Dạ.

5
Nhưng pháo kích vào đâu, lúc nào hẳn Nguyễn Văn Thọ không thể nào biết trước được. Buổi sáng ngày thứ ba của cuộc hành quân Lam Sơn 719, đại đội dù số 31 - cái đại đội đã bắt gặp con đường vận chuyển thần kỳ của Quân giải phóng. Sáng nay sau khi loanh quanh dò dẫm nhòm, ngó chiếu lệ một lúc, bọn chúng leo lên một ngọn đồi để nghỉ chân và chuẩn bị đón trực thăng tới thả lương thực, đạn dược.

Đã qua hai ngày tạm yên ổn, không gặp một đơn vị nào của Quân giải phóng, bọn chúng đã bớt lo sợ, chỉ phải cái leo trèo nhiều nên cũng khá mệt. Khi lên tới đỉnh đổi, chúng ném luôn ba-lô, súng đạn, rồi nằm lăn cả ra mà thở, mà vặn lưng, vặn sườn cho giãn xương. giãn cốt. Những thân hình vận đồ loang lổ, phủ kín cả mặt đồi, thoát nom y như một bầy trăn độc kỳ dị từ thời hồng hoang nào đang bò về quần tụ cả ở đây

Một tên lính bắt đầu cao hứng: "đi" mấy câu vọng cổ: "... Chứ bởi vì đâu nên nỗi... Hỡi người tình tha thiết của qua ôi! Mà lòng qua bấy canh chầy trằn trọc, nói chẳng nên lời... Trái tim này đã xé thành muôn vàn giọt lệ". Lũ sĩ quan chỉ huy thì túm tụm nhau, đốt thuốc lá, tán gẫu tới ngày trở về Sài Gòn sắp tới với những "em gái sầu mộng", những "nàng tiên hương sắc”. Một tên chuẩn úy đứng vạch quần đái loằng ngoằng trên một đám đất hơi bằng phẳng thành hai chữ Lam Sơn, rồi la lớn: "Lam Sơn muôn năm! Muôn năm!". Không biết y chửi hay y hoan nghênh thật.

Và cũng đúng lúc đó một loạt tiếng súng cối bỗng nổ vang, rồi những quả đạn như từng bầy chim lửa vun vút vẽ những đường cong trên không trung, bổ thẳng xuống đỉnh đồi. “Pháo kích rồi! Pháo kích rôôồi!". Những tiếng la lên thất thanh. Lửa, thép nổ rền một vệt dài. Rồi cứ thế liên tiếp liên tiếp những loạt đạn cối khác bay xả tới. Tiếng kêu thét càng hỗn loạn. Những tên lính dù thoát chết chạy thục mạng xuống chân đồi bên kia. Những tên bị thương nằm la liệt lẫn với những tên đã chết, lăn lộn trong những vũng máu.

Tên chuẩn úy ban nãy cũng đã ngã gục. Một quả đạn xé tan mảnh áo giáp Mỹ của y, phá banh cả một mảng bụng. Một đống ruột đùn ra to tướng, đầy máu đang còn tiếp phập phồng làm phòi ra một ít bong bóng nhỏ. Tên chuẩn úy nằm ngửa, hai tay dang ra, khuôn mặt dài như mặt ngựa của nó hơi nghiêng về một phía - cặp mắt vẫn mở - cặp mắt buồn bã không biết là nhường nào - cái miệng y cũng hơi há ra, và như đang muốn kêu lên hơn là thốt ra những tiếng cười cợt như lúc nãy, trên hông y, khẩu súng sáu Mỹ mới tinh vẫn còn kềnh kệnh. Cái nhãn hiệu US to tướng, nổi bật trên máu tươi của tên sĩ quan Sài Gòn xấu số ấy.

Cùng ngày, ở phía đồi không tên, đại đội dù mang số hiệu 33 có tên đại úy đại đội trưởng có tài chiến thắng tưởng tượng cũng đã chịu chung một số phận thậm chí còn bị nặng nề gấp bội lũ đại đội 31, mặc dầu chúng hết sức khôn ngoan, cẩn thận đã xin máy bay và trọng pháo của căn cứ bắn quét bốn chung quanh đồi đến nhừ nát. Cả một vùng mới hôm qua còn xanh rì nay đã tanh bành, đỏ úa, trên các mỏm cao cây cối đổ gãy, cháy táp hết, đất đá bị cày xới lên cồn cồn. Thế nhưng Quân giải phóng vẫn bám sát chúng.

Những loạt pháo cối đột ngột và rất mạnh đổ sập xuống làm cho tất cả bọn chúng gần như không kịp trở tay. Vừa nghe rầm rầm đã thấy đất trời đỏ rực. Tất cả bị hất tung lên hoặc bị tống chết gí dưới những hầm hố đã nát bét. Rồi còn trong chớp mắt, không sao mà tưởng tượng được nổi, đã nghe thấy tiếng thét xung phong của bộ binh Quân giải phóng. Từ hai, không, từ ba phía cùng tiến lên thì phải.

“Một thế đánh chết tươi"! Tất cả những tên lính, những tên sĩ quan dù 33 còn sống sót chỉ còn biết gào lên một tiếng rồi phóng bừa xuống chân đồi. Lăn bon bon. Đè lên nhau. Đạp lên nhau. Trườn qua nhau. Qua những cái xác loang lổ còn nóng hổi, đẫm máu. Đâm vào bụi. Lao xuống suối. Tràn qua rồi! Tràn qua rồi? Đã có những tên tự động quỳ xuống, giơ hai tay lên... Một hầm đại liên nào đó còn ngoan cố, hoặc mấy thằng lính ở đó đã hóa rồ còn cố bắn ra. Một trái lựu đạn đáp rất trúng. Khẩu súng Mỹ, nòng cong veo đè lên giữa ngực tên xạ thu ngụy, mặt nó đã nát như một đống thịt tươi bèo nhèo, nhầy nhớt...

“Tràn qua rồi! Tràn qua rồi!". Chiếc OV.10 vẫn còn cố bay lượn è è, nghiêng ngó. Nhưng những làn đạn đã quất lên tới tấp như những bó lửa. "Tăng-gô Sác-li! Tăng-gô Sác-li! Tràn qua rồi! Chỉ còn thấy khói và một vài đám lửa nhỏ. Cộng sản đang ở ngay giữa đinh đồi bắn lên chúng tôi. Phải! Không còn nghi ngờ gì nữa! Chỉ còn có khói. Khói lúc này càng nhiều, nhiều lắm. Sao? Căn cứ 30 cũng đang bị pháo kích mạnh, chúng tôi cần tới đó sao? Rồi. Rồi. Chúng tôi sẽ trực tiếp liên lạc với ông Thạch? Chúng tôi đi đây! Gút bai".
*
*   *
Cái ngày hôm ấy là ngày gì mà ghê gớm làm vậy? Coi như toàn lữ đã bị pháo kích đồng loạt và riêng đại đội dù 32 đã bị thiệt hại nặng vì bộ binh Quân giải phóng. Thế là cuộc chiến đấu mà người ta đã phỏng đoán đã hồi hộp chờ đợi từ mấy hôm nay coi như chính thức được mở màn ở đây. (Lẽ dĩ nhiên, với liên đoàn biệt động ở Cha Ki, La Tương, với bọn thiết giáp và lữ dù 1 trên đường 9 thì cuộc thử lửa đã bắt đầu ngay từ những giờ phút đầu tiên).

Quả là "chúa đã ban phước lành" cho lữ dù 3. Dầu sao nó ra quân thế là may mắn nhất. Cho tới hôm nay 11-2-1971 nó mới chịu những thất thiệt đáng kề đầu tiên. Nhưng dầu sao tất cả mọi chuyện ấy. Pháo kích. tập kích... bộ chỉ huy lữ dù 3 cũng đã đoán biết trước là thế nào cũng sẽ đến. Chỉ có một điều đáng gọi là bất ngờ hơn cả: ấy là chính căn cứ cũng đã bị pháo kích, nhưng lại bị pháo kích bởi những trận địa trọng pháo cỡ lớn, tầm xa, vượt hẳn tất cả các cỡ pháo của lữ đoàn Sài Gòn.

Với kinh nghiệm nghề nghiệp, chỉ vừa nghe reo réo rồi gầm lên một vài quả, rung chuyển ở sườn đồi là bọn Châu, Phương chỉ huy tiểu đoàn pháo đã có thể biết đó là loại pháo nào. “đối phương có pháo cỡ lớn!". Bọn y la lên sửng sốt. Vốn ỷ vào phi pháo, giờ đây thấy pháo của chúng đã không có lợi thế, lại kém hẳn về tầm cỡ, bọn y không sao tự trấn tĩnh nổi nữa.

Phản pháo đi! Phản pháo đi.

Các ông tham mưu! Các ông điên rồi sao? Chúng tôi làm sao mà phản pháo được? Chúng tôi có nghe thấy tiếng nòng đâu! Mà xác định vu vơ phương hướng, bắn đại đi cũng không sao tới được.

- Phản pháo đi ? Các ông chịu khoanh tay sao?

- Không khoanh tay, cũng không làm gì được. Đó! Đó! Lại bắn đó! Chúng tôi đã nài nì xin các ông thêm vỉ sắt, thêm gỗ! Các ông đâu có cho! Giờ thì...

"Rầm! Rầm! Rầm!". Ngọn đồi như co rúm lại trong một nỗi sợ hãi và bất lực. Những quả cầu lửa ngoằng lên. Những tiếng nổ choáng óc, dậy đất, làm cho tất cả các hầm hố như bật tung hết cả nắp và các vách đất dường như bị nén ép lại mỗi lúc một co hẹp thêm. Đã có một số ụ súng của tuyến bộ binh bị giã nát và một khẩu pháo bị phá hỏng. Thêm một kho dầu xăng và dầu nhớt trúng đạn.

Hiền, tham mưu trưởng, cố lấy hết can đảm nhô đầu ra khỏi cửa hầm nhìn lên. Lửa đang ngùn ngụt đỏ rực cả một góc đồi. Khói đùn lên rất nhanh. Khói xăng màu trắng xám lạnh lẽo càng cuồn cuộn lên cao càng tụ tròn và to phình ra, y như một cái nấm mây nguyên tử nho nhỏ: nom buồn bã và ghê rợn lạ lùng.

“Rầm!". Lại những phát súng lớn nữa. Tuy nhiên, rõ ràng Quân giải phóng chưa nã dồn dập mà đang thử súng, hoặc còn muốn thủng thỉnh kéo dài lối bắn phá dai dẳng không quy luật vô cùng căng thẳng này.

"Rầm!” Những ngọn đèn đỏ úa trong căn hầm chỉ huy lữ đoàn rung lên rồi tắt phụt. Máy nổ trúng đạn rồi? Căn hầm cũng chao đi một cái khá mạnh, đất bụi từ trên nóc trào xuống như mưa, đầy trên đầu trên cổ lũ sĩ quan đang co rúm cả lại với nhau dưới chân các bao cát.

“Rầm! Rầm!" Thế là tất cả những cái gì còn hồ nghi nay đã rõ là có thực hết, thậm chí còn lớn hơn, đáng sợ và bất ngờ hơn tất cả sự hồ nghi nữa. Trong bóng tối mù mịt bụi đất, Thọ vuốt mặt, lui trở vào ngăn phía trong. Lòng y lại quặn lên một nỗi đắng cay chua chát. Phải! Giá như bọn Mỹ và lũ thượng cấp cứ nói thẳng từ trước tất cả mọi việc, thì dẫu có lâm vào cảnh này hoặc hơn thế nữa, cũng coi như việc nó tất phải thế, có chết cũng đành một chuyện! Nhưng, một là họ đã vì cuồng vọng mà lừa dối, hai là họ đã chủ quan đến mức hóa ra ngu dại mà ném quân vào nơi đây mà không biết gì hết.

Vì vậy, cuối cùng, tất cả những gì ghê gớm xảy ra, bọn Thọ phải gánh lấy hết, chịu đựng hết. Y như bị bịt mắt mà ném cho voi dày vậy. Còn họ, họ đang làm những gì ở Sài Gòn, Khe Sanh, Đông Hà? Phải chăng họ đang thi nhau hò hét “Tiến triển! Tiến triển!" và "Tốt đẹp! Tốt đẹp!”?

Thoắt bỗng nhớ lại một bữa nào đó, đã lâu rồi mở nghe lén đài Hà Nội một lúc. Một bài bình luận nào đó tố cáo rằng đại sứ Hoa Kỳ Bân-cơ đã tuyên bố: cuộc Việt Nam hóa chiến tranh chỉ là một sự đổi màu da trên xác chết. Bữa ấy, quả thật không sao tin, cho rằng đó là thủ pháp tuyên truyền. Nhưng bữa nay, ừ, sao lại bỗng liên tưởng tới chuyện ấy? Kỳ quá! Nếu quả đúng như vậy thì... Trời! Ghê tởm! Dã man! khủng khiếp quá.

Nhưng rồi Thọ lại quay trở ra căn hầm hành quân. Dẫu sao y vẫn phải gắng, phải hành động, mặc cho tình thế có biến chuyển xấu đi tới chừng nào. Lấy lại vẻ mặt cứng rắn, nghiêm nghị với đôi mắt trừng trừng mở xệch cùng đôi lông mày rậm. Thọ ra lệnh cho Hiền, Đức bảo Phát điều ngay đại đội 31 lui xa con đường và cho đại đội 33 từ đồi không tên trở về căn cứ và lấy đại đội 34 từ căn cứ tung ra, cho đi về hướng đông không cần tới đồi không tên nữa.

- Ủa, thưa đại tá, ta bỏ đồi không tên sao được?

- Tôi đã có ý của tôi

- ???

- Lệnh cho ông Phước đưa tiểu đoàn 6 vô chiếm giữ đồi không tên ngay ngày mai! Hãy tổ chức phi cơ, hỏa lực bắn dọn bãi cho nó cho tốt, nghe

- Thưa cần phải báo cáo sư đoàn chứ'?

- Rồi! Một mặt báo cáo, một mặt cứ lệnh cho tiểu đoàn 6.

- Thưa, nếu sư đoàn không đồng ý...

- Thi hành lịnh tôi! Tôi có toàn quyền xử trí ở đây. Nếu bữa nay tôi còn hy vọng giữ cái tiểu đoàn dù 6 để lập cái 32 thì tôi là một thằng ngu, vứt lon đi mà làm lính! Các ông hiểu chưa?

6

Từ nửa đêm hôm đó, lính quân cảnh Mỹ, lính thiết giáp Mỹ đã rầm rộ tới bủa vây bốn chung quanh sân bay Đông Hà. Rồi khi mặt trời chưa dựng dậy khỏi đường chân trời ngoài biển Đông, từng tốp máy bay Mỹ đã ầm ầm kéo tới ném bom, bắn phá dồn dập, liên tục hai giờ đồng hồ liền ở khắp các vùng chung quanh sân bay.

Sau đó, khoảng chín giờ thì cái sự việc mà bọn Mỹ ráo riết chuẩn bị diễn ra. Chiếc máy bay chở tên Tổng thống Việt gian Nguyễn Văn Thiệu cùng lũ tướng lĩnh tay chân: Cao Văn Viên, Nguyễn Văn Vỹ từ từ đáp xuống.

Thiệu hấp tấp từ cửa máy bay chui ra. Đã nom rõ bộ mặt nhẵn thín với đôi mắt gian hùng: tàn nhẫn của y. Cố giấu vẻ ưu tư, y mỉm một nụ cười, lễ phép bắt tay lũ tướng lĩnh cao cấp Mỹ đứng đợi sẵn bên đường băng. Sau đó, hếch cao mặt lên, y đi lướt qua lũ tướng lĩnh ngụy. Bọn này đang cố tỏ vẻ hăng hái, trung thành. Thiệu dừng ở trước mặt Lãm lâu hơn cả và cũng dành cho y một cái bắt lay lâu hơn cả, mục đích để tế nhị bày tỏ sự an ủi của nó đối với tên tướng ba sao "ba phải" này. Bộ mặt đần độn của Lãm cứng lại trong một niềm hân hoan cảm động.

Nhưng trong lúc ấy, ở phía xa, một lũ sĩ quan cấp tá và cấp úy không được "hân hạnh" trực tiếp đón tổng Thiệu đang đứng túm tụm sau mấy cỗ pháo lớn, đốt thuốc lá, tán chuyện. Một tên để bộ ria đen như kiểu Nguyễn Cao Kỳ, nhếch miệng để lộ ra mấy chiếc răng vàng:

- Ông ra để hà hơi cho quân sĩ đó! Hừm, cái ông đầu dẻo!

Mấy tên khác đứng bên cũng bật cười xòa: Đầu dẻo là biệt hiệu mà một số sĩ quan Sài Gòn đã bí mật đặt cho Thiệu. Bởi theo con mắt họ: Thiệu là một tên gian ác và bất tài đã đành, nhưng lại còn có thói cơ hội rất bỉ ổi, không chống bất cứ kẻ nào hết: kể cả Diệm, cả Minh, cả Khánh. Nếu có lúc nào đó y làm ra vẻ chống tên này tên khác cũng chỉ là để buôn bán chính trị. Có vậy thôi. Chính vì giỏi buôn bán chính trị và nhất là được Mỹ tin dùng, nén Thiệu đã lần lần chớp được cái ghế tổng thống. "Cái đầu ông dẻo dữ đa” Cái đầu c... của tao còn kém dẻo đầu ổng, mấy cha." Nhiều tên sĩ quan trong lúc rượu vào đã thốt lên như vậy, một cách khoái trí, không cần giấu giếm.
Thiệu đi lướt qua đám sĩ quan ngụy rất nhanh rồi chui tụt vào một chiếc xe bọc thép Mỹ. Đoàn thiết giáp ầm ầm nổ máy áp tải cái "ông đầu dẻo" ấy tới mọt căn cứ Mỹ ở gần đó nay trương bảng: doanh trại của ngụy, để mật hội với các tướng lĩnh Mỹ.

Các phóng viên báo chí Tây Âu đã đón từ mờ sáng, mệt phờ râu,lúc này đều bị gạt lại hết. Tiếng la phản đối nổi lên om sòm. Nhưng mặc,không một ai được theo chân Thiệu. Cũng không ai được thông báo về nội dung cuộc mật hội giữa Thiệu với Mỹ.

Hồi lâu sau, các phóng viên mới được gọi tới để chụp ảnh. Thiệu từ trong một căn nhà gỗ lom khom bước ra đi sau một tên tướng Mỹ. Tên Mỹ cau có, mặt đỏ gắt. Mặt Thiệu tái đi,khác hẳn lúc xuống sân bay. Lũ Viên, Vỹ, Lãm... lục tục ra sau, buồn rười rượi.

Lập tức các phóng viên ùa tới. Hàng trăm câu hỏi tuôn ra như mưa. Nhưng cuối cùng Thiệu chỉ tuyên bố vắn tắt:

- Không có chuyện sa lầy ở đâu hết! Chúng tôi sẽ tiếp tục tiến.

Rồi y bước nhanh tới bên một ụ súng Mỹ. Một tên sĩ quan hầu cận nhanh nhảu đặt luôn vào tay Thiệu một chiếc ống nhòm, rồi một một chiếc mũ quân sự bằng vải mềm đội lên đầu.

- Xong rồi Nào! Tuyệt lắm! Tổng thống Thiệu đang thị sát chiến trường Nam Lào tại một tiền đồn ở ngay mặt trận! Tuyệt! Tuyệt!

- Ô kê! Xin cho kiểu nữa! Ô-kê! Cám ơn! Cám ơn! Tổng thống sẽ rất hài lòng vì tấm ảnh này!

Rồi những tiếng cười phá lên nhộn nhạo. Trong lúc các nhà báo đang huyên náo, cao hứng trước cái trò chụp ảnh ít thấy ấy, Thiệu đã theo chân lũ Mỹ rút nhanh ra ngoài và lại chui tụt vào chiếc xe bọc thép. Chỉ còn lại tên Lãm. Y nhăn nhó những chỉ muốn chuồn, nhưng chưa tài nào chuồn nổi.

- Thưa ngài, ngài cho biết ngài có thể cưỡi một chiếc máy bay trực thăng sang Lào thị sát tình hình lúc này được không?

Lãm bực dọc:

- Ông nói điều chi lạ vậy? Tôi? Tôi ấy ư? Sao tôi lại phải làm việc ấy?

Một phóng viên Tây Âu khác. vẻ mặt hóm hỉnh hơn:

- Thưa ngài, tôi muốn ngài cho biết tại sao ngài chỉ dùng toàn người Mỹ lái trực thăng cho ngài mà không chịu để người Việt lái

Lãm lắc đầu:

- Ồ! Tôi dại gì? Tướng Đỗ Cao Trí, vừa có tin hôm qua, chết, tôi cho rằng cũng chỉ vì ông ta không để cho người Mỹ lái!

Cả đám phóng viên cười ồ:

- Vậy ngài hoàn toàn chỉ đi theo tay lái của người Mỹ, có phải không?

Lãm bối rối: 

- Tất nhiên! Tất nhiên!

Đám đông lại cười bò. Biết bị xỏ, Lãm cáu kỉnh khoát mạnh tay nói to:

- Thôi! Chấm dứt phỏng vấn. Tôi tuyên bố cho các ông biết một tin quan trọng: Người Mỹ đã hứa sẽ dốc hết sức hơn nữa để yểm trợ cho cuộc hành quân này. Mấy bữa qua binh đội chúng tôi tiến có chậm, vì thời tiết quá xấu. Nhưng hôm nay tốt trời rồi, các máy bay Mỹ sẽ được tung đại bộ phận sang Ai Lao, và chúng tôi sẽ tiếp tục tiến...

14-2-1971! Sáng sớm hôm ấy, trên các trang đầu của nhiều báo chí Sài Gòn nổi bật lên những dòng chữ lớn:

13-2-1971. Thời tiết tốt. Máy bay Mỹ đã bay rợp trời..." Nhưng, 14-2-1971, cũng là ngày mà một số tờ báo khác ở Sài Gòn và nhiều tờ báo phương Tây lại đăng tiếp cả những tin khác nữa: "13-2-1971 các hỏa lực phòng không của Cộng sản đã tỏ ra vô cùng lãnh liệt đến nỗi các phi công Mỹ đều hoảng cả lên. Có người đã cho mật độ súng phòng không ở đây dày đặc hơn cả những vùng đã được tổ chức phòng không dày đặc nhất trong thế chiến thứ hai.."

Thêm nữa: 13-2-1971, cũng là ngày mà ở cánh bắc của quân đoàn Sài Gòn do Mỹ chỉ huy, một tin dữ đã được loan báo về: tiểu đoàn biệt động mang số hiệu 21 đã bị một lực lượng không lớn hơn nó nhưng rất mạnh của Quân giải phóng đánh quỵ hoàn toàn!

Và ngày 13! Vẫn cái ngày 13 đen tối ấy (con số 13 có lẽ xấu thật chăng?)! Tin về tiểu đoàn 21 chưa qua, tin dữ khác đã tới, như sét đánh ngang đầu: tiểu đoàn dù 6 mới được đưa vào đồi không tên cũng đã bị tấn công tiêu diệt, chỉ có một dúm chạy thoát về căn cứ 31.

Đúng như một cái tát choáng người đập mạnh vào mặt bọn Mỹ và lũ Thiệu, Viên, Lãm. Tất cả mọi việc thảm hại ấy đã khéo đùng đùng cùng xảy ra như cơn bão đằng đông, cơn bão đằng tây cùng ập tới một lúc, làm cho trời đất tối tăm lộn nhào hết.

Ngày 13 tháng 2 năm 1971!

… Khi vừa nhảy xuống khu đồi không tên, tên trung tá Phước với bộ mặt sắt đen sì chỉ đưa mắt nhìn qua địa hình chung quanh, cùng dấu vết trận Quân giải phóng đánh bại bọn đại đội dù số 33 bữa trước, đã có thể biết rằng: đây là nơi mà bọn y rất cần phải chiếm giữ, nhưng đồng thời cũng là nơi mà đối phương rất cần phải làm chủ để có thể tiến vào tấn công căn cứ 31 nếu họ muốn!

Dầu đã lăn lộn nhiều phen trên các chiến trường, mắt đã nom thấy bao cảnh thịt nát xương tan của binh lính cấp dưới, nhưng lúc này tên Phước cũng không thể không thừa nhận trong lòng y thoáng gợn lên một cái gì đó rờn rợn.

Và, quả nhiên, y không phải chờ lâu. Ngay sau khi toàn tiểu đoàn của y cùng pháo đội 105 kiểu mới nhất vừa đổ hết, thì những trận mưa thép đã xối xả chụp xuống đầu bọn y, mặc dầu trước đó B.52 đã "rải thảm” ở vòng ngoài khá cẩn thận, rồi các máy bay phản lực Mỹ đã tới ném đủ các loại bom cắt, bom đào, bom hơi, bom cháy, và rất nhiều bom bi... đến nỗi tưởng rằng nếu có một con dế nào đó ở quanh ngọn đồi này thì cũng có thể có một viên bom bi trong mình nó.

Vậy mà họ - Quàn giải phóng - vẫn cứ bám được quanh đây và đã tiến vào mở đợt công kích chớp nhoáng khủng khiếp này... những tên lính dù tiểu đoàn 6 còn đầy đủ súng đạn, sức khoẻ còn hoàn toàn tốt. Nhưng tất cả đều tan rã rất nhanh. Tan vụn ra như những chiếc ván mục khi bị những thanh thép cứng lao thẳng tới. Pháo, cối Giải phóng đã đánh cho chúng nhừ tử rồi, thì những phân đội xung kích xông lên, như những thiên thần lia những lưỡi gươm sáng lòa chém xuống.

Tên Phước chỉ còn kịp hét lên một tiếng trong máy:

- Ô vơ ren (Bị tràn ngập.)!

Thì một loạt tiểu liên đã nổ chiu chíu ở gần sát mang tai hắn. Phước tối tăm cá mặt mũi, chỉ còn biết ôm chặt lấy đầu lăn tròn, rơi xuống sườn dốc bên kia. Y không còn trông, không còn nghe thấy gì hết nữa. Chỉ còn thấy như sấm rền, như trời long, núi lở, khắp bốn chung quanh và loang loáng ánh lửa. Ngọn đồi không tên đã đẫm máu, phủ đầy xác lính dù. Ngọn đồi không tên, từ giây phút ấy đã có một tên mới: Đồi chôn vùi tiểu đoàn dù 6.

… Trên điểm cao 456: mặt đất còn đang như run lên, thì một bóng người lao xộc vào trong hầm chỉ huy lữ đoàn: Tên trung tá Phước. Tơi tả, lử lả, mặt đầy thuốc súng và máu, hai bàn tay đầy đất, bùn, y lảo đảo bước vào giữa đám sĩ quan tham mưu đã đứng cả dậy, trố mặt nhìn ra. Gần như không thể nhận ra tên Phước, cái tên vẫn luôn luôn tạo cho mình một vẻ "yêng hùng sắt đá" xưa kia nữa. Một cái "thân tàn ma dại": quần áo rách bươm. đầu không mũ, hông không súng, mắt dại đờ gần như mất hết tinh lạc, y run rẩy ngồi xuống một chiếc ghế trước mặt bộ tham mưu lữ đoàn:

- Thưa, tan nát hết ... Dạ. tan nát hết! ... Chỉ còn vài chục tên... Dạ, đã tập hợp được ... dưới khu hầm tản thương ở chân đồi này... Dạ? Bất ngờ? Hoàn toàn? Hoàn toàn! Và... mau lẹ, khủng khiếp quá. Tôi đã ước chừng... nếu họ có di chuyển tới được... ít nhất cũng sau... năm, sáu giờ... Dạ, hướng tấn công cũng không như ta dự đoán... Thế là tan hết cả! Dạ? Tan nát cả! Những thằng lính can trường nhất của tôi xưa nay đều... Dạ! Bỏ chạy ngay từ lúc vừa nhìn thấy bộ binh đối phương... Cũng không thể ngờ! Dạ! Không thể ngờ như vậy, lính của tôi đã khiếp sợ đến mức ấy. Dạ? Cũng có lẽ vậy!. Dạ! Phải! Cái lối đánh cắt ra từng mảng ấy... Dạ! Dạ! ... Cũng phải thừa nhận lính họ dẻo dai, đặc biệt và can trường quá xá! ... Và họ... phối hiệp với pháo binh cũng giỏi lắm, tốt lắm? Dạ! Thế là hết! Thế là hết! Trời! Đầu óc tôi! Tôi ư. Giờ tôi... chỉ còn có muốn chết!

- Thôi được! Ông trung tá à! Tôi sẽ xin sư đoàn cho bốc các ông trở ra Hàm Nghi luôn ngày mai! Dầu sao ông hãy nằm nghỉ, nghỉ đi chút đã, và bình tâm lại!

Ngày mai? - Như một bầy ngợm chứ không ra người nữa, lũ tàn binh tiểu đoàn dù 6 ngồi nhồi nhét nhau trong những hầm trú ẩn ở ven bãi trực thăng, hồi hộp chờ đợi. Tất cả đều đã mất hết mũ sắt, mũ vải, súng đạn, ba- lô. Tất cả đều rách rưới, lấm láp, hốc hác một cách kinh khủng. Tất cả đều nhợt nhạt, đờ đẫn như những xác chết. Đái ỉa cả ra hầm. Đái ỉa cả ra quần. Hôi thối nồng nặc. Máu me tanh tưởi ...

Nhưng một giờ, rồi hai giờ... đã trôi qua. Tiếng súng phòng không Giải phóng vẫn nổ như rang ngô trên bầu trời mù xám phía xa. Trực thăng Mỹ vẫn chưa vào được. Một tên nào đó chừng đã nóng ruột quá hét lên, rồi chửi tràn. Y chửi Mỹ. Chửi Thiệu, Kỳ, Khiêm. Chửi Lãm... Chửi tất, không trừ một tên đầu sỏ nào mà y biết. "Bắn choa đi? Bắn choa đi! Chết ngay đi cho nó rồi!" Một tên nào khác bỗng bật khóc hồ hộ rồi gọi tên những đứa con nhỏ của y một cách thảm thiết. Một tên khác lầm rầm cầu kinh kêu gọi đến lòng lành của Chúa...

Những quả trọng pháo tầm xa, những loạt cối nhỏ nhưng vô cùng chính xác của Quân giải phóng vẫn chốc chốc xả tới, nổ rầm rầm trên đỉnh đồi, hoặc sườn bên này, sườn bên nọ. "Em mơ! " "Em mơ" (Mật danh của Mỹ-ngụy dùng để gọi OV.10.) sao chưa thấy tới? Sao lâu dữ vậy? Chiếc OV-10 vẫn bay è è kiên nhẫn và bất lực ở trên cao tít. "L.J. (Bãi thả quân, đỗ trực thăng.)! Trực thăng đang vấp phải rất nhiều trận địa phòng không. Thất thiệt khá nhiều... Hãy rán đợi! Rán đợi!" .

Rán đợi? Thế rồi cuối cùng trực thăng Mỹ cũng đã bay tới. Chúng cũng hốt hoảng, cũng tả tơi không kém lũ lính ngụy dưới mặt đất mấy tí. Nhưng chỉ có ba chiếc, còn bao nhiêu đã rơi rải rác ở suốt dọc đường bay. Tất cả lũ lính ngụy dưới ngọn đồi 456 đều kinh hoảng, kêu trời lên vì thấy số máy bay quá ít ỏi ấy.

- L.J. Chuẩn bị! Chúng tôi lần lượt xuống đây! Một phút một chiếc! Không thể đỗ lâu được, e sẽ bị pháo kích!

Những tên sĩ quan đứng vụt dậy. Nhưng chúng chưa kịp ra lệnh, tất cả đám tàn binh cũng đã ùa ra một loạt

Chiếc trực thăng đầu tiên từ từ đáp xuống. Cánh quạt vẫn tiếp tục quay tròn. Bụi mù. Gió thốc mạnh. Cửa máy bay bắt đầu mở, hai thằng Mỹ có nhiệm vụ giữ súng máy và coi việc lên xuống thò đầu ra. Lập tức, cả bầy tàn binh ngụy cùng đổ xô tới như điên như cuồng. Những tên sĩ quan thét lên. Nhưng mặc! Không còn ai nghe nữa! Cùng gào lên. Cùng thét lên. Đạp lên nhau, xéo lên nhau, giày lên đầu, lên mặt nhau. Đâm nhau. Xô đẩy nhau mà lao bừa lên máy bay. Hai thằng Mỹ ra sức đẩy ra sức đạp. Rồi chúng dùng cả báng súng đập nát những bàn tay bám vào cửa máy bay, đập gục cả những cái đầu quấn đầy băng, loang lổ máu đang cố nhoi lên, húc lên. Tiếng rú mỗi lúc một thêm man rợ...

- Cất cánh mau! Tên sĩ quan Mỹ hoảng hốt ra lệnh cho tên Mỹ lái.

Chiếc trực thăng gầm to, bốc mạnh lên cao. Gió quạt bay tung từng túm, từng đám lính dù còn đang cố bám ở chung quanh. Bụi lại mù trời. Rồi chiếc trực thăng đã thoắt, bay bổng hẳn lên cao. Nhưng kìa có ba tên lính dù vân còn cố bám lấy càng máy bay. Chúng đang co rúm cả người lại. Chúng đang run lên bần bật... Một trăm mét... Hai trăm mét... Tất cả lũ lính dù còn lại dưới mặt đất bỗng cùng kêu lên một tiếng rụng rời, ôm chặt lấy mặt. Ba tên lính dù đã đuối sức và bị gió mạnh dứt tung ra, cùng rơi xuống vun vút như ba chiếc bao cát.

Chiếc máy bay thứ hai hạ xuống. Thông thường, lần này người ta phải biết sợ hơn nhưng không! Lại xô nhau, lại giày đạp nhau, như một bầy thú vật đói khát tranh nhau lao tới một miếng mồi. Lại những tiếng rú man rợ. Lại những báng súng đập nát những bàn tay run bắn đang quờ quạng giơ lên cố bám vào máy bay. Lại những cái đạp làm ngã lộn những tên đã què cụt đang vừa khóc ròng vừa gào lên van xin được cứu vớt...

Chiếc thứ ba. Vẫn tiếp diễn cái cảnh hỗn loạn thê thảm ấy. Nhưng chiếc này không đi thoát nữa rồi. Mấy quả súng cối từ một trận địa nào đó không hiểu sao từ lúc nãy vẫn im tiếng lúc này mới đột ngột nổ vang. Cả chiếc trực thăng, cả lũ tàn binh ngụy đang bu đen bu đỏ, cắn xé nhau chung quanh cùng gần như tan vụn, tung hê lên cao trong một khối lửa đỏ khé.

Cùng lúc ấy, những khẩu pháo tầm xa của Quân giải phóng cũng gầm lên. Đặc biệt, khác hẳn mọi khi, lần này những trái đạn đã rơi rất trúng, rất chụm, tập trung cả vào mỏm cao phía bắc đỉnh đồi. Nơi ấy, những khẩu pháo 105 còn lại của bọn trung tá tiểu đoàn trưởng Châu, đại úy tiểu đoàn phó Phương vừa nã ra được vài phát về phía những trận địa cối Giải phóng mới xuất hiện.

Tên Đức bỗng nghe thấy từ đầu dây nói bên kia. Ở trận địa pháo, một giọng nói vô cùng hoảng hốt:

- Chết cha rồi! Tiền sát viên của trọng pháo đối phương đã vô bám sát được căn cứ. Các trận địa cối nhỏ cũng đã tràn vào bám đầy quanh đây. Bị bao vây rồi! Khó sống rồi!

7

Pháo thường bao giờ cũng hiểu pháo hơn ai hết. Bọn Châu, Phương đã không lầm khi phát hiện ra các trinh sát viên pháo của Quân giải phóng đã vào bám sát căn cứ cùng các trận địa cối, sau mấy ngày họ còn ở xa và bắn rải rác. Trinh sát viên pháo vào bám sát, có nghĩa là những con mắt của pháo binh Quân giải phóng đã nhòm thẳng được vào căn cứ, nhòm tới từng mục tiêu cụ thể và theo dõi, bám sát được tất cả mọi hoạt động ở đây, do đó họ không chỉ bắn diện nữa, mà đã bắn được cả điểm và có thể bắn rất kịp thời bất cứ lúc nào họ thấy cần bắn. Nói tóm lại, những quả đạn pháo ấy đã có "mắt".

Những quả trái pháo "có mắt" ấy giờ đây phối hợp với các loạt đạn cối cùng tạo nên một lưới lửa bao vây cực kỳ mạnh mẽ. Cối, sức công phá nhỏ nhưng lại “tỉa" rất ác, có thể "tỉa" tới từng hào giao thông, cửa hầm. Pháo lớn không "tỉa" được như cối nhưng sức công phá lại gấp bội. Chúng có thể đảm đương thay cối tiêu diệt những ụ pháo, hầm súng kiên cố nhất. Pháo và cối, hai loại đó đã bổ trợ lẫn cho nhau và do dó đã làm tăng hiệu lực của các trận pháo kích lên rất nhiều từ buổi chiều hôm ấy.

Và cũng từ buổi đó, một giai đoạn mới, giai đoạn thê thảm, đen tối nhất đã bắt đầu từ những cái bếp của lũ đại đội công vụ chăng? Mọi khi chúng vẫn còn liều mạng chui ra các hầm xa nấu cơm hoặc đun, nướng một vài thứ gì đó rồi đem vào hầm cho bộ chỉ huy và các tên sĩ quan khác. (Riêng lính tráng đã phải ăn đồ hộp, đồ khô từ hai bữa nay, không có ai thổi nấu cho chúng được như mấy bữa đầu tiên nữa). Nhưng bữa nay, khi chúng vừa nhen lửa, một làn khói mỏng manh vừa bay lên, lập tức mấy quả cối đã dập trúng. Hầm bếp tung lên. Mấy tên lính chết ngay tại chỗ. Rồi tiếp đó lũ pháo thủ vừa mới bị thúc ra định quay nòng pháo bắn trả, đã bị mấy quả đại bác tầm xa nện liền. Súng đổ chỏng càng. Xác lũ pháo thủ tung lên như những mảnh giẻ rách.

Một tên sĩ quan pháo binh cùng một tên sĩ quan quân y lấy hết tinh thần can đảm chạy phóng ra bãi trực thăng để nhận những hòm đạn và hòm thuốc mới được ném xuống thì lại mấy quả cối nữa nhanh như cắt quật ngã cả đôi ngay khi vừa mới tới bãi. Một chiếc trực thăng vừa sà xuống khu hầm thương binh theo lời khẩn khoản của bọn Phát ở tiểu đoàn dù 3, thì một loạt cối cũng đã đánh quỵ nó ngay tại chỗ. Mấy tên lái may sống sót, hú hồn hú vía chui tụt vào căn cứ, và từ đó mắc kẹt dưới cái địa ngục trần gian này cùng cái lũ gọi là Thiên thần mũ đỏ ấy không bao giờ trở về được nữa.

Rồi lần lượt, hệ thống máy nổ, điện đài bị phá hủy. Tất cả các xe kéo pháo cũng đã tan tành không còn sót một chiếc. Các bếp ăn tuyệt đối không có thể hoạt động trở lại được nữa. Nước cũng bắt đầu khan hiếm gay gắt: nguồn nước chính là con suối dưới chân đồi. Mấy ngày đầu tuy bị pháo kích nhưng hàng ngày bọn dù tiểu đoàn 3, bọn dù ở lữ bộ vẫn còn thừa những lúc yên tĩnh, lao xuống khiêng lên vài thùng để chia cho lính, cho sĩ quan rửa ráy, hoặc pha thuốc lọc đề uống dần. Nhưng tới nay, gần như không một tên nào dám xuống suối nữa. Xác lính dù bị bắn chết khi đi lấy nước đã rải thành một vệt dài từ trên đỉnh đồi xuống tới các bụi cây, bãi sỏi bên dưới. Tất cả nguồn nước giờ đây chỉ còn trông đợi ở những ống nước do những chiếc trực thăng bay lọt tới, ném xuống.

Việc ỉa đái nay cũng đã trở thành một công việc khá nguy hiểm. Từ các hầm trú ẩn, hầm chiến đấu đi tới các hầm vệ sinh đã phải đào giao thông hào. Nhưng đã nhiều lần chỉ thoáng thấy một chỏm mũ nhấp nhô, một loạt cối đã tức khắc quật tới. Có tên chết lăn ở giữa hào. Có tên chết gục ngay ở hầm nhà xí chưa kịp mặc quần.

Râu tóc đã đâm ra tua tủa. Những bộ mặt thiếu nước lâu không được rửa ráy nay đã bóng nhờn mồ hôi và nhớp nháp bụi đất. Những con mắt trở nên lờ đờ, đỏ kè như hoang dại.

“Rầm!" Lửa, khỏi lại trùm kín mặt đồi.

“Rầm!" Cái căn cứ hỏa lực mới hôm nào còn như một con ác thú khỏng lồ đứng nhe nanh múa vuốt dữ tợn nay đã nằm phủ phục xuống, chịu tất cả mọi đòn roi quất tới đến xẻ thịt, gãy xương, tháo máu. 

“Rầm! Rầm! Rầm!" Cái gì đó? Một tên pháo thủ nào đó vừa chạy vụt từ cái hầm đã sụt lở của nó sang một hầm khác ở gần đấy.

“Rầm! Rầm! Rầm!" Cái gì vậy? Một chiếc trực thăng vừa mới tới, sà xuống đáp mấy hòm thực phẩm và đạn dược, một chút nữa thì bốc cháy....

Rồi lại ắng đi. Sự im lặng vô cùng ghê rợn trên mặt đồi dường như đã chết giấc.

31 - Căn cứ hỏa lực 31! Giờ đây nó là như thế. Tuy nhiên đâu có phải riêng nó phải chịu số phận cay nghiệt ấy. Căn cứ 30 cũng đã tan hoang không kém. Ở đó tất cả bọn tiểu đoàn dù 2 khốn khổ cũng đã trở thành những con quỷ đói khát: mình đầy thương tích, đang chen chúc nhau, chồng chất lên nhau như bị chôn vùi trong những căn hầm sâu dưới lòng đất, tối tăm, ngột ngạt. “601! ông bỏ chết chúng tôi ở đây sao?" - "802! Chúng tôi biết làm gì hơn?” – “Lũ ăn hại! Các ông ngồi đó để làm gì? Kêu mãi, gào mãi rồi, vật liệu vẫn không hề đáp ứng. Kêu mãi, gào mãi rồi, máy bay, đại bác cũng không bao giờ có đủ! Các ông hứa láo! Hứa láo hết!" ...

Thọ nhăn mặt lại. Tên trung tá Phát cũng không thua kém tên Thạch trong việc gào thét, chửi rủa: "Các ông đem con bỏ chợ, hả? Các ông ném chúng tôi vào hỏa ngục thế này, để làm gì, để làm gì? Để làm gì. Bao lời hứa tốt dẹp của các ông đâu hết rồi?" Như có dao đâm, như có búa bổ. Nỗi căm giận cộng thêm niềm nhục nhã. Sự lo âu thắt ruột của cá nhân cộng thêm nỗi kinh hoàng tan rã của cả lũ thuộc hạ... tất cả những cái đó đã làm cho Thọ nhược ra rồi, nhược về thể xác đã đành, nhược cả về tinh thần, cái tinh thần mà y vẫn hằng tự tin từ bao lâu nay là dầu thân thể có bị gục ngã nhưng tinh thần của y sẽ không hề bao giờ lay chuyển. Và cuối cùng y chỉ còn biết trả lời cho tất cả bọn sĩ quan cấp dưới: "Hãy đi hỏi người Mỹ! Phải! Hãy để hỏi người Mỹ!" .

Các đại đội của tiểu đoàn dù 3 ở phía ngoài vẫn tiếp tục bị đánh, chạy xiên chạy quàng suốt ngày này qua ngày khác. Ở căn cứ, lính, sĩ quan bị thương vẫn tiếp tục cắn xé nhau dày đạp nhau để tranh lên từng chuyến máy bay nhỏ giọt. Và thảm thương hơn nữa: vẫn còn những tên lính ngu dại, điên rồ bám lấy càng máy bay mà chết.

Buổi trưa hôm ấy, một tin từ đại đội dù 3 đột ngột bay về: Bọn chúng gặp một đơn vị xe tăng của Quân giải phóng. Toàn thể bộ tham mưu lữ đoàn đều gần như rụng rời. Thật vậy chăng? Thật vậy chăng? Một lần nữa té ra những cái gì đã hồ nghi thì nay đều có thật hết!
Bọn đại đội dù 31 báo cáo khá tỉ mỉ: Chúng thấy có tiếng xe tăng ở một cánh rừng, sợ quá đã toan tháo chạy. Nhưng vẫn còn nghi hoặc, vì sư đoàn vẫn nói là chưa chắc đối phương đã có tăng ở mặt trận này, chúng bèn đánh liều cho lính bò tới xem sao; thì quả nhiên thấy những chiếc xe tăng cài lá bù xù đứng lù lù và những người lính xe tăng cầm tiểu liên, đội mũ da đang đứng gác...

- Báo ngay về sư đoàn: và khẩn cấp xin thêm ngay vật liệu củng cố hầm và vũ khí chống tăng.

Thọ ra lệnh cho lũ sĩ quan tham mưu. Nhưng lập tức lát sau Dư Quốc Đống đã điện tới gạt đi:

- Gà hóa cáo! Xe ủi làm đường đó! Bọn bay chớ có hù tao nghe? Mà vật liệu sư làm chi có nữa! Tất cả còn phải xin người Mỹ...

- Trời? Bạch Long, ông không tin sao? Chúng tôi cam đoan đó là tăng! Bằng bất cứ giá nào ông cần phải xin máy bay oanh tạc ngay, rồi cho thêm chúng tôi vật liệu, vũ khí...

- Nếu vậy đem cái đầu ra bảo đảm, nghe! Được! Sẽ xin máy bay Mỹ oanh tạc. Nhưng sau đó phải chụp ảnh gửi ngay về cho coi, xem đúng sai ra sao? Vũ khí sẽ gửi sau!

Và y lại cắt đứt luôn câu chuyện.

Xe tăng! Trong suốt mấy tiếng đồng hồ chờ tin của đại đội dù 31 báo tin về, hình ảnh những chiếc thiết giáp vẫn cứ ám ảnh tất cả bọn tham mưu lữ đoàn làm cho chúng đứng ngồi không sao yên nữa. Xe tăng! Bọn chúng đã quá hiểu uy lực của những chiếc thiết giáp như thế nào rồi! ở đây pháo cối đối phương đã quá trời thế này, nếu họ lại còn thêm xe tăng hỗ trợ cho bộ binh nữa thì có thể coi như... bài toán đã được giải rồi, số phận của chúng đã được định đoạt. Tuy nhiên, tên thiếu tá Đức sau một hồi ngồi co, bỗng cố lấy giọng đàn anh, nói với Trụ và bọn sĩ quan khác ngồi quanh: 

- Ồ, nhưng giả dụ nếu như có tăng thật, thì cũng chưa chắc chúng đã dám "xài" ở đây? Vì sẽ bị máy bay nghiền nát tức khắc

Một tên thật thà khẽ hỏi lại:

- Vậy họ sẽ "xài" ở đâu thiếu tá? 

Đức lúng túng:

- À à có thể chúng đưa vô sâu nữa, Tây Nguyên, Cam-bốt chẳng hạn.

Lời giải thích ấy không thỏa mãn lắm. Cả bọn lại càng bồn chồn, căng mắt, căng tai ra chờ đợi. Chiều rồi! Vẫn chưa thấy bọn đại đội dù 31 báo tin về. Thọ tập tễnh đi đi lại lại như một con gấu què sa bẫy. Chiếc OV10 đã báo: máy bay Mỹ đã tới bắn phá đúng khu vực nghi có tăng, và đánh phá liên tục, dữ dội một giờ liền. Rừng đã cháy như cả một biển lửa. Máy bay Mỹ đã quay về

Xẩm tối - Đó là căn cứ trên những chiếc đồng hồ mang theo, còn thật ra từ mấy bữa nay không dám ló đầu lên khỏi mặt đất, chúng đã mất hết cảm giác về thời gian rồi. Bấy giờ mới có điện của bọn đại đội 31. Tất cả lũ tham mưu cùng đổ xô cả lại. "... Hãy nghe đây! Sau khi máy bay Mỹ oanh kích, chúng tôi đã tiềm nhập ngay khu vực đó. Nhưng chỉ còn thấy vết xích xe. còn ngoài ra không thấy chi hết. Chúng đã biến đi đâu hết trọi! "

- Trời ơi! Thế là Đống lại được dịp chửi tao rồi!

Thọ muốn ngã ngửa người xuống chiếc ghế bố.

8

Lẽ có nhiên tên Đống lại được dịp chửi sướng miệng. Nhưng rồi sau đó y cũng vẫn phải xin máy bay Mỹ cố luồn lách qua các tuyến phòng không của Quân giải phóng sà tới căn cứ thả xuống một khẩu súng chống tăng không giật cỡ lớn cùng bốn tên pháo thủ. Bọn pháo thủ vừa chuồi ra khỏi máy bay, mặt vàng ra vì kinh hãi, chui tụt ngay vào một hầm súng gần nhất. Nhưng, chúng chưa kịp hoàn hồn thì một trái pháo tầm xa đã nện trúng cái hầm ấy. Một cột đất phụt tung lên cao cùng một khối lửa sáng. Khói tan ra. chỉ còn thấy một hố sâu, lổn nhổn xác người ở bên dưới.

Tên trung tá Phát cúi mặt, nhắm mắt lại. Cái gì đó đã tan ra trong lòng y giờ đây càng tan nhanh ra như bọt xà-phòng trên mặt nước. "Trò trẻ hết! Trò trẻ hết! Tất cả mọi cố gắng ở đây bây giờ đều chỉ càng thêm mỉa mai, đáng thương mà thôi! Một khẩu chống tăng! Bốn thằng pháo thủ! Đó! Người ta yểm trợ tối đa! Đó! Người ta đã lường tính chặt chẽ giùm từ trước mọi biến cố, mọi khó khăn lớn nhất sẽ xảy ra! Trò trẻ hết! Phải chăng bây giờ mới rõ: Tất cả những thằng lính Việt này chỉ là những con chuột bạch để làm vật thí nghiệm cho một cái trò mà người ta nói thật hay ho: Việt Nam hóa. Thí nghiệm ấy nếu có hỏng: thì chỉ có chuột chết. Bây giờ mới rõ: cái ông tổng thống Huê Kỳ dóc tổ là ở chỗ đó!...".

Những bọt xà-phòng tiếp lục tan ra. Nếu như từ ngày 15 tháng 2 năm 1971 pháo tầm xa đã cùng với cối các loại khép lại một vòng vây lửa từ xa vào gần thì từ ngày 20 vòng vây lửa ấy lại càng thít chặt thêm. Đó là từ ngày xuất hiện những khẩu súng không giật mạnh mẽ của Quân giải phóng. ĐKZ bắn gần được và chính xác như cối, nhưng uy lực sức công phá lại lớn hơn nhiều.

Như vậy, đã đến lúc xảy ra một tình hình như thế này: tất cả những ụ súng, hầm hố trú ẩn kiên cố nào trên căn cứ mà pháo tầm xa vẫn chưa nện trúng và cối tuy có nện trúng nhưng lại không đủ sức phá hủy thì nay đã có ĐKZ. Phát một, phát một, những khẩu súng đại bác không giật bắn thẳng ấy đã giã sụp hầu hết, gần như không còn một hầm hố nào "lọt lưới". (Riêng hầm chỉ huy lữ đoàn ở mặt phẳng giữa đỉnh đồi chỗ yên ngựa, lại làm chìm thật sâu xuống cho nên vẫn còn may mắn đứng vững. Tuy nhiên, nhiều lớp bao cát, vỉ sắt trên nóc hầm này cũng đã bị những quả ĐKZ rất dữ phóng sạt qua, phá bay tung từng mảng).

Những khẩu đội ĐKZ quá sức lợi hại ấy ở đâu? Rõ ràng ở ngay những mảnh rừng bên kia suối, bên các dãy đồi phía đông căn cứ. Có xa xôi gì đâu. Có gì khó biết đâu? Nhưng thật đáng sợ: không tài nào mà dập tắt được. Bộ tham mưu lữ đã rất nhiều lần xin máy bay Mỹ tới bắn phá. Từng trận mưa bom bi, hàng chục tấn bom phá trút xuống hai khu vực ấy: Rừng đã cháy đỏ hết. Đất đã bị bóc lên, cày lên từng vừng lớn. Nhưng kỳ lạ thay, lần nào cũng vậy, lũ máy bay vừa bay đi đã lại thấy ầm một tiếng. và lại một ổ súng máy, hoặc một hầm chứa lương thực ở căn cứ tung hê lên rồi...

Những khẩu súng ma quái. Không có cách gì mà dập tắt được! Hầm hố của họ kiên cố chăng? Họ có nhiều trận địa để di chuyển súng chăng? Hay là họ có phép "thăng thiên, độn thổ" như lão Tôn Hành Giả? Chịu chết! Đến điên đầu lên mất! Mỗi ngày tới trên trăm phát...

Cũng trong ngày ấy, bọn Thọ nhận được một tin choáng váng: tiếp sau tiểu đoàn biệt động số 21 bị diệt nay tiểu đoàn biệt động số 39, tiểu đoàn biệt động sừng sỏ nhất chiếm giữ điểm cao then chốt 500 ở cánh bắc cuộc hành quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Tiểu đoàn biệt động 39 bị tiêu diệt, đồi 500 bị mất như thế có nghĩa là toàn bộ lữ dù 3 đã bị hở sườn. Việc ấy cũng còn có nghĩa: Quân giải phóng Lào đã bắt đầu chọc thủng tuyến đầu của cánh bắc quân đoàn Sài Gòn để tiến vào triển khai binh lực, mở rộng thế bao vây lữ dù 3 nói riêng và quân đội Sài Gòn nói chung. Bọn Thọ đều bàng hoàng và coi đó là cái ngày đen tối nhất từ khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 triển khai.

Và cũng từ ngày ấy trở đi: mọi hoạt động trên mặt đất của căn cứ 31 đã coi như hoàn toàn chấm dứt. Trước đây, dầu sao lựa lúc pháo cối của Quân giải phóng ngắt, chúng vẫn còn có thể lao thật nhanh ra khỏi hầm hố lượm những ống nước do trực thăng ném xuống hoặc thu nhặt lũ lính bị thương để gọi máy bay liều sà xuống bốc đi. Giờ đây không một tên nào dám lên khỏi mặt đất nữa. Những ống nước lăn lóc khắp nơi. Những xác chết rải rác ở các hầm hố đã trương lên và có mùi hôi.

Những tên lính dù bị thương, bị vùi nằm ngắc ngoải chờ chết ở khắp các hầm hố không được đồng bọn đến cứu chữa nữa. Những cái chết ở đây đã trở nên không những khủng khiếp mà còn vô cùng thê thảm. Có những tên chỉ bị một vỉ sắt chẹn ngang cổ và đất cát đè chặt tay, nếu được bới, moi ra có thể coi như không bị thương tích gì hết. Nhưng giờ đây, chúng cứ đành nằm đó, khò khè, trợn mát, rồi chết dần, chết dần. Có những tên chỉ bị thương vào mắt nhưng không được một ai dìu đi, cứ thế mù lòa, máu me đầy mặt chạy quàng chạy xiên, chạy lao cả xuống bãi mìn ở hàng rào phòng thủ và biến mất trong những tiếng nổ dây chuyền.

Nhưng còn có cả những cái chết khủng khiếp khác: cái khát. Đã có những tên lính dù khát quá không chịu nổi nữa, lăn lộn cào cấu như điên trong các căn hàm đã sụt lở

- Đái! Đái đi cho tao! Đái! Đa a a ái! ...

Nhưng rồi nước đái cũng đã kiệt. Hút lấy máu từ vết thương. Nhưng máu mặn quá, tanh quá lại lè ra, rồi ngã gục.

- Má! Má ôi! Con chết! Con chê ê ê ết! Má ô ô ôi!

Và buổi sáng hôm đó... Kìa! Một tên nào kìa? Một bóng người bỗng vọt lên khỏi một miệng hầm thuộc tiểu đoàn 3. Y giơ hai tay lên trời nghều ngoáo, chới với, mắt dại đi như ma. Y vừa chạy vừa chới với vừa hú lên: "Ha! Ha! Thiên thán! Thiên thần mũ đỏ! ô-kê! ô-kê! Gút bai! Gút bai! ...". Y đã hóa điên rồi. Một tiếng hét thất thanh vọt ra từ một miệng hầm gần đó:

- Bắn! Bắn ngay! Kẻo lộ mục tiêu! 

“Pằng!" một phát súng sáu nổ giòn. Tên lính điên ưỡn ngửa người ra phía sau, hai tay vẫn còn cố chới với như muốn níu lấy vật gì đó vô hình trên không trung, rồi ngã vật nhưng nó vẫn còn giãy lên một cái nữa sau mới lả hẳn; nom xẹp đi như một quả bóng đã xì hết hơi. Cái xác chết nằm đó vàng ệch ra. Đúng là màu da không phải là của lính Mỹ rồi! Nó nằm đấy, hai con mắt vẫn còn mở ra nhìn lên ngơ ngác, như vẫn không hiểu tại sao nó lại chết, và chết vì ai ở đây mới được chứ? Đôi mắt ấy cứ mở như thế mãi? không một ai vuốt xuống, và cũng không một ai trả lời đầy đủ cho nó về tất cả những điều nó muốn hiểu. 

Ấy là một buổi sáng lấm tấm mưa bay vô cùng buồn bã, ghê rợn. Và, không phải chỉ có một tên lính dù ấy đã phát điên, như một bệnh truyền nhiễm, ngay sau đó mấy tên khác cũng đột ngột trở nên mất trí như vậy, định vùng ra, tháo chạy. Nhưng những tên sĩ quan chỉ huy trung đội, đại đội đã có kinh nghiệm hơn: "Tốt hơn hết, bắn bỏ chúng ngay tại hầm!" ...

9

Sân bay Khe Sanh. Trời hơi hửng nắng được một chút. Những chiếc máy bay lên thẳng đủ các cỡ, các loại đỗ như một bầy chuồn chuồn bay nhiều quá đã mỏi xã cánh, đậu không buồn cử động nữa. Khe Sanh là vùng đất đỏ. Gió thổi bụi bay lên suốt ngày. Không những thế, từng đàn, từng lũ máy bay Mỹ lại thốc gió liên tục hết ngày này qua ngày khác làm cho tất cả cây cối nhà cửa ở khắp cái căn cứ khổng lồ và cả cái sân bay dã chiến khá lớn này đều đã bị phủ một lượt bụi dày đỏ kè. Bụi không những bám trên cây cối, nhà cửa, bụi còn bám lên cả các máy bay. Những cánh trực thăng đều có một lượt bụi đã cứng lại như đất nung.

Lũ lái máy bay lên thẳng Mỹ có vũ trang chiến đấu, đang đứa nằm, đứa ngồi ngả ngốn, bơ phờ, lo lắng trên một bãi cỏ. Một toán phóng viên Tây Âu bu quanh đám giặc lái ấy như đang tranh nhau làm thịt chúng. Máy ảnh chớp lia lịa. Máy ghi âm quay hối hả. Những ống thu tiếng, cần dài, cần ngắn tua tủa gí vào, đâm thẳng vào tận miệng những tên giặc lái Mỹ. Những tên này, mặt chảy dài, nhăn nhó, khó chịu và bực tức, nhưng cũng rõ ràng chúng hoàn toàn bất lực.

Tên trung tá Rô-bớt Mô-li-nen-li chỉ huy chi đoàn 2 trung đoàn kỵ binh bay số 17 có cặp mắt xanh vô cùng buồn bã. Y nói bằng một giọng của một kẻ đang muốn tự tử.

- … Chi đoàn chúng tôi toàn là những tay lái trẻ sừng sỏ ngổ ngáo đã nối tiếng. Những chiếc Cô-bra vũ trang của chúng tôi cũng thuộc loại hiện đại nổi tiếng. Nhưng từ mấy tuần nay các phi công của chúng tôi đã cùng các chi đoàn khác phải xông pha trong lửa đạn, trong lưới lửa phòng không dày đặc nhất trong lịch sử chiến tranh ở Đông Dương. Có phi công một ngày đã bị bắn rơi hai lần. Chúng tôi cũng đã nhìn thấy xe tăng của đối phương, và rất nhiều trận địa phòng không. Chúng tôi không ngờ họ bố trí thông minh và chặt chẽ đến như vậy!... Các ông có biết không, chỉ riêng trong một trận ở nam đường 9, có 60 chiếc trực thăng thì 30 chiếc đã bị bắn rơi... Chúng tôi còn biết nói thêm gì nữa với các ông về cuộc chiến tranh, khủng khiếp này... .

Ha-ri A-đam, một hạ sĩ, mặt tái xanh, môi khô trắng nói như một người đang ốm đau:

- Tôi ấy ư, tôi chỉ có một tham vọng rất nhỏ bé: Tôi muốn sống sót. Tôi quá... ngán! Quá ngán tất cả rồi!

Một tên chuẩn úy đang ngồi hút thuốc lá, quay mặt đi vẻ khinh khỉnh bất cần đời bỗng quay lại, nói to:

- Ồ! Vậy sao mày không nói trắng ra là mày đã quá sợ! Và tất cả chúng ta đã quá sợ! Cần gì phải giấu giếm điều ấy? Mày hãy nói cho các ông ấy biết đi! Bọn ta vừa có một danh từ mới: Câu lạc bộ 180 độ. Có nghĩa là: Chạy! Vâng, thưa các ông, hễ thấy hỏa lực phòng không của quân Cộng sản bây giờ là chúng tôi quay 180 độ, chạy thôi. Đó là thái độ ... biết điều nhất!

Một tên thiếu úy đeo kính trắng tròn xoe, phảng phất một sinh viên y khoa. Y có nụ cười hơi meo méo làm cho cái mặt y thật tội nghiệp.

- Thưa các ông, chúng tôi bay cũng đã khá cao nhưng dưới 30.000 phút (Thước Anh.) (10.000 mét) thì vẫn không có gì báo đảm an toàn. Họ có súng tốt và bắn giỏi lắm...

Tên chuẩn úy Nô-rít. tán thành ý kiến ấy:

- Tôi có thể nói để các ông biết: ở đây nếu bay thấp là toi mạng ngay. Nếu thấp nữa, họ có thể dùng cả AK.47 bắn rụng một cánh khá chắc chắn. Nhưng bay cao, thì họ đã có cả cao xạ cỡ khá lớn. Vậy thì xuống đất! Nhưng xuống đất thì họ đã có B.40 và súng cối. Nói tóm lại: đằng nào cũng chết!

Câu nói ấy làm cho cả bọn giặc lái cùng bật cười ồ. Tiếng cười đầy sự đổng tình.

Tên trung tá Mô-li-nen-li tiếp:

- Có thể nói chiến thuật trực thăng ở đây đã không ăn rồi! Hoặc, nói thẳng ra: cuộc chiến tranh bằng máy bay trực thăng chở các cố vấn Mỹ bay lượn trên không, chỉ huy bằng vô tuyến điện (để tránh tiếng là Mỹ tham gia trực tiếp trên bộ, và cho có vẻ Việt hóa) đã không như sự chờ đợi của chúng tôi nữa! Cũng có thể nói tới cái mặt trận đường 9, Nam Ai Lao này, thời đại huy hoàng của trực thăng đã coi như chấm dứt! Các ông có hiểu không: trước đây, coi như chúng tôi săn đuổi họ bằng trực thăng. Bây giờ mọi việc đã đảo ngược lại: họ săn đuổi chúng tôi, bắn lên như mưa... Trước đây, trực thăng võ trang coi như có một sức mạnh phi thường. Nó có thể nhòm tới từng địch thủ dưới đất và tóm họ tại chỗ. Các anh hãy thử tưởng tượng ra cái cánh những chiếc Cô-bra hoặc quay đột ngột từ sau các lùm cây lao ra, rồi những làn đạn lửa từ mũi chúng chém xuống như những lưỡi gươm. Và người ta có cảm tưởng như có một sức mạnh thần linh nào đó ở trên trời đánh xuống mà không sao thoát nổi. Bây gờ thì ... hỏng cả rồi! Họ săn đuổi chúng tôi, họ đập rơi chúng tôi như đập những con ruồi. Ồ, đó là nói các trực thăng vũ trang. Còn những trực thăng vận tải thì còn có gì đáng để nói nữa?

Toán phóng viên báo chí nhộn nhạo, vui vẻ cám ơn lũ giặc lái máy bay lên thẳng có vũ trang rồi rùng rùng kéo nhau đi tìm lũ giặc lái máy bay trực thăng vận tải, tiếp tế mặc cho tên trung tá vừa rồi đã thốt lên: "Còn có gì đáng để nói nữa...?"

Chúng đây rồi! Còn bơ phờ, hốc hác, rã rời gấp bội lũ lái máy bay lên thẳng có vũ trang.

- Ồ thưa các ông! - Một tên thiếu tá chỉ huy tiểu đoàn nhăn nhó, giang cả hai tay ra như để phân trần - Chúng tôi đã giành cho họ tới trên 1.500 máy bay chiến đấu và 500 chiếc trực thăng vậy mà họ (chỉ quân ngụy) vẫn còn la trời la đất lên là chúng tôi yểm trợ và tiếp tế không thỏa mãn, là "đem con bỏ chợ". Họ còn muốn gì nữa? Cái bọn bội bạc, cái bọn dốt nát chuyên phá hoại tất cả những vũ khí máy móc tốt của chúng tôi. Vâng! Thật là cay đắng! Cay đắng quá lắm! Chúng tôi đã dồn sức cho họ, và chúng tôi cũng bị đánh tới đánh lui, tháo máu ra hằng ngày như thế này mà họ vẫn còn kêu ca. Kỳ quái thật! Các ông gặp các phi công lái trực thăng có vũ trang chắc đã biết rất rõ: Chúng tôi đã cố dốc sức ra sao rồi mà vẫn không được ...

Một tên khác ngồi bó gối cúi đầu mãi sau mới ngẩng lên. Tên thiếu úy Pi-tơ. Hai mắt nó như đã bạc hết màu, vì mệt mỏi và lo sợ:

- Chưa bao giờ chúng tôi phải chịu đựng những tổn thất như thế này... không, không phải thượng cấp của chúng tôi không kiên quyết! Chúng tôi biết rất rõ: đây không phải là một chuyện riêng lẻ của một bộ phận, một quân khu, hoặc của một ông tướng nào. Đây là chuyện của cả chính phủ Mỹ... À vâng, tôi xin nói thêm cho đầy đủ: chuyện của cả Chính phủ ông Thiệu, ông Kỳ nữa. Xin lỗi, tôi không quen làm chính trị - Nhưng dù sao vâng, thưa các ông, cũng nên nói cả ông Thiệu vào đó để cho nó có vẻ Việt Nam hóa hơn ...

Một tên đại úy đã đứng tuổi, nói khàn khàn, có dính một chút băng trên vết thương nhỏ ở trán, thong thả thêm vào:

- Tướng Lớt-xi-ớt (Luccius) chỉ huy tập đoàn không quân số 7 nắm 600 trực thăng trong tay, cho tới hôm nay đã tuyên bố là đã làm hết sức mình, nhưng cũng rõ ràng là không có cách gì để làm hơn thế nữa, một khi chúng tôi người Mỹ - đã... tính lầm về cuộc hành quân này ngay từ đầu mất rồi. Vâng, tôi đồng ý với những tờ báo nào đó đã nói: Tổng thống Ních-xơn đã đánh một canh bạc liều và hiện nay, người Mỹ cắn không xong mà nuốt cũng không trôi nữa...

*
*   *
“Cắn không xong, nuốt không trôi" câu ấy không phải của một tờ báo hoặc một đài phái thanh nào khác mà lại chính là của đài BBC nước Anh, một đồng minh thân thiết vẫn hằng ủng hộ Mỹ tích cực trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam và Đông Dương. Chính vì vậy mà tướng A-bram tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam càng cay.

Mấy bữa nay, tin tức rất xấu từ cuộc hành quân Lam Sơn 719 đưa về đã làm cho ông ta mất ăn mất ngủ. Những tờ báo đù các loại mà lại toàn của các đồng minh Mỹ, thậm chí cả những tờ báo Mỹ chính cống, những tờ báo Mỹ không thân thiện với Cộng sản bao giờ dạo này cũng cứ nhao nhao cả lên, đưa những tin chẳng lành về cuộc hành quân Mỹ mang tên Việt kia.

Đưa tin rồi bình luận, chúng làm om sòm cả thế giới lên. Đến nỗi Tổng thống Ních-xơn, con người thâm sâu ấy cũng không nén được nữa, phải lên tiếng cảnh cáo chúng. A-bram rất tán thành hành động của Ních-xơn, mặc cho có tờ báo - như tờ Niu Uớc thời báo đã đả kích: "Việc ông Níchxơn công kích các báo và hệ thống vô tuyến truyền hình về cách đưa tin chiến sự ở Ai Lao, chẳng kém gì việc giết các liên lạc báo tin thua trận có lợi cho các tướng Ba Tư ngày trước" (Ngày xưa, trong một cuộc chiến tranh xâm lược, các tướng Ba Tư đâm chém nhiều sĩ quan báo tin thất trận để giữ vững tinh thần quân sĩ. ).

Phải công kích! Phải cấm! Nếu không tinh thần binh lính Mỹ sẽ ra sao, tinh thần lũ âm binh ngụy Sài Gòn sẽ ra sao? Hơn thế nữa, uy tín của tổng thống Ních-xơn sẽ ra sao, triển vọng cuộc bầu cử sắp tới sẽ ra sao? Đáng phiền một nỗi, lũ báo chí nói rất tệ hại, nhưng lại nói toàn sự thật đau lòng của Mỹ.

Nào là: "... Ních-xơn đã đánh một canh bạc lớn, nhưng ông la đã lầm" (Anthow Lewis - báo Diễn đàn thông tin quốc tế).

Nào là: “Ông Ních-xơn có làm ngơ trước những tin tức về cảnh tan tác của nhĩrng đơn vị to lớn, sừng sỏ nhất của quân Sài Gòn, về tình cảnh những đoàn xe thiết giáp (Mỹ, Sài Gòn) chỉ cách các hậu cứ có năm, bảy ki lô mét mà không sao thoát nổi; về tâm trạng khủng khiếp của những phi công Mỹ trứớc những lưới lửa quét trực thăng trên trời như quét muỗi ..." (báo Tấm gương của Tây Đức)

Nào là: "Mỹ bây giờ như một người khổng lồ nhưng bất lực (báo Libération News Service - Mỹ)

Nào là “Chính quyền Ních-xơn miêu tả hoạt động máy bay lên thẳng Mỹ ở Lào chỉ là yểm trợ không quân thôi. Tuy nhiên, dù cho các phi công và cố vấn Mỹ không đặt chân xuống đất Lào nhiều, họ vẫn cứ dính líu sâu vào tất cả các chiến thuật, chiến cuộc bên dưới đất, chẳng khác gì những lính Mỹ lái xe tăng hoặc xe bọc thép! ... " (báo Time Mỹ).

Và cả tên khọm già Bô-phơ-rê (Beaufré) nữa! Y là tướng bại trận của Pháp ở Việt Nam trước đây, như từ một lỗ nẻ nào chui lên, cũng lớn tiếng dạy khôn cho Mỹ: “Cuộc hành quân vào Ai Lao là... một hậu quả quân sự không tránh được của chính sách mới của Ních-xơn đối với Việt Nam ... Không thể gọi là lành mạnh được ... ông ta... (Ních) đã đánh giá quá cao quân Sài Gòn (ngụy) ông ta (Ních) đã không thấy rõ sự mạo hiểm quả lớn của một cuộc hành quân như vậy... là kề miệng hùm ...” (Beaufré - báo Le Figaro - Pháp).

Và J. La Cu-tuya nữa (J. La Couture - báo Nouvel Observateur" - Pháp). Anh chàng này có lẽ còn độc miệng hơn cả: " ... Học thuyết Ních-xơn là: Xác chết ở chiến trường phải là xác người da vàng, chứ không phải là vãn hồi hòa bình".

A-bram muốn xé bỏ tất cả mọi tờ báo khó chịu ấy. Mấy hôm nay, sức khỏe ông ta giảm sút trông thấy. Lão bác sĩ có nhiệm vụ săn sóc A-bram đã phàn nàn rất nhiều về sự hay nổi nóng của ông ta vì ông ta đã bướng bỉnh không nghe lời lão làm việc ngày đêm, không nghỉ mấy lúc. “Nhưng sao mà tôi nghỉ được, viên thầy thuốc dở hơi kia. Cái căn cứ 31 như đang treo trên sợi tóc? Tôi nghỉ làm sao được? Đó là chưa nói tới toàn bộ cái bọn tên Lãm đang sa lầy ở nơi đó!" A-bram đã nhiều lần phải rít lên như vậy. Đầu óc nhức nhối, A-bram mất hết cái vẻ thâm trầm, điềm đạm vốn có xưa nay. A-bram hay chồm lên mặt bàn, đấm tay thình thình khi nghe những tin thất thiệt từ Lào, từ đường 9 báo về.

Cũng mấy hôm nay, dầu sao ông ta cũng không khỏi có lúc bần thần ngồi thầm ôn lại tất cả mọi sự kiện đã xảy ra, như làm một thứ kiểm điểm nào đó về toàn bộ tình hình để đánh giá lại xem sự việc đúng, sai ra sao, rồi mới có thể định liệu được. Người ta dạo này cứ đổ diệt cho A-bram - là kẻ chủ mưu chính của cái kế hoạch mở rộng chiến tranh sang Lào.

Thật ra A-bram có đóng góp rất nhiều công sức và việc thảo ra kế hoạch chi tiết cụ thể, nhưng ý đồ thì không phải của riêng hắn. Cách đây ba năm nhiều tham mưu trưởng của Mỹ đã muốn đánh chiếm các vùng an toàn của Cộng sản ở Cam-bốt, Ai Lao và cả Bắc Việt nữa. Chính tướng Uy-lơ và tướng Oét-mô-len đã có một kế hoạch mở rộng chiến tranh sang Cam-bốt và Ai Lao từ 1968. Để thực hiện kế hoạch này, tướng Oét-rmô-len đã xin với Tổng thống Giôn-xơn tăng thêm cho 206.000 quân, nâng tổng số quân Mỹ lên 731.000 tên ở Việt Nam. Nhưng hồi đó đã thấy rõ Mỹ thua, Giôn-xơn không dám chấp nhận cái ý đồ quá táo bạo ấy. Không những thế, ông ta - Giôn-xơn - còn buộc phải xuống thang.

Nhưng Ních-xơn thì khác, từ khi lên cầm quyền, ông tổng thống mới này đã tỏ ra rất kiên quyết trong việc mở rộng và kéo dài chiến tranh. Chính vì vậy câu chuyện về Cam-bôt và Ai Lao bị Giôn-xơn gạt bỏ, không dám thực hiện, nay đã trở thành hấp dẫn vô cùng đối với Ních-xơn. Và ông ta đã dám làm tất cả những gì mà Giôn-xơn, kể cả Ken-nơ-đi trước đây không dám làm: Đánh sang Cam-bôt.

Sau khi cho CIA làm xong một cú đảo chính ông Hoàng Xi-ha-núc. Sau đó mười kế hoạch chi tiết, cụ thể về việc đánh sang Ai Lao đã được lệnh thảo ra và đã trình Ních-xơn. Ông ta đã chọn cái kế hoạch mà A-bram là tác giả chính từ năm ngoái (1970). Kế hoạch ấy đã được bí mật xúc tiến rất khẩn trương.

Cũng giống như vụ mở rộng chiến tranh sang Cam-bốt, Ních-xơn đã tỏ ra là một tay rất dám làm liều. Vụ Cam- bốt ông ta đã tự mình quyết định bất chấp Quốc hội. Lần này Ních-xơn cũng lại bịt kín lọi việc trong giai đoạn chuẩn bị mở rộng chiến tranh sang Ai Lao, không cho Quốc hội biết, tự mình định đoạt lấy hết. Và ông ta có đầy đủ lòng tin ở mọi sự quyết đoán của ông ta. Đó là một con người hoặc là rất thông minh, hoặc là rất ngu xuẩn. Nhiều người ở gần ông ta đã có nhận xét như vậy.

Tháng 1-1971 Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Le-đơ đã sang Sài Gòn để nắm lại tình hình và thảo luận thêm với A-bram về mọi chi tiết của kế hoạch này.

Tháng 2-1971 A-bram sau khi đã đưa 1.500 lính thủy đánh bộ vào vịnh Bắc Bộ để nghi binh hăm dọa miền Bắc, đổng thời cho Thiệu úp mở và hung hăng tuyên bố sẽ đánh ra Bắc cũng để nghi binh, A-hram về Hoa Thịnh Đốn họp cùng Ních-xơn. Tại phòng họp hình bầu dục của Nhà Trắng, cuộc họp cỏ đủ mặt "anh tài" của bộ máy chiến tranh Mỹ: Ních-xơn, Râu-giơ (Bộ trưởng Ngoại giao), Le-đơ (Bộ trưởng Quốc phòng), Bân-cơ (đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam), Ri-sớt Hen-mơ (giám đốc CIA), Uy-lơ (Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân), đô đốc Mo-rơ và cố vấn quân sư quạt mo Kít-sinh-gơ.

Trong cuộc họp ấy, A-bram đã báo cáo hơn một giờ. Sau đó mọi việc đã được thảo luận và quyết định. Ngay hôm sau cuộc họp ấy, Ních-xơn đã ký lệnh bảo đảm với Thiệu là cuộc hành quân vào Ai Lao sẽ được Mỹ yểm trợ đầy đủ, tối đa. Và để tích cực chuẩn bị cụ thể cuộc hành quân này, viên phát ngôn Bộ Quốc phòng Mỹ đã được phép tuyên bố: “ … Chúng ta sẽ dùng những vũ khí thích đáng trong cuộc hành quân này".

Trước đó vài tháng, một chiến dịch oanh lạc bằng máy bay chưa từng có cũng đã được mở ra ở vùng Nam Lào, đường 9. Đó là chiến dịch mang tên "Hổ thép". Riêng B.52 đã thực hiện ở đó 1.500 phi vụ. Các báo chí đã nói tới mặt trận "mưa bom” kéo dài trong 10 ngày, cũng để chuẩn bị cho cuộc hành quân này, A-bram đã cho không quân Mỹ đưa vào vùng này và suốt dọc con đường vận chuyển ở Trường Sơn một hệ thống máy móc điện tử có thể trông và nghe thấy trong đêm tối và cây rừng.

Ai gơ-lu Hoai-tơ (I gloo White) là một hệ thống máy móc nghe dưới đất của không quân, áp dụng nguyên tắc hệ thống nghe của tàu ngầm hải quân. Trong hệ thống ấy có hai loại máy: loại Sê Smic (seis mic) dùng để phát hiện những xe cộ đi lại trên đường. Loại Ác-cút-tích (Accoustic) dùng để phát hiện tiếng người nói chuyện, thảo luận rồi truyền về căn cứ Mỹ.

Ngoài ra, khí tài la-de (Một loại tia sáng cực nhỏ, nhưng được tập trung cực mạnh bằng phương pháp khoa học có tác dụng rất lớn trong y học, công nghiệp và cả quân sự) cũng đã được đưa vào. Đó là loại máy mang tên Pa-vê-uây (Pave way). Các máy bay có trang bị máy này có thể nhờ tia la-de phóng ra mà phát hiện rất trúng các mục tiêu dù ẩn giấu kỹ ở mặt đất. Ngoài khí tài la-de, còn có cả một loại khí tài khác dùng tia hồng ngoại để phát hiện được hơi nóng của người cách xa 70 mét trang bị cho các đơn vị biệt kích, hoặc phòng ngự... Nói tóm lại, về mặt trang bị, vũ khí, A-bram tự đánh giá là đã lo toan rất đầy đủ.

Còn về chiến thuật, A-bram cũng đã suy nghĩ rất nhiều, tính toán mọi mặt để thực hiện thật thắng lợi chiến thuật trực thăng yểm trợ trong cái kiểu chiến tranh "súng Mỹ máu nguỵ" này. Một chiến thuật nữa: căn cứ hỏa lực di động, để có thể tạo một thế liên hoàn yểm trợ trong việc tiến quân, tấn công mở rộng khu chiếm đóng.

Thế rồi, cuộc hành quân Đi-uâv can-nhơn 2 (sau được đổi tên là Lam Sơn 719) đã được mở ra với tất cả những kỳ vọng của không riêng A-bram mà cả Ních-xơn, nhất là Ních-xơn. Không phải là hứa suông, càng không phải là "đem con bỏ chợ" như một số tên sĩ quan Sài Gòn nào đó không hiểu đá la ầm lên như vậy.

Không! Không! Một trăm lần không! Trái lại, A-bram cùng bộ chỉ huy Mỹ đã làm hết sức mình, đã có thể nói là: như đổ cả máu mắt ra vì quá chăm chú theo dõi, vì quá căng thẳng để suy tính mọi nước cờ ghê gớm này. Tại sao chúng lại có thể nói là "đem con bỏ chợ” được, một khi hàng ngày đã có tới 1.000 phi vụ phản lực Mỹ, cộng hơn 30 phi vụ pháo đài bay B.52 với 900 lần bom (của riêng B.52). Còn trực thăng thì tính trung bình mỗi ngây cũng có tới 3.000 lượt chiếc đủ các loại cứu thương, tiếp tế, liên lạc. vận chuyển binh lính...

Tóm lại người Mỹ đã ra sức thực hiện ý định của mình: cố tạo nên một cái ô khổng lồ che kín cả vùng Nam Lào, đường 9, để cho bọn tướng lĩnh, binh lính Sài Gòn ở dưới hoạt động. Tạo được cái ô ấy, mỗi ngày Mỹ đã phải tổn phí tới 15 triệu đô-la chứ có ít ỏi gì đâu? Vậy mà chúng còn trách? Thật quá ngu xuẩn! Chẳng còn lạ gì công việc này thực ra chính là việc của Mỹ, mà chúng chỉ là những con số hoặc những con cờ để thực hiện. Việc của Mỹ, có gì Mỹ lại không hết sức? Tất cả mọi chuyện không hay xảy ra rõ ràng chỉ là vì đối phương quá mạnh.

Người Mỹ cho đến bây giờ một lần nữa lại bị "bé cái lầm”, vẫn không đánh giá đúng họ một chút nào hết. Từ đường 9, Khe Sanh bên Việt Nam cho tới tất cả vùng Nam Lào, người Việt người Lào đã mở rộng mặt trận tiến công với một sức mạnh hùng hậu rất đáng kinh ngạc, lực lượng Mỹ, Sài Gòn đã hoàn toàn bị căng ra, bao nhiêu máy bay, đại bác cũng hóa ra không đủ nữa.

Có thể bạc hết tóc, đối với một viên tướng cầm quân một khi đã nhận ra được: mình nhầm rồi, quân mình đang sa vào đất chết, mà không có cách gì cứu vãn được nữa!

A-bram cũng có cảm giác tóc mình mấy bữa nay như đã bạc thêm ra rất nhiều. Nhưng làm thế nào được? Rút ra ngay, về mọi mặt quân sự, chính trị đều không ổn. Ngược lại tiếp tục lao sâu vào thì thật là... tự sát!

A-bram càng như điên lên. Sáng nay tin tức về cái căn cứ 31 lại được báo về lần nữa với nhưng chi tiết vô cùng đen tối về số phận của cái lữ dù Sài Gòn chiếm đóng ở đó. 

“ … Họ (ngụy) đã hoàn toàn bất lực ... Họ đang bị pháo binh, súng cối địch vây chặt đánh cho nhừ tử... Lại thấy xe tăng địch xuất hiện, theo sự quan sát của các máy bay trinh sát ... Trên căn cứ, họ đang gào lên vì không có nước và thương binh đã tràn ngập... ".

A-bram cho gọi phó tư lệnh của y tới. Tướng Phê-đê-rích Uây-ơn (Prederick Weyand). Viên tướng này đã từng chỉ huy các lực lượng Mỹ ở vùng Sài Gòn trong dịp Tết Mậu Thân. Uây-ơn thiểu não lắc đầu:

- Tôi nghĩ rằng có thể cuộc hành quân này sẽ chỉ có thể mang lại một kết quả còn tồi tệ hơn cả sau vụ Tết Mậu Thân 1968.

- Nhưng tôi cần hỏi ý kiến tướng quân: bây giờ chúng ta phải làm gì?

- Chúng ta phải làm những gì mà chúng ta cần làm... thưa tướng quân

A-bram cúi đầu xuống, mặt nhăn lại trong một nỗi cay đắng đến cùng cực. Sau đó y ra lệnh cho không quân và hải quân: phải dốc sức đánh phá, ngăn chặn bằng được mọi cuộc tấn công của Cộng sản vào các căn cứ hỏa lực Sài Gòn, mà trước hết là căn cứ 31 đang bị uy hiếp lớn nhất. Nhưng một mật lệnh nữa được gửi đi tiếp theo: Nếu xem chừng bọn dù Sài Gòn không còn giữ nổi 31, cho chúng rút về Bản Đông, nếu khả năng xấu hơn nữa, có nghĩa là nếu chúng không chạy nổi: hủy diệt!

10
Trên căn cứ 31 chiều hôm ấy, Nguyễn Văn Thọ đang ngồi thở, rất buồn bực và mệt nhọc, trước những chiếc máy truyền tin đã bị hư hỏng khá nhiều vì sóng xung kích của các trái pháo lớn tầm xa và đạn ĐKZ bắn châu, bắn quần khắp bốn chung quanh hầm. Sáng qua y đã buộc phải đồng ý cho tên trung tá Thạch chỉ huy căn cứ 30 bám một chiếc trực thăng trở về Khe Sanh, trao quyền lại cho tên chỉ huy phó. Bởi một lẽ rất nhục nhã: tên Thạch đã hoàn toàn mất tinh thần, mặc dầu trước đây nó luôn tỏ ra là một tên lính dù rất hung hăng, táo tợn. Bây giờ còn biết tin cậy vào ai, trông chờ ở tên thủ hạ nào nữa?

Đột nhiên, một tên sĩ quan tham mưu hấp tấp chạy tới:

- Thưa, đại tá có thơ của gia đình!.

Thọ giật mình. không tin ở tai mình:

- Sao? ông nói sao?

- Thưa đại tá có thơ của gia đình! Tình cờ một gói hàng do trực thăng vừa ném xuống, rớt gần sát cửa hầm, bọn tôi kều vào được. Thấy có lá thơ này của đại tá!

Thọ chồm tới, vồ lấy phong thư trên tay tên sĩ quan. Mắt y bỗng hoa lên. Một nỗi xúc động quá sức trào lên ngực y, trào lên mãi, tắc nghẹn lấy cổ, trào lên mãi, bật ứa ra hai hàng nước mắt. Chao ôi? thư của con gái Bích Thủy. Bích Thủy con ôi! ... Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời mình, Thọ đã bộc lộ tự nhiên tất cả niềm xúc động của mình trước mặt người khác, nhất là lũ sĩ quan cấp dưới.

Bức thư giản dị thôi. Đứa con gái đầu lòng của y cho biết mọi người trong gia đình y vẫn mạnh khỏe và đang rất mong y mau chóng được trở về:
“Ba yêu quý, giờ đây ba đang ở đâu? Ba có lạnh không? Chúng con đang từng ngày từng giờ hướng về nơi xa xôi ấy với tất cả niềm thương nỗi nhớ..."

Éo le thay! Đau đớn thay! Sao lá thư ngây thơ tội nghiệp lại tới đây đúng vào giờ cùng quẫn này. Sao các con và em lại không mường tượng tới một viễn ảnh khác: người mà họ đang thương nhớ, ngóng mong giờ đây như đã bị trói chặt đặt trước roi đòn?... Nước mắt đắng cay và tủi nhục lại muốn trào ra thành máu tươi nơi khóe mắt. Thọ cúi mặt xuống, lẳng lặng quay đi, đôi vai rung lên. Y nắm chặt mãi lá thư nhỏ, mỏng, trắng muốt trong bàn tay to cứng, thô ráp như nắm chặt một con chim nhỏ. Đôi mắt mở trừng trừng như không có hồn, y tập tễnh bước trở vào ngăn hầm riêng rồi gieo sấp mình xuống chiếc ghế bố.

- Thưa đại tá, đại úy Châu chỉ huy đại đội công vụ tự thương!

Như choàng tỉnh dậy. Thọ ngơ ngác:

- Sao?

- Thưa, đại úy Châu khai: vừa rồi đại úy đi ra nhà xí thì bị miếng đạn. Nhưng theo lời các sĩ quan tham mưu khác, đó chỉ là một viên đạn súng sáu bắn vào bắp tay. Do đó họ kết luận: đại úy Châu tự thương cũng nhằm... để xin ra. Dạ? Hiện đang ngồi ở hầm chờ tản thương cùng tên hạ sĩ Bán. Tên này xem ra cũng là tự thương nốt!

Thọ nhíu chặt đôi lông mày, lật đật bước ra. Còn gì nữa. Còn những chuyện đen tối, đổ vỡ nào nữa. hãy xảy ra nốt đi. Xảy ra cả thể đi, coi xem! Y mệt rũ, bàn tay nắm chặt đặt trên mặt chiết bàn rung lên bần bật.

Nhưng đúng là còn! Vẫn còn một sự việc nữa đã xảy ra: Một sự việc đã được coi như sự kiện vô cùng trọng đại đối với số phận không riêng của cái căn cứ 31 này mà còn có ảnh hưởng rất lớn đối với cả cục diện của cuộc hành quân Lam Sơn 719 thảm hại này, nếu việc ấy thành công hoặc thất bại:

Ngày hôm ấy, tại Hàm Nghi có một cuộc trao đổi ý kiến rất khẩn cấp giữa Su-dớc-len và Lãm về toàn bộ tình hình của lữ dù 3 và cả cánh bắc của mặt trận, cả hai tên đều không thể giấu giếm lẫn nhau nữa, phải thừa nhận tất mọi nguy cơ của căn cứ 31. Cuối cùng tuân theo mật lệnh của A-bram đã có từ trước, chúng điện cho Bộ chỉ huy lữ dù 3 cấp tốc phái một đơn vị xuống đường 9 bắt liên lạc với các thiết đoàn 11, 17 để đưa bọn này lên giải tỏa cho căn cứ và - nếu có thể - sẽ yểm trợ cho tất cả đám quân dù ở đó rút chạy.

Nhận lệnh ấy, Thọ bèn báo ngay cho Phát và quyết định sử dụng bọn lính còn lại của đại đội dù 31, cái đại đội đã phát hiện thấy thiết giáp đối phương mấy bữa trước. Lại những giờ chờ đợi nóng lòng sốt ruột như bữa nào đã chờ tin đại đội dù ấy "chụp ảnh thiết giáp đối phương” đem về. Nhưng lần này bọn đại đội ấy không phải "chụp ảnh" ai hết mà chỉ có một nhiệm vụ là "đón rước” - Đón rước thiết giáp "nhà" lên giải tỏa - Bởi vậy trong sự nóng lòng sốt ruột bữa nay dầu sao cũng có cái gì đó dễ thở hơn, cái gì đó nó tươi tươi lấp lánh gần như một niềm hy vọng.

Nhưng, quả là số phận đã được "Chúa phán quyết" rồi! Không có thể nào khác được nữa. Tin cuối cùng được báo về với một giọng hoàn toàn tuyệt vọng: thiết giáp nhất định không chịu lên giải tỏa cho 31. Lý do rất đơn giản và rõ ràng: thiết giáp cũng đang bị đánh tả tơi trên đường 9. Thiết giáp không đủ sức lên 31 nữa; mà nếu có lên được thì - theo lời lũ thiết giáp ấy - cũng chỉ “gởi xương cho cọp". "Không có dại gì mà lao vào chỗ đó!” Thiết giáp đã công khai cưỡng lệnh thượng cấp của nó, một cách hoàn toàn bất cần như vậy.

Trong ngăn hầm của y. Thọ gieo mình xuống chiếc ghế gọng bằng đuy-ra, căng dây ni-lông, chống hai tay lên hai đầu gối mở rộng, đầu óc tối lăm, nặng trĩu. Thế là hết! Thế là hết rồi chăng? Đã đến lúc “mạt lộ" rồi chăng? - "Các ông đem con bỏ chợ! Đem con bỏ chợ!". Lời chửi rủa của bọn Phát lại vọng lên dữ đội bên tai y. Lòng y đau thắt lại trong một nỗi uất hận không cùng. "Đem con bỏ chợ!". Không! y cũng chẳng có khác gì, không có sung sướng gì hơn lũ Phát, Thạch. Chính y cũng bị "người ta" đem "bỏ chợ" ở đây cùng với toàn thể cái lữ đoàn xấu số của y...

Một cơn ho bỗng kéo đến. Thọ đỏ mặt, đưa tay lên ngực ho một hơi dài. Y mệt quá rồi! Đã hai ngày nay, những giọt nước cuối cùng cũng đã hết. y đã phải cùng đồng bọn nhịn khô. Nhịn nước có nghĩa là phải nhịn cả ăn nữa. Bởi ăn lương khô, gạo sấy chỉ càng thêm khát. Khát! Chao ôi! Những cơn khát xé cổ làm khô quắt cả thể xác, đã hành hạ y quá cơ cực... Tuy nhiên một lúc sau, y lại nghiến răng cố đứng dậy ra ngăn hầm hên ngoài, gọi lũ tham mưu lại:

- Các ông nghe đây! Chúng ta phải kéo tất cả các đại đội trở về sát căn cứ

- Thưa đại tá ... '

- Khoan! Tôi nói nốt: Cần kéo chúng về gần, một là chúng đã bị thất thiệt quá nặng rồi, để hoạt động xa không có tác dụng chi nữa, hai là trên căn cứ tử thương đã quá nhiều! ở đây ta cần phải có thêm lực lượng, dầu chỉ là thêm một thằng lính... Các ông hiểu chứ?

- Thưa đã

Rõ ràng Thọ vẫn không thể nào không nghĩ tới cái trách nhiệm lữ trưởng của y. Y thấy y vẫn còn phải rán sức rán sức tới phút chót. Và thế là những cố gắng cuối cùng của lữ dù 3 trên cái căn cứ 31 ấy đã được xúc tiến.

Tuy nhiên, những cố gắng mỏng manh, tuyệt vọng ấy đã không bao giờ thực hiện được nữa. Chỉ có một đại đội 34 rút được về gần căn cứ...

Và cái ngày quyết định số phận cái lữ đoàn dù ấy đã tới.

11
25-2-1971! Buổi sáng hôm đó trời vẫn ủ dột, lất phất mưa bay. Cái căn cứ ấy dường như đã sụn hẳn lưng xuống và càng nằm chết gí, gục đầu, phủ phục ở đó để chịu mọi đòn giáng xuống. Cách đấy chừng 800 mét về phía nam, trên một ngọn đồi thấp hơn còn sót ít cây lưa thưa, tàn binh của đại đội dù 34 đã lả tả kéo về từ chiều hôm trước.

Lính bị thương trên căn cứ đã quá nhiều, lính bị thương của đại đội dù 34 cũng còn tới trên mười đứa. Lại phải kêu gào trực thăng Mỹ liều tới bốc cho một chuyến nữa, Bộ tham mưu lữ dù 3 quyết định như vậy. Lẽ Cố nhiên, nài nỉ với sư đoàn và bọn Mỹ việc ấy không phải dễ. Tuy bị chôn chết gí ở đâu, bọn tham mưu lữ dù 3 cũng đã có thể hiểu được rằng các máy bay Mỹ đã bị bắn rơi quá nhiều, lũ phi công Mỹ đã quá sợ cái chiến trường ‘đáng nguyền rủa" này rồi ...

Nài nỉ và van xin mãi. Cuối cùng hai chiếc Cô-bra đã bay tới để bắn phá trước, dọn đường cho các HU.1d theo quy luật vẫn có. Hai chiếc Cô-bra bay rất cao, vẻ miễn cưỡng và hấp tấp. Chúng chỉ lập một vòng lượn rồi sà xuống liền...

Nhưng kìa. Chúng cuống cả lên rồi, đến nỗi không còn nhận được ra địa hình địa vật dưới này nữa hay sao? Cứ nhằm thẳng ngọn đồi nơi bọn đại đội 34 đang vẫn còn hì hụi moi đất để làm hầm, chúng rầm rầm trút đạn xuống.

Tiếng thét dội lên từ trong máy truyền tin làm cho tất cả bọn tham mưu lữ đoàn giật bắn, hoảng hồn. "trời ơi! Đ… mẹ! Chúng nó bắn vào chúng tôi! Chết! Chết hết rồ ồ ồi!" Chiếc Cô-bra thứ nhất đã bắn xong, chiếc thứ hai bắt đầu nhào xuống...

Cho tới khi tên thiếu tá Đức được lệnh Thọ gào lên trong máy truyền tin xin ngừng bắn ngay thì bọn Mỹ đã giết chết thêm mười tên và làm bị thương hơn hai chục tên ngụy trên ngọn đồi ấy rồi. Và sau đó không nói không rằng chúng ngoặt đuôi quay trở lại Khe Sanh một mạch thẳng.

Thế là thêm một tai họa không ngờ. Chưa thấy tản đi được tên nào, nay lại tăng thêm một số lính bị thương nữa.

Tình trạng trên 31 càng trở nên rối ren căng thẳng. Căng thẳng rối ren hơn nữa khi có tin từ Khe Sanh báo vào cho biết: phòng không Quân giải phóng bữa nay càng dày đặc, dường như đã tăng lên với sự xuất hiện những loại xe phòng không di động. Cho nên vì thế chưa cho trực thăng vào tản thương trong ngày hôm nay được. “Hãy rán đợi ..."

Pháo cối, ĐKZ Giải phóng lại thình lình nện xuống ngọn đồi. Gian hầm chỉ huy lại nảy lên, thụt xuống; máy móc truyền tin, những vỏ chai rượu mạnh, sâm banh trên mặt bàn lại lật đổ loảng xoảng. Bụi lại thốc xuống như thác. Những ngọn đèn bão rơi vỡ, tắt phụt. Phòng không của Quân giải phóng tăng lên! Pháo cối, ĐKZ của họ bữa nay cũng rõ ràng hoạt động mạnh gấp bội, dồn dập và kéo dài từng giờ liền. Có chuyện gì thế? Có chuyện gì vậy? Phải chăng...

- Đại úy Phương! Đại úy Phương đâu? Đại úy Phương ... 

Im bặt. Ủa. Đường đây điện thoại với trận địa pháo lại đứt rồi sao. Lính truyền tin chỉ còn mấy tên cuối cùng.

- Đại úy Chấp! Tung chúng ra thôi! Bằng bất cứ giá nào!

- Tu... uân lịnh!

Một loạt pháo lại rền lên cùng những tiếng súng cối lới tấp như đang mưa trên mát đồi.

- Thưa. cả... mấy tên đều... chết hết cả rồi

Gian hầm lại nẩy lên và như bị hất lên. Một hình người ngã giật về phía sau, lưng đập vào vách. Đó là Trụ, trợ tá của Đức. Là một sinh viên văn khoa, trước đây Trụ cũng đã đọc một mớ tư tưởng triết học lộn xộn, phi lý và những cái đó đã từng có một thời kỳ an ủi được y trong những ngày sống trong quân ngũ đầy tai họa này. Bởi, ít ra y cũng đã có cái để mà tự dối lừa mình. Không hiểu sao trong những ngày tuyệt vọng này y lại bỗng nhớ tới những mớ triết học quỷ quái ấy. Nhưng giờ đây cái sự thật hãi hùng vẫn cứ kéo y trở lại với tất cả sự hãi hùng của nó. Trụ ôm chặt lấy mặt, và lòng y hoàn toàn tan rã...

*
*   *
Thốt nhiên, khoảng 13 giờ 30 phút. bọn đại đội dù 31 đang trên đường rút chạy trở lại căn cứ réo lên trong máy truyền tin, báo về: chúng nhìn thấy xe tăng quân giải phóng xuất hiện ở phía đồi không tên. Tất cả bọn sĩ quan tham mưu cùng đứng chồm cả dậy. Nỗi kinh hoàng quá lớn đến nỗi không tên nào kịp thốt lên một tiếng. Chỉ thấy những bộ mặt cắt không còn hạt máu. Xe tăng! Một mặc cảm dường như đã có sẵn không tên nào bảo tên nào, tất cả đều hiểu ngay: thế là căn cứ đã bắt đầu bị tiến đánh một cách quy mô, chính thức. Và thế là giờ quyết định của đời chúng đã điểm...

Tên Đức như ôm ghì lấy cả chiếc máy truyền tin gọi liên hồi về sư đoàn để báo cái tin ghê gớm ấy và xin máy bay. Rồi Thọ cũng không thể nào chịu đựng nổi giây phút khủng khiếp ấy, y cầm lấy ống nói:

- Cho lôi nói chuyện với ông Bạch Long. Sao? ông Bạch Long đi vắng hả? Trời! Lúc này ổng lại đi vắng? ổng không thể hoặc không muốn nói trực tiếp với chúng tôi nữa sao? Xe tăng đối phương đã xuất hiện đang tiến tới căn cứ tôi? Cho gấp máy bay. Xin cho gấp ngay...

Rồi y quay lại phía tên đại úy Chinh, sĩ quan không trợ trong ban tham mưu bảo gọi OV.10. yêu cầu nó quan sát ngay những toán xe tăng đang tiến về căn cứ. Chính tái mặt:

- Thưa đại tá, OV.10 đang bay ở khu vực A Lưới (Bản Đông) làm việc với đại tá Lưỡng.

- Sao? Chết thấy mồ rồi 

Thọ vội gọi thẳng tới Lưỡng:

- Chúng tôi bắt đáu bị tấn công! Xin ông cho tôi mượn gấp OV.10 để quan sát... .

Tiếng từ xa xôi vọng lại hổn hển:

- 601? ông không rõ chúng tôi cũng đang bị pháo kích tối mày tối mặt đây sao?

- Ông Lưỡng ôi! Chúng tôi đang bị tấn công. Tăng địch đang tới! Đến nơi rồi! Cho tôi mượn OV.10 quan sát một chút thôi - một chút xíu thôi! Rồi sẽ trả!

- Thôi được! Vậy ông hãy đợi đó! Tôi báo cho hắn đây

Thọ vừa quay lại, một tin sét đánh nữa bay tới: hướng phía bắc cũng thấy có xe tăng Giải phóng xuất hiện, đang tiến lại...

*
*   *
Trong lúc ấy, quả đúng như sự cấp báo của lũ tàn binh dù còn ở phía ngoài căn cứ 31, từ mấy hướng các phân đội chiến xa hùng mạnh của Quân giải phóng cùng với những phân đội bộ binh tinh nhuệ đang ào ạt vượt suối băng rừng nhàm thẳng cao điểm 456 tiến tới. Thời kỳ bao vây rộng, bao vây hẹp chặt đứt đường tiếp tế trên không và bắn phá làm tê liệt quân thù, đồng thời việc chuẩn bị mọi mặt cho trận đánh quyết định đã kết thúc! Mệnh lệnh tiến công tiêu diệt lữ dù 3 Sài Gòn đã được phát ra làm nức lòng tất cả các chiến sĩ, tất cả các binh chủng hiệp đồng. Núi rừng Lào như mở hội. Tiếng reo hò vang lên sôi nổi, hăng say đến tột độ. Những khuôn mặt Lào trẻ trung, cháy nắng đều như sáng lên một niềm tin tất thắng.

Ở mũi phía đông-nam, khi vượt qua những quả đồi thấp, các chiến sĩ thiết giáp và các chiến sĩ bộ binh Giải phóng Lào đã nom thấy ngọn đồi mà bọn tàn binh của cái đại đội dù 34 vẫn còn ở đó chưa chạy đi đâu được.

- Tiến lên! Tiến lên! Quân thù đã ở trước mặt các đồng chí!

Mặt đất như xé ra phăng phẳng, cây rừng đổ rạp xuống từng loạt. Những chiếc chiến xa Giải phóng cùng rống lên, tăng tốc, ầm ầm lao tới. Các chiến sĩ bộ binh rùng rùng tiến theo sau như thác đổ lũ băng.

Có lẽ bất cứ ai cũng có thể hiểu được rằng cái dúm tàn quân ngụy nhỏ bé ấy làm sao mà chống đỡ nổi trước sức mạnh tiến công kinh hồn của Quân giải phóng? Chỉ trong chớp mắt, cái trận địa ấy đã bị tan biến ra như tro bụi.

Tiếp tục! Tiến! Nhằm thẳng đồi 456! Tiêu diệt quân thù Mỹ - ngụy! Hãy nghiền nát chúng dưới vòng xích căm hờn của chúng ta!

Những chiếc chiến xa càng như tăng tốc thêm, lao tới như giông bão. Các chiến sĩ bộ binh vẫn bám sát theo sau.

Đã nom rõ ngọn đồi 456

Cùng lúc ấy, chiếc OV.10 và một bầy phản lực cường kích Mỹ cũng vừa vặn bay tới. Bầu trời rền vang. Những chiếc máy bay đen sì như quạ. Bọn chúng bắt đầu điên cuồng lao xuống.

Bom phá rồi bom lửa! Mặt đất nảy lên, cháy bùng lên. Nhưng, gan góc và khéo léo lạ lùng, những chiếc chiến xa Giải phóng, thép bỏng giãy, vẫn ầm ầm xuyên qua những đám bụi mù, những đám khói dày đặc, vượt lên những đám cháy mà chồm tới. Các chiến sĩ Giải phóng Lào vẫn tiếp tục ào ạt tiến theo bám sát các chiến xa. "Mở đường mà tiến. Vạch trời mà đi!" Những khẩu hiệu lại được tung ra dồn dập. Những chiếc chiến xa rít lên mở hết tốc lực lao thẳng về phía trước. Vừa phóng chúng vừa giương súng lên trời bắn những chiếc máy bay Mỹ đang lăn xả xuống định cản đường...

Chiếc xe tăng số hiệu 565 dẫn đầu cả toán, tiến rất khôn ngoan và mau lẹ. Chiếc xe mang số hiệu 563 cũng không kém. Nó đang vừa gầm rít vừa xông lên thì bỗng một chiếc phản lực Mỹ vùn vụt bổ nhào lao xuống... Lập tức khẩu súng phòng không trên tháp xe dựng đứng quất lên một đường đạn xé trời. Chiếc máy bay chưa kịp làm gì đã bùng ra một đám lửa lớn, lảo đảo rồi cứ thế tuôn ra một dải khói dài đen sì, đâm đáu, lao thẳng xuống ngọn rừng cách đấy không xa.

Chiếc xe tăng mang số hiệu 555 đang tiếp tục tiến, đột nhiên nó bị đội lên, hai vòng xích quay tròn. Rất bình tĩnh, đồng chí chính trị viên mở nắp xe nhảy ra quan sát. Đó là một hòn đá lớn. Đồng chí chiến sĩ lái xe lập tức cho xe lui lại chạy vòng theo lối khác rồi lại tiếp tục tiến lên, vừa tiến vừa khạc lửa. Chiếc xe tăng 555 ấy đè sấn qua mọi lớp mìn sáng loe lóe, xông lên, tiếp tục xông lên nhằm thẳng đỉnh đồi 456.

*
*   *
- Nguy nan lắm rồi! Nguy nan lắm rồi! Xe tăng địch đã tới hàng rào phòng thủ rồi! Cho thêm máy bay! Xin cho thêm máy bay! Gấp lên! Gấp lên!

Tên Đức lại gào lên. Lần này y gần như đã líu lưỡi lại. Vẫn chỉ có tên Lường tham mưu trưởng sư đoàn trực tiếp nói với bọn y. Đống vẫn vắng mặt hoặc lánh mặt.

- Chúng lôi biết làm sao được bây giờ? Các ông phải rán! Chúng tôi sẽ rán hết sức chúng tôi...

- Các ông định bỏ chết chúng tôi ở đây sao? Trời. Đ.. mẹ! Xe tăng địch đã tới hàng rào phòng thủ cuối cùng rồi ...

"Rầm! Rầm!" Đức ngã chúi xuống. mặt mũi tối tăm lại. Nhưng y vẫn cố ghì lấy ống nói. Im bặt. Thất đảm, y cố gọi một lần nữa, rồi một lần nữa. Nhưng vẫn im bặt. Hoàn toàn im bặt. Thế là hiểu rồi! Y ném mạnh chiếc ống nói xuống, nghiến răng lặng đi... Thế là hiểu rồi! Chúng nó đã đoán chắc là 31 sẽ thất thủ, nên bỏ rơi, không tiếp tục liên lạc nữa!

Một cái gì như vỡ tung ra, sụp đổ hoàn toàn trong toàn thể bộ tham mưu lữ đoàn. Tất cả những bộ mặt cùng như tan ra trong một niềm tuyệt vọng và khủng khiếp. Đầu óc Thọ tới lúc đó cũng đã hoàn toàn choáng đi, mê đi rồi. Y không còn nghĩ được điều gì nữa. Không còn nhớ được cái gì nữa. Chỉ thấy quay cuồng. Chỉ thấy rối loạn. Chỉ thấy nháo nhào. Chỉ thấy nổ tung và tối sập. Và đã nghe thấy tiếng xe tăng gầm ở sườn đồi.

Rồi Đức đang ghì ống nghe điện thoại bên trái bỗng quay lại, thét lên một tiếng rụng rời:

- Thằng Phát và lữ phó Phạm Hy Mai chạy rồi. Quân tiểu đoàn dù 3 tan vỡ hết. Bắt đầu tràn rồi! Tràn rồi! ...

Không còn kịp làm gì nữa. Thọ chỉ còn biết xách một chiếc máy truyền tin nhỏ rồi vẫy lũ sĩ quan tham mưu ùn ùn phóng đại ra ngoài, nhằm phía hầm chỉ huy tiểu đoàn mà lao tới. Thọ cần phải chạy bởi một lẽ dễ hiểu: Đã tới giây phút cuối cùng rồi, nếu còn ở lại hầm này sẽ bị tiêu diệt tức khắc vì đó là mục tiêu trọng yếu, lại hết lính bảo vệ rồi. Chạy sang hầm tiểu đoàn dù 3, dầu sao cũng còn hy vọng có lính để chỉ huy, và nơi đó gần mỏm cuối đồi có thể tháo chạy ra rừng...

Bụi mù. Khói tràn ngập. Lửa bốc ngất trời. Đạn nổ trước mặt. Đạn nổ sau lưng. Đạn nổ bên tả. Đạn nổ bên hữu. Đạn tiểu liên. Đạn súng máy. Đạn cối. Đạn pháo. Đạn ĐKZ. Đạn pháo của xe tăng... như bão, như lốc. Lăn đi. lăn đi. Toài đi, toài đi! Bò đi, bò đi! Lết đi! lết đi! Lao đi! lao đi! ... Không còn biết trời đất gì nữa. Mấy tên chậm chân chưa kịp chui vào hầm tiểu đoàn 3 đã bị bắn gục ngay trên mặt đất.
*
*   *
Vỡ rồi! Tan rồi? Những chiếc chiến xa hùng mạnh cùng những phân đội tinh nhuệ của Quân giải phóng đã vượt qua các hàng rào phòng thủ địch y như những người khổng lồ giẫm lên những hàng rào bằng bao diêm và vỏ sò của lũ con nít bày để cản đường họ. Những Oå súng nào còn ngoan cố kháng cự tiếp tục bị bắn nổ bung ra như những nồi cám vỡ. Xe tăng tiếp tục chồm lên, dùng xích day đi day lại ti"ên những nóc hầm. nóc hố. Tiếng xích nghiến ken két. lạnh người.

Vỡ rồi! Tan rồi! Lũ lính dù Sài Gòn rít lên khủng khiếp trên khắp các tuyến, bọn rúc sâu vào các hầm hố, bọn vứt súng cuống cuồng tháo chạy. Nhưng. Những con chuột nhắt đã bị nện đến nhừ tử, điên dại đi vì quá sợ ấy còn sức đâu mà chạy? Những chiếc xe tăng đã chồm lại. Những chiến sĩ bộ binh Quân giải phóng cũng đã bay tới với những họng tiểu liên, những mũi lê chĩa thẳng.

" Hàng thì sống! Chống thì chết! Ra đi! Ra hết đi!" Những tiếng quát cất lên, kiêu hãnh và oai hùng giữa những tiếng súng vẫn còn nổ ầm ầm trên khắp trận địa. Những tên sĩ quan, những tên lính dù bắt đầu quỳ rạp xuống. Những cánh tay lẩy bẩy giơ lên. Những đôi môi trắng mốc, run rẩy và méo mó...

Chiếc xe tăng 555 lúc đó cũng đã tiêu diệt chớp nhoáng khẩu ĐKZ lớn và những ổ súng M.72 chống chiến xa của địch, nghiền nát hết mọi ụ súng chống cự ở trước mặt nó và cắt thẳng một đường lên chính giữa đồi Nó chồm lên đứng sừng sững ở đúng giữa đỉnh nóc hầm của bộ chỉ huy lữ đoàn dù 3 y như một con sư tử khổng lồ. Nó đứng đấy nhưng vẫn gầm lên, rống lên, quay pháo bắn ra bốn phía tiêu diệt nốt những ổ súng địch còn lại và quét đuổi những toán lính địch đang mê cuồng tháo chạy.

Những chiếc xe tăng ở thê đội 2 cũng đã tràn lên và đang thi nhau húc đổ những ụ đất, những khẩu pháo của địch y như húc đổ những đồ chơi bằng đất nặn. Và lúc ấy ở mũi đông-nam được xe tăng trợ lực, các chiến sĩ bộ binh oai hùng đã xung phong như bão lốc. Sau khi tiêu diệt chớp nhoáng những tên địch ngoan cố chống cự và đã bắt được khá nhiều tù binh, các chiến sĩ Giải phóng đã xông tới một hầm lớn. Đó chính là hầm chỉ huy của tiểu đoàn dù 3 - Căn hầm mà Thọ cùng toàn thể bộ tham mưu của y vừa chạy tới

- Đây rồi ? Đây rồi! Chúng đây rồi. Lũ chỉ huy trốn đây chưa chịu ra hàng nốt hay sao?

Nhanh như cắt, một tổ ba người lao vụt tới gần miệng hầm, một anh tiến thẳng chính diện, hai anh vòng từ hai bên quặp lại. Các chiến sĩ Quân đội giải phóng nhân dân Lào thét lên bằng tiếng Việt, để cho tụi ngụy Sài Gòn nghe hiểu:

- Hãy ra hàng mau! Hàng thì sống, chống thì chết! Nếu không, chúng tao sẽ tiêu diệt!

Không phải đợi lâu, từ trong miệng hầm đã vọng ra một giọng nói gần như líu lưỡi:

- Xin đừng bắn! Chúng tôi xin hàng! Đầu hàng rồi. Xin đừng bắn! Đừng bắn! ...
*
*   *
Ở hầm chỉ huy pháo binh mỏm bắc, tên trung tá Châu tiểu đoàn trưởng pháo nằm chết gí ở đó từ lâu cùng mấy tên sĩ quan tham mưu khác. Chúng cùng đã gần như mê cả đi rồi. Một chiến sĩ Quân giải phóng đã xông thẳng vào hầm tóm cổ y lôi ra cùng tất cả đồng bọn. Cạnh đấy là hầm quan sát. Tên đại úy Phương tiểu đoàn phó cùng mười tên sĩ quan, hạ sĩ quan khác cũng đang ngồi, hoàn toàn bó tay. Trong hầm còn đầy đủ tiểu liên, súng phóng lựu, lựu đạn...

Đã nghe thấy tiếng Quân giải phóng gọi hàng trên khắp mặt đồi mỗi lúc một nhiều và tiếng xe tăng quần đi quần lại ở ngay trên trận địa pháo. Hầm chuyển như đưa võng. Mặt đầy lo sợ và buồn bã, sau khi thấy tên nọ đùn tên kia. Phương tiểu đoàn phó bảo Thương trưởng ban tác chiến tiểu đoàn:

- Thôi được, ông ra trước đi, tôi đi liền sau ông! Nếu Giải phóng không tin, có bán chết, tôi sẽ chết cùng ông.

Thương đồng ý, cúi lom khom, bước ra cửa hầm, y thò cái cổ gầy nhẳng lên nhìn quanh rồi la to:

- Xin hàng! Chúng tôi xin hàng!

Và sau đó tất cả bọn cùng hô vang từng nhịp, từng nhịp thật to và rõ ràng y như hô khẩu hiệu:

- Xin - hàng - Chúng - tôi - xin - đầu - hàng!

Ngay tức khắc có tiếng chân người chạy lại rất mau, rồi có tiếng quát vọng vào bằng tiếng Việt chưa thật rõ âm sắc:

- Được! Ra đi. Ra cả đi!

Cả mười một tên cùng từ từ bước ra, tay cao quá đầu.

- Chúng mày sống rồi đấy! Yên trí. Không có lo nữa nghe?

Một anh chiến sĩ Giải phóng Lào có đôi mắt một mí, rất trẻ cười vang, nói to. Bấy giờ. Phương mới dám ngước mắt nhìn. Ôi chao! Dầu đây là một buổi chiều ủ dột lất phất mưa bay, nhưng đã bao ngày bị chôn sống dưới hầm sâu nay được thấy chút ánh sáng ban ngày sao mà lạ lùng sung sướng làm sao vậy!

Và, đây rồi. Nhúng chiến sĩ Giải phóng, những con người chiến thắng. những con người mà bọn chúng đã từng nghe nói tới bao lâu nay: người nhỏ nhắn thôi, nhưng lanh và tỏ ra dẻo dai đặc biệt. Những bộ quần áo màu rêu nhạt lấm láp, đầy bùn - vì trời mưa - nhưng có lẽ đẹp hơn cả là những gương mặt (cũng hầu hết nhỏ nhắn, trẻ trung), sáng sủa và thông minh. Những gương mặt ấy cũng lấm láp đất bùn nhưng nom lại dường như càng thêm đẹp hơn lên, một vẻ đẹp hiên ngang và chiến trận.

- Đi! Lại chỗ tập trung kia! Sống rồi đấy! Yên trí, không có lo nữa!.

Anh chiến sĩ ban nãy lại vui vẻ, bồng bột, nói to.

Phương đã nhìn thấy được tất cả cảnh tượng tan hoang trên mặt đồi với những xác chết ngổn ngang, những súng ống cái cháy, cái gãy, những khẩu trọng pháo đã gục tan tành chỗ này mấy chiếc bánh xe vỡ toác, chỗ kia một đống những ba lô, mũ sắt nát nhừ... Đâu đâu cũng thấy vỏ đạn và máu người. Những mảnh áo giáp Mỹ tung tóe trắng xóa khắp nơi. Đúng là không còn một mảnh giáp? Hố pháo, hố cối dày đặc như mặt sàng. Khói vẫn còn lắt lay đùn lên buồn bã từ hầm súng này, ổ súng khác ... Quang cảnh thật u ám thê lương. Phương hay đọc sách. Y bỗng liên tưởng tới hình ảnh trận Oa- téc lô của Na-pô-lê-ông thuở trước. Y không thể nén được một tiếng thở dài.

Nhưng kìa! Đã nom thấy những tên sĩ quan, binh lính dù ra đầu hàng. Đông quá sức tưởng tượng. Kìa? “Cò” Châu! (Bọn y trước đây vẫn hay gọi đùa tên Châu như vậy vì Châu đã từng chỉ huy quân cảnh). Té ra "cò" Châu cũng đã nhanh chân hoặc bị tóm cổ ra đây từ lúc nào rồi. Cả bọn nom thấy nhau bỗng cùng cười - nụ cười như có ý nghĩa: "à, thì ra tất cả chúng ta.... cùng thế cả!" và tự nhiên tên nào cũng cảm thấy như... yên tâm hơn.

Nhưng, còn đáng yên tâm hơn nữa: Phương và đồng bọn cùng mở tròn mắt, nhìn về phía trước: Đại tá lữ đoàn trưởng của bọn y cùng toàn thể bộ tham mưu lữ đoàn cũng đã có mặt ngồi thành một hàng dài, cúi đầu ở dưới giao thông hào. Lầm sao được! Đúng rồi! Đúng rồi! Kìa! ông Thọ! ông Thọ to béo? "Làm sao được?” Nhưng khi cùng nhập vào một bọn với nhau, Phương thấy còn thiếu mất vài tên trong hộ tham mưu; y quay lại khẽ hỏi một tên bên cạnh, một tên cằm đầy râu, mặt quắt lại, hai mắt buồn thảm: 

- Thiếu tá Hiền, đại úy Giang và một vài người nữa chết rồi! Đại úy Thoại thì bị thương nát hai chân. Một đại úy tham mưu khác bị lạc đâu không rõ! Còn tất cả đã ra hàng. Không cần phải một lời bàn bạc! ông Thọ cũng vậy. Không một ai nghĩ tới chuyện tử thủ. Vì tử thủ mà làm gì? Tử thủ vì ông Thiệu ông Kỳ, hai cái tên pạc-ti-dăng cũ của Pháp ư? Hay tử thủ vì ông Ních-xơn? Điên rồi. Hoặc tử thủ vì danh dự. Nhưng chúng ta làm gì còn danh dự nữa, một khi đã đi lính chỉ vì đồng tiền, vì quân dịch ép buộc. Và chiến đấu thì hoàn toàn chỉ vì những mục đích ẩn giấu của Mỹ, mà bên ngoài thì cứ tưởng như vì mọt thứ quốc gia, một nền cộng hòa vớ vẩn nào đó. 
*
*   *
Tên đại úy tham mưu ấy lạc đi đâu? - Y không lạc đi đâu hết! Y chỉ chậm chân, không theo kịp bọn sĩ quan chỉ huy chạy sang hầm của tiểu đoàn dù 3 nên bị kẹt lại trong hầm chỉ huy lữ. Đến khi định chạy ra theo thì chiếc xe tăng 555 đã cưỡi lên nóc hầm rồi. Y đành rúc vào tận trong cùng, nằm chết gí ở đó. Đến khi nghe thấy im hết tiếng súng, hết lâu rồi, đoán biết mọi việc trên mặt đất đã giải quyết xong, y mới đánh bạo lò dò chui ra. Tới gần cửa hầm, y bỗng giật bắn người khi dụng phải một xác chết; nhưng không? Đấy là một tên lính không rõ từ đâu chui vào đây tự lúc nào.

- Ra thôi! Ta ra thôi chứ? - Hai tên cùng xì xào.

Bỗng "oang" một trái lựu đạn ở ngoài tống vào. Trụ té ngửa ngất đi... Đến lúc tỉnh lại, y thấy mình đau rần, một vết thương nhỏ ở cổ tay còn đang rỉ máu. Tối om. Sờ soạng chung quanh, y lại muốn kêu rú lên, khi thấy tên lính đã vỡ óc nằm chắn ngang lối ra. Một lần nữa lấy hết can đảm, y trườn qua xác tên lính, bò ra ngoài. Đã khuya lắm rồi thì phải? Quân giải phóng Lào đã đem các tù binh rút hết từ lâu. Chỉ còn lại đêm tối im lặng, cái im lặng ghê rợn, hãi hùng chưa từng thấy phủ trên chiến trường tan hoang, ngổn ngang xác xe, xác pháo, xác lính dù. Một vài ngọn lửa nào đó vẫn còn hiện lên chấp chới đây, đó.

Nhưng còn hãi hùng hơn, khi y vấp phải xác một con đàn bà là hạ sĩ quan truyền tin. Nó nằm úp sấp, mái tóc rất dài xõa tung. Tên sĩ quan tham mưu ấy vừa cúi xuống mó vào mái tóc lạnh giá ấy để gỡ ra khỏi chân, đã muốn rụng rời cả hai tay. Như cuồng lên, y ôm đầu lao vụt xuống sườn đồi phía tây, nơi ấy có con suối dưới chân đồi và bên kia là những cánh rừng rậm. Y lại vấp ngã giúi giụi, lúc vấp xác chết, lúc va phải ụ pháo, hoặc những càng súng gãy... Cuối cùng, díu cả chân lại không tài nào chạy nổi nữa, y đành phải bò, phải trườn. Y bò trườn qua hết xác chết này lại đến xác chết khác. Y chỉ bị thương nhẹ ở cổ tay, nhưng giờ đây hai bàn tay y đã đẫm máu, nhớp nháp, mặt mũi, áo quần y cũng đã đầy những máu. Càng như mê đi, y lao mạnh một cái nữa xuống bờ suối. Nhưng đầu y bỗng đập mạnh vào một tảng đá. Một lần nữa y ngất đi. Đến khi tỉnh lại y thấy có cảm giác gì lạnh lạnh. Một nửa mặt y đã ngâm dưới làn nước suối tự bao giờ. Phải chăng làn nước mát lạnh ấy đã làm cho y dần dần tỉnh lại?

Thế là vội vã lội ào qua con suối, y chạy thẳng vào rừng.

Cứ thế y chạy mãi, đi mãi, mấy ngày liền trong những khu rừng rậm, không còn biết phương hướng nào nữa. Cho tới chiều hôm ấy y nom thấy mấy chiếc lán của người Lào, sợ quá nhưng cũng đói quá. Đói đã rã rời hết chân tay rồi. Y không còn nghĩ gì hơn là đành liều vào xin ăn.

- Ngồi đó! Cho nắm xôi đây!

Những người dân Lào nhìn y bằng con mắt rất lạ, ném cho y một nắm xôi, chỉ cho y một cái hầm trú ẩn máy bay. Rồi một người trong bọn họ quày quả chạy đi. Lát sau, hai chiến sĩ Giải phóng mang súng tới. Không cần phải đợi nói nhiều, tên đại úy tham mưu ấy giơ hai tay lên, ngoan ngoãn:

- Thưa! Em xin hàng! Em hàng... từ lâu rồi!.

Trên đường bị giải đi, y bỗng gặp một toán rất đông những tên mặc áo loang lổ bị giải đi ngang qua. Y đứng dừng lại, sững sờ và không nén được một tiếng kêu to:

- Ủa! Quân của ông Thạch nữa kìa!

Phải. Đó là bọn tiểu đoàn dù 2 của tên trung tá Thạch! Tiểu đoàn dù 2! Căn cứ 30! Tất cả cũng đã không còn gì nữa! Vỡ rồi! Tan rồi! Tất cả đã bị quét sạch sành sanh.

Rồi khi tới địa điểm tập trung, nhìn thấy đầy đủ bộ tham mưu lữ đoàn từ Nguyễn Văn Thọ trở xuống, với hàng trăm, hàng trăm sĩ quan lính tráng khác ngồi đầy rừng, đầy suối, tên đại úy tham mưu ấy không khỏi bỗng nảy ra một ý nghĩ ngồ ngộ và chua chát: "ờ? Thì ra toàn thể lữ dù 3 của ta đã... tiến tới đây. Phải! Đã tập trung tiến tới đây! Chỉ có khác là không phải tiến tới Sê Pôn như kế hoạch người Mỹ đã quy định!" 

Trời hôm ấy lại hửng nắng. Cái nắng Lào hôm đó mới óng ánh rực rỡ, tưng bừng làm sao? Những ngọn suối rào rào cất lên những bản nhạc đá hoang sơ nhưng xiết bao hùng tráng mãnh liệt.
*
*   *
Và cũng ngay chiều hôm đó, tại Nhà Trắng Ních-xơn, con diều hâu hung hăng ấy đã nhận được tin sét đánh về vụ "Căn cứ hỏa lực 31 bị thất thủ”. Những người ở gần ông ta đã kể lại: ông ta sững sờ và gần như mất trí một lúc và ngày hôm sau gần như phải bỏ ăn. Ông ta hiểu, tiếp sau đồi 500, căn cứ 31 vững chắc kiên cố ấy bị mất nốt, có nghĩa là: tất cả mọi việc đã bắt đầu nối tiếp nhau mà sụp đổ không còn gì cưỡng lại nối nữa.

Thế là gần như tất cả những mưu đồ lớn về cái trò Việt Nam hóa chiến tranh đặt vào canh bạc này đã tiêu ma trông thấy rồi chăng? Thế là cái công thức "Hỏa lực Mỹ cộng binh lính ngụy bản xứ", đã tỏ ra hoàn toàn phá sán rồi chăng? Đầu óc choáng váng. Tâm trí rối loạn.

Tuy nhiên, chỉ mấy hôm sau, trong một cuộc họp báo, Ních-xơn đã cạo râu sạch sẽ, đeo cà-vạt thật ngay ngắn và cố làm ra vẻ thật khoan thai, trầm tĩnh, nghiêm chỉnh tuyên bố: "Họ (ngụy Sài Gòn) đã làm hết sức họ và đã thu được những thắng lợi lớn. Tôi rất khâm phục họ!".
Tháng 6-1971

HAI BÀN TAY

Đã khuya rồi. Mọi tiếng động trong quân y viện dường như đã im bặt. Chỉ còn nghe tiếng rừng thì thầm dưới ánh trăng lấp lánh và xa xa một chiếc OV.10 nào đó đang rên rỉ, dò dẫm đi ăn đêm. Một vài loạt pháo nổ ùng ùng ở bìa rừng, nơi tiếp giáp với quận lỵ...

Một mình tôi ngồi bên anh thương binh mới được đưa về hồi hôm. Anh bị mảnh nhỏ vào cả hai mắt, trạm phẫu thuật tiền phương đã làm một số động tác cấp cứu cho ảnh. Các bác sĩ của viện tôi đã xem xét lại vết thương và quyết định sáng mai sẽ mổ. Tôi ngồi bên ảnh đã lâu lắm. Tôi tưởng anh đã ngủ. Nhưng bỗng ảnh cựa mình, ánh trăng chiếu rọi vào khuôn mặt gầy gò, đã hơi lớn tuổi.

- Nè, cô y tá!

Tôi gần như giật mình, không hiểu vì sao.

- Dạ, có em đây! Anh cần chi vậy?

Giọng ảnh nho nhỏ:

- Có thiệt đây là... quân y viện lớn của hậu cứ không?

- Dạ, phải

- Quân y viện 31 hả?

- Dạ, có điều chi vậy anh.

Tôi càng hồi hộp.

- Ở đây có bác sĩ Nhị phải không?

Thế là hiểu rồi! Tôi thở trút. Bác sĩ Nhị! Từ khi tốt nghiệp lớp y tá về đây. tôi đã để ý thấy một điều: gần như hầu hết thương binh từ hỏa tuyến được đưa tới viện đều hỏi bác sĩ Nhị. Bác sĩ Nhị, người thầy thuốc đã được nhiều người gọi là "người có đôi bàn tay vàng". Người ta đã nói khá nhiều điều về anh, thậm chí đã có những điều như huyền thoại. Nhưng ở đây, tôi đã biết rõ anh, một con người cũng bình dị như tất cả mọi con người bình dị khác, một con người đã trải qua hai lần kháng chiến, một con người có cái bề ngoài thật trầm tĩnh với một nụ cười hơi dè dặt và đôi khi như ngây thơ.

- Anh có biết bác sĩ Nhị sao? - Tôi hỏi lại.

- Có. Tôi được nghe nói tới bác sĩ này từ lâu. Có thiệt đó là một nhà phẫu thuật rất giỏi không?

Tôi mỉm cười cầm tay anh:

- Bác sĩ Nhị, trước kia, hồi kháng Pháp, cũng là một y tá như em ... 

- Biết rồi. Nhưng này, có thiệt là một nhà phẫu thuật rất giỏi không .

Tôi gật đầu:

- Dạ. Điều đó không sai. Nhưng theo em, không phải đó chỉ là một nhà phẫu thuật giàu kinh nghiệm mà còn có nhiều điều khác cũng rất đáng quý ở ảnh. Sớm mai, chính ảnh sẽ làm phẫu thuật cho anh đó!

- Thiệt vậy ư? Vậy thì may cho tôi! May quá xá! Tôi có thê yên tâm rồi. Út nè, bây giờ có chuyện chi vui nói đi? Tôi không sao ngủ được. Tôi chờ sáng. Tôi đau dữ lắm. Tôi phải thú thiệt như vậy. Tôi đã phải ráng lắm. để khỏi rên la. Nào, Út có chuyện chi vui vui ...

Ôi tôi biết nói chuyện chi "vui vui" cho anh quên đau lúc này? Tôi có chuyện chi để nói đây. Mà thôi, tôi hãy kể ngay về con người mà ảnh vừa hỏi. Đúng rồi! Nào! Tôi bắt đầu nhá! Tôi có thể kể suốt đêm nay. Rồi mai mốt tôi còn có thể kể tiếp cho anh nghe nhiều buổi nữa. Nào, tôi bắt đầu, anh nghe!

Hồi đó quân ta mở chiến dịch Đồng Xoài. Đồng Xoài anh biết rồi đó, he?. Đó là binh đoàn 9 của mình. Một mũi ta diệt chi khu quân sự. Một mũi diệt quân ứng chiến. Rừng cao su ngút ngàn. Đó là sở cao su Lợi Thuận, chắc anh đã nghe tên. Quân ta ém ngay giữa đó. Và đây cũng là lần đầu bọn Mỹ đưa F.105D vào chiến trường. Mũi nhọn hoắt, nách có ngạnh, từng tốp chúng bay rà sát các ngọn rừng, rú lên kinh khủng, hòng cướp tinh thần bộ đội. Rồi bom lớn đáp xuống, đào từng cái phễu khổng lồ. Rốc-két rạch đỏ trời. Những đám cháy bùng bùng khắp nơi. Rừng cao su bùng cháy! Ta thì gấp quá không có nhiều thời gian chuẩn bị như Bình Giã.

Nhưng gấp thì gấp. Đồng Xoài cũng đã làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc Huê Kỳ, anh à! Mỹ - ngụy đã phải trực thăng vận tới đó một "dê" (tiểu đoàn) biệt động. Chiến y rằn ri, tiểu liên cực nhanh, phù hiệu sói, cọp đủ thứ quỷ quái. Nhưng quân của đoàn 9 đã vận động ra như một tia chớp. Sạch! Cả "dê" biệt động ấy sạch, sau có vài chục phút. Mà ta chỉ bị có mười! Có lạ không chớ! Nói cứ biểu tuyên truyền! Nhưng mà hoàn toàn thực một nghìn phần nghìn. Mười, cả thương lẫn vong! Giỏi quá xá phải hôn, anh?

Hôm sau, cay cú. Mỹ - ngụy ném tiếp một "dê" dù xuống. Quân của đoàn 9 lại vận động ra. Hai bên quần nhau trên những bãi bằng, trong những khu rừng cao su. Ta có một tổ thông tin liên lạc đã mưu trí, dũng cảm đưa máy lên một cái két nước của sở cao su. Từ trên cao các chiến sĩ ta đã quan sát rất tốt, nắm được tất cả mọi sự điều động binh lực của địch, kịp thời điện về sở chỉ huy. Và đến lượt thằng dù bị đánh quỵ hoàn toàn, bị đánh qụy thảm hại y như thằng biệt động hôm trước vậy. Đặc biệt hôm ấy quân ta thu được vũ khí nhiều vô kể. Anh còn nhớ chuyện cái tổ thông tin ấy chớ! Báo. đài nói quá rõ rồi. Một người trong tổ đã được tuyên dương anh hùng. Anh Quang, nếu em không lầm ...

Nhưng mà thôi, trở lại cái Đồng Xoài, nhá! Đánh thằng dù, thương binh cũng ít. Quân y bọn em đã phải la đùa là ế hàng. Tuy nhiên, đã có một chuyện không sao quên, ấy là trường hợp một anh chiến sĩ của chính cái tổ thông tin trên két nước thì bị miếng vào sống lưng. Anh được đưa tới trạm. hai chân đã bị liệt rồi. Anh buồn rầu nói: "Tôi vừa thấy đau nhức ở lưng thì thấy nửa thân dưới nhẹ bỗng, như bị cắt rời hẳn ra, không còn cảm thấy gì nữa...". Anh nằm trên cáng, nửa cáng đẫm máu. Anh còn trẻ, mặt trắng xanh và rất lạ, anh có đôi mắt rất sáng nhưng cũng rất buồn, hễ nhìn vào là em chỉ muốn khóc. Anh được đưa tới trạm đúng lúc trận chiến đấu đã kết thúc, quân ta đã được lệnh chuyển đi và quân y cũng được lệnh nhanh chóng rút theo đơn vị để chuẩn bị một trận đánh mới.

Dưới vòng lượn của F.150D và trong lúc bom vẫn nổ rung chuyển cả đất rừng, bọn chúng em gấp rút thu dọn đồ đạc, kể cả một số súng đạn chiến lợi phẩm do đoàn 9 để lại và đưa thương binh lên cáng. Một đoàn bác sĩ đến nghiên cứu, rút kinh nghiệm cách tổ chức và làm việc của trạm phẫu thuật tiền phương này đã rút trước cùng các thương binh nhẹ. Bác sĩ Nhị cũng đã bỏ khẩu trang đội mũ tai bèo lên đầu và đeo súng sáu vào bên hông... Anh thương binh được đưa tới trạm vào đúng lúc đó. Tất cả bọn nhỏ chúng em đều không khỏi ngại ngùng. Nhưng bác sĩ Nhị đã gật đầu và bảo để cho ảnh xem lại vết thương, ảnh lại vội vã mặc áo choàng, lại đeo khẩu trang và lát sau ngẩng lên, mắt thoáng tối lại:

- Vết thương vào cột sống!

Bọn nhỏ chúng em đều sững sờ. Chỉ cần có bấy nhiêu tiếng, bọn em cũng đã có thể hiểu tình trạng vết thương ra sao, và cũng hiểu thêm: bác sĩ Nhị đã lo lắng đến thế nào ...

Hãy cho em dừng lại để nói về vết thương cột sống. Đó là loại vết thương rất khó. Phải biết mổ cột sống cho cơ bản để khám và giải quyết các vấn đề ở tủy. Nhưng phải thật chuyên về thần kinh mà các bác sĩ chiến trường, anh rõ rồi đó, thường lại không có nhiều người chuyên như vậy. Nói một cách khác: quân y ngoại khoa phổ thông không thể giải quyết những trường hợp này.

Theo lý thuyết cổ: gặp vết thương cột sống người ta thường chỉ băng lại, cố giữ gìn cho khỏi va chạm mạnh, và tránh lở loét... nhưng đó là lý thuyết cổ. Còn chúng ta đang ở chiến trường, chúng ta đang đánh Mỹ, thì sao? Một người đã nhiều đêm, nhiều tháng, nhiều năm rất đau buồn về vấn đề này. Đã có lần ảnh khóc lên trước sự bất lực của mình. Đó là bác sĩ Nhị, con người mà chúng ta đang nói tới. Qua nhiều năm quan sát, bác sĩ Nhị đã nhận thấy các vết thương cột sống làm liệt car hai chân và dù được băng bó, thương binh cũng sẽ lở loét hết mông, hết chân rồi dẫn đến hy sinh.

Anh Nhị đã đi tới một quyết định: theo tinh thần chỉ tiến không lùi của người cách mạng, mạnh dạn chiến đấu như những người dũng sĩ với vũ khí thông thường đã can trường tấn công thẳng vào những binh đoàn hùng mạnh Mỹ. Lần đầu tiên, năm 1963, các giới quân y chiến trường đã được nghe nói tới những ý kiến của bác sĩ Nhị về vết thương cột sống. Anh đã thành công trong một vài trường hợp. Một năm sau, anh đã thành công liên tiếp tất cả ba mươi trường hợp và kết luận của anh đã được giới quân y chiến trường hoàn toàn xác nhận.

Kết luận ấy như sau: những vết thương ở cột sống thường làm đứt tủy, do đó gây liệt. Nhưng thật ra tỷ số bị đứt tủy chỉ khoảng một phần ba. Còn đa số vết thương ấy tủy chỉ bị chèn bởi những mảnh xương. Như vậy nếu khéo léo, kiên trì mổ vết thương, lấy được các vật chèn ra, tủy sẽ dần hồi phục. Thương binh sẽ được cứu khỏi bại liệt. Tuy nhiên. cần phải giải quyết vết thương này càng sớm càng tốt, nếu đê quá vài ba ngày, tủy bị chèn cũng dễ bị chết hoàn toàn. Đó là những hiểu biết về vết thương cột sống và là những thắng lợi mới của bác sĩ Nhị cộng với những thành tựu của anh về truyền máu.

Về nối mạch máu, về mổ sọ não, về hồi sức tổng hợp... những thành tựu rất quan trọng trong điều kiện chiến trường cực kỳ thiếu thốn, gian khổ này, đã nâng anh lên làm cho anh trở thành "một con người có đôi bàn tay vàng", một con người mà dường như thương binh nào cũng đều biết, đều nghe nói tới ...

Em lại trở về với trận Đồng Xoài và anh chiến sĩ thông tin bị thương ở cột sống vừa được đưa tới trạm.

Bác sĩ Nhị đứng lặng đi mấy phút sau khi thốt lên mấy tiếng "vết thương cột sống!". Rồi sau đó anh quay lại phía bọn em, nhẹ nhàng ra lệnh:

- Chuẩn bị mổ!

Không thể nào ngạc nhiên hơn thế nữa. Mái ni-lông che phòng mổ đã dỡ đi rồi. Đồ lề đã bỏ bồ, sọt rồi! Máy bay đang ném bom lung tung. Bộ binh địch còn có thể đổ xuống đây, trong khi đó quân ta đã chuyển đi nơi khác, đại bộ phận trạm cũng đã đi trước. Có người đã mạnh dạn lên tiếng can ngăn anh. Nghe cũng có lý: “Hãy tin ở tuyến sau. Cứ băng bó tạm lại cho anh chiến sĩ thông tin. Phía sau cũng sẽ dùng phương pháp của anh Nhị đã được truyền bá rộng rãi để làm phẫu thuật và điều trị vết thương này...”

Anh Nhị không tranh cãi nhiều. Anh xin hội ý chi ủy. Chi ủy lúc đó chỉ có ảnh và một anh là chính trị viên phó của đại đội quân y trung đoàn.

- Không phải tôi không tin anh em phía sau. Nhưng tôi biết từ đây về đó khá xa, địch lại đang oanh tạc dữ và còn có những hoạt động khác. Lấy chi bảo đảm ngay ngày mai thương binh này sẽ tới viện? Như vậy chậm độ ba ngày, thương binh này sẽ vĩnh viễn bị liệt cả hai chân và còn có nguy cơ tử vong...

Đôi mắt xôn xao xúc động anh tiếp:

- Còn việc tổ chức mổ ngay lúc này, tôi cũng đã có nghĩ rồi. Chậm độ một, hai giờ cũng không sao. Lẽ cố nhiên phải tính tới mọi khả năng, nhưng cũng cần phải biết nắm quy luật. Tôi đã đi theo bộ đội. Tôi có thể tin là lúc này địch chỉ ném bom chứ chưa có thể đổ quân ngay xuống đây ...

Cuối cùng, những ý nghĩ ấy của anh đã chiến thắng. May quá! Bàn mổ chưa bị phá bỏ. Mổ ngay giữa trời, dưới vòng lượn của F.150D. Bốn chung quanh bom vẫn nổ. Mặt đất vẫn luôn luôn rung lên. Lá cao su chốc chốc lại lật ngược, bị bứt tung ném xuống xối xả. Đang giữa lúc bác sĩ Nhị vừa gắp được một mảnh xương trong đốt cột sống bị giập vỡ thì một trái bom bỗng gầm lên, gần như sát nách trạm. Một anh y sĩ đang phụ mổ ngã nhào ngay xuống đất. Hai bàn tay em cũng run lên bần bật.

Nhưng ngước nhìn lên: bác sĩ Nhị vẫn dường như không hay gì hết. Toàn bộ tâm trí ảnh đang dồn hết vào đôi mắt nhỏ, nâu đang sáng lên chăm chú. Hai bàn tay ảnh - đôi bàn tay vàng - vẫn đang thoăn thoắt hoạt động không ngừng, như đang làm phép màu trên cơ thể người chiến sĩ. Bom vẫn tiếp tục nổ. Nhưng lần này em không thấy sợ lắm nữa, mặc dù hai bàn tay vẫn còn hơi run.

Lát sau, anh Nhị bỏ dao kéo xuống, ngẩng mặt lên. Bọn em cởi bỏ khẩu trang và mũ áo cho ảnh. Và bấy giờ mới thấy ảnh thoáng cười, ảnh ra lệnh thu quân. Không ngờ anh đã cử người vào sở cao su tự lúc nào để mượn xe tải chở mủ, nhằm chuyển thương binh, chiến lợi phẩm và bọn chúng em đi cho mau. Khi ba chiếc xe đồ sộ rồ rồ chạy tới, cả bọn em reo ầm. Cũng hay? Chưa bao giờ quân y lại được hành quân cơ giới như hôm nay. Chỉ trong chớp mắt tất cả mọi người, mọi vũ khí và dụng cụ đã được đưa lên xe.

Anh thương binh cột sống được đặt trên một chiếc võng mắc ngay trong quầy xe. Hai y tá ngồi kèm hai bên. Thế rồi ba chiếc xe tiếp tục lăn bánh, nhằm hướng tây. Lệnh của anh Nhị: mạnh dạn cắt qua một vùng đang bị áp lực của máy bay để vượt nhanh khỏi khu vực này trở về nơi tập hợp được quy định.

Anh Nhị đi xe đầu. nhưng ảnh không ngồi trong ca-bin, mà đứng ở bậc xe để dễ quan sát máy bay và điều khiển đội hình xe. Lúc đó đã mười bảy giờ. Cả một vùng trời phía tây rực đỏ ráng chiều. Rừng cao su như lênh láng máu. Những chiếc máy bay địch vẫn quần trên đầu.

- Lẹ lên

- Chậm lại chút

- Dừng lại!

- Dọt! Dọt lẹ lên, anh em!

Lúc nãy anh là người chỉ huy im lặng, gan góc lạ lùng trước bàn mổ. Lúc này anh là người chi huy cực kỳ linh hoạt và quyết liệt ở trận địa. Anh liên tục hô cho mấy anh lái xe của sở cao su điều khiển tốc độ đoàn xe.

Chốc chốc một trái bom nổ tung ở phía trước. Cây cao su đổ rạp, chặn hết đường đi. Khói, đất cát cuốn lên mù mịt.

- Rẽ trái!

- Rẽ phải!.

Ba chiếc xe lúc ngoặt sang bên này, lúc ngoặt sang bên kia đường, xuyên vào giữa các hàng cây cao su tiếp tục chạy miết. Và cũng chốc chốc một trái bom lại nổ rầm, bụi mù ở phía sau. Bọn em bị hất mạnh về đằng trước.

Cứ như thế, đoàn xe lúc lao lên, lúc kìm lại, lúc rẽ trái, lúc tạt phải, táo bạo và tinh khôn, tiếp tục phóng đi không ngừng. Bom vẫn nổ, khi chặn đầu, lúc khóa đuôi, nhưng chừng một giờ sau, cả ba chiếc xe đều đã tới đúng địa điểm tập hợp. Tất cả những đồng chí của trạm rút khi trước đã đứng đó, dưới một hàng dừa, cháy lòng cháy ruột chờ đợi. Khi anh Nhị vừa nhảy xuống, một anh đã lao tới, ôm chầm: :"Ôi chao! Choa cứ tưởng mi chết?".

*
*   *
Hôm sau. anh thương binh bị vào mắt đã được bác sĩ Nhị làm phẫu thuật đúng như tôi nói. Cuộc mổ xẻ thật hoàn hảo. Anh thương binh rất hài lòng.

Lại một buổi tối trăng sáng trong rừng, tôi ngồi bên ánh. Và ảnh lại yêu cầu tôi kể tiếp một chuyện chi đó về người thầy thuốc của chúng lôi. Tất nhiên tôi lại vui lòng kể lại anh nghe với tất cả niềm vui và kiêu hãnh.

Ấy là lúc bọn Ních-xơn đã làm đảo chính ở Campuchia, lật đổ ông hoàng Xi-ha-núc. Ngọn lửa chiến tranh đã lan bùng khắp đất nước chùa tháp. Người Khơ-me đã đứng lên chống Mỹ. Lúc đó bệnh viện này, vẫn cái bệnh viện lớn mang số hiệu 31, đang ở một cánh rừng biên giới. Rừng đầy những bằng lăng, ngành ngạnh và le thì mọc khắp bên dưới. Bệnh viện chúng tôi như đang ở trong một thế giới xanh biếc, đầy ánh nắng và tiếng chim. Viện trưởng chúng tôi là một nhà phó tiến sĩ đi học xa trở về. Viện phó là bác sĩ Nhị. Dạ, đúng ảnh! ảnh vừa làm viện phó vừa trực tiếp làm chủ nhiệm khoa ngoại. Đôi bàn tay vàng của anh vẫn làm những công việc hết sức cụ thể, khó khăn và tinh tế khi trước.

Thế rồi một cuộc càn rất lớn của Mỹ đã nổ ra. Một cuộc càn dài mấy trăm cây số suốt dọc biên giới Việt - Miên. Một cuộc càn mà địch đã huy động lực lượng còn lớn hơn cả cái Gian-xơn Xi-ty năm qua. Đấy là cuộc càn 1970, nhằm tổng càn phá vào hậu cứ của ta nơi mà chúng văn gọi là những "mật khu” kỳ lạ. Đầu tiên là B52 rải thảm và bom tấn cắt quang từng khoảng rừng lớn. Sau đó, trực thăng ào ào tới đổ quân cùng chiến xa, pháo lớn đóng thành từng cụm. Từ những cụm đó, chúng bắt đầu đánh tỏa ra, đánh thọc sâu vào các hậu cứ ta.

Cuộc càn 1970! Chắc chắn bất cứ chiến sĩ Nam Bộ nào cũng đều chưa quên trận càn rộng lớn và bất ngờ ấy. Tất cả các cơ quan của ta đều được lệnh: trụ lại để chiến đấu. Nói cho đúng ra, lúc đó địch đã vây bủa bốn bề. Vít chặt mọi lối rút sau lưng, không trụ lại đánh địch mà tồn tại thì cũng không còn cách nào khác.

Địch bom tơi bời chung quanh và đã phá sập một kho thuốc của Viện hôm trước, hôm sau nhũng đội biệt kích địch đã mò vào gần tới các phân khoa. Súng máy nổ cắc cắc, bùm bùm loạn xạ. Lắm khi đạn rít ngay trên đầu. Quanh Viện có rất nhiều kho tàng. Các đội biệt kích lúc đầu đều bị hút cả vào đấy. Anh em tự vệ các kho đã chiến đấu hết sức mình. Có nơi chỉ có ba tay súng đã chặn đứng cả một đại đội địch. Tuy nhiên, một tin chẳng lành đầu tiên đã bay về Viện: một đồng chí y tá đã bị bọn biệt kích bắn chết, cách Viện không xa.

Đảng ủy Viện họp cấp tốc. (Anh Nhị cũng là ủy viên Đảng ủy Viện). Một chủ trương khá sáng suốt đã được đề ra: phải đưa tự vệ của Viện ra đánh địch từ ngoài xa; đánh du kích, đánh chim sẻ. Một chủ trương bạo dạn nữa cũng đã được quyết nghị: chia Viện ra làm hai bộ phận, vì Viện quá lớn, ngót hai ngàn người mà phần lớn là thương binh đủ các loại, lại có cả sản khoa, nhi khoa, phụ khoa; có cả khu gia đình và nhà trẻ của cán bộ công nhân trong Viện. Nay địch đã áp tới, trụ lại cả, e giữ không nổi vì vướng chân nhau đã đủ khó rồi.

Vậy một bộ phận nhẹ ở lại đánh địch giữ Viện, còn một bộ phận nặng do bác sĩ Nhị và phó chính ủy Viện lãnh đạo chỉ huy tạm rút về một vùng rừng cách đây khoảng một ngày đường. Nơi đó, có tin chưa có địch. Bộ phận này gồm các thương binh nặng, sản khoa, nhi khoa, phụ khoa và toàn thể khu gia đình với gần năm chục cháu bé.

Quyết định được đưa đi hồi chiều. Kế hoạch sẽ đi thâu đêm, bí mật luồn qua các khu vực có địch. Gắng sao sớm mai sẽ tới được nơi an toàn. Suốt cả buổi chiều hôm đó toàn Viện sôi nổi, xáo trộn cả lên. Trong tiếng máy bay gầm rú, trong tiếng đại bác nổ rền, tất cả mọi người đều ra sức thu xếp, tổ chức để cho bộ phận nặng có thể lên đường ngay lúc chập tối. Tiếng người gọi, tiếng người la, tiếng trẻ khóc inh ỏi, đứt ruột

Mười tám giờ, dầu sao, mọi việc cũng cứ phải xong, đoàn quân đã tề tựu - một đoàn quân hiếm có. Hàng mấy chục cáng thương. Mỗi cáng bốn người: hai khiêng, hai đổi. Cũng may, có lực lượng trường đào tạo bác sĩ ở ngay trong Viện. Các học viên đều làm tải thương hết. Nhưng láo nháo nhất là những bộ phận sản khoa, phụ khoa, nhi khoa và khu gia đình. Những chị phụ nữ đau yếu, sinh nở, da mặt xanh tái, mở to những cặp mắt lo âu quay nhìn lại Viện, run rẩy bám vào vai những người hộ lý, y tá đi cùng.

Đáng buồn và cực hơn cả có lẽ là tất cả các cháu bé từ hai tuổi trở xuống đều phải cho uống thuốc ngủ. E khi đi trong đêm, luồn rừng, qua các khu vực có địch. chúng bất ngờ khóc òa lên thì chẳng khác chi gọi sói lại đàn cừu. Trái tim mọi người như thắt cả lại. Những cái bắt tay rất chặt rung lên. Những câu dặn dò gấp gáp giữa những cặp vợ chồng. Chồng ở lại Viện chiến đấu, vợ đem con ra đi.
Xuất phát!

Bác sĩ Nhị đi đầu, tiểu liên trên tay, hai má anh tọp lại. Đôi mắt anh sâu khẳm khô cứng. Trời tối dần. Thoạt tiên còn nom thấy rõ từng người, sau gần như phải bám lấy vạt áo nhau mà đi. Lân tinh le lói trên những đống lá khô mục. Rừng bưng bít như trong hang sâu. Tuy nhiên. nhiều khi cũng thấy lóe sáng, sáng đến rợn người. Hỏa châu địch từ máy bay ném xuống để soi tìm ta. Những chiếc đèn dù theo gió chao đảo hoặc quay tròn làm cho tất cả bóng cây, hình người dưới mặt đất trong rừng cũng chao chát và quay đảo kỳ dị.

Anh Nhị chốc chốc lại lộn xuống hàng quân. Anh an ủi người này mấy câu, mang đỡ hộ người nọ một túi đồ. Rồi ảnh cũng dừng lại thăm vợ con ảnh. Chị Nguyệt - vợ ảnh - cũng là y sĩ trong Viện, ở khoa ngoại. Chị dùng một khăn vải to địu chú bé trước ngực. Đằng sau, đeo ba lô. Hai tay chị xách đồ nghề. Chị gầy yếu. Đi một hồi lâu, hai chân chị đã mỏi nhừ. Chị thở không ra hơi nữa. Mười giờ. Rồi mười hai giờ đêm. Đoàn quân mới đi được nửa, chừng năm sáu cây sô

Bác sĩ Nhị lại đến bên vợ và con ảnh một lần nữa.

- Em có lẽ ... không đi nổi nữa đâu, anh ạ! - Chị khẽ kêu lên.   

- Ráng! Ráng chịu, nghe em. Đưa con anh địu cho!

Thế là, đứa con chín tháng đeo trước ngực (thằng nhỏ vẫn ngủ say mềm). Tay vẫn cầm tiểu liên, anh tiếp tục đi trước đoàn quân tìm đường tiến lên, như Đan Kô trong một truyện của Goóc-ki cầm trái tim soi đường cho đoàn người của mình vượt qua đêm tối, hiểm nguy.

Trời dần dần dựng sáng. Rõ ràng không thể tới địa điểm được rồi, mọi người đã gần như kiệt sức. Không phải chỉ vì mất ngủ, vì đi xa, vì đeo nặng mà còn vì căng thẳng. Họ đã đi suốt đêm giữa những loạt bom dậy lửa, giữa những tiếng súng lớn nhỏ bốn bề. Anh Nhị hội ý với Phó chính ủy rồi quyết định tạm dừng lại. Các cháu đã tỉnh ngủ. Tiếng khóc cất lên râm ran. Ôi tiếng khóc trẻ nhỏ giữa rừng sâu, giữa vòng vây địch! Nghe sao lạnh buốt cả xương sống và chỉ những muốn rơi nước mắt.

Anh Nhị lại đi tới từng cáng thương, tới từng nhóm gia đình, từng nhóm bệnh nhân. Đã sáng rõ ra rồi. Một buổi sáng không mặt trời, ảm đạm. Nhìn vào mặt người nào cũng trắng nhợt. Anh Nhị như già hẳn đi mấy tuổi. ảnh đưa đứa con cho vợ rồi tới thăm những cháu bé ốm ở khoa nhi, ảnh lại đo nhiệt độ, lại ghi bệnh án, cho thuốc, lại làm tất cả những công việc thường lệ hàng ngày. Chị Nguyệt đã đỡ mệt, chị ngồi trên nắm lá tươi tựa lưng vào một gốc cây, vạch vú cho con bú. Bầu sữa đầy những mạch máu xanh li ti. Đứa trẻ háu ăn, tóp má hút lấy hút để. Anh Nhị đã quay lại, khẽ ngồi xuống xế trước mặt vợ, mở cặp mắt im lặng ngắm đứa con bú. Miệng ảnh hơi hé ra, cười cười.

Bỗng có tiếng nhốn nháo ở cuối hàng quân. Rồi một toán chiến sĩ lạ mặt khiêng hai cáng thương huỳnh huỵch chạy tới.

- Quân y hả! May quá xá. Đang không biết đưa thương binh vô đâu! Chỗ nào cũng có biệt kích, có thám báo, có dù hết! Bọn tôi đánh lũ chúng ở gần chi khu mà. Họ thì mừng, còn hầu hết chúng tôi lại chỉ muốn khóc. Chúng tôi đang lo thân chúng tôi còn chưa xong.

Nhưng anh Nhị đã tới. Anh ngắm nhìn hai cáng thương. Chúng tôi hồi hộp dõi nhìn con mắt anh. Và đã quá hiểu anh, chúng tôi không ai bảo ai đều biết chắc anh sẽ xứ trí ra sao.

- Thôi được! - ảnh quay lại mấy chiến sĩ tải thương mới tới - Cứ để anh em đi với chúng tôi. Biết làm sao hơn. Nhưng nè, mấy đồng chí phải cùng đi để khiêng cáng nghe. Các đồng chí coi, chúng tôi không có đủ người!

Thật không ngờ, mấy anh chiến sĩ lại la to lên có vẻ rất bực tức:

- Ủa! Bác sĩ nói chi lạ vậy! Chúng tôi còn phải trở về đơn vị để chiến đấu chứ!

Nói sao họ cũng không nghe. Cuối cùng. anh Nhị phải lắc đầu, cố gượng cười:

- Vậy thôi được! Các đồng chí về! Chúng tôi khắc tự lo liệu lấy vậy.

Hai thương binh vừa mới lới, một bị miếng vừa phải vào chân trái. Một bị khá nặng vào bụng. Phiếu của trạm phẫu tiền phương đã ghi rõ: đạn vào lá lách và xuyên tới dạ dày.

- Chuẩn bị mổ! - Anh lại nói nhỏ.

Một lần nữa, chúng tôi bàng hoàng. Mổ ở ngay giữa rừng hoang này ư? Mổ ở ngay dưới những vòng lượn và rượt tìm của máy bay địch sao? Nhưng, đúng như anh đã nói: không còn có cách nào hơn.

Chúng tôi lặng lẽ nhưng hết sức khẩn trương dựng bàn, treo cáng và chuẩn bị mọi phương tiện kỹ thuật. Anh Nhị lại khoác áo choàng, lại đeo khẩu trang. Đôi bàn tay anh lại lồng vào đôi găng nhựa mỏng. Thoắt cái, anh đã mổ xong vết thương và bắt đầu khâu lại lá lách, sau đó khâu tới chỗ thủng ở dạ dày. Anh thương binh vẫn nằm thiêm thiếp trong một cơn mê nhân tạo sâu thẳm. Những mũi kim của anh Nhị quả thật là tuyệt vời. Đã hàng trăm lần rồi, tôi đã được nom mà vẫn không thấy chán. Đã tới những mũi cuối cùng! Bọn chúng tôi đã sắp thở phào thì đột nhiên anh Nhị ngừng tay, chau mày:

- Quái! Sao vẫn có dịch dạ dày tiết ra? Vậy còn chỗ nào thủng he?.

Anh cúi rạp hẳn xuống xem xét. Đôi lông mày anh nhíu lại .

- Quái nhỉ! Có lẽ thủng cả mặt bên kia dạ dày chăng?

Nói đoạn anh lật đi lật lại chiếc dạ dày, tìm kiếm mãi. Trong lúc ấy pháo địch vẫn chốc chốc lại nổ rền và những chiếc F.105d vẫn rú lên, bay xẹt liên tục trên đầu.

- Phiếu của trạm phẫu hỏa tuyến đã ghi rõ: chỉ có thủng một mặt thôi, bác sĩ à - Tôi không kìm nổi mình nữa, la lên như vậy.

- Không! Phải kiên nhẫn, út à! - Anh không quay lại cũng không ngẩng lên. Anh nói, vừa như an ủi vừa như quở trách.

Tôi im bặt. Mặt tôi nóng lên vì xấu hổ và cả vì tự ái. Nhưng đột nhiên anh nói gần như reo lên khe khẽ:

- Đây rồi! Có thế chớ!

Thì ra đúng là còn một lỗ thủng ở mặt bên kia dạ dày thương binh. Vết thủng quá ác nằm gần cuống, sát với cơ hoành. Nếu không kiên nhẫn, không tỉ mỉ, khó có ai phát hiện nổi. Phát hiện là việc khó, còn khâu nối đối với anh không còn gì đáng phải nói nữa. Mấy phút sau, thương binh được lệnh đưa ra cáng bên ngoài để giải tỏa thuốc mê và săn sóc. Nhưng ngay sau khi anh Nhị vừa cởi bỏ được mũ áo hành nghề, rửa xong tay chân thì một y tá có nhiệm vụ săn sóc thương binh đã hớt hải chạy lại báo cáo:

- Thương binh có lẽ không chịu nổi cuộc phẫu thuật kéo dài, lại bị lạnh, và mất máu, nên trụy tim mạch. Huyết áp của anh đang xuống nhanh một cách cực kỳ đáng sợ.

- Sao? - Bác sĩ Nhị chỉ kịp hỏi giật giọng một tiếng đã bật dậy như lò xo. Anh lao đến chỗ thương binh. Anh đứng sững. Thương binh vừa vặn ngừng thở. Tất cả các y sĩ, y tá đứng vây quanh ảnh đều đã buông thõng tay, mặt tái nhợt, mắt muốn ứa lệ.

- Khoan. Hãy bình tĩnh. Chết lâm sàng đó!

Nói chưa hết câu, anh đã cúi xuống sát mặt thương binh vừa chết, vành miệng ảnh ra, rồi không quản chi hết, ghé luôn miệng mình vô thổi liên hồi. Trong khi đó tay anh xoa bóp mạnh nơi lồng ngực người vừa tắt thở để cho tim tống máu ra. Thế là đã hiểu ý định của anh rồi. Tất cả bọn tôi đều ít nhiều được anh kể cho nghe về những cái chết gọi là lâm sàng đó, nghĩa là thương binh mới vừa tắt thở trong vòng năm phút. Đã có một trường hợp trước đây, theo lời ảnh, ảnh đã gắng cứu sống dược một người chết như thế.

Tất cả chúng tôi ít nhiều cũng đã được ảnh huấn luyện về cách giải quyết trường hợp này. Do đó, giờ đây chúng tôi đều đã biết mình phải làm gì Nhanh như cắt, bác sĩ Hiền phụ trách gây mê hồi sức đem máy bơm áp suất tới. Một y tá khác thay anh Nhị hà hơi, bóp tim cho thương binh, để cho ảnh nhanh chóng mở động mạch nhằm cho dung dịch vào và bơm áp suất.

Mọi việc đã diễn ra vô cùng mau lẹ và chỉ trong nháy mắt. Không ai bảo ai, chúng tôi đều đã hiểu và làm đúng ý anh một cách hoàn hảo, tuyệt vời. Tôi vừa làm mọi công việc, vừa như mê đi. Nỗi thương xót và sự sợ hãi choán ngợp tâm hồn tôi cộng với cả niềm hy vọng rất mong manh như một tia nắng giữa ngày mưa. Thương binh có thật sẽ sống lại được không? Có thật sẽ cứu được ảnh không? ảnh là ai? Cha anh đâu? ôi, một con người, hơn thế nữa: một chiến sĩ. Quý biết nhường nào? Tôi phải cảm ơn bác sĩ? Bác sĩ đã dạy bảo tôi biết bao điều nhưng có lẽ điều quan trọng hơn cả ấy là biết yêu con người, ấy là biết chịu trách nhiệm trước chiến sĩ.

Và tôi đã bật khóc thật sự; tôi la rú lên vì mừng rỡ khi thấy trái tim anh chiến sĩ hồng lên và bỗng thoi thóp đập trở lại. Nước mắt tôi rơi xối xả. Tôi muốn cầm chặt lấy hai bàn tay bác sĩ mà van lên: "ôi ! Nếu tôi là mẹ anh ấy nếu tôi là em anh ấy, nếu tôi là vợ hoặc người yêu anh ấy thì giờ đây, tôi biết lấy gì để đền đáp ơn anh, đền đáp tát cả các anh? Phải rồi, nếu tôi là mẹ. nếu tôi là em, nếu lôi là vợ anh ấy ... Hãy nghe đây: tất cả tấm lòng biết ơn, tất cả tấm lòng ngưỡng mộ vô bờ bến của tôi ... ".

Huyết áp của anh chiến sĩ cũng lên dần. Mũi kim đỏ nhích lên, nhích lên mãi như chỉ thẳng về mục tiêu chiến thắng.

- Đắp ấm lại cho ảnh, nghe! Thiệt ấm! Cho đốt lửa lên!

Nói đoạn bác sĩ Nhị cởi luôn tấm áo ka-ki có lót đang mặc trên mình đắp cho người chiến sĩ. 

Đêm ấy, lại như đêm trước, ảnh lại địu đứa con yêu quý của ảnh nóng hổi trước ngực, tay tiểu liên, xăm xăm dẫn đầu đoàn quân, như Đan Kô cầm trái tim mình soi đường cho đồng loại đi tới, đi khỏi nơi tối tăm đầy nguy hiểm ...

NÚI RỪNG YÊN TĨNH

1
Mường Ka Xỉ. Thị trấn huyện lỵ nhỏ bé này nằm liền bên đường 13, con đường xương sống của nước Lào, chạy suốt từ cố đô Luông Pha Bang xuống tới Viêng Chăn, rồi tuốt mãi xuống tận Chăm Pa Sắc, miền cực Nam của đất nước Triệu voi.

Khoảng vài trăm nóc nhà, mái tôn, mái nứa, chen chúc nhau bên con đường lổn nhổn sỏi đá, vây quanh lấy một khu đất rộng. Nơi đó có một ngôi nhà gỗ lớn làm theo kiểu nửa Lào, nửa Mỹ. Đây là kho quân cụ trước kia và cũng là nơi các Chính phủ Phái hữu vẫn tập kết quân hàng năm để đi đánh quân cách mạng ở Xa La Phu Khun.

Có lẽ cũng vì vậy giờ đây thị trấn vẫn còn giữ khá nhiều dấu vết của một cuộc sống thương mại và dịch vụ dù chỉ nhỏ bé, với các tiệm bách hóa có đủ nước huê, xà bông, áo thun, quần lót đàn bà, vải mút, “cà bốt"... và một số tiệm cà phê, giải khát có cả bia chai, đá lạnh và ca nhạc vàng... Thêm một vài cơ sở sửa chữa hon đa, cắt tóc.

Mới tám giờ sáng. nắng đã chói chang. Nhà chú Huê kiều ở giữa phố đã mở rộng cửa để phô bày những tủ kính sáng choang trưng bày la liệt đồ vải, đồ điện, đồ sứ Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan... Đầu phố, nơi tiệm giải khát của một người đàn bà Lào khá đẹp biết thành thạo ba thứ tiếng Mỹ, Pháp và Việt Nam, dàn A-kai băng cối cũng đã bắt đầu phát ra một bản tình ca eo éo của một ca sĩ Đài Loan hoặc Hồng Công nào đó.

Kế bên là tiệm bán vải và thuốc lá thơm đủ loại của một cặp vợ chồng trẻ cũng người Lào, nghe nói từ Luông Pha Băng về đây đã vài năm. Chị vợ, hẳn là vì trời oi bức đã giải luôn chiếu ở giữa nhà, trước các sạp vải và quầy thuốc thơm nằm dài thoải mái trật vú ra cho con bú. Một chiếc quạt Nhật mới keng quay vo vo đặt ở phía đầu chị cùng một chiếc Rađio cũng kiểu hiện đại đang mở bắt một làn sóng Băng Cốc. Một truyện trinh thám nào đó đang được một giọng nữ phát thanh viên đọc một cách hồi hộp. Anh chồng mặc may ô in hình vũ nữ Campuchia ngồi hút thuốc lá trên chiếc ghế xích đu, đôi mắt lơ đãng.

Không xa đó là bao, trông xế ra bãi đất rộng đầy phân trâu bò và lừa ngựa, là tiệm phở của một gia đình Việt kiều gốc người Nghệ An sang đây từ 1941, nghĩa là từ thời Nhật vào Đông Dương mộ phu làm đường Vinh - Xiêng Khoảng. Vốn tính tằn tiệm, căn cơ đã quen, ông bà này không hề có một tấm biển hiệu, cũng chẳng cần một bức tranh trang trí trong nhà. Chỉ trần bốn vách gỗ đơn sơ và hai chiếc bàn mộc, mấy ống đũa tre và một nồi nước dùng nồng nàn, sôi sục... .

Khách mua sắm không có mấy. Người đi kẻ lại trên đường phố cũng không đông đúc tấp nập lắm. Thị trấn thật bình yên. Thi thoảng mới thấy mấy cô Lào Dao (Mán) áo quần màu chàm sẫm, xúng xính, với những gù bông đỏ chói đeo đầy cổ, cười cười nói nói như chim, đi diễu qua các cửa tiệm, nhìn nhìn, ngó ngó rồi rụt rè, xấu hổ mua giấu mỗi cô một cặp nịt vú.

Và thi thoảng. một ông già Lào Sủng (Mèo) áo quần bạc phếch, gò lưng gùi một bó củi nặng đi ngang qua, cặp mắt lầm lì nhìn thẳng như không cần biết hoặc ít ra không hề biết tới cái thế giới “nhố nhăng" bên ngoài. Nhưng bên sườn ông, cạnh con dao Mèo sắc như nước, con dao Mèo cổ xưa từ nghìn đời, lại kềnh kệch một chiếc Rađio Nhật cũng vào loại tân kỳ hiện đại. 

Chiếc A-kai của tiệm giải khát vẫn tiếp tục phóng ra cái giọng eo éo của cô Tàu Đài Loan. Và chiếc Rađio đặt bên người đàn bà Lào nằm dài thoải mái cho con bú trước các sạp bán đủ loại thuốc lá: Ba con năm, đăn-hiu, Mo... vẫn tiếp lục rỉ rả, hồi hộp kể lại câu chuyện giết người cướp của bí mật nọ.

Lê Dân, chính uỷ Đoàn 3, một đơn vị quân tình nguyện Việt Nam mới sang Lào theo Hiệp định của Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã có mặt ở thị trấn. trong ngôi nhà quân cụ (nay là một cơ sở của cơ quan huyện ) từ hai rưỡi sáng. Hôm nay anh sẽ có một cuộc họp mới, Chỉ huy trưởng mặt trận 1A và một số cán bộ chí huy của Quân giải phóng Lào cùng bàn về việc tham gia tiễu phỉ ở vùng này. 

Anh ngồi bên một ô cửa số lớn, nhìn ra phố. Anh bỗng có cảm giác khó có ai ở nơi xa lại có thể nghĩ, hoặc tin được rằng: thị trấn này đang bị phỉ bao vây.

Mà quả thật như vậy. Trên hầu khắp các ngọn đồi, các sườn núi bao quanh thị trấn này, theo các đồng chí Quân giải phóng Lào ở địa phương này cho biết đều đã có phỉ. Đêm đêm, đứng ở phố nhìn lên, người ta thấy rõ cả ánh lửa của chúng trên các dải đồi trập trùng ở phía Bắc. Máy bay L.19 của các đồng chí Lào bay trinh sát báo về nom thấy cả lều lán của chúng mới dựng ở các khe núi. Thậm chí có buổi phỉ giả làm người đi rừng, kéo nhau về giữa phố mua thuốc lá thơm và bia, nước ngọt. Khi an ninh và bộ đội huyện được báo nhào tới thì chúng đã biến mất, và nhắn lại: “Ka Xỉ nếu không hàng, sẽ bị đốt sạch, giết sạch không còn một mống!".

Dân trong phố, giờ đây ra khỏi thị trấn chừng dăm cây số đã coi như bị mất an ninh. Đường 13 đã nhiều khi bị uy hiếp, gián đoạn. Xe đò của tư nhân không mấy chiếc dám từ Luông Pha Bang xuống, hoặc từ Viêng Chăn lên. Phải đợi có xe quân sự họ mới dám đi theo. Trước đó, đã không ít xe tư nhân bị phỉ phục kích ở dọc đường. Chúng lấy hết hàng hóa, tiền bạc và giết sạch không để sót một người. Giết xong, cướp xong. chúng ném lại những tờ truyền đơn nguệch ngoạc dưới ký: “Mặt trận cứu nước Lào”.

Phỉ bây giờ có một nét mới khác trước như vậy đó. Phỉ nhưng lại làm như là có một lý tưởng và một đường lối chính trị đường hoàng! Nhưng không khó khăn gì, ai ai cũng có thể hiểu đây là một trò bịp mới của những kẻ thù của nước Lào: bọn phái hữu, bọn CIA Mỹ.
Tiếng nhạc băng vẫn eo éo cái giọng Đài Loan. Những cô Lào Dao xúng xính, cười nói như chim đã kéo nhau ra cuối phố, ghé vào tiệm ăn uống của Mậu dịch quốc doanh, bông hoa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên cái thị trấn miền núi xa xôi này.

Lê Dân đẩy ghế đứng dậy, đi đi lại lại. Anh cao lớn, dường như đứng chật cả gian phòng.

Thị trấn bị bao vây, điều này cũng có nghĩa: đợt hoạt động của một số đơn vị Quân giải phóng Lào, trong đó có một bộ phận nhỏ của Đoàn 3 phối hợp theo yêu cầu của Bạn vừa rồi vẫn chưa quét xong phỉ. Đây là đợt tiến quân vào Pha đeng - Pha Lai.

Pha đeng - Pha Lai là một vùng núi hiểm trở ở về phía tây Ka Xỉ trên 20 ki lô mét. Vùng này cũng như các vùng núi khác: Xiêng Kháu - Noọng Kho và Pha Cát - Pha Côi là những nơi đông dân cư nhất trong toàn huyện. Giờ đây đều đã bị phỉ quấy nhiễu. khống chế.

Vùng núi phía đông và phía tây Ka Xỉ này liên hoàn với vùng Phu Bia ở phía Nam Long Chẹng (sào huyệt của tướng phỉ Vàng Pao trước đây) là một vùng núi non rất hiếm trở và là nơi tập trung toàn dân tộc Mẹo anh em. Cũng do đó, cả về địa hình. cả về dân tộc, miền này đã được coi là vùng chiến lược hiểm yếu nhất của miền Bắc nước Lào, bọn phái hữu, bọn CIA Mỹ.

Nơi đây hiếm yếu đến mức bọn Mỹ với con mắt chiến lược khá xa, đã đầu tư rất tích cực từ lâu. CIA Mỹ đã nắm được Vàng Pao, bỏ tiền ra xây dựng cả một đạo quân toàn người Mẹo, đông tới hàng vạn. Bọn Mỹ đã bỏ tiền ra nuôi cả cha mẹ vợ con của hàng vạn tên lính đặc biệt ấy. Một số trường học, một số trại chăn nuôi kiểu Mỹ cũng đã được mở ra rải rác trong rừng. Và khá nhiều sân bay dã chiến cho trực thăng, cho cả máy bay vận tải loạt nhỏ hạ cánh đã được xây cất. Mỹ đã có dự án xây dựng Long Chẹng thành một “thủ đô Mẹo" và biến cả vùng này (đông, tây Ka Xỉ và Phu Bia) thành một “vương quốc Mẹo".

Năm 1975, cách mạng Lào toàn thắng.

Các đồng chí lãnh đạo Lào đã kịp thời có những chủ trương, chính sách thích hợp đối với miền núi, mà trong đó mối quan tâm hàng đầu là: làm sao nhanh chóng tẩy sạch mọi ảnh hưởng và di họa của Mỹ, nhanh chóng thực hiện, tăng cường sự hòa hợp dân lộc, làm cho lất cả những người anh em Mẹo cùng tin tưởng, phấn khởi hòa mình vào cộng đồng dân tộc Lào, xây dựng một cuộc sống mới trên cả nước.
Nhưng cán bộ của Bạn còn quá thiếu, địa hình lại quá rộng và hiểm trở, cho nên ở nhiều nơi các đơn vị bộ đội hoặc cán bộ của chính quyền cách mạng Lào chỉ mới lướt qua được một lần, chủ yếu là để thu súng của quân đội phái hữu và tàn quân Vàng Pao.

Cũng tựa như những lớp sóng biển tràn qua những tảng đá, sóng rút đi, những tảng đá lại trơ ra như cũ... Nhiều xã mới tạm thời có chủ tịch mà chủ tịch lại là những nai bản cũ. Thậm chí nhiều nơi chưa có cả chủ tịch, trưởng thôn. Ở những nơi đó, bọn sĩ quan Vàng Pao, bọn ác ôn đầy nợ máu, bọn tề ngụy quỷ quái ngoan cố trước đây... vẫn còn ngồi lù lù như những con thú dữ.

Cũng đã có một số tên được lệnh của bọn cầm đầu bí mật vượt sông Mê Công sang Thái Lan. Những tên CIA đã đón đợi chúng ở đó để đưa vào những trung tâm huấn luyện trong rừng sâu. nhằm sẽ tung chúng trở lại nước Lào phá hoại khi có cơ hội.

Đến cuối năm 1977, mới sau có hơn hai năm, hai năm vút qua tựa như hai ánh chớp, nước Lào mới được giải phóng chưa kịp làm gì nhiều trên đống hoang tàn của những năm chiến tranh tàn phá.

Giữa lúc đó thì bọn CIA Mỹ, bọn phái hữu cũ đã tổ chức nổi phỉ trên khắp hai miền đông, tây Ka Xỉ và khắp cả vùng Phu Bia.

Trước hết là những tin: cán bộ bị bắt cóc hoặc bị bắn lén ở giữa đường: nay ở miệt Phu Bia, mốt ở vùng kế cận Ka Xỉ. Tiếp đó là những cuộc phục kích xe đò trên suốt dọc đường 13 từ Luông Pha Bang xuống đến tận đèo Phu Pha cách thủ đô Viêng Chăn chỉ có hơn 40 ki lô mét. Rồi từng nhóm, từng đoàn dân quân trung thành với Chính phủ Lào cách mạng máu me đầy người chạy thoát được trở ra Ka Xỉ hoặc Bản Son (huyện lỵ của vùng Phu Bia) đã kể lại tất cả những gì đang xảy ra ở khắp nơi trên các triền núi hiểm trở, sâu hút ấy.

Bấy giờ đang là mùa đông năm 1977, những tin tức ấy đã được mau chóng tập hợp và hệ thống lại. Không phải chỉ riêng tin ở Phu Bia và Ka Xỉ, mà một bức tranh về tình hình chính trị, quân sự chung của toàn nước Lào đã được dựng lên khá sáng tỏ: kẻ thù của nước Lào (bọn Mỹ, bọn tàn quân phái hữu như ta đã biết) đã bắt đầu một chiến dịch rộng lớn nhằm lật đổ chính quyền cách mạng. Chúng đã tung về hàng loạt sĩ quan và đặc vụ. Vùng núi Phu Bia và Ka Xỉ ở Bắc Lào đã được chúng chọn làm trọng điểm. Trong khi đó. Ở nông thôn, đồng bằng, kể cả ở thành thị địch cũng đã tổ chức được một số cơ sở bí mật. Nước Lào đã đứng trước một hiểm họa mới.

Mặt trận 1A đã được Bộ Quốc phòng nước Lào thành lập, nhằm trước hết đập tan lực lượng thù địch ở nơi trọng điểm: Phu Bia và đông tây Ka Xỉ.

Tình hình địch trong địa bàn đã được hội đủ: ở Phu Bia có hai tên trùm sỏ cầm đầu là Say Sua Giàng và Dong Dua Hờ. Có cả một mụ đàn bà tên là Nàng Cợt xưng vua (nhưng thực chất cũng là dưới sự chỉ huy của Say Sua Giàng và Dong Dua Hờ). Tù binh khai và dân báo: còn có thêm bốn tên sĩ quan của chính phủ phái hữu cũ mới được tung từ Thái Lan trở về, làm cố vấn cho bọn chì huy phỉ tại chỗ.

Còn ở Ka Xỉ địa hình cũng rất hiểm trở và phỉ nổi lên cũng rất dữ. dưới sự chỉ huy của một tên thủ lĩnh tên gọi Koóng Sừ. Tên này cũng có một số sĩ quan phái hữu và của Vàng Pao ở Luông Pha Bang giúp sức lập thành một ban tham mưu. Chúng thường xuyên liên lạc với CIA trên đất Thái Lan qua điện đài. Tuy vậy. cũng có phần khác với Phu Bia. Ở đây phỉ không tập trung thành những đơn vị lớn mà chủ yếu phân tán, khống chế dân ở từng địa phương. Chúng đã tiêu diệt chính quyền cách mạng Lào ở các cơ sở một cách rất tàn bạo. Koóng Sừ đã cho kéo cờ trước cửa nhà y - một lá cờ quỷ quái nào đó. Khẩu hiệu được tung ra "Tiêu diệt bọn Lào đỏ". "Tiêu diệt bọn cách mạng!".

Quả là quái độc, quân thù đã chọn, đã nhằm đúng vùng núi chiến lược hiểm yếu này với các bộ tộc Mẹo anh em rất kiên cường, rất thông minh và thiện chiến, nhưng cũng rất hồn nhiên, nhiều khi đến ngây thơ, dễ bị kẻ thù lường gạt. Suốt hơn mười năm qua, bọn Mỹ với rất nhiều tiền bạc, hàng hóa và biết bao luận điệu xuyên tạc, phỉnh phờ đã làm cho chẳng ít những người anh em Mẹo trên triền núi mênh mông này bị đầu độc bằng những tư tưởng vị chủng. Họ luôn luôn bị xô đẩy vào những cuộc anh em chém giết lẫn nhau, gây nên những mối hận thù dân tộc giả tạo, nhưng cũng xiết bao ghê gớm.

Giờ đây ngọn lửa phản loạn lại bị quân thù khơi bùng dậy. Những người Mẹo anh em bị dối lừa, bị đầu độc từ lâu lại cầm lấy súng như những người bị quỷ ám, râu tóc bù xù, mê muội lao vào những cuộc bắn giết, chống đối, cướp phá.

Từng bản Lào đã bị đốt trụi. Nhiều cán bộ Lào đã bị cắt cổ, moi gan. Máu người Lào lại chảy. Máu Lào Cang, máu Lào Lùm, máu cả Lao Sủng (Mẹo) lại chảy (Nước Lào có nhiều dân tộc nhưng chủ yếu có ba dân tộc lớn là Lào Lửng ở dưới đồng bằng, Lào Cang ở miền núi và Lào Sủng (Mẹo) ở cao nhất.). Bọn CIA ngồi bên kia sông Mê Công đang rất khoái trí nhìn sang.

Mặt trận 1A đã bắt đầu hành động. Một mặt ra sức kêu gọi, một mặt buộc phải nổ súng khi cần thiết. Khu vực Nàng Cợt đã được nhanh chóng giải tỏa. Người đàn bà do CIA huấn luyện ấy đã bị bắt sống. Một số đơn vị Quân giải phóng Lào đã bắt đầu được lệnh tiến công Tào Phu Bia ...

Trong khi đó, Đoàn 3 đơn vị quân tình nguyện Việt Nam được Bạn yêu cầu phối hợp cũng bắt đầu được lệnh cho một số đơn vị nhỏ tiến vào Pha đeng - Pha Lai ở phía đông Ka Xỉ, phối hợp với các đơn vị Quân giải phóng Lào, vừa giác ngộ dân, vừa đập tan âm mưu dịch.

Nhưng ở đây, bọn Koóng Sừ đã áp dụng một chiến thuật khá mềm mại. Chúng tránh tất cả các lực lượng của liên quân Lào - Việt. Chúng vét dân, lùa vào sâu trong rừng hoặc đưa chạy dạt sang những miền chưa bị vây quét. Chúng đã thực hiện một cái gì đó gần giống như là một thứ "vườn không nhà trống".

Nhưng không phải chúng rút chạy hết. Một số tổ chim sẻ đã được bố trí ở lại, phục trên các ngọn núi, khe hiểm ở quanh các làng bản. Một chiến sĩ Lào hoặc Việt xuống suối lấy nước. Păng! Một thương vong. Một chiến sĩ khác vào rừng lấy củi. Păng! Lại một thương vong. Một tổ trinh sát băng mình theo tiếng súng, sục vào sâu. Ầm! Một trái mìn nổ. Thêm mấy thương vong nữa... Cứ như vậy chúng đã bắn, đã chọn những chỗ ẩn nấp tốt nhất, chặt chạc cây cắm sẵn để đặt súng mà tỉa những chiến sĩ Lào, Việt

Chúng bắn hạ cả những người dân lành còn ở lại, không chịu đi theo chúng. Chúng đã bắn. Chúng quấy rối ở tất cả những nơi bộ đội Bạn và bộ đội ta lạm dừng chân hạ trại. Chúng quấy rối, tiêu hao cả những đoàn quân tải gạo, tải đạn từ ngoài đường 13 vào, nhằm cắt đứt tuyến tiếp tế ở phía sau cho các phân đội tác chiến trong núi.

Chúng ẩn như ma, nhanh như sóc. Lắm khi chạm trán nhau ở giữa đường, chưa kịp giương súng, chúng đã nhào xuống, lăn bon xuống sườn núi dốc, rồi mất hút trong những đám lau sậy hoặc cây rừng rậm rạp.

Phỉ đã vậy, trời lại mưa lầm tã. Mưa ngày này qua ngày khác. Dốc đứng. Đá tai mèo. Đường trơn. Suối sâu. Thác dữ. Rừng rậm. Mới trong vòng có mười ngày, quần áo chiến sĩ ta đã tan nát. Nhiều chiến sĩ đã bị nước ăn chân, lở loét đi không nổi. Phải khiêng, cõng nhau. Cuối cùng, phân đội 9 đã được lệnh để lại một số nhỏ chốt ở Pha đeng - Pha Lai, còn bao nhiêu rút ra đường 13, củng cố lại, đồng thời tranh thủ sản xuất lúa gạo nhằm tính kế hoạt động lâu dài.

Như vậy, đợt tiễu phỉ ở Pha đeng - Pha Lai (đông Ka Xỉ) có thể coi như đã thắng mà cũng có thể coi như chưa thắng. Koóng Sừ đã thoát. Lực lượng phỉ rút chạy được phần lớn. Chỉ bắt được không đáng kể là bao. Nhưng quan trọng hơn cả là hầu hết dân trong vùng đã bị phỉ bắt đi theo. Những người chiến sĩ cách mạng khi tiến vào những làng bản trống trơ, tâm trạng vô cùng buồn bã và tức giận.

Trinh sát báo cáo về: Koóng Sừ và đại bộ phận lực lượng của chúng đã chạy sang tập trung ở vùng núi Pha Lai - Pha Côi - phía tây Ka Xỉ. (cách thị trấn trên mười - ki lô mét theo đường chim bay). Nhân dân bị cưỡng bức đi theo chúng. cũng đang tập trung cả ở đó.

Chính vì vậy mà có cuộc họp hôm nay ở thị trấn này giữa chỉ huy trưởng mặt trận 1A với Đoàn 3 và một số đơn vị phối hợp. Nhất định sẽ phải tiến vào Pha Côi! Nhưng lần này vào Pha Côi sẽ phải làm sao đây để không lại rơi vào tình trạng như ở Pha đeng - Pha Lai? Lần này làm sao phải giành được dân, phải đập tan được âm mưu của địch lừa gạt dân, kích động hận thù, đánh thật ra không có gì là khó hết. Khó nhất vẫn là làm sao thức tỉnh được những tâm hồn bị đầu độc. Muốn vậy, đường lối của Đảng bạn đã chỉ rõ, phải tiến hành phối hợp thật tốt ba mặt: chính trị, kinh tế và quân sự; không thể đơn thuần quân sự.

“Cơn sốt phản loạn" nay đang tấy lên. Dường như trai tráng, đàn ông Mẹo đã bị dụ dỗ hoặc bị bắt buộc cầm súng đánh lại cách mạng khá đông. Do đó gia đình nào chẳng có phỉ? Mà với người Mẹo, tình cảm gia đình lại là một cái gì vô cùng sâu nặng. Khi một người trong gia đình họ bị bắt hoặc bị trúng đạn ngã xuống là tất cả những người còn lại, kể cả bà già, trẻ nhỏ thường chỉ còn thấy ngút lên những ngọn lửa căm hờn bất kể phái trái nữa.

Ở Pha đeng - Pha Lai, được nghe nói: một đơn vị Bạn khi tiến vào một địa điểm có địch chống cự mạnh, các chiến sĩ đã buộc phải nổ súng. Một tên phỉ đang nấp ở trong nhà bắn ra. Nó bị trúng đạn gục xuống. Vợ nó đang ôm con núp ở bên lập tức ném đứa trẻ, chồm tới bên xác chồng nhặt lấy cây súng đưa phắt lên vai. Một chiến sĩ thiếu kinh nghiệm chạy lên. Anh bị bắn chết liền. Người đàn bà ấy bị bắt không khó khăn lắm. Nhưng thật lạ, chị ta không hề tỏ vẻ sợ hãi, cứ đứng trân trân giữa xác hai người đàn ông - một người là chồng chị, một người là chiến sĩ cách mạng.

Một tiểu đội trưởng tiến lại. Anh đề nghị cho bắn chết kẻ đã giết chiến sĩ. Nhưng đồng chí chỉ huy đã ứa nước mắt, giơ tay cản lại. Anh căn dặn phải đối xử tử tế với người đàn bà ấy, và phải săn sóc đứa trẻ. Dần dần sẽ nói cho chị hiểu tất cả cội nguồn của tấn bi kịch đẫm máu này chính là do bọn CIA Mỹ đang còn giấu mặt...

Không. Chúng ta không thể nào diệt trừ được phản loạn bằng bắn giết. Cũng như ta không thể nào lấy máu để gỡ các hận thù và xóa bỏ những điều hiềm khích. Thêm một người chết, chỉ thêm một oán hờn ...

Lê Dân vẫn đi đi lại lại. Người thư ký của Huyện ủy đã đưa ra nước ngọt và thuốc lá, nhưng anh vẫn không hề hay biết.

Ngoài trời vẫn nắng chói chang. Chợt có tiếng động cơ và cánh quạt phành phạch. Lê Dân nhìn ra: một chiếc trực thăng kiểu Mỹ cũ từ xa đang bay tới. Nó lượn một vòng trên thị trấn. Không khí bỗng như náo nhiệt hơn lên một chút. Lũ trẻ con hò reo inh ỏi chạy ra, chỉ chỉ trỏ trỏ.

Rồi chiếc trực thăng từ từ đáp xuống sân bay dã chiến ở cuối phố.

Mười lăm phút sau, một chiếc "Díp" lao tới như tên bắn trong đám bụi mù. Chiếc xe phanh cứng trước ngôi nhà quân cụ (bây giờ là một cơ sở của huyện). Lê Dân vui vẻ ra đón.

Chỉ huy trưởng mặt trận 1A cùng trưởng ban tác chiến tỉnh đội Viêng Chăn và tiểu đoàn trưởng hỏa lực từ trên xe nhảy xuống, bước nhanh lên các bậc thang gỗ. Cả ba đều đen cháy, đội mũ vải có lưỡi trai da láng, vai đeo túi tài liệu và lưng mang súng ngắn.

Chỉ huy trưởng siết chặt tay Lê Dân. Giọng anh mạnh mẽ và cứng cỏi:

- Một tin mới anh ạ. Vừa bắt được điện của chúng: Đêm nay ở tọa độ XY đông Ka Xỉ sẽ có máy bay không sơn cờ hiệu thả năm tạ thuốc nổ và năm mươi AK cùng bốn điện đài. Một tin nữa: Vàng Pao từ Băng Cốc đã bí mật lên đường sang một nước... láng giềng.

*
*   *
Đêm đã khuya. Dãy Pha Côi kéo dài che lấp cả một mảng trời phía tây. Đã chớm lạnh. Những con mang tác dài trên những sườn núi đầy gió tối tăm.

Trên một ngọn núi đất nằm sâu hút giữa vừng núi non trùng điệp hiểm trở ấy, thấp thoáng hiện lên một bản Mẹo. Chừng năm mươi nóc nhà. Xa nom như một tổ chim nhỏ xíu le lói có ánh lửa.

Trong một căn nhà lẻ loi tách ra ở cuối bản, một cặp vợ chồng Mẹo vẫn còn thức. Căn nhà thật tiều tụy. Mái lợp một nửa bằng tôn Mỹ, một nửa bằng tre lồ ô với những mảnh gỗ thùng của Mỹ. Trong nhà, nền đất gồ ghề, nhớp nháp, áo quần rách vá mắc thành từng búi ở đầu nhà. Hai đứa trẻ, một trai một gái trạc sáu, bảy tuổi đã ngủ, nằm co ro trên một tấm dạ bò trải dưới đất! Cạnh đó là bốn con lợn bẩn thỉu, cũng nằm ngủ lăn lóc bên một máng cám và rau rừng đã chua lòm, nhớt nhát. Giữa nhà, một bếp lửa đang cháy bập bùng.

Dua Lô, người chồng, đang ngồi im lặng cời lửa. Nó còn trẻ, có lẽ chưa quá ba mươi, mái tóc bẩn thỉu để dài xòa xuống chấm tới ngang tai. Hai gò má cao. Đôi mắt một mí nhỏ, đầy vẻ gan góc. Một chiếc vòng bạc lớn trễ xuống gần ngang bộ ngực khá nở nang của nó. Tấm áo đen may chẽn mở phanh, không xứng hợp lắm với chiếc quần dạ lính màu cứt ngựa rộng thùng thình có hai chiếc túi ở hai bên đùi rất to. Một cây AK mới tinh đặt ở dưới chân nó cùng một chiếc túi dết Mỹ đã cũ rích bên trong lủng củng mấy băng đạn.

Y Nu vợ nó còn trẻ hơn, đang ngồi xe dây lanh ở xế bên. Đó là một người đàn bà đẹp, một vẻ đẹp hoang dại với một khuôn mặt có hai gò má cao, hồng rực như đào chín và một đôi mắt một mí xếch lên rất sáng. Chị ta đã bỏ tấm khăn Mẹo, buộc gọn tóc ở sau gáy nhưng vẫn mang tấm vải thêu sặc sỡ cổ truyền ở trước bụng. Y Nu xe lanh, chốc chốc lại liếc nhìn chồng, vẻ mặt đầy lo lắng, băn khoăn.

Dua Lô vẫn ngồi đó. Ngọn lửa hắt cái bóng của nó lên tấm vách sau nhà, chập chờn, kỳ dị. Người vợ bỗng phá sự im lặng, cất tiếng hỏi:

- Đêm nay được nghỉ. Đêm mai liệu anh có phải đi đón máy bay nữa không?.

Người chổng không quay lại, đáp khó khăn:

- Không biết!.

- Đêm vừa rồi, cũng may là họ không phục đúng chỗ bọn đang đợi máy bay. Nếu không thì...

- Sợ gì! - Người chồng vẫn đáp cộc lốc.

Người vợ tiếp tục hỏi:

- Nếu đêm mai ông đại úy vẫn gọi, anh lại phải đi chứ?

- Đi chứ, sao không đi?.

Người vợ thở dài:

- Không việc gì là người ta không gọi đến anh! Anh như con trâu con ngựa vậy thôi...

Người chồng bỗng hất cao mặt đôi mắt quắc lên:

- Sao mày vẫn nói tao làm phỉ? Mày chưa quên cái miệng lưỡi Hội phụ nữ của mày sao?

Người vợ vặn lại:

- Vậy anh đã hoàn toàn quên những người cách mạng đã cứu giúp anh khỏi chết đói và tật bệnh rồi sao?

Người chồng cúi gằm mặt:

- Phải!

Rồi nó hất mái tóc ra sau, cả khuôn mặt xương xương hoang dại lộ ra. Nó lặng đi một lát, sau đó mới nói một hơi liền, như muốn trút hết những cái gì đã dồn nén trong lòng nó từ lâu:

- Phải? Tao quên rồi! Họ tốt với tao, nhưng họ cũng không tốt với tao. Họ đã nghi bố tao làm phỉ. Nhưng ông ấy đâu có làm phỉ? ông ấy ức quá đã phải ăn lá độc mà chết. Lúc ấy tao còn nhỏ. Rồi tao lớn lên. Tao sẵn sàng quên chuyện cũ. Nhưng khi tao thành phật, vứt bó oán thù thì họ lại tiếp tục chồng chất nghi ngờ. Dần dần tao biết. Tao đau cái đầu quá. Họ đã nghi cả tao, không cho tao làám cái gì hết. Thế rồi họ lại giết cả em trai tao ở Bản Sơn. Nó có tội tình gì? Bên Thái Lan người ta cho một bọn về bên này. Chính bọn ấy đã đốt kho của mậu dịch. Người cách mạng có biết đâu! Lại đổ cho em trai tao, vì thấy nhà nó ở gần đấy. Họ đã bắt rồi bắn nó... Tao đã thề phải trả thù cho nó. Thì may sao ông Koóng Sừ lại kêu gọi dân Mẹo ta nổi dậy đánh bọn cách mạng, để đón ông Vàng Pao, đón người Mỹ, toàn những người tốt, bạn tốt trở về. Vậy mà mày dám bảo tao làm phỉ. Mày đã quên chính ông Koóng Sừ cũng đã từng đi theo bọn cách mạng và làm đến chức cán bộ à? Vậy mày cũng gọi ông ấy là phỉ ư?

- Ông ta là nai bản cũ! ông ta theo cách mạng là trá hàng đấy thôi! Cái bụng ông ấy chỉ ưng làm phản, ai cũng biết. Nhưng mà thôi! Tôi là vợ anh. Tôi phải khuyên can anh. Anh sống tôi cũng được sống. Anh mà chết tôi cũng sẽ phải chết theo anh. Quả thật, tôi sợ lắm. Càng ngày tôi càng sợ cho anh ...

Đôi mắt của Dua Lô bỗng như hai cục than hồng. Nó ngắt lời vợ nó:

- Mày sợ cái gì? Mày hèn quá!

- Tôi không hèn đâu, nhưng nhìn những người từ Pha Lai, Pha đeng chạy về đây khổ cực quá lắm. Lại được tin bên Phu Bia nữa. Cách mạng họ đã bắt đầu ra tay. Những người như ông Koóng Sừ, như anh rồi không biết sẽ ra sao?

Người chồng nghiến răng lại. Tóc nó xõa xuống che gần kín cả khuôn mặt:

- Chúng nó sẽ vào cả Pha Côi hả? Chúng nó sẽ chết. Chúng nó sẽ phải bỏ xác ở đây! Y Nu! Mày hèn quá. Mày không phải là người Mẹo ta nữa.

Dua Lô như một con thú. Người vợ lặng đi. Chị ta bắt đầu cảm thấy sợ hãi thực sự. Sợ hãi sự hung bạo của người chồng mà chị ta đã quá yêu thương; sợ hãi cả sự tối tăm, lầm lạc của hắn... Giữa lúc đó bên ngoài chợt có ánh đèn pin vụt chiếu lóe. Rồi có người gọi:

- Dua Lô, mở cửa?

Người vợ tái mặt. Chuyện gì vậy? Người ta lại gọi chồng chị đi đâu giữa đêm khuya nữa?

Tiếng đập cửa mạnh hơn.

Dua Lô đứng dậy.

Cánh cửa hé mở. Bóng tối và gió lạnh ập vào.

Một bộ mặt nhem nhuốc với một mái tóc dài lõa xõa hiện ra cùng lúc với một cái mặt đen cháy nhỏ thó:

- À Xẩm Tu! - Dua Lô vui vẻ thốt lên.

Xẩm Tu cũng là một tay súng lợi hại của bản này.

- Có khách! - Xẩm Tu thì thào rồi khẽ đứng né sang một bên cửa.

Một người nhỏ bé thoắt bước vào, nhanh như một con báo. Nó đội mũ nồi bằng dạ đen, mặc một chiếc áo va-rơi của sĩ quan Mỹ trước đây, quần bó chẽn, chân mang giày vải cao cổ, kiểu của những người leo núi. Một khẩu súng ngắn cộm ở bên sườn y.

Người khách dừng lại, hất cao mặt. Một khuôn mặt rám nắng với một đôi mắt dài, sắc như dao và một cái mũi hơi quắm xuống - tướng của những người nham hiểm và đầy tham vọng - hiện lên dưới ánh lửa. 

- Phạ ơi! ông...

Dua Lô bỗng tròn mắt. thốt lên mấy tiếng lắp bắp, rồi thụp ngay xuống lạy dưới chân người khách mới tới:

- Phạ ơi? ông... ông thiếu tá?

Người khách nhếch miệng cười, đỡ y dậy:

- Mày vẫn còn nhận ra tao sao, Dua Lô?

Dua Lô vẫn chưa hết xúc động:

- Làm sao mà tôi lại quên được thiếu tá? Năm 1970, khi chưa có bọn cách mạng về đây, tôi đã được đưa về Long Chẹng cùng dân bản này để xây cất lô cốt cho tướng Vàng Pao. Tôi đã được biết thiếu tá. Thiếu tá đã dùng tôi để chăn ngựa và hầu hạ thiếu tá ít lâu. Sau đó thiếu tá sang Mỹ, thiếu tá mới cho tôi trở về Pha Côi...

Người khách ngồi xuống bên bếp lửa, hơ tay cho đỡ lạnh, y có vẻ khá mệt mỏi: 

- Mày có trí nhớ khá tốt đấy, Dua Lô ạ?

Dua Lô sung sướng, bạo dạn hơn:

- Thưa thiếu tá, vậy thiếu tá đi những đâu và làm gì từ bấy đến nay?

Đôi mắt sắc lạnh của người khách ánh lên một tia giễu cợt:

- Mày vẫn bồng bột và hay bép xép như trước vậy sao, Dua Lô?

Dua Lô thoắt tái mặt. Nó hiểu: thế là nó đã phạm một tội nghiêm trọng là không biết giữ bí mật cho cấp chỉ huy. Dường như hiểu được sự sợ hãi của tên đầy tớ cũ người khách an ủi:

- Nhưng không sao! Tao cũng có thể nói sơ qua cho mày hiểu: tao ở ngoại quốc được thượng cấp phái về. Dân Mẹo sắp bị tàn sát hết. Tao có nhiệm vụ về trực tiếp giúp đỡ ông Koóng Sừ.

- Giàng ơi? Vậy thì phúc cho dân Mẹo ta quá! 

- Dua Lô? - Tên phỉ dẫn đường lúc này mới khe khẽ xen vào - Mày không thấy thiếu tá à, mà bây giờ ngài là đại tá rồi. Mày không thấy đại tá đi bộ đường xa mệt rồi sao? Mày hỏi nhiều vậy? Mày bảo vợ có gì đem ra đây để đại tá xơi tạm...

- A! Xin có, xin có!

Dua Lô đứng dậy. Nó xì xầm với vợ mấy câu. Lát sau, người đàn bà khép nép, cung kính đem tới trước mặt người khách lạ một vò rượu, một miếng thịt nai đã sấy khô từ lâu trên bếp lửa. Người khách không nhìn vào vò rượu và tảng thịt đặt dưới đất mà nhìn như cắm vào gương mặt hồng hào xinh đẹp cùng bộ ngực nở căng tuyệt vời của thiếu phụ hé lộ trắng ngần khi chị cúi xuống đặt vò rượn.

- Xin mời đại tá. Nhà tôi quá nghèo. Đại tá lại về bất chợt ...

Người khách phác một cử chỉ an ủi:

- Không sao. Mày vẫn biết nhớ chủ cũ là tốt.

- Thưa đại tá! Đại tá mệt, xin ngủ qua đêm tại đây. Tôi bảo đảm an toàn...

Người khách ném một cái nhìn rất nhanh về phía Y Nu lúc đó đã ngồi thu mình trong bóng tối ở gian bên. Người khách mỉm một nụ cười tiếc rẻ:

- Tao cũng muốn nghỉ lại. Hiềm vì công việc của tao quá gấp. Tao phải gặp ông Koóng Sừ ngay trong đêm nay. Tình hình khá nghiêm trọng đấy. Thám báo cho biết: địch đã tập trung quân ở Ka Xỉ, Pha Côi có thể sẽ là mục tiêu tiến công chỉ trong nay mai thôi.

Người vợ dỏng tai nghe. Gương mặt chị ta thoắt lại tràn ngập nỗi lo sợ. Nhưng Dua Lô hất cao mặt. đôi mắt y nhọn hoắt lại. Nó có đầy đủ khí sắc của một tín đồ sẵn sàng chết vì một ma giáo nào đó:

- Thưa đại tá? Chúng tôi sẵn sàng để đổi mạng với tụi nó.

- Giàng ơi ? - Người vợ bật lên một tiếng kêu nho nhỏ trong bóng tối .

Người khách ném một cái nhìn ranh mãnh. giễu cợt rồi bắt đầu ăn. Khi đã ăn, y không nói nửa lời. Có lẽ y đã đói lắm. Bấy giờ Dua Lô mới để ý nhìn kỹ thấy hai ống quần và đôi giầy vải của nó đã sũng nước và đầy bùn đất lẫn cỏ may. Hiển nhiên nó đã phải đi bộ một chặng rất dài. Lát sau, người khách vươn vai, đứng dậy, xốc lại bao súng.

- Thôi! Tao đi đây, Dua Lô! Mày tốt lắm. Vợ mày cũng tốt lắm. Tao sẽ có lúc cần dùng tới mày. Tao sẽ cất nhắc mày... .

- Trăm ngàn lần tôi đội ơn đại tá!

- Nhưng phải giữ cái miệng mày đấy! Câm không được nói cho ai biết là tao đã về đây. Hiểu chưa?

- Thưa đại tá, hiểu rồi.

Người khách liếc nhìn lại vợ Dua Lô, rồi cúi khom người thoắt bước ra, không chào hỏi ai một lời nào nữa.

Căn nhà chỉ còn lại hai vợ chồng.

Y Nu đến bên chồng. Cặp mắt chị ta long lanh:

- Dua Lô! Anh thấy chưa? ông ta nói quân cách mạng sắp vào Pha Côi rồi ...

Dua Lô nhếch miệng cười:

- Vào sao nổi !

- Anh quá tin ở anh. Anh quá tin ở những người chỉ huy của anh ...

- Sao không tin? Bây giờ chúng tao có cả người Mỹ giúp. Cấp trên lại phái người về trực tiếp thế này... Mà nếu không, tao cũng dám đánh. Tao đã nói rồi, tao đánh cho đến khi nào máu tao chảy kiệt, như sông suối mùa khô, thịt xương tao tan ra như khói trời mùa gió. Mày không nghe ông đại tá nói đấy ư? Dân Mẹo ta sắp bị tiêu diệt. Phải cứu lấy dân Mẹo, tao phải trả thù cho cha tao, cho em tao nữa!

- Giàng ơi. Làm sao cho đầu óc anh khỏi điên cuồng, làm sao cho bụng dạ anh khỏi tối tăm, độc địa. Giàng ơi ? Tôi chết mất! Tôi chết mất!

Y Nu bật khóc nức nở. Dua Lô trừng mắt. No bực tức hết sức. Tại sao lại khóc? Rõ ràng Y Nu vẫn chưa hề quên nó là Hội phụ nữ bản! Giàng bắt nó đi. Bọn cách mạng quả là đã thu hết cả ba mươi hai linh hồn của nó rồi!...
*
*   *
Cũng trong đêm ấy, cách thị trấn Ka Xỉ không bao xa, những phân đội tham chiến của Đoàn 3 đã dàn ra trên mặt đường 13. Tất cả đều được trang bị gọn nhẹ. Hỏa lực đi cũng rất thích hợp với chiến thuật tác chiến trên rừng núi.

Đêm tối mờ mờ. Gió thổi dào dạt trên các ngọn lau rậm chạy suốt hai bên con đường lổn nhổn sỏi đá.

Trong bóng đêm. không nom thật rõ từng gương mặt, chỉ thấy những vóc người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn với những bộ quân phục đã gần như bạc trắng, những vòng ngụy trang, những bao đạn và những cây súng đầy mùi dầu mỡ.

Quân ta ngồi rải ở bên đường. Hết sức im lặng. Thỉnh thoảng mới thấy những tiếng rì rầm nho nhỏ và những tiếng truyền lệnh lan dài theo gió. Không một đốm lửa thuốc lá. Không một tiếng ho nhỏ.

Lê Dân ra tới mặt đường. Anh đi dọc hàng quân, ngắm nhìn những người đồng đội đã cùng anh vào sống ra chết, lăn lộn bao năm trên chiến trường miền Nam của Tổ quốc. Diệt Mỹ, đánh ngụy. Đánh cả lũ chư hầu Nam Triều Tiên, bọn tay sai Thái Lạn... Các anh đã đụng đầu và đánh bại gần như đủ mặt những đơn vị ác ôn khét tiếng của quân thù. Giờ đây, cũng không ngờ lại cùng nhau vượt núi băng rừng, theo tiếng gọi thiêng liêng tình nghĩa, với tinh thần quốc tế vô sản, bọn anh đã có mặt ở nơi xa xôi này, trên đất nước Lào anh em, để một lần nữa lại vào trận.

Lẽ cố nhiên đối tượng tác chiến bây giờ không giống như trước. Phương thức tác chiến giờ đây cũng không như hồi đánh Mỹ ở quê nhà. Và các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam cũng chỉ được gánh vác có một phần nhỏ nhiệm vụ, được phối hợp trên một hướng dưới sự chỉ huy của Bộ chỉ huy mặt trận do các đồng chí Lào phụ trách.

Nhưng dẫu sao, Lê Dân vẫn cảm thấy lòng mình phấn kích đặc biệt với những niềm háo hức, hăng say tương tự như trong những giờ phút trước khi nổ súng trước đây. Anh nhận thấy các chiến sĩ của mình cũng có tâm trạng như vậy. Tất cả đều sẵn sàng vì nền độc lập, vì hạnh phúc chung của nhân dân Bạn và ta mà dấn thân vào lửa đạn. Sẵn sàng hy sinh vì Bạn cũng như đã từng sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc của chính mình. Cũng vì thế, anh nhìn thấy các chiến sĩ ta hôm nay dường như thấy đẹp hơn lên nhiều lắm.

Anh dừng lại trước đơn vị trinh sát. Bao giờ cũng vậy anh vẫn thầm dành cho những người lính thuộc binh chủng này một tình cảm riêng biệt. Anh vốn cùng xuất thân là lính trinh sát, thứ lính thiện chiến, can trường, và có tâm hồn phóng khoáng.

Nguyễn Nam, đội trưởng trinh sát nhận ra Chính ủy của mình, mềm mại và nhanh nhẹn đứng dậy, thoát khỏi bóng tối của một lùm cây bên đường.

Lê Dân siết chặt tay chàng trai mảnh dẻ có một sức bền và gan góc đã nổi tiếng này. Anh kéo Nam cùng ngồi xuống. Đám lính trinh sát nhanh chóng vây quanh lấy anh.

- Thế nào các đồng chí? Chuyến này ta đổi cách đánh. Vừa trinh sát. vừa tác chiến luôn không như ở Pha đeng - Pha Lai nữa. Lần ấy trinh sát vào trước, nắm tình hình xong quay ra báo cáo, rồi mới dẫn quân vào. Như vậy dễ lộ, địch có thời gian lùa dân rút hết sạch. Vậy lần này lính trinh sát đồng thời là chiến binh luôn đấy. Các đồng chí nắm vững cả rồi chứ?

- Báo cáo, vững cả rồi ạ!

Lê Dân gật đầu :

- Nhưng, quan trọng hơn hết, tôi thấy cần phải nhấn mạnh lại với các cậu: lần này phối hợp với quân Bạn phải làm sao nhanh chóng đập tan mọi sự kháng cự của bọn phỉ đã đành, còn giải phóng được nhiều dân nữa. Phải giành lại dân, các đồng chí hiểu chứ. Giác ngộ dân, giành lại dân, vấn đề quyết định đấy chứ không phải là vấn đề quân sự.

Những tiếng cười bỗng nổi lên.

- Sao lại cười? - Lê Dân ngạc nhiên.

Nam vuốt lại để tóc xõa xuống trán, đỡ lời hộ anh em:

- Báo cáo, anh em cười là vì lại nhớ tới câu chuyện tìm dân ở Pha đeng - Pha Lai vừa rồi. Bộ đội mình thì đứt hơi. Khổ quá sức là khổ. Mà dân thì có một số người bị địch lừa gạt, cứ thoáng thấy bóng quân Bạn, quân ta là chạy liền. Chạy đến nỗi những tay trinh sát cừ khôi nhất của Bạn, của ta cũng không đuổi kịp. Có những bà già đã năm, sáu mươi tuổi mà quân Bạn. quân ta chạy cũng không hơn. Còn nhớ cậu Văn bữa ấy thấy hai cô gái đang làm nương, mừng quá, rón rén bò tới. Rồi bắc loa tay lên gọi: "Này, này các chị ơi...". Chưa kịp nói hết câu họ đã chạy vụt đi như hai ánh chớp. Tài hoa như cậu Văn, nổi tiếng như cậu Văn về môn chạy nước rút mà khi lao theo chỉ còn kịp chộp được gấu váy của một cô. Chiếc váy tụt lại, còn cô gái thì biến mất dưới sườn đồi đầy cây rậm ...

Cả bọn cười phá. Riêng Lê Dân vẫn nghiêm trang:

- Chớ có cười. Đó là chuyện đau lòng và cũng là khó khăn lớn nhất của chúng ta đấy

Toán chiến sĩ gật đầu, không cười nữa. Lê Dân tiếp:

- Các đồng chí chắc vẫn luôn nhớ: theo nguyện vọng chung của cả hai nước Việt - Lào, chúng ta sang đây để phối hợp bảo đảm nền an ninh của nước Lào anh en, chống lại tất cả mọi quân thù độc ác hoặc ra mặt, hoặc giấu tay của nước Lào. Chúng ta sang đây như những người tình nguyện. Nay bọn CIA, bọn phái hữu cũ xúi giục một số dân chậm tiến của Bạn, làm bạo loạn, còn chúng thì giấu mặt ở phía sau. Chúng muốn dùng người Lào đánh lại người Lào, gây nên hận thù chồng chất. Thâm độc là ở chỗ đó, là phải hiểu thật kỹ điều này và nắm vững đường lối của Đảng nhân dân cách mạng Lào giải quyết vấn đề phỉ là phải giải quyết phối hợp chặt chẽ cả ba mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, mà cơ bản là chính trị, giành dân, giác ngộ dân, tổ chức tốt hơn nữa đời sống cho dân. Cho nên, nói thật với các đồng chí, được yêu cầu tham gia tiễu phỉ tôi không lo gì, chỉ lo các đồng chí quên hoặc coi nhẹ công tác tuyên truyền, giác ngộ vận động dân, kể cả công tác vận động. Giác ngộ chính bọn phỉ. Vì phỉ là gì? Cơ bản là những người dân chậm tiến, bị địch lừa gạt, ép buộc làm loạn mà thôi.

Các chiến sĩ đứng vây quanh mỗi lúc một thêm chăm chú. Họ như đã hiểu thêm ra được khá nhiều về nhiệm vụ của mình mà họ tưởng rằng đã hoàn toàn thấu hiểu, không có gì còn cần phải nói nữa.

Lê Dân nói thêm về những yêu cầu cụ thể, kể cả những biện pháp cụ thể về công tác vận động dân ở vùng này, rồi anh đi tới một đơn vị bộ binh. Anh dừng lại ở một tiểu đội, toàn lính trẻ. Phần đông họ là học sinh mới rời ghế nhà trường, khoác áo quân nhân từ 1974. Họ đã được tham dự cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 ở Tổ quốc. Nhưng từ bấy đến nay họ vẫn chưa một lần được về thăm nhà. Cuộc chiến đấu đã kéo họ đi miết. Đất nước được giải phóng, hoàn toàn và thống nhất, theo lời kêu gọi của Đảng ta, họ đã trở lại miền rừng để làm kinh tế. Nhưng đang làm kinh tế chưa qua được một mùa lúa thì lại bỏ cuốc xẻng, để lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Đảng và Chính phủ Lào anh em, theo hiệp định mà hai Chính phủ đã ký kết. Bây giờ, dường như không còn nhận ra những cậu học sinh nữa. Nước da họ đã rám nắng. Hai bàn tay họ đã dầy chai sẹo. Giọng nói họ đã vỡ ra. Cách nói cũng có cái gì phóng túng và từng trải hơn.

Trần Ánh, một tiểu đội trưởng cất tiếng hỏi:

- Chính ủy lần này cùng đi với bọn em không?

- Đi chứ! Này, sức khỏe các cậu thế nào?. Chân cẳng tốt rồi chứ?

- Báo cáo, tốt cả rồi ! Lần này bọn em quyết sẽ trả thù cho Vũ Tôn của tiểu đội một cách... đầy đủ nhất, thủ trưởng ạ

Lê Dân bỗng thấy có cái gì ớn lạnh chạy suốt đầu óc anh. Anh lặng ngắm nhìn Trần Ánh, chàng trai có cặp mắt ngây thơ, dịu dàng như mắt con gái ngày nào nay đã sắc nhọn lại như hai mũi đao. Khi nói tới hai tiếng Vũ Tôn, đôi mắt ấy bỗng như cháy lửa. Tôn là tiểu đội trưởng cũ của tiểu đội này (khi ấy Ánh mới là tiểu đội phó). Vũ Tôn, chàng trai tuyệt vời ấy đã bị một tên phỉ bắn lén ngay giữa lúc anh đang đứng lên giải thích một cách nồng nàn, tha thiết cho một đám đông nhân dân Lào mà anh em vừa mới tìm được dưới một khe suối hiểm. Tên phỉ quái độc nọ đứng lẫn trong dân, đã bắn lén một phát trúng giữa trán anh...

Lê Dân càng nhận thấy rõ hơn bao giờ hết: công tác chính trị trong cuộc tham gia với Bạn tiễu phỉ, giành dân này, quả là đã có những mặt phức tạp, tế nhị khó khăn. khác thời đánh Mỹ nhiều.

Lại phải nói với những anh em này thế nào đây?

- Các đồng chí ạ! Tôi nghĩ: trả thù cho Vũ Tôn đâu có phải chỉ là đòi nợ máu? Các đổng chí cần hiểu cho rõ, nhận cho rõ: kẻ thù độc ác nhất của nhân dân Lào anh em, cũng là kẻ thù của chúng ta, là bọn đang giấu mặt ở bên kia sông. Bởi vậy, trả thù cho Vũ Tôn, nên nghĩ thế này đúng hơn: ta hãy tích cực góp phần cùng Quân giải phóng Lào giác ngộ dân tốt hơn nữa. Phải giành được tuyệt đối dân về ta. Đấy mới là cách trả thù đầy đủ nhất, và cơ bản nhất...

Trần Ánh lắc đầu:

- Các thủ trưởng bao giờ cũng luôn luôn nghĩ đúng, và nói đúng. Bọn em hoàn toàn tin tưởng như vậy. Nhưng chúng em là lính, chúng em cũng thường quen nghĩ một cách ngắn gọn và cụ thể. Do đó, xin hãy thông cảm cho, chúng em không phải không có lúc đã có những ý nghĩ không hoàn toàn giống các thủ trưởng...

- Vậy các cậu muốn nói sao?

- Chúng em nhất định sẽ phải trả thù cho Vũ Tôn bằng mọi giá!

- Thì tôi có nói là không trả thù đâu - Lê Dân vội ngắt.

- Nhưng cách trả thù của Chính ủy nó... chiến lược quá. Nó bao gồm quá. Bọn em không biết nói sao cho rõ…

- Vậy tôi nói không đúng hay sao?

- Đúng chứ! Nhưng nó chiến lược và bao gồm quá! Là lính, chúng em muốn mọi cái phải cụ thể. Chúng em muốn trả thù cho Vũ Tôn một cách... đầy đủ nhất.

- Trời? - Lê Dân chỉ còn muốn kêu lên.

Nhưng rồi đã đọc được những gì trong đáy mắt anh. Trần Ánh hạ giọng xuống, như muốn an ủi anh:
- Tuy vậy, đau quá, ức quá thì nói thế thôi. Chính ủy ạ. Chúng em hứa sẽ không bao giờ làm bậy, bắn bậy đâu.

Lê Dân cảm động: 

- Nếu vậy, tói có thể yên tâm. Như thế nhé, các đồng chí ạ, phải luôn luôn nhớ đấy: chỉ trừng phạt những kẻ ngoan cố chống lại ta đến cùng. Tôi vẫn muốn nhắc các đồng chí: hãy luôn nhớ kẻ thù ghê gớm nhất, nguy hiểm nhát, độc ác nhất, cội nguồn của tất cả mọi chuyện đau đớn, của mọi hận thù ở đây này vẫn chính là bọn Mỹ cùng lũ phái hữu tay sai. Tại sao chúng ta vẫn phải xa quê hương Tổ quốc sang đây, tại sao chúng ta vẫn còn phải trèo đèo lội suối, phải đổ mồ hôi, đổ máu tiếp tục? Tất cả cũng chỉ vì bọn nó hết?

Rồi anh bắt tay từng chiến sĩ, quay đi. Nhưng tâm hồn anh vẫn còn xao xuyến mãi. Nếu anh không lầm, trong cuộc chiến đấu lần này, trên lĩnh vực này, việc quan trọng đầu tiên đúng là phải làm giúp cho người lính nhận ra được thật rõ kẻ thù mà cây súng của mình sẽ nhằm tới, tuyệt đối không được lầm lẫn!...
*
*   *
Dốc rồi dốc. Núi lại núi. Con đường cheo leo, luồn lách của rừng rậm, suối sâu lên mãi, lên cao mãi, dọc theo triền núi Pha Côi sừng sững chắn hết một khung trời.

Quân ta bám gót nhau, gò lưng tiếp tục tiến bước. Hơi thở đã phì ra cả hai tai. Đầu ong ong. Chân chồn ê ẩm. Những cây súng, những bao gạo, những vác đạn mỗi lúc một thêm nặng trĩu, như nghiến trên những đôi vai cơ hổ đã rớm máu. Trời se lạnh, mà mồ hôi đã ướt đẫm các lưng áo, chảy dài trên những thái dương bập bùng như tang trống.

Dốc, vẫn dốc. Núi, vẫn núi. Con đường nhỏ tắp, ngoằn ngoèo, chìm trong những vạt tranh, luồn sâu trong những khu rừng già lên cao mãi, như lên trời. Phỉ ở đâu? Địch ở đâu? Chúng đang phục trên những đỉnh dốc kia, hay bên những khe sâu hiểm trở nọ? Luôn luôn có cảm giác như đã có những cặp mắt nhỏ tí, đen láy, man rợ, ẩn kín sau những lùm cây rặm, trên những vách đá cheo leo bên đường. Luôn luôn tưởng như đã có những nòng súng đặt ở những chạc cây cắm sẵn, chĩa xuống từ những sườn dốc ở phía trước, hoặc ở sau lưng mình...

Nhưng vẫn chỉ có tiếng gió thổi dào dạt, hoang vu. Gió đang gọi mây trở về cho mùa mưa tới. Tiếng đá lăn lạo xạo dưới chân đoàn quân như ngậm tăm, lầm lũi. Thi thoảng nghe "bép" một tiếng, một con beo đi ăn đêm táo bạo hoặc sợ hãi lao vút qua con đường mòn, ngay trước mặt các chiến sĩ. Lau sậy thoắt như đổ rạp. Rồi "gù... gù gù” những con chim đêm cất tiếng kêu khàn khàn quái gở, đập cánh, từ những bụi rậm, chốc chốc lại bay vụt lên, tựa như những kẻ phục kích bên đường chợt chồm dậy.

Đoàn quân vẫn tiếp tục tiến bước.

Đội trinh sát luôn luôn đi tiên phong. Các chiến sĩ đi rải ra hai bên đường theo đội hình chiến đấu, cúi thấp mình xuống thành những dáng hơi lom khom, mũi súng luôn hướng về phía trước.

Đã mười hai giờ khuya, Nguyễn Nam, chàng trai mảnh dẻ, chỉ huy đội trinh sát xem đồng hồ tay. Lúc này ở Tổ quốc, chắc mọi người đã ngủ yên, với những giấc mơ đẹp về viễn ảnh của một thời hòa bình? một cuộc đời từ nay sẽ mãi mãi sung sướng ấm no. Có lẽ chủ yếu chỉ có những người lính là đang thức, nhất là những người lính tình nguyện đang ở ngoài biên giới của Tổ quốc.

Đêm nay, đã mấy ai đang ngủ ngon ở Tổ quốc bỗng nhớ rằng: đang có những người con, chân gần như không giày, đầu gần không mũ, áo rách, vai gầy, đói từng mẩu thuốc lá, thèm từng tiếng trẻ thơ... nhưng vẫn quả quyết tiến lên để vào trận, theo mệnh lệnh của trái tim, theo nghĩa tình của đồng chí.

Các phân đội tiếp tục tiến lên mãi. Thế rồi, đã thấy cả vùng trời phía đông sáng lên như bạc. Bóng tối nhạt nhòa. Những vì sao đã tắt dần.

Các đơn vị được lệnh tạm nghỉ. Những người chỉ huy áo quần ướt đẫm sương đêm và mồ hôi chụm đầu trên những tấm bản đồ trải rộng bên đường mòn. Họ cùng xác định lại tọa độ và đều vui mừng nhận thấy: chỉ còn cách vùng trung tâm Pha Côi hơn năm ki lô mét đường chim bay.

Lúc này các đơn vị Quân giải phóng nhân dân Lào ở hướng chính chắc cũng đã tới đích. Những gương mặt nở giãn ra, sáng những nụ cười. Đã có thể coi như thắng lợi bước đầu: giữ được bí mật và tới vị trí tập kết đúng giờ. Không một tai nạn, không một chiến sĩ tụt lại. Đã rất khác với đợt vào Pha Lai - Pha đeng khi trước. Hồi đó, ngay trong buổi đầu tiến quân, các đơn vị đều bị tiêu hao, vì phỉ luôn luôn bắn theo quấy rối, bắn tỉa và cài mìn trên suốt dọc đường đi. Thêm nữa: còn có một số chiến sĩ đã bị hy sinh trong khi mang vác quá nặng, vượt qua sông sâu, lũ cuốn. Gian nan thật không sao nói xiết...

Mặt trời ló dạng.

Cả dãy núi Pha Côi thoắt hiện lên dưới ánh mặt trời buổi sớm, vách núi như cả một khối kim cương khổng lồ sáng rực, muôn màu lấp lánh.
Tất cả đoàn quân mệt nhọc đang tất bật sửa soạn súng đạn, đều ngẩng lên và không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh bình minh huy hoàng kỳ lạ này. Bỗng như có một cảm giác, mọi người đang đứng trước một ngọn núi thần.

Nhưng rồi nắng đã chuyển màu. Đoàn quân tiếp tục hành tiến. Đội trinh sát vẫn dẫn đầu, vừa đi vừa sục sạo, quan sát, sẵn sàng để tóm gọn những mục tiêu nào bất ngờ xuất hiện ở phía trước.

Lê Dân vẫn đi ở đoạn giữa của đội hình đơn vị. Dường như càng dốc hơn nhưng cũng quang hơn. Quãng quãng đã thấy vạt rừng tranh mênh mông cuồn cuộn. Không khí càng lạnh thêm. Biết là đã lên cao lắm. Và nhìn vào bản đồ thấy sắp tới gần vùng tập trung dân cư đông đúc của Pha Côi rồi, như vậy cũng có nghĩa: Sắp tới giờ nổ súng?

Chợt có một cái gì như một làn gió mạnh đột ngột thổi lật từ phía trước đoàn quăng ngược lại phía sau, tất cả các chiến sĩ thoắt đều như rạp mình xuống và những tiếng báo cáo truyền lan lại.

- Cái gì vậy? Gặp địch rồi ư? Nhưng sao không thấy súng nổ?

- Báo cáo! Trinh sát đã bắt sống được bốn tên phỉ!

- Sao - Lê Dân không nén nổi ngạc nhiên.

Anh như bay lên phía đầu hàng quân. Một toán trợ lý tác chiến, chính trị và liên lạc rùng rùng chạy theo sau anh. Cỏ tranh bị xéo đổ rạp thành một vệt dài .

Đúng như báo cáo: một toán bốn chiến sĩ trinh sát dẫn bốn tên phỉ râu tóc rậm rạp đang xồng xộc từ phía trước đổ dốc.

Lê Dân giơ tay ra hiệu: dừng lại. Bốn tên phỉ cùng ngồi thụp xuống bãi tranh dưới chân một tảng dá lớn.

Lê Dân đã được nghe báo cáo tỉ mỉ: anh em trinh sát nói cho đúng hơn, một mình đội trưởng Nguyễn Nam, chàng trai mảnh dẻ ấy đã vừa dùng mưu, vừa dùng sức mạnh bắt sống ngay tại trận bốn tên phỉ này. Chúng đang từ phía trong đi ra. Có lẽ chúng đang có nhiệm vụ đi sục sạo ra vành ngoài của khu vực bố phòng. Chúng đi thành một hàng dọc, đứa nọ cách đứa kia trên mười mét. Ở một khúc quanh, có cây rậm, tên đi đầu vừa xộc tới thì chạm trán Nguyễn Nam. Với một sự thính nhạy đặc biệt của những người lính trinh sát. Nam dường như đã “ngửi" thấy mùi địch trước khi cuộc chạm trán hoàn toàn bất ngờ xảy ra. Bằng một động tác võ thuật lợi hại, nhưng hơn thế nữa, với một phản ứng trí tuệ chính xác tuyệt vời Nguyễn Nam đã đánh gục ngay đối thủ trước khi nó kịp nổ súng hoặc la lên. Sau đó, rất nhanh, anh hất nó lại phía sau cho đồng đội khóa tay và bịt chặt miệng nó lại. Cũng với kinh nghiệm phong phú và sự thông minh lạ lùng của mình, Nguyễn Nam phán đoán: chắc chắn còn có vài thằng phỉ đi sau nữa. Nghĩ vậy, anh nép mình xuống chờ đợi. Quả nhiên, chỉ một phút sau, một cuộc đánh bắt chớp nhoáng lại diễn ra. Cứ như thế bốn lần, cả bốn tên phỉ đều bị bắt gọn.

Lê Dân vấn một điếu thuốc vụn bằng một mẩu giấy báo cũ, nheo nheo mắt, xòe lửa đốt, rít một hơi dài. Đoạn anh ngửa cổ dốc bi đông tu một ngụm nước lạnh. Từ buổi ra quân tiễu phỉ, đã hơn tháng trời lặn lội gian lao, cực nhọc và không thiếu cả buồn phiền nữa, có lẽ lúc này, anh mới thấy lòng mình sảng khoái đôi chút. Đưa được cả đơn vị từ Ka Xỉ vượt núi, băng rừng vào tới đây không bị địch phát hiện và phục kích dọc đường, đã coi như một thắng lợi. Giờ đây lại tóm gọn bốn tên phỉ trong lúc hành tiến, anh càng thêm tin sự thay đổi chủ trương tác chiến trong đợt này có khả năng đem lại thắng lợi lớn hơn trước. 

Cuộc hỏi cung để khai thác tài liệu cần thiết nhằm phục vụ tức thời cho cuộc chiến đấu được bắt đầu ở ngay bên đường tiến quân.

Bốn tên phỉ ngồi cúi gằm mặt giây lâu rồi mới ngước những cặp mắt vừa sợ hãi, vừa thù hận nhìn lên qua những mái tóc rậm. Ba đứa đã đứng tuổi, râu đen kín cả cằm cả mép. Chỉ có một tên trẻ hơn, mặc một chiếc áo lính cũ, đeo vòng bạc, tóc xõa xuống tận ngang vai.

- Hãy cởi trói cho chúng! - Lê Dân ra lệnh.

Các chiến sĩ đều ngạc nhiên. Lê Dân ôn tồn nhắc lại:

- Cứ cởi trói! Dù muốn chạy, chúng cũng không chạy nổi mà! Hơn nữa, ta cần làm cho chúng hiểu: ta thực bụng muốn khoan hồng cho chúng...

Quả nhiên, khi được cởi trói, bốn tên phỉ có vẻ bớt sợ bớt căng thẳng hơn.

Lê Dân nói tiếp với các chiến sĩ mình:

- Chúng ta không nên quên điều này: tuy là những kẻ có tội với cách mạng vì làm phản loạn, nhưng hầu hết những con người này vốn vẫn là những người dân lao động. Họ bị bọn CIA, bọn phái hữu lôi kéo, lừa gạt, đưa dắt vào con đường tội lỗi này. Chúng ta bắt được chúng, hãy cố cứu vớt lấy họ, làm cho họ tỉnh ngộ trở về với làng bản, với cuộc sống lương thiện...

Nói đoạn anh quay về phía một tên phỉ, hỏi:

- Anh tên gì? Còn trẻ quá hả?

- Xẩm Tu! - Tên phỉ trẻ nhất bọn khẽ đáp.

Xẩm Tu? Cái tên nghe quen quen. Lê Dân cố nhớ lại .

- Xẩm Tu? Có phải anh ở Noọng Kho không nhỉ? 

- Phải

- Vậy hả? Vậy sao giờ đây anh đến nông nỗi này. Xẩm Tu?.

Lê Dân cảm thấy thực sự trong lòng mình một nỗi ngạc nhiên lẫn xót thương...

Im lặng.

- Anh nói đi, Xẩm Tu. Tại sao vậy? Ai đã xui anh làm phỉ? Anh dại dột quá! Anh bị chúng lừa dối, thảm hại quá! Nước Lào đã được giải phóng. Nước Lào đã độc lập. Tại sao các anh lại còn nghe bọn Mỹ, bọn xấu xúi giục. Anh không hiểu ư?

Vẫn im lặng. Nhưng rõ ràng một nét buồn bã nào đó đang lướt trên khuôn mặt nhỏ thó của nó.

Thời gian không cho phép anh kéo dài được nữa, cuộc đối thoại với bốn tên phỉ này. Cần phải đẩy nhanh tốc độ của cuộc tiến quân. Đó là thái độ tỉnh táo và khôn ngoan hơn cả. Lê Dân đứng dậy.

Bốn tên phỉ được chuyển về phía sau cho một đơn vị bộ binh canh giữ, rồi giải ra đường 13, đưa thẳng về Ka Xỉ giao lại cho các đơn vị Bạn khai thác tài liệu và giáo dục.

Bốn tên phỉ ấy đã được trao cho một tiểu đội xung kích - Tiểu đội của Trần Ánh.

Chúng nó đây rồi! - Trần Ánh như quát to.

Cả bốn tên phỉ đều như kinh hoàng trước người chiến sĩ trẻ tuổi, mặt đỏ như lửa. Chúng cùng thoắt như co rúm cả lại, ngồi xệp cả xuống đám cỏ ở bên đường.

Trần Ánh nhìn trừng trừng.

Vũ Tôn ơi! ... Hình ảnh của người đồng chí bị phỉ bắn lên trong tháng trước lại vụt hiện lên làm cho đầu óc ánh như nóng giãy...

Cả tiểu đội đã vây quanh. Tất cả cùng nhìn nhau rồi nhìn bốn tên phỉ.

Liệu có bi kịch nào ở nơi đây lớn hơn thế này nữa? Tất cả cùng đứng trước đồng bọn của tên ác ôn đã bắn chết đồng chí thân yêu của mình, mà ai ai cũng phải nén lỗi căm hờn lại - Không những vậy mà còn phải kiên quyết rũ bỏ nó đi, cố giữ cho mình thật tỉnh táo, để có được mọi thái độ bình tĩnh, nhân đạo và sáng suốt nhất. "Hãy tha thứ và cứu lấy chúng. Như vậy tốt hơn. Thêm một người ngã xuống, chỉ thêm một hận thù”. Nhưng biết đến bao giờ mới xây dựng được niềm tin thực sự và bền vững cho nhân dân Mẹo ở đây đối với cách mạng, đối với tình đoàn kết anh em của toàn thể cộng đồng các dân tộc Lào?

Trần Ánh vuốt mặt như để cố xua tan những cái gì còn day dứt, đoạn cử hai chiến sĩ giải tiếp bốn tên phỉ này quay trở về Ka Xỉ? Xong đâu đấy, anh dẫn tiểu đội tiếp tục đuổi theo đơn vị. Lúc ấy, nhìn lên những ngọn núi đất vàng rực cỏ tranh ở phía trước đã thấy li ti một dòng người đang bám theo nhau ngoằn ngoèo bò lên rồi mất hút trên những đỉnh cao ngất mây mù che phủ. Bọn Trần Ánh vừa đi qua chưa được khoảng hai mươi phút, chợt một loạt AK nổ vang ở phía sau. Trần Ánh vội kêu

- Có chuyện rồi !

Anh băng ngược trở lại cùng với hai chiến sĩ nữa. Anh đã không nhầm. Một chiến sĩ ta đang vật lộn với hai tên phi. Bằng hai trái đấm như sét đánh. Ánh kịp thời cứu nguy cho đồng đội của mình. Anh chiến sĩ bé nhỏ của ta mặt mày xây sát, lồm cồm bò dậy kể lại: Một trong ba tên phỉ đứng tuổi đã bất thần bỏ chạy. Tên trẻ tuổi cũng chạy theo. Một chiến sĩ ta đang đuổi. Còn lại hai tên phỉ cũng định chạy nốt, nhưng anh chiến sĩ nhỏ bé của ta đã kiên quyết nổ súng lên trời, bắt chúng ở lại. Và thế là cuộc vật lộn đã diễn ra...

Loạt AK nổ, không riêng gì Trần Ánh nghe thấy mà tất cả đoàn quân. Tiếng nổ dường như làm bàng hoàng cả vùng rừng núi đang yên tĩnh, dù đó chỉ là một thứ yên tĩnh tạm bợ, dối lừa.

Lê Dân đang đi cùng với đoàn trưởng Bài. Cả hai cũng thốt lên, gần như giật giọng. 

- Hỏng rồi .

Loạt AK nổ cũng có nghĩa là cuộc tiến quân đã bị lộ. Ai bắn? Ta hay phỉ? Dẫu cho ai bắn cũng vậy thôi, thế là toàn vùng đã được báo động.

Một phái viên tác chiến được lệnh quay trở lại phía sau nắm tình hình và giải quyết mọi việc. Còn đoàn quân được lệnh tiếp tục tiến nhanh hơn nữa vào khu trung tâm của phỉ. Chỉ còn có cách ấy...

Đội trinh sát vẫn dẫn đầu.

Hơn mười chiến sĩ, mũ áo cài lá ngụy trang, đi hai bên đường, bước chân dài nhanh và nhẹ như chân báo. Những cặp mắt sục sạo khắp các địa hình địa vật phía trước. Những đôi tai giỏng lên, bắt lấy từng tiếng lá rơi, lừng hơi thở lạ...

Bỗng một phát ga-răng Mỹ nổ chát chúa từ phía đỉnh một con dốc hẹp ở phía trước.

- Anh Nam ơi !

Một tiếng kêu nho nhỏ cất lên nghe lạnh rợn. Một đám tranh rung lên. Tiếng người ngã vật.

Nguyễn Nam chạy lên. Người chiến sĩ đi đầu của đội trinh sát đã trúng đạn. Vẫn một phát đạn nã đúng giữa trán ...

Nguyễn Nam ôm lấy bạn. Ngực anh đau thắt lại. Toàn thân anh rung lên trong một nỗi choáng váng.

Nhưng anh vội ôm lấy xác bạn, lăn tròn đi một vòng, vừa khi một phát ga-răng thứ hai bắn tới cày tung đất ở ngay chỗ liệt sĩ vừa ngã xuống.

Cùng một lúc, các tay súng trinh sát của ta kịp thời phản ứng. Đạn rít lên, tập trung trút lên đỉnh dốc phía trước

Tiếng súng giữa vùng núi đá bao giờ cũng dữ. Nó dội từ vách này sang vách khác, rền lăn từ sườn dốc này sang sườn dốc kia, như được nhân lên gấp năm lần, mười lần, trăm lần.

- Thôi bắn!

Nguyễn Nam chợt hô.

- Sao vậy, anh Nam?

- Bí mật tiến lên! Tổ một vòng trái, men theo vách đá, tổ hai vòng phải luồn theo rừng tranh. Bất ngờ từ dưới sườn dốc mà đột lên. Tôi và tổ ba sẽ đánh thu hút ở chính diện...

Đang vang động tiếng súng, rừng núi thoắt trở lại im phắc. Cái im lặng khác thường.

Lê Dân và đoàn trưởng Bài đã lên tới bên Nguyễn Nam từ lúc nào không biết.

- Đề nghị các anh lui lại! Cứ để mặc bọn em?

- Không sao! Cậu đã xử trí đúng! Phải bí mật công kích! Vãi đạn ra vô ích.

Nhưng chỉ một lát, sau khi vừa thoáng thấy bóng những người lính trinh sát của ta nhấp nhô men theo vách núi đá tiến lên, cây ga-răng nào đó của phỉ lại nổ một phát chói tai. Tiếp đó là một cây trung liên rú lên như hóa dại.

Thêm một chiến sĩ “hự" lên một tiếng, buông rời tay súng ngã xuống.

Liền ngay đó, lại thấy một hỏa điểm trung liên khác xuất hiện ở một hẻm núi, bắn đến kiệt cùng xuống phía rừng tranh. Những ngọn tranh bị xén đứt bay lên như trong một cơn xoay lốc.

- Báo cáo!

Tiếng hô lan dài trong gió đang lồng lên như từng đàn ngựa hoang.

Lê Dân ruột như có lửa đốt, quay lại phía Bài. Anh đoàn trưởng nhận định: bọn địch đã có tổ chức phòng ngự mạnh. Lần đầu tiên ở đây, vùng Ka Xỉ này, phỉ đã dùng tới súng máy trên tuyến một...

- Vậy phải đập tan mà lao nhanh vào tung thâm, chia cắt thôi chứ anh? - Lê Dân hỏi.

- Đúng thế? Tham mưu phó đâu, anh điều cho tôi ĐKZ và súng cối lên đây! Không thể đế bị kìm chân tại đây lâu hơn nữa.

Trong khoảnh khắc, một khẩu đội ĐKZ-75 và một khẩu đội cối 82 đạp lau lách, cỏ tranh rầm rập tiến lên. Lính thở hồng hộc, mồ hôi vã ra ướt đẫm những tấm áo đã nhàu nát và bê bết đất.

Xạ giới được phát quang.

Đợt bắn phá bắt đầu. Những quả đạn 82 vẽ những đường cong vút trên nền trời bổ thẳng xuống đỉnh dốc và hẻm núi phía trước. Những quả đạn ĐKZ-75 cũng gầm lên, lao thẳng tới mục tiêu. Lửa rực lên từng hồi trên những vách đá. Lửa như nhảy nhảy từ tảng đá nọ sang tảng đá kia. Khói bốc mù, trong chớp mắt đã gần như phủ kín cả đỉnh dốc.

Núi rừng lại náo động. Lần này còn náo động dữ dội gấp nhiều lần, với những loạt đạn lớn.

Bộ binh bắt đầu tiến lên. Trinh sát cùng phối hợp.

Những người lính xung kích bỗng thấy trong lòng trào lên một nỗi hồi hộp và cả một niềm hăm hở đặc biệt mà họ đã từng thấy trong những ngày đánh Mỹ. Tiếng súng nổ. Mùi thuốc đạn. Mùi lửa cháy. Những cặp mắt bừng bừng như lên cơn sốt. Những mệnh lệnh thốt lên đanh thép. Những gương mặt quả cảm. Cây côi đổ gãy nhàu nát. Cáng thương. Máu chảy luễ lõa... Những bàn tay siết chặt nhau. Những lời khảng khái của đồng đội... Tất cả bằng ấy cái đã tạo nên không khí đặc biệt nghiêm trọng và cũng đặc biệt hào hùng, xúc động của cái mà ta vẫn quen gọi là mặt trận.

Nhưng, khi đợt bắn phá chấm dứt, những người lính bộ binh vừa một loạt vùng dậy, thì hai cây súng máy và những cây ga-răng phỉ đột ngột xuất hiện trở lại.

- Súng máy yểm hộ! Anh em theo tôi!

Trần Ánh thét lên. Anh phất tay ra hiệu, đoạn ôm cây AK bay lên. Chàng trai lướt quá một toán trinh sát, nom thấy một người mảnh dẻ, mũ áo cài lá nghi trang lòa xòa cũng vừa chồm dậy khỏi một mô đá, băng mình về phía trước. Đó là Nguyễn Nam. Họ đã nhận ra nhau.

Tuy nhiên, rồi cả Trần Ánh lẫn Nguyễn Nam cũng như các chiến sĩ khác đều bị ghim cả lại trước cái dốc đá nọ. Rõ ràng bọn địch không đông, hỏa lực cũng không mạnh lắm, nhưng quân ta vẫn chưa thể nào vượt qua nổi chúng một cách nhanh chóng. Địa thế hiểm ác quá!

Ở phía sau, Lê Dân vuốt một dòng mồ hôi chảy dài nơi thái dương. Anh cất tiếng khàn khàn nói với Bài:

- Anh ạ. Đánh vỗ mặt kiểu này e không ăn rồi! Mặc dầu ta có hỏa lực mạnh, và chiến sĩ ta ưu tú hơn chúng tuyệt đối

Anh đoàn trưởng mắt tối sầm. khẽ gật đầu:

- Đúng! Có lẽ phải tính lại! Ta không nhanh, bọn bên trong sẽ kịp trở tay đối phó bắt dân đi hết mất!

*
*   *
Hang đá ở khá xa bản rất cao, gió rú từng hồi dài qua những khe đá hở. Nước lạnh nhỏ thánh thót dưới những chùm thạch nhũ. Ban ngày mà trong lòng hang tối om. Một đống lửa đang bập bùng cháy.

Koóng Sừ cúi đầu đi đi lại lại. Y nhỏ thó, trạc sáu mươi tuổi, có hai chòm ria mép nhỏ. Vầng trán cao, tóc lưa thưa. Đôi mắt thâm trầm. Y mặc một chiếc áo “đại cán", quần đen rộng, chân mang giày vải. Y có dáng vẻ của một cán bộ già đã về hưu hơn là một tên tướng phỉ như phim ảnh và sách báo vẫn thường mô tả. 

Không súng ngắn, không dao găm, không gầm thét, y chắp hai bàn tay có những ngón dài xương xẩu ra sau lưng, cúi đầu tư lự.

Chung quanh y không có một ai. Toán phỉ vệ sĩ đều ở tất cả ngoài cửa hang. Ban tham mưu của y ở một ngách hang khác. Nơi đó mới có đầy đủ không khí một cái ổ đầu não của phỉ, với một toán năm sáu tên tóc lòa xòa. cổ quái dao, súng, lựu đạn đầy mình, đứa mặc áo của sĩ quan phái hữu của Hoàng gia Lào cũ, đứa mang áo biệt kích đặc biệt của Vàng Pao, đứa khoác áo của phi công Mỹ. Chúng đang đứa nằm, đứa ngồi quanh một máy VTĐ cỡ khá lớn liên lạc đường dài.

Tên đại tá từ Thái Lan mới trở về ngồi một lảng đá lớn, chiếc mũ nồi đội sụp xuống tận trán, tấm áo khoác Mỹ dựng cao cổ lên. Bộ mặt nó xanh xám vì lạnh, cả vì căng thẳng. Đôi ria tỉa xén của nó đã rậm đen hơn trên đôi môi mỏng dính. Nó đang đọc báo cáo cho một tên lính truyền tin. Trong một hốc đá, ở xa đó một chút là một chiếc máy phát điện có hai tên phỉ khác đang gò lưng quay tay. Tiếng o o đều đều vọng ra, hòa lẫn tiếng ma-níp gõ tới tấp và giọng đọc gay gắt của tên đại tá, tạo cho ngách hang này một vẻ khẩn trương, nghiêm trọng đặc biệt.

Koóng Sừ ở phía bên này vẫn như một cái bóng, y rất ghét sự ồn ào. Y cũng muốn tránh không cho bọn thủ hạ thấy rõ được mọi nỗi bồn chồn cũng như mọi điều suy tính của y trong những giờ phút mà nó hiểu rõ là khá hiểm nghèo này.

Y thầm chịu đối phương của y đã kịp nhanh chóng thay đổi cách đánh: vừa tiến vào mục tiêu, vừa đồng thời trinh sát. Do đó cán bộ tham mưu của y nằm trong Pha Côi vẫn đinh ninh: lực lượng cách mạng tuy đã tập trung chung quanh Ka Xỉ, nhưng vẫn chưa động binh.
Điều này làm cho Koóng Sừ không khỏi lo lắng. Như vậy đối phương hiển nhiên cũng đã có một sự chuẩn bị khá kỹ.

Tuy nhiên, tên tướng phí cũng mừng thầm và tạ ơn "Phạ" đã cứu bọn chúng bằng sự việc một toán thám báo tuy bị bắt sống nhưng đã gây nên tiếng súng nổ, có tác dụng báo động.

Nay đã xác định được rồi: toàn khu vực đã bị uy hiếp, quân cách mạng đã áp sát tới Pha Côi. Koóng Sừ đã phải cho di chuyển ban tham mưu lên hang đá và ra lệnh cho thủ hạ cấp tốc lùa dân rút chạy. Y chưa chấp nhận chiến đấu. Vét cho hết dân đã! Đó là mệnh lệnh hàng đầu và trước hết.

Koóng Sừ cũng mừng thầm và tạ ơn "Phạ" đã cho nó những thủ hạ trung thành và can đảm. Dua Lô (chồng của Y Nu) trấn giữ ở vọng gác Cổng trời đã hăng hái làm sao? Các báo cáo liên tiếp đưa về cho biết: Dua Lô chỉ có trong tay mười tên phỉ nhưng dựa vào thế hiểm đã chặn đứng được cả một đơn vị của quân cách mạng. Cuộc chiến đấu ở đó đang tiếp diễn. Dua Lô chỉ xin tiếp tế súng đạn mà không hề xin rút chạy

Đó chỉ là một vọng gác thôi. Đúng như vậy. Làm gì có điểm tựa phòng ngự vững chắc? Càng không có hệ thống phòng ngự liên hoàn có chiều sâu. Không có! Viên đại lá từ Thái Lan về đã được học một lớp huấn luyện, đã thấm nhuần sâu sắc mọi mánh lới của họ. Chính nó, viên đại tá cố vấn mới về này đã bổ sung khá nhiều ý kiến hay cho toàn bộ kế hoạch chống vây quét mà Koóng Sừ đã vạch ra. Việc tăng cường hỏa lực cho các trạm gác cũng là ý kiến của viên đại tá cố vấn ấy. Vì vậy mà Dua Lô, viên "tiểu tướng" này đã biến được trạm gác của nó thành một “cửa ải" kìm được chân đối phương, để cho phía sau kịp thời xử trí.

Tuy nhiên, vốn đã tạm náu mình đi theo cách mạng, làm cán bộ quân sự một thời gian. Koóng Sừ thừa biết dẫu sao bọn Dua Lô cũng không thể đứng vững được tới quá trưa. Bởi vậy cần phải hết sức nhanh chóng thực hiện việc dồn dân rút chạy. "Phải kiên quyết bỏ lại của, bắt lấy người đã". Koóng Sừ đã ra mệnh lệnh bổ sung ấy. 

Giờ đây, y đang chờ đợi những báo cáo tiếp. Nhưng không phải của Dua Lô nữa. Dua Lô coi như đã “hoàn thành sứ mạng" của nó rồi.

Đột nhiên một tên phỉ vệ sĩ từ phía ngoài cửa hang xồng xộc chạy vào:

- Trình chỉ huy trưởng "Mặt trận Lào cứu nước Ka Xỉ”, tên Xẩm Tu đã về!

Đôi mắt Koóng Sừ thoáng lóe sáng. Nhưng, giọng nói của y vẫn bình thản như cũ:

- Cho nó vào.

Tiếng chân đạp trên đá lạo xạo. Một bóng người lảo đảo hiện ra. Xẩm Tu quỳ một gối xuống bên đống lửa.

Koóng Sừ dừng lại. Y ngó vào bộ mặt tên phỉ trẻ tuổi đóng khung trong một mớ tóc dài dầy cộm bẩn thỉu rồi thong thả:

- Mày báo cáo đi. Xẩm Tu, Sao mày lại trở về được?

Tên phỉ bèn trút ra một thôi dài những lời hấp tấp líu ríu đầy xúc động và cũng đầy nỗi mừng rỡ. Nó nói: tên phỉ lớn tuổi tháo chạy trước. Nó chạy theo. Chúng bị đuổi gấp. Tên phỉ lớn tuổi cuống quá đã lao xuống vực sâu Không rõ sống chết ra sao. Còn nó, nó chạy thoát về đây. Còn hai tên nữa cũng không rõ. Có lẽ không chạy nổi...

Koỏng Sừ vẫn đi đi lại lại, hai tay chắp lại sau lưng, cái đầu hơi cúi xuống, đôi mắt thâm trầm.

Đến khi, tên phỉ báo cáo xong dừng lại, mở to cặp mắt hồi hộp chờ đợi một lời ban khen hoặc ít ra cũng là một lời an ủi của thượng cấp, nhưng Koóng Sừ vẫn tiếp tục đi đi lại lại, dường như tâm trí y vẫn còn để hết tận đâu đâu

Lát sau y mới như choàng tỉnh, dừng lại, và cất tiếng khàn khàn gọi:

- Vệ sĩ!

Tiếng dạ ran. Hai tên vệ sĩ to lớn đeo AK bước vào, như hai con gấu ngựa:

- Đem thằng này bắn bỏ!

Nỗi kinh ngạc bất ngờ và quá lớn đến nỗi Xẩm Tu không kịp kêu lên một tiếng. Nó há hốc mồm ra, hai mắt trợn ngược, toàn thân như đông cứng cả lại.

Hai tên vệ sĩ cũng ngơ ngác dường như chưa hiểu rõ ý định của chủ tướng chúng, hoặc nghe chưa rõ.

- Đưa ra khỏi hang, bắn bỏ! - Bấy giờ cái giọng khàn khàn của viên tướng phỉ mới như hơi gắt lên. Và bấy giờ y mới chịu giải thích thêm một chút: - Đã để địch bắt sống là kém hèn rồi! Có gì mà đáng khen! Ngoài ra còn phải biết: bọn cách mạng rất tinh khôn. Thằng này đã trốn thoát được hay là đã đầu hàng bọn cách mạng và được phái về đây để làm thám báo? Ai dám chắc?

- Giàng ơi, nói vậy oan tôi quá! Giàng ơi? Oan tôi, oan tôi quá!

Xẩm Tu bấy giờ mới gào lên được những tiếng rụng rời. Nó đập đầu xuống đá để lạy. Nó lạy như tế sao. Nước mắt sợ hãi và oan khuất của nó tuôn trào ra đầm đìa khuôn mặt đã trở thành méo mó kỳ dị của nó.

- Giàng ơi! Oan tôi quá! Oan tôi! Nếu không tin, chủ tướng cứ giam tôi lại để điều tra đã. Sao nỡ giết tôi?

Bộ mặt Koóng Sừ rắn lại. Cặp mắt thâm trầm buồn rầu của nó thoáng vằn lên những tia máu:

- Làm gì còn thì giờ để điều tra nữa! Tao đã nói: mày đã để giặc bắt mày? mày không còn lý do để chúng tao tin mày nữa. Vệ sĩ!

Hai tên vệ sĩ cùng nhào tới, xốc nách Xẩm Tu lên. Tên phỉ giãy giụa, gào lên, thét lên như một con thú bị đâm. Nhưng hai tên vệ sĩ to lớn đã lôi nó đi xềnh xệch, không mấy khó khăn.

- Giàng ơi? Oan tôi quá! Koóng Sừ! Tao nguyền rủa mày! ...

Xẩm Tu lại gào lên. Và lúc đó, không còn sợ hãi gì nữa, nó thét lên như muốn phun cá máu vào mặt tên tướng phỉ. Nhưng muộn rồi. Hối cũng muộn rồi! Hiểu ra: cũng muộn rồi. Nó ngu dại quá, nó phải chết thôi. Tại sao nó lại tháo chạy? Có lẽ chỉ là một bản năng tự nhiên, thấy thằng phỉ kia chạy nó cũng chạy thôi... Bây giờ thì hối cũng muộn rồi ...

Một lát sau, một loạt AK nổ gắt ở phía ngoài hang đá

Koóng Sừ vẫn đi đi lại lại, không mảy may xúc động. Đối với y đã làm chính trị là phải thế! Ai cũng vậy cả mà thôi. Theo y, những người còn quan tâm tới tình cảm. chỉ là những kẻ không làm được việc gì hết. Y khẳng định như thế. Cũng theo y: Nếu cần nói tới tình cảm, tình nghĩa gì gì đó thì cần phải nhớ: chỉ nên nói từ cổ họng trở ra ...

Một lát sau, nghe có tiếng vó ngựa dồn dập, rồi một tên phỉ khác, lưng đeo AK, đầu đội mũ vải kiếu lính Thái Lan, xồng xộc chạy vào. Đó là một trong những thuộc hạ sừng sỏ nhất; y được phái xuống nắm tình hình dưới các bản.

- Gần xong, thưa ông đại tá ạ! ông có thể yên tâm!

Lúc đó dưới các lòng thung lũng lớn nhỏ, xa gần, các làng bản như đang sống trong một cơn bão. Ngựa hí vang trời. Trâu bò rống rền rĩ. Chó sủa kinh hoàng. Trẻ con la hét tìm mẹ. Mẹ kêu hét tìm con. Những tên nai bản, những tên tướng phỉ gầm rút hối thúc hăm dọa. Có cả tiếng súng chốc chốc lại nổ gắt, cùng với tiếng dao khua rợn người trong gió.

- Bỏ lại hết! Bỏ lại hết! Chạy đã! Chạy lấy người đã! Ngài Koóng Sừ đã bảo vậy! Chúng ta có người Mỹ!, Chúng ta sẽ có cả một thế giới tự do tràn ngập đô-la, vàng bạc, vải vóc, nhung, lụa, thịt bơ... Người Mẹo ta sẽ có đủ hết. Sẽ có thừa mứa, vứt đi không hết, bỏ đi không hết. Nhưng người Mẹo phải gắng thoát khỏi quân cách mạng đã. Họ sẽ giết hết người Mẹo. Họ sẽ ăn gan uống máu người Mẹo ta. Người Mỹ đã bảo vậy. Chạy! Chạy đã! Kẻ nào chần chừ, kẻ ấy sẽ chết! Bắn ngay, bắn ngay những kẻ hai lòng, kể cá những đứa do dự...

Thóc lúa tung tóe đầy đường. Quần áo, vòng bạc, tung tóe khắp các cửa rừng... Nghiến răng lại! Ngậm miệng lại! Ho một tiếng, nói một tiếng là lộ, bọn cách mạng sẽ làm cỏ. Trẻ con cũng không được khóc, bịt miệng chúng nó lại! Bịt mũi chúng nó lại! Tất cả người Mẹo chúng ta hãy lên đường! Hãy chối bỏ cách mạng. Chúng ta đi tìm tự do! Tự do muôn năm cho chúng ta, cho người Mỹ. Chạy! Chạy mau! Quân “mặt trận cứu nước" của ông Koóng Sừ đang chặn giặc cho ta rút! Hãy tạ ơn "Giàng" đi !

Lợn gà chạy tung kháp nơi. Bò lồng ngược lồng xuôi từng bầy, tìm đàn. Ngựa hí như điên, bờm dựng ngược...

Từng đoàn. từng đoàn người gùi cõng những giỏ quần áo, cùng một ít lúa ngô, bắt đầu dắt díu nhau rời bỏ các làng, bản để vào rừng. Những bộ mặt xanh xám lo lắng và đau khổ. Nhưng họ cũng chẳng hiểu đau khổ vì sao nữa. Chỉ biết cuộc đời họ quá cực khổ. Đã bao lần rồi, dường như không đếm được nữa, họ đã phải vứt bỏ tất cả: nhà cửa, bò, ngựa, thóc lúa để ra đi như thế nào. Mà mỗi lần bị hối thúc, bị dồn đẩy ra đi, lại có những lời giải thích rất khác nhau. Nhưng rút cục vẫn là những cuộc ra đi với tất cả mọi nỗi kinh hoàng, mọi cảnh gian truân.

Ra đi như là một cuộc chạy trốn. Ra đi như là tránh né một cuộc săn đuổi. Hiểu thế nào nổi nữa. Hôm qua cách mạng đang còn ở với ta, mọi cái đều yên ổn, thì hôm nay đã có những tiếng gào thét như điên: chạy đi. Chạy đi. Cách mạng sẽ giết chết hết, giết hết dân lộc này”. Đúng là không hiểu ra làm sao nữa. Nhưng hiểu hay không hiểu hãy cứ phải chạy đã. Không chạy. tức là vẫn còn lưu luyến với cách mạng, sẽ bị giết liền...

Trong lúc đó, ở trên hang đá, tiếng máy phát điện đã ngừng, những tên lính Mẹo phụ trách truyền tin đã cuộn lại dây trời và dây tải điện. Tên đại tá cố vấn đã nhảy ba bước ra tới vùng hang rộng. Nó đến bên bếp lửa, hất hàm, nói với Koóng Sừ.

- Ta đi chứ ông? Thượng cấp đã chuẩn y cho ta di chuyển tới tọa độ đã báo cáo. Đêm mai, nếu yên, sẽ có thể máy bay thả dù tiếp tế vũ khí bổ sung và lương thực. 
*
*    *
Đập tan được bọn phỉ nơi đỉnh dốc, các phân đội của Đoàn 3 tham dự đợt tiễu phỉ này cùng tiến vào như gió lốc. Nhưng bọn phỉ vẫn còn khá ngoan cố. Chúng rút lui từng chặng, rồi dựa vào địa thế hiểm yếu dừng lại để tổ chức phản kích. Tuy nhiên, chúng cũng không còn đủ sức để cản bước của quân cách mạng như ở Cổng Trời nữa. Chúng liên tiếp bị đánh bại một cách mau lẹ.

Các phân đội của Đoàn 3 đã tiến được vào khu trung tâm dân cư vốn trù mật trước đây. Nhưng họ đã chậm bước, dù chỉ trong giây phút: Các bản làng đã hoàn toàn trống trơ với gà, lợn, bò, ngựa tản mát khắp nơi và thóc lúa rơi vãi đầy đường với biết bao áo quần, chăn đệm.

Lê Dân cùng đoàn trưởng Bài tiến vào một bản ven đường .

- Lệnh cho các đơn vị: một mặt tiếp tục sục sạo truy quét địch, một mặt tổ chức cho bộ đội nhanh chóng thu dọn lại nhà cửa, thóc lúa, vườn tược cho dân. Nhốt lại bò, lợn, gà vịt, lừa ngựa, cho chúng ăn uống no đủ. Tuyệt đối không được lấy cái kim sợi chỉ của dân! Phải làm cho dân hiểu và hoàn toàn tin tưởng là chúng ta vào đây đúng là để giải phóng cho họ. Mặt khác, tích cực tìm dân còn ở lại, động viên họ kêu gọi chồng con trở về. Và đây phải coi là công việc cấp bách hàng đầu...

Phát đi mệnh lệnh ấy rồi, Lê Dân vẫn cảm thấy lòng mình vô cùng trống trếnh, cũng y như ngày tiến vào Pha đeng - Pha Lai trong tháng trước. Có khác chăng chi là lần này bọn phỉ đã không kịp đối phó đầy đủ. Chúng đã phải hấp tấp tháo chạy, và thúc dân vào rừng, chịu bỏ lại phần lớn tài sản, nhất là lương thực thực phẩm.

Thế là một lần nữa quân ta lại đã tiến vào một vùng gần như “vườn không nhà trống". Hiển nhiên tâm trạng không thể bình thường... Thà có thương vong hơn nữa nhưng giữ được dân cho Bạn, gặp được dân Bạn với những giọt nước mắt tủi mừng, thì cũng yên lòng. Giờ đây có một cái gì đó như hẫng hụt. Một cái gì như một nói cay đắng. Thằng địch độc ác quá. Và cũng gian ngoan quá! Nhưng dẫu sao cũng có thể hiểu được những kẻ nào đã chỉ vẽ cho bọn phỉ này biết cách đấu sức đấu chí với ta trên một khâu then chối nhất: ấy là giành dân. Kẻ nào nắm được dân, kẻ ấy sẽ thắng. Chúng cũng đã hiểu được điều này khá sâu sắc.

Lê Dân và đoàn trưởng Bài lặng lẽ quay ra. Các chiến sĩ của anh đành quét dọn lại các căn nhà đã trở thành không có chủ. Toán dồn gà vịt vào chuồng. Toán chạy tỏa đi các nơi lo bắt bò, ngựa. Những người lính, mình mẩy còn đầy mồ hôi vì căng thẳng đã quá nhiều, nhưng vẫn phải nhẫn nại lao vào những công việc tưởng chừng như thật ra không phải của họ.

Lê Dân và đoàn trưởng không thể không dừng lại ngắm nhìn những con người tuyệt vời ấy. Các anh muốn tìm một vài lời để động viên các chiến sĩ của mình.

Ngoái lại nhìn những căn nhà trống trơ, những con đường chơ vơ, Lê Dân nhận ra cái gì đó nhức nhối đã cố nén xuống trong lòng mình lúc này lại trỗi dậy. Anh biết không thể tự dối mình được nữa: cuộc tiến quân lần này vẫn chẳng hơn đợt trước là bao, ta đã thắng nhưng xem ra vẫn chưa là toàn thắng. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là: quân ta chưa biết kết hợp một cách chặt chẽ, uyển chuyển giữa các hành động quân sự với các hoạt động chính trị, dân vận, địch vận... Sự thiếu sót ấy đã nằm ngay từ trong kế hoạch cơ bản ban đầu, mặc dầu sau hội nghị Ka Xỉ đã hiểu được vấn đề này có một tầm quan trọng quyết định. Thế mới biết: từ nhận thức tới hành động, từ chủ trương đến kế hoạch, còn có một khoảng cách khá dài ...

4

Đợt hoạt động tiễu phỉ tạm kết thúc. Mùa mưa đã tới.

Bộ đội Lào và các phân đội nhỏ của quân tình nguyện Việt Nam cùng rút trở ra đường 13 và Ka Xỉ. Trong khi đó, những con mắt ẩn núp sau những khe đá, trong các khu rừng rậm xa gần vẫn dõi theo, bám sát từng hành động nhỏ của họ, không rời.

Và cùng lúc đó, Koóng Sừ đã ra lệnh thủ hạ của hắn thả cho dân trở về làng bản cũ.

Những người dân đã gần như kiệt sức sau ngót hai tháng trời bị giam hãm trong rừng rậm. Thiếu ăn, thiếu cả nước uống. Nhiều người đã lâm bệnh. Quần áo rách rưới tơi tả.

Tất cả đều như rơi nước mắt khi quay trở lại, từ xa nhìn thấy những mái nhà thân yêu cũ. Cảm động nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên. Người ta đều đinh ninh rằng, khi trở về, chỉ còn thấy những đống tro tàn. 

Còn ngạc nhiên hơn khi bước chân trở vào mảnh sân, căn nhà cũ, mọi người đều thấy đồ đạc tất cả vẫn còn y nguyên, thậm chí gọn gàng hơn cả khi họ còn ở bản. Lợn gà cũng vẫn còn sống. Thóc lúa rơi vãi đã được thu dọn lại,. áo quần đã được treo gấp tử tế...

Lẽ cố nhiên rồi người ta cũng dần dần có thể hiểu được điều gì đã xảy ra ở đây, trên những bản làng đã coi như bị vứt bỏ này. Tuy nhiên không một ai dám nói rõ, nói công khai những điều mình nghĩ. Những con mắt luôn luôn phải cúi xuống, trước những cái nhìn soi mói của những tên nai bản, những “đại úy”, những "thiếu tá" mà “người ta" vừa mới phong nhau lên một loạt sau cái mà “người ta" gọi là đã "đánh đuổi được quân cộng sản trở ra Ka Xỉ".

Dân các bản đều hiểu những người cầm đầu của họ không hài lòng trước cảnh tượng này. Chúng muốn dân bản khi trở về phải gào thét, phải nghiến răng lại, giật tóc nguyền rủa quân cách mạng trước cảnh nhà cửa, nương rẫy bị cướp bóc, tàn phá ... .

Nay chúng buộc phải thay phiên nhau đi khắp nơi, giải thích: "Đây chỉ là trò bịp của cách mạng. Chớ có nhẹ dạ mà tin họ. Phải tin ông Koóng Sừ!".

Nhưng có thật là trò bịp hay không. dân các bản chưa hiểu rõ lắm. Người ta hãy biết thế là nhà cửa, lừa ngựa, thóc lúa, lợn gà... vẫn còn cả. Xin tạ ơn "Giàng"

Và người ta lại muốn được mau chóng bắt tay trở lại các công việc nương rẫy hàng ngày, cũng như muốn nhanh chóng quên đi cuộc chiến vô cùng đau khổ. Quên đi những đêm luồn rừng hãi hùng như xuống địa ngục, quên đi những buổi vượt núi hiểm như vượt qua từng cái chết, quên đi cả những cơn khát đến mê cuồng trên những đinh đèo khô cạn, quên đi cả những buổi đói rét run người, đầu óc mờ mịt, nối tiếp nhau gục ngã xuống bên đường giữa những lời hối thúc, chửi rủa của bọn thủ lĩnh.

Quên đi, quên hết đi để lại được sống yên bình như trước.

Nhưng tất cả đều chỉ là ước mơ. 

Tin dữ đã loang đi: Koóng Sừ nói là sẽ đem quân đến tận Ka Xỉ đánh úp một trận lớn. Sẽ có lực lượng từ Thái Lan về tăng cường. Sẽ có thể có cả máy bay Mỹ ném bom yểm trợ nữa, Koóng Sừ đang kêu gọi: "Phải tiếp tục chống lại bọn cách mạng. Chớ có sợ hãi. Chớ có lùi bước. Đó là con đường sống của dân Mẹo ta". Giàng ơi? Có thật đó là con đường sống hay không vậy?...

Mà có lẽ không phải là tin đồn láo. Cũng không phải là những lời kêu gọi suông. Tất cả trai tráng các bản vẫn phải tiếp tục đi làm lính. Ngày đêm chúng phải quần quật canh phòng, luyện tập, đào hầm, tải đạn, chuyển lương. Ngày ngày, nhìn ra chỉ thấy vẫn rặt đàn bà trẻ con, cụ già đi nương làm rẫy. Các gia đình vẫn luôn luôn thiếu vắng đàn ông. Không còn những gương mặt tươi tắn khi xưa.

Không còn nữa nhĩmg nụ cười vô tư, rạng rỡ ngày trước. Cũng chẳng còn đâu những khung cảnh ấm áp của những gia đình quây quần đêm đêm bên bếp lửa.

Bọn thủ lĩnh vẫn đang tiếp tục chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu mới. Đêm đêm, lính gọi nhau ơi ới khắp các bản làng. Ngày ngày từng đoàn ngựa còng lưng tải lương, tải đạn kìn kìn ngược xuôi. Sớm sớm tiếng những tộc trưởng, nai bản, những "thiếu tá", những "đại úy" lại tiếp tục the thé vang lên chửi rủa cách mạng và kích động hận thù.

Rõ ràng cuộc chiến chưa hề chấm dứt. Rừng đã đốt lên rồi quả là không dễ gì dập tắt được. Phúc hay họa cho người Mẹo đây? Trong này vẫn tiếp tục làm loạn, thì ở ngoài kia người ta đâu dễ có ngồi yên?

Bởi vậy lên nương, đi rẫy, mà thật ra lòng dạ người Mẹo giờ đây chưa thể thanh thản, bình yên.

Trong số thững người buồn rầu, tan rã nhất có Y Nu, vợ của Dua Lô. Dua Lô đã mất tích hoặc chết rồi. Người ta báo về như vậy. Không tìm thấy xác y. Chỉ thấy cây trung liên báng đỏ mà y đã sử dụng gãy cong queo lăn trong một hốc đá đầy máu ở Cổng Trời. Dua Lô? Anh đã ngu dại đi theo họ làm loạn. Anh chết thật ra chẳng đáng thương. Nhưng anh là chồng Y Nu. Y Nu vẫn khóc anh đến nhỏ cả máu mắt ...

Giờ đây Y Nu như một bóng ma. Ngày ngày chị câm lặng lên nương, rồi câm lặng trở về. Chiều chiều, những ngày tốt trời, chị ngồi như chết, nhìn vọng ra xa, lên một eo núi. Nơi đó là Cổng Trời. Chỉ còn lại có Cổng Trời. Dua Lô đã chết? Có nghĩa là không còn gì nữa? Giờ đây ai muốn nói gì với Y Nu cứ nói, chị không nghe, không hiểu gì nữa, dù bất cứ ai! Là người dân ở đây cùng của bộ tộc, là vợ của một người chồng, là mẹ của hai đứa trẻ, chị đã bằng tất cả sự đau khổ mà nhận ra những sự thật ghé gớm này. Không. Bây giờ, Y Nu không còn thiết điều gì nữa. Chẳng lẽ lại ăn lá ngón để cùng chết luôn theo Dua Lô? Còn hai đứa trẻ vô tội! Chị phải cố sống để nuôi chúng. Nhưng sống chẳng được yên thân. Biết bao nỗi hãi hùng vẫn còn treo ở trước mắt chị, những nỗi hãi hùng, những thảm họa mà những kẻ cầm đầu vẫn hằng mô tả như là những sự kiện “lịch sử", những công việc đang được người Mỹ hết sức quan tâm và giúp đỡ một cách hào hiệp... 
*
*   *
Rồi mùa xuân đã tới và đất Lào lại khô ráo.

Vào một đêm ấm áp, sáng sao ngời ngợi, đêm của những những khèn bè nỉ non và những điệu lăm-vông, lăm-tơi nhịp nhàng say đắm, người ta lại thấy trên một con đường mòn nhỏ tắp mới soi, dẫn vào một eo núi ở phía Tây Nam dãy Pha Côi hùng vĩ, (không phải con đường mà Đoàn 3 đã tiến quân vào khi trước) xuất hiện những đơn vị Quân giải phóng Lào với một số phân đội quân tình nguyện Việt Nam.

Lê Dân, vẫn đồng chí Chính ủy xông xáo của Đoàn 3 lại cùng với các chiến sĩ của mình leo đèo. vượt dốc. (Riêng đoàn trưởng Bài lần này có nhiệm vụ khác nên tạm vắng mặt).

Một kế hoạch với một chiến thuật mới đã được vạch ra ở Ka Xỉ. Sau một cuộc họp giữa Ban Chí huy Mặt trận 1A với đông đủ các cán bộ tham mưu tỉnh đội Viêng Chăn, Luông Pha Băng và Xiêng Khoảng. Cuộc họp đã bàn rất kỹ và cuối cùng đã đi tới quyết định: Phải vào Pha Côi lần nữa. Nhưng lần này phải đặc biệt chú ý tới việc tuyên truyền, giác ngộ dân. Phải tích cực hơn nữa trong việc vận động dân kêu gọi chồng con họ về.

Công tác địch vận cũng phải được tiến hành thật mạnh hơn nữa. Khẩu hiệu được nêu ra: “chính trị trước hết''. Còn về mặt quân sự thì lần này phải vào gấp, không cho bọn phỉ kịp trở tay. Và để thay thế cho chiến thuật ồ ạt đánh vỗ mặt, lần này sẽ tiến hành bao vây rộng cả bốn phía, không để hở một hướng. Bao vây rộng, chiếm các điểm cao, chặn các đường mòn, dồn phỉ lại. Phỉ bị dồn lại cũng có nghĩa là dân sẽ được dồn lại dễ bề giải phóng.

Để thực hiện chiến thuật mới ấy, khá nhiều đơn vị sẽ được huy động vào chiến dịch. Nhưng vẫn phải nắm vững quân sự chỉ là hỗ trợ. Quân sự chỉ nhằm đập tan các lực lượng vũ trang của phỉ kháng cự...

Hướng tiến công lần này đã được thay đổi: đi vòng xuống, vượt qua một eo núi của Pha Côi ở hướng Tây Nam rồi bất ngờ thọc thẳng vào khu trung tâm.

Đoàn 3, vẫn Đoàn 3 lại được vinh dự cử một số phân đội nhỏ đảm nhiệm trên một hướng tiến công, phối hợp với Quân giải phóng Lào cùng tiến vào khu trung tâm của phỉ.

Tuy vậy, lần này quân số của các phân đội không được như trước. Một phần vì trên một hướng không cần nhiều lực lượng nhưng phần nữa: quân số của chúng ta đã hao hụt, chủ yếu vì bệnh tật.

Lê Dân đi cùng Tham mưu phó Hiểu. Lần này anh vừa vui lại vừa buồn. Vui vì đã có cách đánh mới, buồn vì nhìn vào đơn vị thấy thiếu vắng không ít chiến sĩ, mà hầu hết lại là những người con ưu tú của đơn vị. Trong đó có Trần Ánh.

Ánh đã ngã bệnh giữa vùng núi Pha Côi heo hút trong cuối đợt vừa qua. Mặt anh đã vàng ra như sáp nến. Chống gậy cũng không đi nổi nữa. Dường như không còn nhận ra chàng trai thịt da căng bóng, hồng hào, tươi rói khi trước. Trực thăng của Quân đội Lào đã phải hạ cánh xuống Pha Côi giữa một ngày mưa để đưa anh về bệnh viện Ka Xỉ. Trực thăng còn phải hạ cánh sau đó nhiều lần để đưa tiếp những chiến sĩ khác trở ra hậu cứ trong đó có cả những liệt sĩ đã hy sinh hoặc vì mìn hoặc vì đạn bắn tỉa của phỉ. Không những thế, còn có cả những chàng trai đã nhắm mắt, vĩmh viễn nằm lại trên đất Bạn, sau những cơn sốt rét ác tính kinh người

Cho tới hôm nay vào Pha Côi, dường như người lính nào ít nhất cũng một lần sốt rét. Tất cả đều đã võ vàng. Vì bệnh, vì cả bao nỗi vất vả, thiếu thốn, gian nan sau suốt một thời gian dài lăn lộn hoạt động, gần như không có một ngày nà thực sự được nghỉ ngơi. Quần áo anh em đã rách nát càng thêm rách nát. Thêm nhiều người mất giày mất mũ. Giờ đây vào trận, họ chỉ với đầu trần và chân đất...

Lê Dân ngắm nhìn họ, nỗi cảm phục: lẫn thương xót dào dạt như sóng trong lòng. Anh càng thấy trách nhiệm mình nặng nề. to lớn quá. Dân tộc, đất nước, Đảng đã trao cho bọn anh bằng này con người ra đi, sang đất Bạn để gánh vác nhiệm vụ quốc tế. Anh đã làm được những gì cho anh em chiến sĩ, đã giúp được gì cho họ? Hay vẫn chỉ biết luôn luôn đòi hỏi ở họ, thậm chí có lúc như đã quá nhiều?

Các chiến sĩ vẫn như ngậm tăm, bước mải miết. Mệt nhọc, họ không nghĩ được gì nhiều lúc này. Tất cả sự tỉnh táo, sáng suốt trong đầu họ chỉ tập trung được một cách ngắn ngủi vào những gì tác động tới họ trước mắt và cụ thể: con dốc, cái vực, gai góc và khối thép trên vai. Thêm nữa, cơn buồn ngủ mờ mịt luôn luôn như úp chụp lấy đầu họ. Mọi hành động, mọi cử chỉ của họ lúc này đều do những phản xạ tự nhiên nhiều hơn là lý trí điều khiển. Lúc này, chỉ còn biết nhẫn nại và cố gắng. Đến nỗi họ như đã quên mất cả nỗi khổ cũng như niềm vui và hạnh phúc của chính họ. Chỉ tới khi có tiếng súng. hoặc những mệnh lệnh tác chiến được phát ra là họ mới bừng tỉnh. Và lúc đó sự khôn ngoan với tinh thần dũng cảm của người lính cách mạng mới lại như những ngọn lửa thiêng được đốt cháy trong đầu óc họ.

Đêm tàn dần.

Rồi bình minh.

Khác với lần trước, bình minh ửng hồng trên khắp núi rừng nhưng nhìn vào bản đồ vẫn thấy còn khá xa khu trung lâm Pha Côi, đúng vậy, lần này đi đường mới phải vòng rộng xuống Tây Nam để bất ngờ vượt một eo núi hiểm. Ngẩng lên nhìn eo núi ấy vẫn như một yên ngựa khổng lồ treo giữa trời xa.

Lê Dân. cho gọi các đội trưởng và cả Nguyễn Nam lại hội ý. Lệnh tạm nghỉ. Bộ đội ăn lương khô. Tuyệt đối không được nhóm lửa. Cấm từng ngọn khói.

Sau đó, cuộc hành quân tiếp tục. Càng bí mật và càng gấp rút hơn. Điện đài đem theo vẫn chưa được phát sóng. 

Qua một đêm nữa, bước sang buổi sáng thứ hai mới tới eo núi mong đợi. 

Từ xa, nhìn nó như một chiếc yên ngựa khổng lồ treo giữa trời. Nhưng khi tới nơi, chỉ thấy cả một vùng xanh rậm tối om. Rừng nguyên thủy huyền bí và man rợ. Cây như không tên. Đá như không tuổi. Tiếng suối chảy cũng thâm trầm, bí hiểm. Tiếng chim kêu cũng lạ hoắc, rờn rợn khác thường. Rêu dầy ẩm ướt. Vách núi dựng đứng mốc meo. Đoàn quân như lạc vào một thế giới hồng hoang xa lạ. 

Lê Dân vẫy Tham mưu phó Hiểu vượt lên phía trước. Anh lấy thêm Nguyễn Nam cùng đi theo. Trong lúc đó các phân đội dừng lại tổ chức mang vác và cảnh giới, đề phòng phỉ đánh úp hoặc bị sa vào các bẫy cung nỏ, bãi mìn của chúng trong eo núi. 
Rồi lát sau, cả đoàn quân bắt đầu bám đá, bám cây cùng leo lên.

Lên mãi, càng lên càng ẩm ướt, càng xanh ròn, càng hoang dại. Và đặc biệt là một sự im ắng đến lạ kỳ. Im lặng lạnh rợn. Không một tiếng chim. Không có cả tiếng gió. Mỗi bước chân đều vang lên như đi trong một ống đồng. Một tiếng ho cũng làm cho mọi lồng ngực thoắt lạnh lại.

Nhưng chính trong sự hoang dại này Lê Dân và Tham mưu phó Hiểu cùng nhận ra: ta đã chọn một con đường tiến quân rất tốt, rất đúng. Ranh như phỉ mà vẫn chưa phát hiện được ta.

Xế trưa, đoàn quân mới lên tới giữa cái yên ngựa của “trời". Tất cả cùng dừng lại, nhìn xuống: bên kia là cả một vùng đất rực rỡ với những ngọn đồi mầu mỡ, những bản lang sầm uất, những nương rẫy bát ngát, và cả nhũng con đường mòn vắt ngang dọc như những sợi chỉ đỏ thắm.

Pha Côi! Vẫn khu trung tâm dân cư Pha Côi mà quân ta đã vào đây ba tháng trước. Nhưng hôm nay đứng nhìn từ trên cao, từ xa và ở một góc độ khác thấy nó đẹp tựa một bức tranh sơn mài khổng lồ, lộng lẫy do một cây bút thiên tài nào đó đã vẽ lên.

- Trời ? Lần này em mới thấy vùng này dẹp đến thế! Giá không có bọn phỉ khốn kiếp thì nơi đây các bạn Lào sẽ rất có thể mau chóng biến thành một vùng chăn nuôi và trồng cây công nghiệp phồn thịnh! - Nguyễn Nam kêu lên .

Lê Dân gật đầu. Lòng anh cũng tràn ngập một niềm vui lẫn xúc dộng. Xúc động trước cảnh núi sông tráng lệ của nước Bạn đã đành, còn có cả một nỗi xúc động của một người chỉ huy đứng trước một mục tiêu lớn mà quân ta sắp tiến tới góp phần giải phóng. Mục tiêu ấy đang phơi bày ra trước mắt ca đoàn quân hoàn toàn yên tĩnh và thật rõ ràng, cụ thể - cụ thể và rõ ràng tới từng chi tiết nhỏ, nổi bật và sống động lạ lùng.

Bỗng anh có một thèm khát: được bay, được nhảy ngay xuống giữa thung lũng rực rỡ kia. Chưa bao giờ anh thấy sốt ruột như lần này. Lên điện đài để báo cáo về phía sau với ban chỉ huy mặt trận cũng chưa được phép.

Đánh phối hợp lớn có cái sướng, nhưng cũng có cả cái khổ là thế. Phải chờ nhau. Các đơn vị ở các hướng kia liệu đã đến được vị trí đã định hay chưa?

Lê Dân nhắc các phân đội của mình một lần nữa: Phải chuẩn bị chu đáo để chờ lệnh bước vào chiến đấu.

Giữa trưa, quân từ phía sau bỗng mừng rỡ nhao nhao báo lên: đồng chí Tham mưu phó của Mặt trận thân hành vào tận nơi để duyệt lại phương án tác chiến lần cuối

Lê Dân nở một nụ cười vui sướng. Như vậy cũng có nghĩa quân Bạn ở các hướng cũng đều đã tới đích, sẵn sàng để tiến vào khu vực.
Nhưng. Tham mưu phó Mặt trận đã đem tói những tin quân báo mới nhất làm cho Lê Dân không khỏi sững sờ: địch đã tinh khôn xảo quyệt dồn hết dân vào rừng cách đây một tuần. Các bản đều đã trống không, chỉ có phỉ ở lại giữ nhà và sẵn sàng tác chiến.

Như vậy yêu cầu quan trọng hàng đầu của cuộc hành là giành lại dân coi như đã gặp khó khăn lớn vì địch đã có biện pháp đối phó trước.

Sau khi bàn cãi, tham mưu phó Mặt trận và Lê Dân cùng Tham mưu phó Hiểu đã đi tới một nhận định: yếu tố bất ngờ dẫu sao vẫn chưa hết. Địch đã sớm đề phòng lùa dân đi. Nhưng về cụ thể trận đánh của ta thì chúng vẫn chưa rõ. Bằng chứng là ở cả bốn hướng quân Bạn và cả quân ta đều không gặp sức kháng cự. Cũng không có dấu hiệu gì tỏ ra địch đã phát hiện được cuộc tiến quân bao vây rộng này.

Tại khu làng bản nghi có Sở Chỉ huy của Koóng Sừ, trinh sát Mặt trận nhìn qua ống nhòm vào vẫn thấy lừa ngựa và có cả một chiếc xe máy đi lại bình thường. Lại bắt được điện đài chúng báo cáo sang Thái Lan: chúng vẫn khẳng định là cuối tháng này quân cách mạng mới có thể mở được cuộc tiến công. Vì thế chúng vẫn xin đánh trước vào Ka Xỉ. Chúng đã lập xong một cái gọi là "ban Lãnh đạo chính quyền mới" của huyện. Koóng Sừ sẽ đích thân làm “chủ tịch" cái ban Lãnh đạo quỷ quái ấy

Như vậy có thể hạ quyết tâm: vẫn bất ngờ tiến vào vùng làng bản. Sau đó các đơn vị từ các hướng sẽ tiến sâu vào rừng rậm, nhằm thẳng khu vực suối Nậm Phương. Đó là nơi máy bay L- 19 của quân đội Lào đã trinh sát từ trước nghi có lán bí mật của phỉ và của dân bị phỉ bắt đi theo. Ban Chỉ huy Mặt trận 1A cũng đã có dự đoán: nếu bị vây cả bốn phía không rút chạy được sang Xiêng Khoảng hoặc Luông Pha Bang, phỉ sẽ có khá năng chúng sẽ dồn lại ở Nậm Phương, kéo theo tất cả dân về đó. Bởi vậy suối Nậm Phương đã được dự kiến như một khu dứt điểm của các đơn vị hợp đồng tác chiến trong đợt tiễu phỉ giải phóng nhân dân này.

Khi đồng chí Tham mưu phó Mặt trận quay trở lại. Lê Dân cũng đồng thời phát lệnh cho các phân đội của mình:

- Tiến!
*
*   *

Phân đội bộ binh đầu tiên của Đoàn 3 tiến vào khu làng bản thứ nhất, không một chiến sĩ bị thương vong. Bọn phỉ đã tháo chạy ngay từ giây phút đầu. Không dừng lại, các chiến sĩ ta lập tức truy đuổi vào rừng. Nhưng chúng đã mất hút. Cuộc lùng sục kéo dài năm ngày liền.

Bước sang ngày thứ sáu, buổi sáng, một đơn vị vừa tới một bìa rừng đột nhiên thấy một tấm vải trắng phất tung lên từ sau một lùm cây rậm.

- Khoan bắn - Người chỉ huy phân đội vội thét lên.

Vừa khi ấy, như từ dưới đất mọc lên, cả một đoàn người đông đảo, cùng đứng dậy tiến ra. Người đi đầu là một ông già vác một cành cây dài, trên ngọn buộc mảnh vải trắng. Đi liền sau ông là một thiếu phụ có gò má cao và đôi mắt xếch, khá đẹp nhưng buồn héo hắt, và xanh xao như đang mang bệnh trọng. Chị dắt theo hai đứa trẻ một trai một gái. Khác với vẻ lo sợ đến run rẩy của ông già mang cờ trắng, cũng khác với vẻ buồn héo của người mẹ cả hai đứa trẻ vừa bước ra khỏi rừng đã nhoẻn miệng cười, mắt sáng rỡ tung chân nhảy nhót, vẻ vui sướng hết sức. Phía sau ba mẹ con và ông già mang cờ trắng là hơn 100 người khác, hầu hết đều là đàn bà, cụ già và trẻ nhỏ.

- Dân đã ra! Dân bản đã bỏ phỉ trở lại với ta!.

Tất cả các chiến sĩ đều gần như không kịp mừng nữa. 

- Dân đã ra! Dân bản đã bỏ phỉ trở về! ... 

Tin ấy được báo cáo ngay về phía sau. Tiếng reo vang lên mênh mang, mừng rỡ. Lê Dân cùng Tham mưu Phó Hiểu vội vã lên ngay. Đoàn người rách rưới, tả tơi đang tiếp tục tiến ra cùng với lũ trẻ vô tư reo cười. Đoàn người tiến lại gần thêm chút nữa.

Đã nhìn rõ từng khuôn mặt hốc hác, võ vàng với những cặp mắt lờ đờ, tăm tối. Những bước chân run rẩy. Người nọ như phải bám lấy người kia mà đi, áo quần đều lấm láp. bẩn thỉu một cách kinh khủng. Những cô gái không còn biết thẹn nữa với những tấm áo đã rách tướp chỉ còn là một vài mảnh giẻ buộc túm. Rõ ràng là tất cả kiệt sức. Họ chỉ còn là những thân tàn ma dại.

Lê Dân gần như nghẹn ngào, ôm lấy ông cụ, cụ ứa nước mắt nói:

- Giàng ơi! Tạ ơn bộ đội cách mạng! Họ bắt bọn tôi vào rừng ... Sắp chết đói hết cả rồi!

Rồi cụ lảo đảo ngồi thụp xuống đám cỏ rối. Người phụ nữ dường như mạnh bạo hơn và cũng chưa đến nỗi kiệt sức. Chị thay ông già trực tiếp nói chuyện với chính ủy đơn vị.

Ông già là trưởng bản cũ. 

Người đàn bà héo hắt với hai đứa trẻ ấy không phải ai xa lạ, chính là Y Nu và các con của chị!

- Phải! Chồng tôi nó dại dột, bị người ta lừa dối đi làm phỉ! Nó chết rồi! Tôi ấy ư? Tôi không có ý kiến gì cả. Chỉ xin các anh hãy cứu lấy dân bản. Sắp chết dói hết cả rồi! Các anh xem ...!

Lê Dân cho gọi các đồng chí chỉ huy các phân đội lại

Câu chuyện của vợ chồng Y Nu đã làm cho tất cả mọi người đều muốn rưng rưng:

- Trời ơi: tội nghiệp cho chị quá! Tất cả chỉ vì bọn Mỹ, bọn phái hữu... Không hiểu chị và dân bản đã biết rõ hay chưa? ...

Y Nu gật đầu. Lần đầu, mọi người thấy chị khóc. Chị khóc một cách cay đắng.

Trong khi đó, chỉ trong khoảnh khắc, một cảnh tượng vô cùng xúc động bắt đầu diễn ra: các chiến sĩ ta cùng một loạt tiến lại, ghé vai xuống cõng từng ông cụ, bà cụ già kiệt sức, đồng thời dìu dắt những người còn có thể đi được, và bế bồng những đứa trẻ nhỏ cho những bà mẹ đã gần như rời rụng cả tay chân.

Vui nhất, sướng nhất vẫn là lũ trẻ, bị giam hãm quá lâu trong rừng sâu, phải nén lừng cái ho, giấu từng tiếng nói, giờ đây chúng như bầy chim được xổ lồng.

Lê Dân vốn nhạy cảm và thương trẻ. Anh cố giấu mà vẫn không thể nào ngăn nổi hai giọt nước mắt, khi thấy chúng cứ nhảy nhót mãi, reo cười mãi không thôi.

Ngay tối hôm đó bộ đội được lệnh tổ chức canh phòng bảo vệ cẩn mật, đồng thời đốt đuốc để cho dân cắt lúa lấy gạo ăn.

Lại một cảnh tượng lạ lùng mà Lê Dân dường như chưa từng được chứng kiến: những người lính Việt Nam trẻ măng, mặt sáng rỡ niềm vui và tình yêu thương, chia nhau đứng ở từng căn nhà cầm đuốc soi cho những bà mẹ, những người chị, người em thì thụp giã gạo. Trong đêm hồng ánh lửa, đã thấy lại những nụ cười, những gò má ửng hồng và cả những ánh mắt chứa chan niềm vui và hy vọng.

Cũng ngay trong đêm ấy. Lê Dân điện về Mặt trận yêu cầu cấp tốc gởi cho anh một loa pin. Vì qua việc trò chuyện cùng ông già trưởng bản với Y Nu, anh được biết: vẫn còn khá đông dân bị kìm kẹp trong rừng sâu. Họ đều sẵn sàng để ra với cách mạng, nhưng vẫn còn một số mặc cảm, lo sợ. Thêm nữa, vẫn bị lũ phỉ khống chế mạnh. Cần phải nói rõ cho họ hiểu để dám bung ra, tháo chạy trở về với bộ đội. 
Ngay trưa hôm sau, chiếc loa đó được mang vào tới nơi.

Lê Dân cho tổ chức lại bộ đội, một bộ phận ở lại chăm sóc và bảo vệ số dân vừa trở về, một bộ phận nhanh chóng tiến vào khu vực suối Nậm Phương theo kế hoạch đã định. Lê Dân và sở chỉ huy nhẹ cùng đi với bộ đội này. 
*
*   *

Khu vực Nậm Phương quả là hiểm trở. Dòng suối lớn len lỏi chảy giữa những ngọn đồi dốc đứng. Rừng rậm bạt ngàn. Đứng trên một sườn dốc cao nhìn sang những cánh rừng ở bên kia suối.

Lê Dân cùng Hiểu và tất cả cán bộ chỉ huy các phân đội đều nhận thấy: đây đúng là nơi giấu quân rất kín đáo. Và không một ai nghi ngờ: trong những khu rừng kia phần lớn dân chúng Pha Côi, cả những đám dân từ miệt Phu Bia chạy sang vẫn đang còn bị dồn chặt.

Bộ đội lập tức dàn đội hình bao vây. Rồi loa bắt đầu cất tiếng. Và người cầm loa ấy không phải ai khác, chính là ông già trưởng bản cũ.

- Hỡi đồng bào! Hỡi những người anh em! Quân thù độc ác của nước Lào đã lừa dối các người. Chúng đã đưa bà con, anh em vào con đường khổ ải này. Đừng có dại dột nghe chúng nà anh em trong nhà sát hại nhau...

Tiếng loa sang sảng, vang đi rất xa.

Tiếng súng đã im bặt. Chỉ còn có tiếng loa tiếp tục kiên nhẫn, đều đặn cất lên giờ này qua giờ khác.

Nhưng đêm Lào buông xuống rất nhanh. Cả khu vực Nậm Phương chìm ngập trong bóng tối dầy đặc.

- Chị cứ gọi đi! Chúng ta cần kiên nhẫn!

Y Nu cầm lấy ống loa; gương mặt chị sáng lên dưới nắng chiều. Giọng chị như rung lên:

- Tôi là Y Nu đây! Chồng tôi dại dột làm phỉ. Có thể anh ấy đã chết. Nhưng tôi đã hiểu vì sao. Chính vì bọn xấu đã xui anh ấy, lừa gạt anh ấy. Chính họ đã đưa anh ấy đến chỗ chết. Anh em ta hãy tỉnh ngộ, trở về với vợ con! Chính phủ cách mạng sẽ khoan hồng, tha thứ hết. Bà con dân bản hãy xem: Chúng ta đang ở với cách mạng yên vui, trẻ con được đi học, người bệnh được chữa thuốc không mất tiền, người già được ưu tiên vải vóc… thì những kẻ xấu theo địch, theo phái hữu cũ, xúi giục ta làm loạn. Cho nên mới tới cơ sự khốn khổ thế này.

Mọi người đều nín thở lắng nghe người phụ nữ Mẹo kêu gọi dân bản của chị trở về với đại gia đình các dân tộc của nước Lào. Chị gọi thiết tha, nồng cháy, chị gọi với tất cả niềm tin tưởng ở cách mạng và cả lòng thù hận lu người đã xúi giục chồng chị và một số dân chậm tiến làm phỉ. Chị như dãi bày, tranh cãi với dân bản của chị về đường ngay, lối thẳng, về sự thật và niềm tin... Người ta đều cảm thấy rất rõ: chị làm công việc này còn với cả một ý niệm: để chuộc tội cho người chồng chị. 

“…Koóng Sừ và cố vấn của nó bảo Dua Lô chết rồi! Tôi cũng biết vậy. Cũng có thể anh ấy chưa chết! Nhưng dẫu sao, tôi vẫn quá khổ sở. Tôi chỉ cầu xin cách mạng tha tội cho anh ấy, dù anh ấy còn hay đã chết. Tôi xin làm tất cả mọi việc để chuộc lỗi cho anh ấy. Tôi xin làm tất cả mọi việc để cho dân tộc tôi khỏi sa mãi vào cảnh đau lòng...” Chị đã nói với những người chỉ huy đơn vị nhíều lần như vậy. 

Mờ sáng hôm sau, Lê Dân bàn thêm với ông trưởng bản cũ và Y Nu một lần nữa. Cả hai tình nguyện đưa một số vợ con phỉ mạnh bạo vào hẳn trong rừng sâu để trực tiếp gặp bọn phỉ, nói chuyện và đem cả muối, gạo, áo quần, thuốc men vào cho dân.

Lê Dân và Tham mưu phó Hiểu tiễn mọi người xuống tận chân núi. Nhìn Y Nu gầy xanh, nhưng quả quyết và tràn đầy tin tưởng. Lê Dân bỗng cảm cảm: đây là hiện thân của dân tộc Mẹo đau khổ, anh dũng và trung thành với cách mạng.

Đoàn người nhanh chóng tiến vào rừng sâu. Toàn đơn vị hồi hộp, đợi chờ.

Một giờ trôi qua.

Rồi hai giờ. Rồi ba giờ...

Vẫn hoàn toàn yên tĩnh - cái yên tĩnh phấp phỏng, lạ lùng.

Các chiến sĩ ta ngao ngán, bắt đầu xì xào bàn tán nghi hoặc ...

Nhưng chợt có những tiếng reo vang dậy dưới chân núi:

- Kia rồi! Kia rồi!

Lê Dân bật tung dậy như một chiếc lò xo. Tất cả các chiến sĩ đều tràn xuống.

Cụ già và Y Nu cùng đoàn vợ con phỉ đang quay trở về. Phía sau lưng họ là một đám đông tới mấy trăm người. Lố nhố trong đám đông ấy là những người tóc dài lõa xõa, mang súng.

Khi tới nơi, đoàn người cũng tỏ ra vô cùng mệt mỏi, kiệt quệ. Một ông cụ già áo rách gần như mình trần, đang vịn vào Y Nu mà đi. Một tên phỉ đi bên cùng chị xốc nách, đỡ lấy ông cụ.

Toán trinh sát của chúng ta là những người tiếp xúc với đám đông dân chúng ấy đầu tiên.

Người ta thấy Nguyễn Nam bỗng tiến lên, cởi ngay chiếc áo của mình đang mặc khoác cho ông cụ già đỡ lạnh đoạn ghé ngay lưng mình vào cõng ông cụ lên đồi, giữa tất cả những con mắt ngạc nhiên và xúc động rõ rệt của đám đông dân chúng Mẹo. Chính ủy Dân gật đầu vui sướng:

- Hành động của cậu rất tốt!

Tất cả các chiến sĩ khác cùng ùn tới, đón lấy từng em bé, từng cụ già đau yếu. Còn bao nhiêu cơm nắm, lương khô, anh em bỏ ra bằng hết. Rất nhanh chóng, bãi cỏ dưới chân núi đã biến thành một nơi tụ họp quân dân tấp nập lạ lùng. Những bà cụ vừa nhai miếng lương khô nước mắt vừa chảy dài ...

Nhưng Y Nu và ông trưởng bản cũ cho biết: vẫn còn một số đồng bào ở bên kia suối, hướng Tây Nam, ở đấy có mấy tên sĩ quan cũ của phái hữu rất ác độc. Chúng khống chế không cho một tên phỉ nào bỏ chạy. Không cho một người dân nào trở về. Y Nu và ông trưởng bản không thể vào khu vực đó...

Các đồng chí chỉ huy các phân đội của chúng ta lại hội ý. Một quyết định đã được đưa ra: cho một lực lượng tiến qua suối, kiên quyết đập tan bọn ngoan cố để cho dân chúng bung ra trở về.

Lập tức ba phân đội nhỏ liền xuống để vượt sang những khu rừng già bên kia dòng Nậm Phương.

Từ trên cao nhìn xuống, các chiến sĩ ta tiến rất đẹp.

Chỉ khoảnh khắc sau họ đã tới bờ suối. Dòng suối khá lớn, đá chồng chất tầng tầng giữa lòng. Nước trắng xóa, âm vang.

Nhưng chợt một loạt súng cá nhân nổ vang, phá tan cái im lặng phập phồng của buổi sớm trận địa.

Các chiến sĩ của ba phân đội đều nằm rạp xuống.

Phỉ đã lên tiếng. Thì ra, đúng là ở hướng này dân chúng vẫn còn bị phỉ dồn cả ở đây.

Bọn phỉ tiếp tục bắn.

Cứ thoáng thấy một bóng người động đậy, là chúng lại bắn sang tới tấp.

Tình thế thoắt trở nên căng thẳng.

Lê Dân không thể ngồi im chờ đợi được nữa. .

- Anh Hiểu ạ, anh nắm lấy hỏa lực, dùng 12 ly 7 và cối 60 bắn mạnh sang bờ suối bên kia cho tôi, nhá. 

Nói đoạn, anh xốc khẩu súng ngắn và bi đông nước bên hông, đứng vụt dậy. Tham mưu phó ngạc nhiên, nhìn vào gương mặt thoắt như đỏ sẫm của Chính ủy;

- Anh Dân! Anh định...

- Phải ! Tôi sẽ trực tiếp xuống đó với anh em.

Nói chưa dứt lời. anh đã vẫy tổ vô tuyến điện và hai chiến sĩ vệ binh đi theo. Tay cầm một cây AK, anh thoăn thoắt đổ dốc.

- Nguyễn Nam, Đi với tôi nữa! - Anh vẫy tiếp chàng trai đội trưởng trinh sát của đơn vị đang phơi tấm mình trần trước gió.

- Có ngay! - Nam đáp giòn. Chàng trai vẫn mềm mại và tươi tắn hết sức.

Khẩu 12 ly 7 theo lệnh của Tham mưu phó Hiểu bắt đầu nổ. Khẩu cối cũng nện từng phát. Khói bốc lên từng cột ở bìa rừng già, nơi đối diện với ba phân đội bộ binh nhỏ của ta vẫn đang còn bị ghìm lại ở đó. 

Lê Dân lấy thêm hai tổ bộ binh nữa, cùng một cây cối cá nhân. Anh giắt nó vào trước bụng. Người Chính ủy đơn vị lúc này có đầy đủ dáng vẻ của một người chỉ huy một phân đội xung kích đặc nhiệm. 

Khi xuống tới gần bờ suối, Nguyễn Nam bỗng vẫy tay ra hiệu dừng lại. 

- Báo cáo, có một cây cầu! 

Lê Dân nhìn xuống, quả là có một cây cầu bằng những thân cây mảnh khảnh nối lại với nhau, đặt ghếch lên những tảng đá lớn, vắt qua lòng suối. 

- Có hỏa điểm của địch tập trung ở đầu cầu bên kia anh ạ! - Nguyễn Nam báo cáo tiếp. 

Lê Dân phải thầm khen sự tinh nhạy đặc biệt của chàng đội trưởng trinh sát. Anh dừng lại nấp sau một tảng đá lớn, lệnh cho vô tuyến điện yêu cầu cối và 12 ly 7 bắn tập trung vào đầu cầu bên kia, nơi Nguyễn Nam đã phát hiện ra hỏa điểm địch. 

Anh chiến sĩ giữ máy vô tuyến điện ngần ngại: 

- Báo cáo! Cho cối bắn gần quá, em lo đạn tản mát rơi vào bọn ta mất... 

Lê Dân nghiêm trang: 

- Cứ yêu cầu đi! Cứ xin bắn mạnh vào đó cho tôi! Không sao hết! 

Chỉ một phút sau, những quả đạn súng cối của quân ta đã dồn dập trùm lên khắp khu đầu cầu bên kia, trùm cả lên cây cầu ở giữa lòng suối. Mảnh đạn lia veo véo trên đầu bọn Lê Dân. Mảnh đạn chém cả vào tảng đá lớn nơi họ ẩn nấp, loảng xoảng rợn người. Cây 12 ly 7 cũng kéo theo từng băng đạn dài dữ dội. Đạn cày tung đất đá, xén nát tất cả những bụi cây nhỏ bên kia suối.

- Vô tuyến điện, yêu cầu ngừng bắn! Anh em tiến theo tôi! - Lê Dân nói đoạn ôm cây AK vươn mình trỗi dậy. Nguyễn Nam như một con đại bàng cùng bay vụt lên theo anh.

Thoắt cái cả hai người cùng tất cả các chiến sĩ của cả ba phân đội nhỏ đã tràn sang được bờ suối bên kia.

Nhưng, vừa chạm chân tới bờ đất cao, Lê Dân bỗng nghe một tiếng nấc, ngoảnh lại đã thấy Nguyễn Nam, chàng trai tuyệt vời của đơn vị ngã sấp.

- Nam! - Lê Dân như gào lên, nhào trở lại. Nhưng Nguyễn Nam không còn kịp nói lại một nửa lời nào nữa.

- Nguyễn Nam! Nguyễn Nam! - Hàm răng Lê Dân cố nghiến lại mà toàn thân anh vẫn choáng váng, lảo đảo

Nhưng rồi anh cũng kịp trấn tĩnh lại .

- Hai đồng chí vệ binh ở lại đây với đồng chí Nam còn tất cả theo tôi, tiếp tục tiếng

Dàn thành một hàng ngang, súng kẹp ngang nách, tất cả các chiến sĩ ta bắt đầu cùng tiến vào rừng.

Khi không còn mấy tiếng súng kháng cự, đội hình của quân ta mới từ từ thắt vòng vây lại.

Cũng gần như lần trước, chỉ một lúc sau sục sạo khi tới một khe cạn rậm rạp, các chiến sĩ ta bỗng thấy vụt hiện lên không phải lẻ tẻ, mà cả một đám đông lớn như một dòng thác người tuôn trào ra đen kịt.

- Dân! Dân đây rồi anh em ơi!

Tiếng reo bừng lên. Tiếng reo lan ra mênh mang, vang dậy khắp cả khu rừng.

- Dân đây rồi! Dân đã bung được ra đây rồ ồ ồi!

Đông không sao xuể nữa. Đầy rừng. Đầy khe. Những đứa trẻ, vẫn những đứa trẻ, lại nhảy lên cười nói như chim. Mừng như chết đi sống lại.

Và cũng chẳng khác gì đoàn người đã được giải phóng bữa trước, ngót một nghìn con người hôm nay cũng đều gần kiệt sức. Xanh xao, gầy guộc, rách rưới. Nhiều người gần như lê đi không nổi nữa. Đã có những người phù thũng. Tất cả đều như từ địa ngục trở về.

Nhưng đặc biệt lần này, trong đám đông có năm tên phỉ bị trói. Đó là mấy tên ác ôn đã khống chế dân bản tới cùng, nhưng đã bị mọi người bắt, khi lực lượng của chúng đã bị đập tan ...

Các đơn vị của ta từ bên kia dòng Nậm Phương cùng cấp tốc kéo sang. Những cánh rừng như càng trở nên bừng sáng.

Lê Dân trở ra bờ suối. Tham mưu phó Hiểu cũng đã tới đó cùng với nhiều cán bộ khác. Mọi người cùng nhanh chóng kiểm điểm lại lực lượng. Chỉ có một cán bộ hy sinh là Nguyễn Nam và ba chiến sĩ bị thương.

Lê Dân thong thả bước xuống suối vục nước rửa mặt. Mọi nỗi nhọc nhằn như tan ra theo làn nước lạnh. Niềm cay đắng của lần vào Pha Côi khi trước như trôi theo dòng suối chảy xuôi. Tuy vậy, khi đứng lên, anh cảm thấy lòng mình vẫn chưa hoàn toàn được nhẹ nhõm.

Nhìn lại, Nguyễn Nam vẫn đắp chăn nằm đấy. Nhìn về những đỉnh núi cao, trùng điệp phía trước, anh vẫn chưa hiểu vì sao Koóng Sừ vẫn còn chạy thoát. phỉ chưa bị quét sạch. Và vẫn còn một số dân chưa tìm thấy...

Anh đứng lặng, hết nhìn Nguyễn Nam lại nhìn các chiến sĩ của mình đang tất bật tiếp tục dìu cõng, dắt díu 'thân dân lũ lượt đi ra khỏi rừng.

5
Đã có tin chính thức: Koóng Sừ cùng Ban Tham mưu của nó vẫn còn nắm được mấy trăm dân, mà thành phần này phần lớn là những người đã có một lòng một dạ đi theo chúng. Cũng có tin thêm: bọn chúng đã kéo số dân này vượt qua đường 13, chạy sang miền Tây Ka Xỉ tập trung ở vùng Pha Lếch. Chúng vẫn triệt để tránh đòn, luôn luôn rút chạy. Nhưng chạy thì chạy, chúng vẫn để lộ rõ ý định: không chịu rời bỏ địa bàn này.

Do đó Ban Chỉ huy Mặt trận 1A quyết định lại mở tiếp một đợt vây quét mới. Vẫn lấy những hoạt động giác ngộ dân, tranh thủ dân; và giác ngộ cả chính lính phỉ, làm những hoạt động chủ yếu, cơ bản.

Còn về mặt quân sự, Ban Chỉ huy Mặt trận hạ quyết tâm: Sẽ giáng một đòn quyết định cuối cùng, nhằm đập tan hoàn toàn cuộc bạo loạn.

Cũng bởi vậy, một phương án tác chiến mới đã được thay thế cho phường án cũ: Nếu như ở Pha Côi vừa rồi ta đã biết thực hiện chiến thuật bao vây rộng, thì cũng ở Pha Côi ta vẫn chưa biết chốt chặn chặt chẽ trên các hướng. Vì thế bọn đầu sỏ phỉ vẫn còn có lối thoát.

Lần này, Ban Chỉ huy Mặt trận yêu cầu, một yêu cầu rất nghiêm ngặt: vây bắt và truy đuổi bọn ác ôn ngoan cố, kiên quyết tạo điều kiện để cho dân bung ra, cũng như kiên quyết đón chặn phỉ, giành lại dân, không cho chúng lùa đi mãi nữa.

Do đó. nhìn lên bản đồ, tuyến bao vây từ đông sang tây Ka Xỉ nối lại đã kéo dài gần bốn trăm ki lô mét, vòng xuống tận bờ sông Mê Công, giáp giới Thái Lan. Nếu tính cả những con đường chia cắt ngang dọc, đuổi địch lắt léo, các chiến sĩ ta đã được yêu cầu chuẩn bị đôi chân để vượt tới một ngàn ki lô mét với đá tai mèo, với suối sâu dốc đứng.

Rõ ràng sẽ có một chiến dịch cơ động tiến công, vây quét rộng lớn chưa từng có trên đất nước này. Trong khi đó vẫn chỉ là những người cán bộ ấy, những chiến sĩ ấy những con người đã dầm mưa dãi gió, leo đèo vượt núi, lăn lộn hoạt động liên tục gần suốt một năm trời, chân đã nát bấy, áo quần đã rách tan và sức khỏe đã gần xuống tới mức thấp nhất. Chỉ riêng có tinh thần và ý chí là vẫn còn như nguyên vẹn.

Pha Lếch - Máy bay của bộ đội Lào thám sát đã phát hiện thấy có nhiều dấu vết khả nghi như những vệt đường mòn mới, những đống tro than mới ở các bìa rừng. Điện đài kỹ thuật của bạn cũng đã bắt được những tín hiệu lạ từ tọa độ ấy phát đi. Tù binh nhiều tên cũng nói gần như cùng một lời về hướng rút chạy của Koóng Sừ và bọn tham mưu của nó.

Pha Lếch là tên một bản Mẹo lớn có tới gần một trăm nóc nhà nằm dọc theo triền một dãy núi đá tai mèo cao ngất rất hiểm trở, chưa một cán bộ nào của các đơn vị tham chiến ở đây đã có dịp vào tới đó. Từ Ka Xỉ vào Pha Lếch phải gấp đôi, gấp ba đường vào Pha Côi.

Bởi vậy trinh sát lại phải đi trước để nghiên cứu đường sá, nắm địa hình, địa vật và điều tra thêm tình hình địch. Một đội phó bộ binh của Đoàn 3 và một nhóm tám cán bộ địa phương Lào được cử cùng đi với toán trinh sát ấy

Họ đã phát hiện ra: Một sân bay trực thăng làm từ hồi Mỹ vẫn còn được giữ gìn khá tốt ở Pha Long Khốt, trên dọc đường vào Pha Lếch. Tiến sâu vào hơn nữa. họ lại thấy một sân bay dã chiến nhỏ cho L-19 và C-47 hạ cánh ở Pha Luông, cũng một đỉnh núi cao, toàn rừng tranh gần địa đầu của Pha Lếch.

Cuối cùng đoàn trinh sát đã tận mắt nom thấy Pha Lếch: ba ngọn núi đá chặn ngang của một khung trời. Ngọn cao nhất tới 1.400 mét. Địa thế xem ra còn hiểm trở hơn cả Pha Côi. Bản Mẹo nằm dọc theo lèn đá, dưới chân ngọn 1.384 mét.

Chưa vào được bản. Đứng từ trên núi, anh em trinh sát dùng ống nhòm nhìn xuống. Họ đã xác định: bản doanh của phỉ đúng là ở đây rồi. Dân bị kéo đi theo chúng đang dựng lều, dựng lán rất nhiều ở dọc chân các núi đó. Có nhiều dấu hiệu cho thấy dân còn ở cả trong rừng sâu, vì người ra kẻ vào khá liên tục. Có cả từng bầy ngựa thồ tải gạo, muối vào trong các thung lung bí mật.

Khi anh em trinh sát trở ra, một kế hoạch tác chiến cụ thể đã được hoạch địch: Đoàn 3 - vẫn một số phân đội của Đoàn 3 được vinh dự nhận nhiệm vụ trên một hướng: từ phía Bắc vào. Một đơn vị Quân giải phóng Lào từ hướng đông tới. Một đơn vị khác (cũng của Lào) từ phía Nam lên... Tất cả sẽ hình thành thế bao vây lớn, lập một tròn khép kín.

Đã qua Tết té nước Bun-pi-may. Từng trận mưa rào vang động đã ào ạt đổ xuống núi rừng Lào. Mùa xuân, lẽ ra mọi hoạt động quân sự phải ngừng lại. Nhưng tình hình đang rất khẩn trương. Phải tiếp tục truy quét mạnh. Địch đã tập trung vào một vùng. Cơ hội để giáng một đòn kết thúc đang mở ra, quyết không thể bỏ lỡ.

Y Nu và nhiều người vợ phỉ khác cũng xin đi theo bộ đội để tiếp tục gọi chồng con, họ hàng trở về. Ban Chỉ huy Mặt trận đồng ý nhưng đã tổ chức các bà, các chị lại trên một hướng và trên các điểm chốt chặn. Ban Chỉ huy Mặt trận đã muốn có cả những cái chốt chính trị phối hợp với các chốt quân sự...
*
*   *

Trần Ánh đột ngột trở về đơn vị. Anh đã khỏi bệnh. Nhưng chàng trai hai mươi tuổi tròn ấy đã rụng hết tóc. Nom lạ hẳn. Dường như chỉ còn nhận ra cái miệng tươi cười. Hai con mắt cũng có cái gì khác trước - Cái gì đó như sâu sắc hơn, nhưng cũng quyết liệt và cả khổ cực hơn.

Chàng trai với cái đầu rụng hết tóc đột ngột trở về tựa như hình ảnh một quyết tâm, hình ảnh một hy sinh của cả một thế hệ.

Lê Dân ôm chặt mãi người cán bộ trẻ tuổi của mình. Khác với nhiều người, Lê Dân không bao giờ nhìn Ánh cũng như tất cả những chàng trai khác bằng con mắt cha chú. Anh luôn luôn tin tưởng: họ là những người bạn có đầy đủ đức tính và phẩm chất mà anh còn tôn trọng như bạn, không phân tuổi tác.

Trần Ánh xin trở về tiểu đội cũ. Nhưng Lê Dân quyết định giữ anh lại và trao cho anh một nhiệm vụ mà theo Lê Dân không ai có khả năng hơn, hoặc xứng đáng hơn Ánh, ấy là thay thế vị trí của Nguyễn Nam, phụ trách đội trinh sát. Trần Ánh vẫn muốn về với tiểu đội cũ, Lê Dân đã giải thích cho anh rõ: Ánh không còn ở cương vị tiểu đội trưởng nữa. Anh sẽ phải chỉ huy trung đội hoặc đại đội.

Như vậy, trên đường tiến vào Pha Lếch bữa nay, Đoàn 3 đã có một Nguyễn Nam mới - một Nguyễn Nam với cái đầu trụi hết tóc.

Đường vào Pha Lếch phía ngoài khá trống trải. Hầu hết là đồi tranh. núi trọc. Nhưng càng vào phía trong, rừng càng rậm, lèn đá càng hiểm và càng cao hơn.

Vẫn như lần trước, cuộc tiến quân phải giữ bí mật tuyệt đối. Tất cả điện đài ở các hướng, các mũi đều không được phát sóng khi chưa có lệnh của Mặt trận. Vừa tiến, vừa tiếp tục trinh sát, bổ sung cho kế hoạch tác chiến, và cả kế hoạch tích cực vận động nhân dân kêu gọi những người lầm đường theo phỉ, trở về.

Đường vào Pha Côi đã vắng vẻ, hoang vu, đường vào Pha Lếch còn hoang vu, thăm thẳm hơn nhiều. Lại bắt đầu mùa mưa trên đường sá trơn, vô cùng nguy hiểm. Tốc độ tiến quân do đó khá chậm.

Lê Dân luôn luôn phải lộn lên, lộn xuống suốt dọc hàng quân. cùng Trần Hồng, một cán bộ có trình độ tham mưu vững chắc, đôn đốc các đơn vị giữ vững đội hình và nâng cao tốc độ.

Trong lúc đó, ở hướng Đông, đơn vị Bạn bất ngờ bị lộ. Tiếng súng vọng tới từng hồi trong mưa. Nghe càng thêm sốt ruột.

Lệnh tiến gấp. Tình hình có thể đã có biến chuyển nhiều.

Qua một ngày. Rồi một đêm. Đã thấy rừng quang dần. Sau đó thấy hai ngọn núi đất bằng bằng và một con đường rộng dài, cỏ chưa phủ kín màu đất đỏ. Anh chiến sĩ trinh sát đi đầu mừng rỡ nói như reo lên:

- Sân bay!

Đúng rồi. đó là sân bay Pha Luông.

Hoang vắng. Không một bóng người. Không một tiếng chim kêu. Không một tiếng thú chạy. Chỉ có cỏ may lao xao trong gió và mặt đất câm lặng. Đường vào đất địch im ắng quá, có thể có phục binh hay cạm bẫy gì đây. Không thể coi thường...

- Cẩn thận! Cánh giới hai bên! Đề phòng bãi mìn!

Trần Ánh nghĩ vậy. Anh vội ra lệnh. Nói xong, anh vượt lên rất nhanh để đi cùng tổ trinh sát thứ nhất.

Nhưng anh vừa nhao người lên thì bỗng như có một linh cảm gì rất lạ. và liền đó là một phản ứng cực kỳ mau lẹ đến nỗi chính anh cũng không kịp nghĩ và hiểu vì sao. Anh vừa lao mình nằm sấp xuống đất cũng vừa lúc một trái lựu đạn nổ vang. Anh chiến sĩ trinh sát đi ở phía trước, cách anh chừng năm mét lăn ra không kịp kêu lên một tiếng. Một bàn chân anh đã bị cắt rời...

Lúc đó bộ phận chỉ huy nhẹ của Lê Dân đang đi ở phía sau. Dân đang suy nghĩ về những tình huống hóc búa có thể xảy ra, cần phải đối phó và xử trí ra sao cho linh hoạt, kịp thời và kiên quyết.

Trần Hồng nghe tiếng nổ ở phía trước vội cho đơn vị dừng lại.

Lê Dân cùng Sở Chỉ huy của anh nhích lên.

Một cuộc hội ý chớp nhoáng.

Một quyết định được bổ sung; Trước tình hình này, đại bộ phận bộ binh phải tích cực dò mìn, dò bẫy, để vượt qua Pha Luông tiếp tục tiến vào Pha Lếch. Nhưng Sở Chỉ huy nhẹ của Đoàn cùng với trinh sát sẽ bỏ đường mòn theo la bàn cắt rừng, đạp đường tắt vào chiếm lĩnh vị trí tập kết của Sở Chỉ huy trước. Lê Dân muốn vào Pha Lếch càng sớm càng tốt để kịp nắm những phản ứng của địch. Nếu chờ cả đơn vị dò mìn chậm chạp tiến vào được Pha Lếch thì rất có thể sẽ mất thời cơ. Kinh nghiệm vào Pha Côi lần trước vẫn còn đó, nóng hổi.

Thế là Lê Dân cùng một nhóm cán bộ tham mưu, và trinh sát, vệ binh, bắt đầu rẽ tắt sang bên đường mòn.

Rừng tranh. Rồi rừng thưa. Núi đất rồi lèn đá... 

Chỉ một khoảnh khắc sau, cả đoàn người đã sây sát hết mặt mũi, chân tay.

Nhưng không một phút dừng lại, tất cả gò lưng, mím miệng bước tới phăm phăm.

Chỉ qua hơn một giờ sau, khi cắm đầu cắm cổ leo lên được một eo núi, mọi người cũng reo lên.

Nhìn sang bên kia: một bản Mẹo chừng ngót một trăm nóc nhà nằm kéo dài dưới chân một ngọn núi đá sừng sững. Đó chính là ngọn Pha Lếch mà quân ta đã từng nghe nói tới.

- Pha Lếch?

Có rất nhiều những bóng người đi lại nhộn nhịp trong bản.

Nhưng Trần Ánh bỗng còn có thêm một phát hiện. Anh vội nói: 

- Chúng đang rút lên núi

Mọi người cùng căng mắt ra nhìn. Cuối cùng, ai ai cũng đều thấy đúng như thế.

Sở Chỉ huy bèn nhận định tình hình và hạ quyết tâm: phải đánh luôn. Không thể chờ quân hai mũi Bắc, Nam nữa. Địch đang rút. Sở Chỉ huy cũng được tổ chức thành đơn vị lao vào tiến công ngay tức khắc.

Thế là từ Lê Dân tới tất cả các cán bộ tham mưu, chính trị cùng đi đều một loạt rút súng ngắn. Trinh sát và vệ binh cũng đồng thời triển khai đội hình chiến đầu. Trần Ánh lại đi đầu. 

Chỉ trong khoảnh khắc sau, đoàn người từ trên núi đã xuống tới con suối lớn chạy dọc theo bản. Súng bắt đầu nổ.

Tinh thần bọn phỉ đã rạn nứt, giờ đây bị tiến công quá bất ngờ, chúng không kháng cự nổi nữa. Các chiến sĩ ta lại vừa tiến công, vừa ra sức kêu gọi. Trên bốn mươi tên khác râu tóc như người nguyên thủy đã vút súng chạy ra với anh em ta. Trên hai mươi tên ngoan cố bị bắt giữ ngay giữa bản.

Trận đánh đã diễn ra cực kỳ nhanh, gọn.

Tuy nhiên, những tên phỉ ra theo ta khai: Koóng Sừ và toàn Ban Tham mưu cùng đội vệ sĩ của chúng đã trốn lên núi, trước khi bị đánh úp chừng hơn nửa giờ. Và nhân dân trong bản này cùng với hơn tám trăm dân mà chúng kéo được từ Pha Côi sang đã bị bọn chúng bắt buộc chuyển vào rừng sâu từ lúc tờ mờ sáng.

- Vậy đánh thẳng lên núi ngay. Koóng Sừ có thể còn ở đó!

Mệnh lệnh được phát ra như lửa cháy.

Vẫn chỉ toàn là những cán bộ và chiến sĩ của Sở Chỉ huy nhẹ. Chưa một phân đội nào kịp vào tiếp sức. Nhưng chỉ bằng ấy tay súng thôi, cũng đủ để tiếp tục tiến công.

Pha Lếch dốc ngược. Chỉ có một con đường độc đạo để lên đinh.

Các cán bộ và chiến sĩ ta từ trong bản nhô ra đã bị hỏa lực dưới chân núi bắn liền. Có cả hỏa lực ở trên lưng chừng núi rã xuống. Ba trung liên. Hỏa lực phỉ đã tỏ ra được bố trí khá chặt chẽ, có tầng dưới, có cả tầng trên phối hợp. Cùng tạo thành một lưới lửa lợi hại. Rõ ràng ở đây đã có bàn tay trực tiếp chỉ huy của những tên sĩ quan chuyên nghiệp nào đó.

Đạn cày tung đất đá. Các cán bộ và chiến sĩ ta vẫn chưa một ai vượt qua được bãi đất trống để tiến vào cửa rừng đoạt lấy con đường lên núi.

Những cây súng bắn trả nhau, cầm cự, dai dẳng kéo dài. 

- Cối!

Lê Dân gọi, rồi lăn người tới một hõm đất trống để quan sát. Anh muốn trực tiếp chỉ huy mục tiêu cho các xạ thủ của khẩu đội cối tác xạ. 

Pùm

Quả đạn bay vút lên cao rồi lao thẳng vào chân núi nổ một tiếng khá dữ. Một cột khối trắng bùng lên. Đá bay rào rào. 

Phát đạn thứ hai nổ tiếp. Vách núi rung lên. 

Vừa khi ấy nghe ở phía sau có tiếng truyền lên hối hả, mừng rỡ: 

- Báo cá... á o o o! Mũi phía Bắc đã tớ i i i i!
*
*   *

Vẫn tấm áo đại cán, vẫn cái quần đen rộng ống và đôi giày vải nhưng tất cả đều đã rất bẩn và sờn rách. Koóng Sừ nom già đi rất nhanh. Đôi má nó tóp hẳn lại. Tên đại tá từ Thái Lan về đã mất chiếc mũ cối, xù lên bộ ria lâu không cạo rậm rạp gần che kín hết miệng. Mặt mũi nó cũng đã hốc hác. xanh xao. Mắt sâu hoáy. Nó gần giống một con thú hoang dại.

Cả bọn dồn vào trong một hang đá chật chội, lộn xộn, nhốn nháo. Không còn đâu cái vẻ khá bình tĩnh như hồi ở Pha Côi nữa. Tên đại tá luôn miệng chửi thề và gắt gỏng. Riêng Koóng Sừ vẫn tỏ ra có bản lĩnh hơn, nên vẫn còn giữ được phần nào vẻ thâm trầm, thong thả quen thuộc 

Khi tiếng súng cối đập vào chân núi, cũng là lúc hang đá thêm nhốn nháo, náo động. Koóng Sừ đến trước mặt tên đại tá cố vấn của nó, khẽ nói:

- Ông ạ! Đến lúc này ta phải quyết định dứt khoát đi thôi!

- Ông muốn nói sao?

- Tình hình này e không xong rồi! ... 

- Ông nói tiếp đi.

- Phải cho rút thôi!

- Có thể là đồng ý như vậy. Nhưng theo ông nên về đâu?

- Không thể về Pha đeng, Pha Lai được nữa? Phải có một quyết định táo bạo hơn, tuy rằng rất khó khăn và cả đau lòng...

- Ý ông muốn nói là... 

- Phải đưa tất cả lực lượng chạy sang Thái tạm lánh đã?

Tên đại tá cố vấn thở hắt ra một cái. Đôi vai nó rung lên:

- Phương án cuối cùng hả?

- Phải?

- Ông thấy là đã phải dùng đến kế ấy rồi sao?

- Phải! Tôi dẫu sao cũng hiểu họ hơn ông. Lại căn cứ vào báo cáo của các thám báo và tướng lĩnh ở các hướng, có thể hiểu: lần này họ tập trung lực lượng quyết đánh bại ta! Vậy phải biết cắn răng lại tạm lui đã. Đó là khôn ngoan nhất, nếu còn muốn giữ lực lượng để tính chuyện lâu dài...

Tên đại tá thở hắt ra lần nữa. Mắt nó tràn ngập, một nỗi thất vọng, chán chường.

- Và ông biết đấy - Koóng Sừ tiếp - Các đơn vị của ta tuy bị bắt, bị giết nhiều lắm, nhưng đã tan vỡ hầu hết. Chung quanh ta hiện nay thật ra chỉ còn bọn vệ sĩ trung thành là còn có thể tin cậy được.

- Còn dân?

- Dân bỏ ta hầu hết. Vì bọn cách mạng đã rất ráo riết vận động vợ con. gia đình lính của ta gọi chồng con họ về. Đó là đòn nặng nhất đối với ta. Nay chỉ còn toàn là cha mẹ già, vợ con đau yếu của lính mà ta vẫn còn nắm được. Trong số dân này còn có cả một số lính của la chạy về, tạm ẩn náu cùng vợ con chúng. Ta phải đưa hết chúng sang Thái.

Cuộc thảo luận đi tới kết thúc. Quyết định đã xong: mở một đường máu nếu cần, nhưng hết sức cố gắng tránh đụng độ nhằm đưa toàn bộ dân chúng và phần lớn lực lượng tác chiến vượt vây, nhằm hướng Tây Nam, bí mật qua sông Mê Công sang đất Thái. Nhưng vẫn để một bộ phận nhỏ có nhiệm vụ bí mật ở lại bám địa bàn, chờ thời ...

Vấn đề còn lại: ai sẽ là người chỉ huy lực lượng bí mật ở lại ấy? Người đó lẽ cố nhiên là người tình nguyện thì tốt nhất. Nhưng cũng trước hết phải là người có đầy đủ bản lĩnh.

- Thằng kia!

Tên đại tá ngụy hất hàm, gọi.

Một tên phỉ từ trong đám thủ hạ ngồi chen chúc ở chung quanh vội đứng dậy. Nó tiến lại trước mặt tên sĩ quan ngụy cố vấn, và Koóng Sừ. Đó là một tên phỉ còn trẻ, có đôi gò má cao, mắt nhỏ hơi xếch, tóc dài tới vai, bàn tay trái bị cụt một ngón, và trên má phải có một vết sẹo dài làm cho nó thêm vẻ dữ tợn.

- Dua Lô hả? - Koóng Sừ nheo nheo mắt hỏi.

- Dạ, thưa ông, con đây!

Đó chính là Dua Lô. Nó vẫn chưa chết. Ở Cổng Trời, nó đã bị một phát ĐKZ nổ gần hất nó xuống vực. Khi tỉnh lại, thấy tiếng súng đã xa, nó cố tìm đường trở về Pha Côi. Nhưng không đủ sức nữa. Nó nằm trong một hang núi giữa rừng, ăn quả xanh, uống nước suối. Sau đó kiếm được một giỏ gạo của dân bỏ trong rừng, nó tìm lá rừng tự chữa lấy vết thương. Đã nhiều lần nó buồn bã nhớ tới Y Nu, nhớ tới cả những lời của vợ nó đã khuyên ngăn không muốn cho nó đi theo phỉ. Nhưng nay đầu óc nó rối loạn cả rồi. Nó chẳng còn biết nghĩ gì nhiều. Nó lần đường tìm về với đồng bọn. Nó muốn xem sự thể ra sao đã. Thực tình nó cũng đã có đôi lần thoáng nghĩ đến chuyện quay trở về bản cũ. Nhưng liệu Y Nu có còn ở đấy nữa không, hay cũng đã bị chính đồng bọn nó xua đi lôi đi rồi. Thêm nữa, nó không hiểu nếu như trở về, cách mạng liệu có khoan hồng cho tất cả tội lỗi của nó, những tội lỗi mà nó biết rằng không nhỏ.

Nó gặp lại đồng bọn. Và tên đại tá cũng như Koóng Sừ đều đã cho nó biết một tin sét đánh: vì không bắt được Dua Lô ở Cổng Trời, cách mạng đã giết Y Nu, chặt làm ba khúc ném ở cửa rừng... Dua Lô đã rống lên như hóa dại. Nó đã cào mặt nó đến chảy cả máu mắt và thề sẽ phải trả thù cho Y Nu cũng như cho con nó...

- Ông định cử thằng này chỉ huy lực lượng ở lại hả?

Koóng Sừ quay lại phía tên cố vấn của nó khẽ hỏi. Tên đại tá gật đầu.

Koóng Sừ đi đi lại lại. rồi bỗng khoát tay:

- Thôi! Để cho nó chỉ huy đám dân sang Thái.

- Sao vậy, ông vẫn chưa tin thằng này ư? ông đã thấy nó chiến đấu ở Cổng Trời thế nào rồi chứ?

Koóng Sừ ra hiệu cho Dua Lô đi chỗ khác để cho chúng nói chuyện riêng.

- Không! Không phải tôi quên chuyện ở Cổng Trời! Nhưng nếu để nó ở lại hoạt động, e không có lợi. Vì trước sau rất có thể nó sẽ gặp lại vợ nó. Lúc ấy chẳng những chuyện chặt vợ nó ra làm ba khúc vứt ở cửa rừng mà cả chuyện cách đây ba năm em trai nó bị thủ hạ của tôi nhân vụ rắc rối ở kho hàng của Mậu dịch đã bắn chết nó và đổ cho cách mạng giết, rồi cũng sẽ lộ hết...

Tên đại tá miễn cưỡng gật đầu, thở dài:

- Cũng có thể! Thôi được! ...

Rồi nó cất cao giọng, gọi một lần nữa:
- Dua Lô?

Tên phỉ lại nhanh nhẹn chạy đến đứng trước mặt nó.

- Dua Lô! Chúng tao đã đồng lòng, tin tưởng ở mày. Sẽ phong cho mày làm trung úy. Mày phải cố gắng bắt đi theo càng nhiều càng tốt bọn dân chúng ngu muội ấy. Đưa chúng sang Thái để mở mang đầu óc chúng ra. Chớ có để chúng đi theo bọn cách mạng! Mày vẫn chưa quên việc chúng nó đã giết vợ mày chứ'?

Hàm răng tên phỉ thoắt siết chặt lại. Hai con mắt nó đó nọc.
*
*   *

Nó xốc lại cây súng trên vai. Mắt nó tràn ngập niềm hăm hở. Thế là nó lại được Koóng Sừ tin cậy. Nó đã được trao một trọng trách. Vậy nó sẽ làm tất cả mọi việc cần phải làm. Nó sẽ làm tất cả mọi việc có thể làm được, miễn là đạt được nhiệm vụ: đưa, bắt dân vượt Mê Công sang Thái, càng nhiều càng tốt.

Koóng Sừ cùng tên đại tá bắt đầu rời khỏi hang đá. Chúng tụt rất nhanh xuống sườn phía Nam. Ở đó đang lập trung ngót một trăm gia đình, trong đó có nhiều gia đình của các tên thuộc hạ ác ôn và có cả hai người vợ: một già, một trẻ của Koóng Sừ cùng với hai đứa con nhỏ của nó. Đấy là bộ phận đã được chọn lọc và được coi như trung thành nhất.

Còn phần lớn dân chúng đang bị dồn ở trong khu rừng dưới sườn núi phía Tây Pha Lếch. Họ đã được giao cho Dua Lô. Đây là thành phần phức tạp mà Koóng Sừ không mấy tin tưởng. Số dân này Dua Lô sẽ đưa đi một đường khác. Koóng Sừ với ngót một trăm gia đình “thần thánh" nọ đi một đường khác. Hai một bộ phận hẹn sẽ cùng gặp nhau ở bắc Pắc Xan mười lăm ki lô mét bên bờ sông Mê Công (Pắc Xan là một thị trấn phía Đông Nam thủ đô Viêng Chăn, nằm sát trên bờ sông Mê Công - nơi đây cơ sở địch vẫn còn rải rác và địa hình thuận lợi cho các phần tử biệt kích, gián điệp, chỉ huy phỉ từ Thái Lan được tung trở về Lào qua đoạn sông này cùng một số đoạn khác xa hơn về phía Bắc Viêng Chăn).

Trong lúc đó, ở dưới bản, nhóm cán bộ và chiến sĩ của Sở Chỉ huy nhẹ đoàn 3 đã tập trung thêm hai súng cối và ĐKZ. Một đơn vị bộ binh cũng đã được lệnh tiến vòng ra phía sườn Tây Nam của ngọn Pha Lếch. Như vậy hai mũi Nam, Bắc của các phân đội thuộc Đoàn 3 đã hội đủ. Và ở trên các hướng khác của Mặt trận, các đơn vị quân giải phóng Lào của ba tỉnh: Viêng Chăn. Luông Pha Băng và Xiêng Khoảng cũng đã vào được vị trí đã định.

*
*   *

Dua Lô rời hang núi Pha Lếch ngay sai khi Koóng Sừ và Ban Tham mưu của nó vừa đi khỏi. Một khẩu súng ngắn K54 Trung Quốc giắt ở trước bụng; một cây AK mới tinh trong tay (mới nhận được từ những ngày nổi phỉ) Dua Lô cùng một lũ gồm mười lăm tên lâu la xuyên rừng đi thẳng tới suối Nhọt Năng. Con suối sâu này mất hút trong một lòng thung vô cùng hiểm trở. Rừng rậm rạp. Dân chúng bị chúng dồn ép tới đây đang nằm ngồi la liệt dưới những mái lán làm tạm bằng lá chuối hoặc lá kè. Khi thấy Dua Lô và đồng bọn tới, tất cả mọi người đều nhao nhao trỗi dậy.

- Hãy nghe đây! Bất cứ ai có ý khác, muốn tháo chạy về với bọn cách mạng, sẽ bị bắn chết liền, không cần xét xử!

Đám đông dân chúng chỉ đứng cúi đầu...

- Đi!

Mệnh lệnh được phát ra.

Dua Lô cùng một toán phỉ dẫn đầu, mở đường. Chúng quyết định cắt rừng đi tắt cho nhanh và sẽ tránh được những còn đường mòn mà chúng thừa biết lúc này hầu hết đã bị quân cách mạng kiểm soát.

Nhằm thẳng hướng Tây Nam, Dua Lô cùng đồng bọn đi phăng phăng. Những con dao Mẹo sắc như nước luôn luôn lóe sáng. Gai góc bị chém, bị phạt ngã rạp. Dấu chân người giẫm lên nhau, chồng lên nhau. Con đường tháo chạy hiện lên mỗi lúc một rõ rệt dài dặc trong rừng sâu.

Nhưng một lúc sau, vừa vượt được một con dốc nhỏ, nhô đầu lên nhìn về phía trước, Dua Lô bỗng thấy một toán chiến sĩ cách mạng đang dàn hàng ngang trong rừng. Họ đang vừa đi vừa kêu gọi. Họ mang theo cả gạo và quần áo, thuốc men cho dân. Nhiều toán đang khiêng cả những người dân ốm đau mà bọn phỉ đã vứt bỏ lại ở dọc đường.

Quay lại rất nhanh, Dua Lô vẫy tay ra lệnh cho đoàn người đi sau nó cũng đồng bọn chuyển ngay sang hướng khác. Cần tránh đụng độ đã đành, nó còn muốn ngăn không cho đám dân bị ép đi theo nhìn thấy những chiến sĩ cách mạng.

Tất cả chuyển hướng theo lệnh của bọn Dua Lô rất mau lẹ. Không một tiếng nói. Không một tiếng chân bước mạnh. Đặc biệt, trẻ con vẫn không một tiếng khóc. Tất cả vẫn câm lặng, câm lặng đến lạ lùng.

Đi một thôi nữa. Tiếng súng hơi xa xa. Dua Lô đã mừng thầm. Nhưng khi vừa tới một rừng núi khác, nhìn xuống con suối phía dưới, nó lại muốn kêu lên: ở đó cũng có một đơn vị quân cách mạng ở đấy, các đơn vị quân cách mạng ấy đang rải truyền đơn và đặt cả gạo ở bên đường, cắm biển để cho dân lấy ăn kẻo chết đói...

Lại chuyển hướng.

Một lần nữa, đoàn người lại như ngậm tăm, cùng vội vã rẽ sang ngang.

Nhưng Dua Lô đã không ngờ, đi được một lúc quay lại nó thấy đã có một số dân trốn mất. Họ đã nhặt được truyền đơn. Họ đã nhặt được những giỏ gạo cứu đói của bộ đội cách mạng để sẵn ở trên dọc đường cho họ. Họ đã quyết quay trờ lại...

Dua Lô muốn điên lên. Nó quyết định thay đổi hướng đi, chọn một hướng bất ngờ, qua một vùng núi đá hiểm. Như vậy sẽ tránh được các đơn vị quân cách mạng, tránh được cả những thứ mà bọn nó cũng sợ không kém gì súng đạn: truyền đơn kêu gọi dân tỉnh ngộ, rời bỏ phỉ về với gia đình với cách mạng, và cả những giỏ gạo mà quân cách mạng đã để ở dọc đường một cách thật hào hiệp, nhân đạo nhằm cứu dân bị phỉ ép chạy đi khỏi chết đói ở giữa rừng...

Nhưng cũng chẳng khác lần trước, đi vào rừng núi hiểm này vẫn cứ thấy truyền đơn trắng rừng, trắng núi. Bấy giờ Dua Lô mới cảm thấy một nỗi bàng hoàng thực sự. Trong lúc đó, trên bầu trời tiếng loa từ mấy chiếc trực thăng vẫn không ngừng phóng đi những lời kêu gọi, giải thích của các cán bộ cách mạng. Có cả lời thu tiếng của một số vợ con phi trong vùng...

Trận đánh này mới thật là có hiệu quả - trận đánh vào lòng người. Dua Lô cay đắng nhớ lại lời của Koóng Sừ: “Giá mà cứ nổ súng và máu người Mẹo cứ chảy tiếp thì ta có thể nói đã cầm chắc cái thắng trong tay. Đằng này, chúng lại dụ dân...".

Cứ đà này, khéo đến bờ sông Mê Công thì chỉ còn trơ lại có mấy tên phỉ. Như vậy liệu rồi Koóng Sừ sẽ xử tội nó ra sao? ... Nhưng không còn nhiều thì giờ để buồn phiền và tính toán nữa. Dua Lô phải quyết dùng tới con đường cuối cùng. Đó là một con đường mòn rất hiểm trở, cheo leo đã bị bỏ từ lâu. Nhưng trong trí nhớ của Dua Lô, con đường ấy vẫn chưa phai mờ hẳn. Đó là con đường mòn bí mật mà cách đây hai mươi năm một lần cha nó đã dẫn nó đi trốn Pháp. Con đường bắt đầu từ Pha Côi qua Pha đeng - Pha Lai, rồi từ đó xuyên rừng, vượt qua những ngọn núi dường như chưa có dấu chân người, chọc qua bản Kai Xồ ra đèo Đen Đin ở đường 13. Tới Kai Xồ gần đèo Đen Đin sẽ bắt được một con đường mòn chọc thẳng xuống vùng Pắc Xan. Con đường này là con đường xưa nay bọn buôn ma túy, bọn buôn vàng lậu từ Thái Lan sang Lào và từ Lào qua Thái vẫn luôn luôn lén lút qua lại...

Dua Lô quyết định cho đoàn người đổi hướng một lần chót. Nhìn lại đoàn người nay chỉ còn xào xạc trên hai trăm, hầu hết là ông bà già, đàn bà và trẻ nhỏ, Dua Lô lại thấy vô cùng lo lắng.

- Đi! Tao đã nói rồi: tao sẽ bắn chết hết những đứa bỏ trốn. Đi! Sang bên kia sông người Mỹ sẽ đón. Sẽ tha hồ sung sướng...

Đoàn người vẫn câm lặng. Vì kiệt sức rồi. Vì đã quá đói khát. Và cũng đã quá hiểu rồi tất cả những lời đe dọa cũng như tất cả những lời hứa hẹn của những tên cuồng dại này. Nhưng bây giờ hiểu ra thì đã quá 'nuộll. Pha ơi! Hiểu ra thì đã muộn. Biết làm sao đây?...
*
*   *

Chiếc trực thăng của đồng chí Tư lệnh và Tham mưu trưởng Mặt trận 1A lượn vè vè, nhiều lúc táo bạo sà hẳn xuống những ngọn rừng đáng nghi ngờ. Tiếng trực thăng đã làm tăng thêm không khí khẩn trương của mặt trận.

Chiếc máy truyền tin đặt trên máy bay luôn luôn làm việc. Đồng chí Tư lệnh Mặt trận lúc nói chuyện với Lê Dân ở Đoàn 3, lúc gọi những người chỉ huy của Quân giải phóng Lào thuộc ba tỉnh. Đồng chí yêu cầu họ báo cáo gấp về tình hình rút chạy của địch, đồng thời báo cho các nơi biết: gạo cứu đói cho dân, thuốc men cấp cứu cho dân, kể cả áo quần cho họ đang được đưa gấp tới

Đồng chí cho biết: các đơn vị cán bộ cơ sở cũng đang được đưa vào những vùng được giải phóng để nhanh chóng xây dựng lại chính quyền và các tổ chức quần chúng...

Rồi chiếc trực thăng đáp xuống một bãi đất trống trước một bìa rừng, nơi Sở Chỉ huy nhẹ của Lê Dân vừa chuyển tới.

Một cuộc họp cấp tốc diễn ra ở ngay dưới cánh máy bay. Căn cứ vào những lời dân báo, lời tù binh khai. Và căn cứ cả những dấu hiệu do trực thăng quan sát được, các đồng chí chỉ huy cùng đi tới nhận định: Phỉ đang cố sức kéo theo một số dân chạy sang phía Thái Lan. Hiển nhiên con đường 13 bỗng trở nên càng mười phần quan trọng. Như vậy các đơn vị dự bị của Mặt trận ở phía sau phải được tung ra chốt chặn trên tất cá những điểm xung yếu trên con đường chiến lược ấy. Đèo Đen Đin cũng phải được chú ý một cách đặc biệt.

Khi đồng chí Tư lệnh Mặt trận leo trở lên máy bay, Lê Dân nhắc lại với anh một cách nghiêm chỉnh và dứt khoát:

- Xin anh cứ yên tâm! Đèo Đen Đin đã có 9 đội của chúng tôi ở đó từ lâu để tham gia với các đồng chí Lào xây dựng cơ sở, phát triển sản xuất, đồng thời bảo đảm an ninh giao thông. Do đó không lo Đen Đin cho lắm? Tôi lo ở phía dưới sâu nữa, phía bờ sông, gần Pắc Xan kia! Nhưng đã có trù tính kế hoạch rồi!

Đồng chí Tư lệnh Mặt trận siết chặt tay Lê Dân và lắc mãi. Anh ngắm nhìn người anh em cùng chiến hào của mình bằng cặp mắt chứa chan yêu mến và tin tưởng. Lê Dân đã gầy rộc, râu đen kín hết cằm.

Khi chiếc trực thăng bốc lên khỏi rừng. Lê Dân quay lại vẫy Trần Ánh tới, vui vẻ nói:

- Ánh ạ. Tôi sẽ trao cho bọn các cậu một nhiệm vụ rất đặc biệt!

Đôi mắt Ánh mở to, hồi hộp. Lê Dân tiếp:

- Phỉ đang rút chạy. Tệ hơn nữa, vẫn bắt cả một số dân đi theo. Ban Chỉ huy Mặt trận phán đoán: có nhiều khả năng chúng sẽ qua đèo Đen Đin để xuống miệt Păc Xan, vượt sông Mê Công sang Thái...

- Rõ! Em hiểu rồi. Như vậy phải tìm mọi cách chặn đầu chúng lại. Rõ!

- Nay tôi muốn trao cho cậu nhiệm vụ khẩn cấp ấy: chặn đầu bọn phỉ lại! Hiểu chứ? Các cậu phải thần tốc đưa quân vượt qua đèo Đen Đin xuống tới bờ sông Mê Công cho tôi, phòng chúng lọt được qua Đen Đin...

- Rõ! Hay quá - Đôi mắt sáng rỡ vui mừng thích thú hết sức, Ánh như reo lên - Em xin cố gắng!

- Như vậy, tôi nhắc lại, các cậu phải cấp tốc, nói cho đúng hơn: phải thần tốc. Đúng! Phải thần tốc! Thần tốc. Các cậu sẽ có thể bắt sống được bọn đầu sỏ của giặc. Gian khổ đấy và cũng khó khăn đấy, nhưng hãy cố gắng! Còn với dân, vẫn phải hết sức tìm cách giác ngộ, tranh thủ. Nếu có ai gì chưa hiểu, vẫn cố tình chạy, thì đành để cho họ đi, tuyệt đối không có ép buộc ai... 

- Rõ! Báo cáo, tôi xin đi ngay

Trần Ánh như bay trở về đơn vị.

Và chỉ mươi lăm phút, sau khi đã ăn vội mấy miếng lương khô, toàn đội trinh sát của anh bắt đầu lên đường.

Trần Ánh đã tính toán trên bản đồ: phải mất 48 giờ bọn anh mới có thể tới bờ sông, nếu không có gì xảy ra ở dọc đường. Anh không khỏi lo lắng. Nhưng cũng vẫn tràn ngập niềm hăm hở và cả một niềm tin.

“Thần tốc! Thần tốc!". Lại một lần nữa trong đầu họ vang lên khẩu hiệu mãnh liệt, tuyệt vời ấy - Khẩu hiệu đã giục giã, nâng cao họ lên và chắp cánh cho họ bay lên phía trước.
*
*   *

Đúng như lời Lê Dân đã nói: ở đèo Đen Đin - con đèo quan trọng này trên đường 13 đã có một bộ phận của Đoàn 3. Đó là đội 9. Đơn vị này tới đèo Đen Đin với nhiệm vụ góp sức xây dựng cơ sở địa phương, đồng thời cùng đảm báo an toàn giao thông ngay từ sau ngày phỉ nổi lên ở hai miền Đông, Tây Ka Xỉ và ra cướp xe, giết người ở đèo này.

Mấy bữa nay đội 9 đã nhận được lệnh: có nhiều khả năng phỉ sẽ có bộ phận kéo qua Đen Đin đề vượt đường 13 trốn ra sông Mê Công, sang Thái. Vì vậy, đơn vị đã tăng cường việc chốt chặn. Một bộ phận đã được đưa vào sâu trong bản Kai Xồ để chốt chặn từ xa, không cho địch dễ dàng ra tới đường 13 và đèo Đen Đin.

Bộ phận ấy là một phân đội gồm mười hai chiến sĩ.

Chỉ huy mười hai chiến sĩ ấy vào Kai Xồ là Hồng, một cán bộ trung đội có nhiều kinh nghiệm. Mọi người lên đường từ lúc chập tối. Rừng động. Gió ào ào như biển. Trận mưa ban chiều đã làm cho tất cả các con suối lớn, nhỏ tràn đầy. Nước gầm réo mênh mang bốn bể.

Đã tám giờ tối. Bây giờ thì phân đội của Hồng đã tới Kai Xồ. Nhưng anh không cho quân vào bản mà cho toàn phân đội tiến lên chiếm lĩnh một ngọn đồi khống chế con đường mòn từ phía Bắc - phía Pha Lếch - chạy xuống.

Các chiến sĩ ta vừa lên tới đỉnh đồi thì bỗng một loạt theo một phản xạ bản năng, cùng lao mình nằm rạp xuống cỏ.

Ở phía trước có một đám đông đang kéo tới. Toán đi đầu đã gần tới chân đồi nhưng đuôi của đoàn người vẫn còn ở mãi trong rừng.
Đoàn người hình như cũng đã phát hiện ra các chiến sĩ ta hoặc ít ra cũng đã nghi ngờ trên ngọn đồi này có quân cách mạng chốt chặn.

Họ dừng lại và cùng ngồi thụp cả xuống. Tuy vậy, Toán ở phía sau vẫn chưa biết gì hết vẫn tiếp tục tiến lại. Chỉ trong chớp mắt, cả đoàn người đã dồn cả lại trước ngọn đồi.

- Đây rồi? - Hồng thầm reo lên.

Không mảy may lo sợ, anh đoán biết chắc chắn: Tuyệt đại bộ phận những người đang ngồi ở trước mặt phân đội nhỏ bé của anh chỉ là dân chúng bị ép buộc. Tất nhiên cũng có phỉ. Nhưng lực lượng phỉ dù có bao nhiêu cũng chỉ là những tên đang trên đường chạy trốn. Vì vậy, rất nhanh. Hồng hạ quyết tâm: một tổ cấp tốc vòng ra phía sau khóa đuôi đoàn người lại. Một tổ khác kiên quyết bằng mọi giá, phải giữ vững ngọn đồi để chặn đầu. Số còn lại gồm có Hồng cùng năm chiến sĩ khác sẽ vừa kêu gọi phỉ đầu hàng và kêu gọi nhân dân bình tĩnh vừa táo bạo dàn hàng ngang xông thẳng vào đội hình của địch.

Lát sau, Hồng cùng năm chiến sĩ bắt đầu cùng vùng dậy:

- Tất cả hãy bỏ súng xuống! Cách mạng sẽ tha tội! Các anh sẽ không còn con đường nào thoát nữa! Các anh đã bị vây chặt rồi!

Miệng gọi, súng chĩa thẳng, sáu con người như sáu thiên thần từ trên trời đột ngột sà xuống. 

Không một phát súng nổ.

Tất cả đám đông thoắt như tan rã. Nhưng rồi mọi người lại vội vã dồn lại. Vẫn không một tiếng súng nổ. 

Phỉ đã lẩn mặt, trốn vào dân rồi. Càng hay. Sẽ phân loại sàng lọc để tìm ra chúng sau. Trước mắt phải làm sao thu được toàn bộ dân chúng đã! Hồng vui mừng nghĩ vậy.

Lúc đó, tiếng kêu, tiếng gọi, tiếng nói bắt đầu trào lên ào ào như vỡ chợ. 

Mười hai chiến sĩ cùng quây tròn cả lại. Những lời kêu gọi dõng dạc và tha thiết tiếp tục vang lên để trấn tĩnh những người dân còn sợ hãi chưa hiểu, chưa tin. Những mệnh lệnh cũng được kịp thời đưa ra để uy hiếp những phần tử địch còn cố tình ngấm ngầm gây rối hoặc xúi dân bỏ chạy. 

Đuốc được đốt lên. Cả một khung trời sáng rỡ. Dân chúng nhìn lại mặt nhau. Mọi người cùng phát hiện: một số tên phỉ đã trốn thoát. Bọn này do một tên chỉ huy, tên gọi Dua Lô.

Vậy còn Koóng Sừ và Ban Tham mưu của nó nữa?

Không! Koóng Sừ không đi hướng này! Không một ai thấy mặt nó từ Pha Lếch. Chỉ có Dua Lô- thủ hạ đắc lực của nó đã đưa nhân dân chạy về tới đây. Dua Lô đã trốn chạy mất rồi! Nó vẫn chưa chịu hoặc chưa dám ra hàng...

*
*   *

Biết thế nào đèo Đen Đin cũng đã bị chốt chặn rồi. Dua Lô bỏ đèo, vượt qua một ngọn núi cao ngất, sau đó cùng đồng bọn, bất ngờ, táo bạo vượt qua đường 13 gần như ngay trước mũi một đội tuần tra của đội 9. Chúng vọt qua đường, như những con chuột cống lao qua những đường phố trong đêm vắng. Đội tuần tra chỉ kịp quạt theo mấy loạt AK. Sau đó nhào vào rừng sục sạo. Toàn đội 9 ở đèo cũng đổ ra. Nhưng chúng đã mất dạng.

Tờ mờ sáng. Sau khi đón nhận số dân thu được ở Kai Xồ, toàn đội 9 đang rối tinh rối mù cả lên, nào nấu ăn cho dân, nào săn sóc thuốc men cho người già và người bệnh, cùng trẻ em đột nhiên thấy một phân đội nhỏ của ta không rõ từ cánh rừng nào hoặc ngọn núi nào xuất hiện. Họ tới mới nhận ra: đó là đội trinh sát của toàn đoàn

Đội trưởng đội 9 vui sướng ôm chầm lấy Ánh. Nhưng Ánh đã vội dút anh ra. E chậm mất rồi. Đội trinh sát không kịp dừng lại để uống một hớp nước, gửi một lời chào nữa. Các chiến sĩ đội 9 chỉ còn biết đứng nhìn theo họ mất hút dần trong những cánh rừng rậm.

Lúc đó, Dua Lô đã tới được bờ sông Mê Công. Tả tơi lử lả.

Nhưng nó vô cùng mừng rỡ vì đã gặp được đoàn dân gồm một trăm gia đình “thần thánh" mà Koóng Sừ đích thân chỉ huy, rút chạy từ Pha Lếch cũng vừa tới nơi đây trước nó có một lúc.

Tuy vậy, không còn đủ hai trăm nữa mà chỉ còn độ non nửa. Dọc đường đã có những ông già gục xuống vì kiệt sức. Những người bệnh cũng đã bị vứt xác xuống vực sâu. Thêm nữa, cũng đã có nhiều gia đình tỉnh ngộ, trốn chạy trở lại.

Bây giờ chỉ còn lại có ngót trăm con người tới được bờ sông Mê Công. Mọi người cùng ngơ ngác: Không còn thấy Koóng Sừ cùng vợ con nó, và cả tên đại tá cố vấn nữa. Chúng đã bị bắn chết ở dọc đường trong những lúc tháo chạy tán loạn? Hoặc chúng đã khôn ngoan, tìm đường khác lẩn trốn, tự cứu lấy thân và lũ vợ con chúng còn bỏ mặc tất cả những người dân khốn khổ này. Hoặc chúng đã nhận được điện từ bên kia bắt buộc phải quay trở lại để kiên quyết mai phục lâu dài?... 

- Vậy tất cả hãy theo tôi! 

Dua Lô gắng gượng cất giọng nói. Thế là bọn đầu sỏ không có mặt ở đây! Vậy nó phải đứng ra lo liệu cho đám dân này chứ còn biết trông cậy ở ai nữa? Phạ ơi, tất cá gánh nặng này đặt cả lên vai Dua Lô hay sao?. Lẽ nào vậy/. Nhưng nhiệm vụ của nó. Koóng Sừ đã giao rồi. Nếu nó bò mặc lúc này, ít nữa gặp lại Koóng Sừ, nó sẽ phải gánh chịu những sự trừng phạt ghê gớm tới đâu?...

- Tất cả hãy theo tôi vậy! Chém chuối, chém lồ ô, kết bè để vượt sông! Chúng ta không thể chần chừ được nữa! ...

Thế là chỉ trong khoảnh khắc, cả khu vực ven sông đã náo động tiếng chặt tre, tiếng gọi nhau, tiếng quát tháo, tiếng sai bảo. Dua Lô chạy hết chỗ này chỗ khác để đôn đốc công việc. Những tên phỉ còn lại thoắt trở nên kính nể nó như một tên thủ lĩnh mới. Không một tên nào dám cưỡng lệnh nó. Cũng không một tên nào dám lỏng tay dao, khi thoáng trông thấy nó đi tới.

- Mau lên! Bọn họ sắp tới rồi! Chậm sẽ chết hết!

Nó càng như điên lên vì lo sợ và sốt ruột.

Những bàn tay càng thêm hối hả. Nhưng những ánh mắt càng thêm bàng hoàng, hãi hùng.

Người Mẹo vốn sống ở núi cao, từ ngàn xưa, không quen với sông nước. Giờ đây đứng bên dòng sông mênh mông, chảy xiết, tất cả những người Mẹo đều tựa như những con ngựa chiến, dù kiêu hùng đến đâu cũng bỗng lùi cả lại hí vang lừng kinh hãi.

Nhưng, như ta đã biết, vốn có truyền thống kỷ luật chiến trận đến kỳ lạ nên sợ thì sợ, tất cả mọi người vẫn cứ hối hả, tích cực chém tre, chém nứa, và không một nửa lời hỏi lại, hoặc than vãn. Cho tới một lúc sau, đã có trên hai mươi chiếc mảng được đẩy xuống nước.

Một quang cảnh lạ lùng: gần như thuộc về một thế kỷ xa xưa với rừng già ào ào gió thét, với hàng trăm con người già trẻ, trai gái lớn bé, quần áo tơi tả, mặt mày xanh xám đứng trên bờ cùng những chiếc bè tre thô sơ dưới dòng sông đang mênh mông cuồn cuộn...

- Xuống bè!.

Mệnh lệnh được phát ra. Tất cả đám người thoắt như run bắn lên. 

- Xuống bè!

Mệnh lệnh lại thét lên gay gắt, giục giã.

Dua Lô không khỏi ngạc nhiên khi thấy rất nhiều người trong đám đông bỗng từ từ lấy ở trong các gùi, các bọc ra những chiếc bi đông nhựa, mà người ta vẫn thường bán ở các thị trấn dùng để đựng dầu hôi hoặc xăng xe hơi. Dua Lô đã hiểu ra: những chiếc bi đông dùng để làm phao bơi. Koóng Sừ đã ra lệnh cho mọi người mua sắm chuẩn bị sẵn từ Pha Côi, Pha Lếch. Tên tướng phỉ này quả là đã có con mắt nhìn xa. Nhưng chưa hết ngạc nhiên. Một cái gì đương còn hơn cả nỗi ngạc nhiên: Dua Lô sững sờ khi nhìn các gia đình trước khi xuống bè, tất cả già trẻ, lớn bé đều lấy dây buộc chặt tay lại với nhau. 

- Phạ ơi! Cái gì vậy? Tại sao vậy?.

Vô cùng kinh hãi sông nước và chắc gia đình đều muốn chết phải có nhau. Ở bên nhau, dường như thế thì sẽ bớt cô đơn và sợ hãi...

- Hãy cắt bỏ dây ra, đồ ngu xuẩn! Các ngươi làm cái gì thế?

Dua Lô nhảy chồm tới, thét vang, tay súng vung lên. Nhưng mệnh lệnh của nó lúc này không có hiệu lực nữa. Từng gia đình, với dây rừng đã buộc chặt người nọ nối với người kia, cả cụ già, trẻ nhỏ cùng câm lặng tụ xuống bờ sông, rồi cùng lẩy bẩy bước lên những chiếc bè thành từng chùm người một.

Dua Lô chỉ còn biết đứng há hốc miệng, tay không xuôi. Nó hoàn toàn bất lực rồi. Các bè bắt đầu rời khỏi bờ.

Dòng sông vẫn chảy xiết. Trời càng đầy mây. Gió thổi lộng.

Đến lượt Dua Lô cũng xuống một chiếc bè. Nó đã trở thành điên dại thực sự.

Dòng sông xoáy tít, xoáy đến chóng mặt. Nước ngầu bọt, đỏ khé như toàn máu ...
*
*   *

Trần Ánh và đồng đội đã tới.

Tất cả đều sững sờ trước khung cảnh hãi hùng này. Anh em đã kịp giữ hầu hết các bè. Tuy nhiên, cũng đã có vài chiếc đó lao ra và đã lật chìm. Những chùm người vật lộn, giãy giụa giữa dòng sông chảy xiết rồi mất tiêu luôn. Vẫn còn một chiếc bè cố nhả bờ.

Trên bè là một toán gồm mười người, đang úp mặt, nằm rạp xuống. Chỉ có một tên vững đứng giạng chân, cầm chèo. Tóc nó rũ rượi. Mặt nó như một xác chết. Một vết xẹo dài sâu hoắm ở một bên má làm cho vẻ mặt nó thêm kinh dị. Nó là Dua Lô.

- Quay lại! Quay lại! Đám người kia hãy quay lại! Chúng tôi sẽ tha hết. Chớ có ra giữa sông sẽ đắm chết hết đấy!

Trần Ánh bắc loa tay lên gọi.

Anh gọi một lần nữa.

Anh gọi hai lần. Anh gọi tới lần thứ ba.

Anh tiếp tục gọi. Anh gào lên. Chiếc bè của Dua Lô vẫn từ từ ra xa.

- Quay lại! Quay lại. Sẽ tha hết! Tha hết! ...

Chiếc bè vẫn tiếp tục trôi. Không rõ nó vẫn quyết không quay trở lại hoặc không còn biết cách nào để quay trở lại nữa?

Giữa lúc ấy, có tiếng máy nổ rền vang, rồi một chiếc trực thăng từ phía sau hối hả bay tới sát bờ sông, nơi đội trinh sát vừa tới.

Gió từ cánh quạt đánh giạt một vùng cây cỏ.

Chiếc trực thăng đáp xuống một bãi đất trống nhẹ như một con chuồn. Đồng chí Tư lệnh Mặt trận và Lê Dân tươi cười từ trên máy bay cùng nhảy xuống.

Cả hai người cùng tiến lên, âu yếm ôm hôn từng chiến sĩ trinh sát yêu quý.
1981
HP

GỬI NỤ CƯỜI TƯƠI CHO HUẾ

1
Đối với riêng tôi và có thể với nhiều người dân Huế khác, có lẽ mọi việc coi như trở nên khẩn cấp, rung chuyển rõ rệt nhất là từ ngày mười chín tháng ba. Đó là những ngày Huế bắt đầu trở dạ. Hoặc đó là lúc mà đêm dài bỗng nhiên tối sẫm xuống để rồi bình minh sẽ hé dậy!

Đầu tháng ba: tin về Ban Mê Thuột đã làm cho cả thành phố này và cả nước sôi nổi. Kế đó là những tin dồn dập không ngớt về chiến sự trên toàn miền cao nguyên. Rồi tới những tin nóng bỏng ở các mặt trận ngay chung quanh Huế. Mồng năm, kịch chiến ở Phú Lộc - An Lỗ - quân sư đoàn 1 thiệt hại khá nặng. Cầu An Lỗ đã bị Giải phóng phá sập hoàn toàn. Mồng sáu: có tin đồn ở phía Bắc (Quảng Trị). Quân giải phóng đang tập trung binh lực lớn

Mồng tám chính đài Huế đưa tin: hàng chục tiểu đoàn quân giải phóng đã tỏa về hầu khắp các vùng đồng bằng Quảng Trị, Thừa Thiên cùng với những đội võ trang tuyên truyền đi sâu vào các vùng mới "bình định". Những viên tướng Sài Gòn đã phải la lên: đây là một cuộc tràn ngập lớn nhất kể từ sau "biến cố" Mậu Thân 

Mười hai, lại một tin "tối mật" nhưng đã được sớm tiết lộ và bay nhanh trên khắp thành phố: quân đội Sài Gòn đã bắt được một kế hoạch mật của "phía bên kia": Một bính đoàn hùng mạnh của quân giải phóng sẽ đột phá từ hướng Bắc, đánh thẳng vô Huế trong mấy ngày sắp tới ... Tướng Ngô Quang Trưởng "người hùng" của Sài Gòn. trực tiếp chỉ huy Quân đoàn 1 đã buộc phải nhanh chóng cho rút hết binh lực trên tuyến đường 12 về Mỹ Chánh để chuẩn bị cho một trận quyết chiến ở đó ...

Mười lăm lại có tin do các "bà phu nhân hay bép xép” tiếp tục tiết lộ: tướng Trưởng tiếp tục điều chỉnh lực lượng. Đã thấy có khá nhiều sĩ quan từ các tuyến ngoài xuất hiện trên đường phố Huế với những bộ đồ tác chiến nhàu nát, bụi bậm và những nét mặt rất căng thẳng. Đồng thời cũng thấy vắng đi khá nhiều sĩ quan quen thuộc, mọi khi vẫn hay lui tới biệt thự này, tiệm uống khác, hoặc đều đặn ngày ngày hai buổi cưỡi xe Jeep phóng như bay qua cầu Trường Tiền, từ khu cư xá phía Nam sông Hương vô trại Trần Cao Vân (đồn Mang Cá) rồi lại từ Trần Cao Vân về cư xá...

Ngày mười sáu, thành phố bắt đầu huyên náo dữ. Đã có nhiều đoàn xe chở dân chúng từ Hải Lăng chạy về. Họ nói lệnh di tản đã bắt đầu tuyên bố và buộc phải thực hiện nghiêm ngặt ở Quảng Trị. Có nhiều người không đi đã bị bắn.

Mười tám, chiến sự bắt đầu nổ ra dữ dội ở vùng Truồi. Suốt đêm trước, tiếng trọng pháo dội về rung chuyển cả cố đô, dựng dậy tất cả mọi người kể cả người già và con trẻ. Đêm ấy, mưa, nhìn về phía Hải Vân, trời tối đen mờ mịt, ghê sợ. Tiếng mưa rào rào trên các mái nhà. Nhưng từng hồi đại bác vẫn gầm lên từ xa xa. Suốt cả buổi sáng ngày mười tám cho tới ba giờ chiều cũng vẫn không ngớt tiếng súng, phản lực cơ từ Đà Nẵng, Sài Gòn bay ra liên tục. Không nom thấy máy bay nhưng nghe tiếng những chiếc A37 và F5 rền rĩ gần như không một lúc nào dứt.

Khoảng năm giờ, những chiếc xe cứu thương tràn ngập trên suốt dọc đường Lê Lợi về kín cả hai cây cầu Trường Tiền, cầu Mới. Quân cảnh ngăn hết mọi lối, dành riêng cửa Thượng Tứ và con đường chạy thẳng vô trại Trần Cao Vân. Trong đó có quân y viện lớn của Quân đoàn. Người nấu bếp của gia đình viên bác sĩ giám đốc quân y viện, ra chợ Đông Ba nói: "Không còn đủ giường cho thương binh nữa. Lính thủy đánh bộ bị thương nằm tràn cả trên các hành lang. Các sĩ quan cũng đang chửi nhau và rút cả súng định bắn nhau”. Anh ta vừa muốn bày tỏ sự lo lắng; đồng thời cũng như nhiều người làm cho các nhà "quan lớn" còn muốn khéo léo khoe khoang cả sự am tường nhiều tin quan trọng, thậm chí chuyện "quốc gia đại sự".

Và ngày mười chín. Một tin, không! Một sự kiện cụ thể rất quan trọng, rất thiết thân đối với giới sinh viên, học sinh chúng tôi đã bùng ra như một trái bom lửa: tất cả các trường học của Huế được lệnh đóng cửa! Các bạn có thể hiểu được tâm trạng của riêng tôi trong giây phút đó không? Tôi là sinh viên năm thứ tư - Chỉ còn vài tháng nữa nếu không có những biến động nào xảy ra. Tôi sẽ được tốt nghiệp, ra trường... Nhưng đồng thời tôi lại là một người "của chúng ta". Tôi ở trong ban đại diện sinh viên. Đây là tổ chức hợp pháp của sinh viên Huế, có sự lãnh đạo của các anh trên Trường Sơn khá chặt chẽ từ lâu. Vậy trước cái tin các trường đóng cửa, tôi buồn hay vui đây? Tôi chỉ biết tâm hồn tôi náo động, ngồi đứng không yên nữa. Tôi đã tới trước cửa trường đứng lặng đi trong giây phút. Và thật là may mắn! Gần như cùng lúc với tin các trường phải đóng cửa, chúng tôi đã nhận được chỉ thị hành động của Cách mạng. Cô Lộc, nữ sinh văn khoa, "con bồ câu” hết sức dịu dàng của chúng tôi, một nữ đồng chí làm công tác giao liên trung thành và gan dạ đã mang chỉ thị ấy về cho chúng tôi hồi sáng, bắt đầu qua đâu, tôi không rõ, nhưng chúng tôi đã được giáo sư Vĩnh trực tiếp truyền lại. Lúc đó có một cảnh sinh (Sinh viên làm tay sai, do ngụy quyền cải vào hàng ngũ sinh viên để dò xét, chỉ điểm. ) lảng vảng nhưng chúng tôi vẫn tảng lờ không biết, tiếp tục nói chuyện. Công việc quá gấp rồi, không thể chậm một giờ, một phút.

Trái tim tôi càng như rung lên trong những niềm xúc động. Cái gì sắp xảy ra cho chúng tôi, cho Huế. Lứa tuổi trẻ chúng tôi chưa biết được gì nhiều, nhưng ít ra chúng tôi cũng đã chứng kiến được cái Mậu Thân và nhất là cái mà chúng tôi vẫn quen miệng gọi là “biến cố 72". Chúng tôi chờ đợi đã quá nhiều và hy vọng cũng đã quá lớn. Nhưng cũng đã có cả sự mừng hụt, thậm chí ít nhiều thất vọng. Ôi mùa xuân 1975!

Giữa lúc chúng tôi dường như đang quá dè dặt trong sự chờ đợi, thận trọng trong việc mong ước thì mọi việc to lớn, quá to lớn lại đang ào ào rung chuyển kéo tới. Nhưng dầu sao cũng phải thú nhận, trong tận đáy cùng của lòng tôi vẫn không khỏi chút lấn cấn: liệu năm nay có sẽ khác Mậu Thân, khác hè 1972 không? Các anh có về được không? Và về có trụ lại được vĩnh viễn không? Mậu Thân: tôi đã thấy các anh. Hồi ấy lực lượng các anh quá mỏng, mỏng đến mức ngạc nhiên. Mùa hè 1972, Huế đã náo động, rạn nứt. Nhưng các anh cũng mới chỉ đủ sức tới được bờ sông Mỹ Chánh. Vậy năm nay? Năm nay? Tôi được nghe nhấn mạnh: hoàn toàn khác trước. Vậy tôi hy vọng! Tôi tin, rất muốn tin. Nhưng, vẫn thú nhận: chưa hoàn toàn hết lo lắng. Vì vậy tôi bồi hồi, tôi nôn nao.

Suốt buổi sáng chúng tôi phải đi chắp nối với nhau, truyền đạt chỉ thị của Trường Sơn. Chúng tôi, những người trong tổ chức, cùng ôm chầm lấy nhau. Có bạn chảy nước mắt: "Có thật lần này mới là vận hội đã tới?". Chúng tôi chỉ còn biết xiết chặt lấy tay nhau. Chúng tôi biết trong lúc này tất cá các ngành, các giới khác trong thành phố cũng đều đã nhận được chỉ thị của Trường Sơn gửi về gấp.

Ngày mười chín - thành phố đã thực sự bắt đầu rung chuyển. Tiếng trọng pháo vọng về nghe rõ hơn, dồn dập hơn nhiều. Tôi đang cùng với Hồi, một bạn cùng trong hội đồng đại diện sinh viên ngồi trên lầu một ngôi nhà lên đường Trịnh Minh Thế để bàn công việc. "Các em phải chuẩn bị gấp để cùng đồng bào nổi dậy". Các anh chỉ thị đã quá rõ ràng. Nhưng nổi dậy ra sao, lúc nào, dưới hình thức nào? Chúng tôi biết chính chúng tôi phải tự tìm ra được câu trả lời cụ thể, tỉ mỉ nhất. Bỗng có rất nhiều tiếng xe lớn dưới đường và nhiều tiếng huyên náo. Hồi chạy vội ra bao lơn. Anh thoắt la lên sửng sốt:

- Nhuần! E Quảng Trị vỡ rồi! Lính đang chạy về, đông dễ sợ! Cả hai chúng tôi cùng lao xuống đường.

Quả nhiên: từng đoàn xe GMC đang rầm rầm chạy tung bụi mù trời. Trên xe toàn lính sư đoàn 1, cái sư đoàn vẫn được gọi là "lừng danh". Họ chồng chất nhau trên những chiếc xe, như chất củi. Người nào mặt mũi cũng bàng hoàng, hốt hoảng. Quần áo tả tơi, bẩn thỉu, máu me. Người còn súng. Người mất súng. Người còn ba-lô nón sắt, người chỉ còn độc chiếc may ô trên mình. Chưa một lần nào, chúng tôi thấy họ ăn vận, trang bị một cách kỳ quái như vậy. Không còn nghi ngờ gì nữa: họ đang tháo chạy.

Trên những chiếc xe Jéep, những viên sĩ quan cũng không khá gì hơn. (Sĩ quan Sài Gòn vẫn rất chải chuốt, làm dáng - làm dáng bằng quần áo đã đành, làm dáng cả bằng những điệu bộ và vẻ mặt "yêng hùng", "oai dũng" đôi khi vênh váo một cách quá lộ liễu). Hôm nay họ như những bầy gà đã bị vặt lông xơ xác, nhét vào những chiếc lồng quá chật chội. Họ la hét, họ chửi thề ầm ĩ mỗi khi xe của họ bị kẹt ở dọc đường bởi những chiếc quân xa, những chiếc xe dân sự khác. Một số trong bọn họ cũng đã bị thương, băng quấn đầy đầu, đầy tay. (Trước đây đôi khi đi hành quân về lỡ chẳng may có bị thương nhẹ, thì đây lại là một dịp thật tuyệt để cho các viên sĩ quan trẻ ấy phô diễn điệu bộ "yêng hùng" của họ trước các cô nữ sinh. và các cặp mắt tò mò của người dân Huế). Hôm nay họ nhăn nhó, họ thiểu não một cách thực sự không giấu giếm nữa. Dường như có anh còn cố giấu cả mặt mình vào sau lưng bạn cho khỏi phải phơi ra giữa đường phố Huế lúc này.

Những chiếc xe vẫn từ phía Quảng Trị đổ về không ngớt, rung chuyển cả mặt đường. Người dân Huế, có lẽ cũng giống như những nơi khác, vốn rất nhạy cảm. Chỉ trong giây lát, tất cả đều đã đổ xuống các vỉa hè để xem đoàn quân thất trận trở về. Cố nhiên, có những người đổ ra xem với một nỗi kinh hoàng thực sự. Đó là những gia đình binh sĩ, sĩ quan. Có những tiếng gọi và những tiếng la nổi lên lẫn trong tiếng máy ầm ầm nhức óc. Họ gọi để hỏi tin người nhà họ. E quá muộn rồi chăng? Nhưng dẫu sao nghe tiếng la ấy, cũng vẫn thấy tồi tội! ôi cái thằng Mỹ? Tất cả mọi "nỗi đoạn trường" này cũng chỉ vì bọn Mỹ hết. Nhưng không rõ, tất cả mọi người trên đường phố này đều có hiểu cả thế hay không?...

Bụi vẫn mù trời. Những chiếc quân xa vẫn chạy đen trên cả hai cây cầu Trường Tiền và cầu Mới. Hội bỗng lại la lên một lần nữa:

- Đồng bào! Họ bắt cả đồng bào chạy vô Huế nữa kìa! Đông quá sức. Nhuận ơi!

Mắt tôi như hoa lên. Những chiếc xe tải dân sự hạng nặng đã xuất hiện trên đường phố - Nếu như những chiếc quân xa đã bị nhồi nhét quá sức thì dân chúng còn bị chồng chất trên những chiếc Ford hoặc Desoto một cách đáng sợ hơn nhiều. Người và đồ đạc nhồi chặt cứng trong các quầy xe. Người và đồ đạc còn chất cao ngất như những trái núi nhỏ trên mui. Nhiều thanh niên không còn chỗ ngồi trong xe, chỗ đứng trên bàn đạp lên xuống, cũng hết cả chỗ ngồi trên mui phải bám vào các chân bàn, thành giường thò ra khỏi xe, gần như lủng lẳng, làm xiếc. Và chót vót trên những đống bàn ghế, va- li hòm xiềng cao ngất là những đứa trẻ mười một, mười hai, thậm chí có đứa mới lên sáu lên bảy. Tôi lạnh cả xương sống. Chắc chắn những chiếc xe ấy chỉ cần xóc mạnh một cái khi qua một ổ gà hoặc lắc mạnh khi lái tránh né nhau, là cũng đủ để cho tất cả những đống người và đồ đạc ngất ngưởng quá sợ trên các mui xe đổ quật xuống tan tành.

Tôi không thể nhìn rõ được từng gương mặt người "tị nạn" hoặc gọi là "di tản" ấy. Chỉ thấy những mớ hình nhân tơi tả, chỉ thấy những mớ linh hồn tội nghiệp đang bị cuốn đi, lôi đi ào ạt trong một dòng thác ka-ki bụi bậm và đáy máu. Tôi chỉ còn thấy những cặp mắt như ngây dại vì quá kinh hoàng hoặc lo lắng, tuyệt vọng. Bỗng một người phụ nữ nào đó thét lên trong những tiếng ầm ầm huyên náo:

- Các ông đưa chúng tôi đi mô? Đi mô ô ô ô?

Tôi muốn ôm chặt lấy ngực. Mặt tôi nhăn nhúm lại. Đã có mấy chiếc xe đỗ ở những công viên quá sức bẩn thỉu bề bộn rác rưởi bên bờ sông Hương quãng giữa cầu Mới và cầu Trường Tiền. Ở đó có một số dân Hải Lăng, Quảng Trị lác đác bị dồn ra từ mấy hôm trước đang bẻ cành cây treo xoong, đốt lửa nấu cơm bên những lều vải căng tạm bằng chăn, bằng bạt và đồ đạc trẻ con, ông già thì bề bộn khắp chung quanh. Thoắt chốc, những đám dân mới được bốc vô ồ ạt đổ xuống đã làm cho cả con đường Trần Hưng Đạo và khu hai đầu cầu trở nên một biển người, hỗn độn, nhốn nháo. Đường kẹt lại. Xe cộ tắc cứng. Chửi. Hét. Nổ súng. Mặc! Tất cả cái biển người "tị nạn" ấy như không còn biết sợ là gì nữa. Họ đã sợ quá sợ đến mức hết sợ rồi. Tiếp tục chửi, rủa, tiếp tục la lối. Tiếp tục nổ súng. Đám dân tị nạn vẫn tiếp tục huyên náo, nhốn nháo, tràn ngập trên khắp các vườn hoa, các đường phố.

Huế đã bắt đầu tan vỡ từ chính cái này chăng? Tôi bỗng thầm tự hỏi như vậy. Họ bắt dân chạy theo để làm gì? Để làm gì? Trước hết, rõ ràng là hành động tội ác này đã như một con dao hai lưỡi đâm ngược trở lại cổ họng họ. Tôi muốn khóc lên cùng với những người di cư. Tôi đã hiểu họ từ mùa hè 1972. Tôi quá hiểu. Tôi muốn khóc lên để chia sẻ nỗi thống khổ trong cuộc sống điêu linh của những người gọi là di tản này. Và tôi cũng muốn thầm reo lên vì đã nhìn thấy được nỗi chết của chính những người còn đang nắm quyền ở đây hôm nay.
Hồi và tôi không đứng lâu được nữa. Chúng tôi cần phải đi gặp một số bạn. Trước hết, chúng tôi đi tìm Bạch, một bạn trong hội đồng đại diện sinh viên có trách nhiệm liên lạc và phối hợp hành động với các trường trung học. Nhà Bạch ở bên Vĩ Dạ. Chúng tôi đi xuyên qua những đám dân di tản vừa được đổ xuống, tạm dừng chân. Chúng tôi đã giáp tận mặt những con người khốn khổ ấy. Hầu hết là dân quê, và số đông là nghèo nàn. Có nhiều gia đình tài sản chỉ có mấy chiếc ghế, một chiếc giường gỗ xấu và một số túi, đẫy, vài chiếc chiếu ni-lông.

Họ bị bắt đi tới nơi đâu? Đi để tìm tự do và giàu có ư? Hoặc chỉ là để lánh bom đạn? Dường như họ đều không thật rõ. Họ chỉ biết là những mệnh lệnh đã được đưa ra như roi quất. Và từng chiếc quân xa lớn đã ầm ầm xộc tới hót tất cả ông bà, cha mẹ, vợ con họ lên. "Đi! Đi!" họ chỉ biết rất rõ, biết hết sức cụ thể và đau đớn có điều đó. Xác họ lúc này đang nhốn nháo, chạy cuồng bên bờ sông Hương này, nhưng hồn họ đang bay trở lại với những mái nhà, những xóm ấp thân quen cũ ở Hải Lăng, Triệu Phong đã trở thành xa lắc ... Những đứa trẻ la khóc như ri. Đói và khát. Sợ, nhớ nhà. Những bà mẹ cũng khóc. Cực quá sức, chúng tôi nhắm mắt lao đi cho nhanh, cắm đầu, như cảm thấy mình cũng có dính líu chút ít nào đây với tội ác.

Nhà Bạch ở cuối Vĩ Dạ. Chúng tôi quen thầm gọi ông cụ đẻ ra Bạch là "Ông già biển cả" - Một biệt hiệu vô nghĩa - Sở dĩ có biệt hiệu ấy chỉ vì ông hao hao giống Hê-minh-uê. Cũng cỡ tuổi, râu tóc đã trắng nhiều và người cũng vạm vỡ. Ông là một giáo sư cũ đã thôi dạy từ lâu chuyên nghiên cứu về dân tộc học. Ông thường đi Cao Nguyên và ra tới tận vùng đông Trường Sơn giáp giới tuyến. Có bận ông đã lần tới cả Khe Sanh, lúc Mỹ còn đóng quân, suýt bị chúng bắn chết. Ông có nhiều bạn thuộc các sắc tộc khác nhau. Năm nào cũng có người từ các vùng núi về chơi. Nhà ông treo đầy sừng hươu, da hổ, da gấu, túi thêu, áo quần dân tộc và cung, ná, chiêng đồng đủ loại ... Ông sống bằng nhuận bút các tập sách nghiên cứu, ông viết về các dân tộc miền núi Nam Việt Nam và các bài báo ông viết cho thế giới cũng về đề tài này. Về nghề nghiệp? nói chung đây là một ông già rất đáng quý.

Nhưng về đời sống chính trị, xã hội của ông thì lại dường như không có gì đặc sắc, hấp dẫn lũ trẻ chúng tôi. Ông thuộc loại người mà các quan chức của chính quyền (Thiệu) không ghét và cũng không ưa. Ông có người con cả đi bộ đội, tập kết ra Bắc từ năm 1954, không có tin tức. Người con thứ hai, ngược lại, đi lính cũng từ năm 1954, nay đã thăng tới trung tá, thuộc sư đoàn 23 Sài Gòn, đóng ở Plei Ku. "Ông già biển cả" tỏ ra rất yêu quý người con ra Bắc. Nhưng cũng chẳng giấu giếm mình thương yêu cả người con hiện là sĩ quan ngụy. Hồi Mậu Thân, ông cụ rất lo - cũng không giấu giếm. Ông lo hoặc người con này chết hoặc người con kia chết. Trong những ngày các chiến sĩ Giải phóng giữ Cổ thành, quần nhau với bọn lính cổ da Mỹ và ngụy Sài Gòn ông già rất bồn chồn và những chỉ mong sao "cho chóng yên".

Bạch khá buồn. Chúng tôi đã luôn an ủi anh: ít ra ông cụ cũng không đến nỗi là một trở ngại cho Bạch trên con đường dấn thân hoạt động. Và thừa nhận với anh: những người có hoàn cảnh và tâm trạng như cha anh hiện nay dường như cũng không ít, nếu không muốn kêu là khá phổ biến trong cái xã hội miền Nam đang bị kìm kẹp và đầu độc này, cái xã hội không những con người bị đầu độc mà còn bị cắt, bị xẻo, bị cưa đi cưa lại, bị trói, bị cùm, bị tước bỏ hết cả tâm hồn, lương tri, tình cảm. Cái xã hội mà đồng tiền quay tít thò lò, cùng với họng súng đen ngòm hau háu đã làm bá chủ tất cả. chi phối tất cả ...

Gia đình Bạch ở tại một trang trại nhỏ xinh ngay bên sông Hương. Quanh nhà trồng rất nhiều hoa. Toàn những loại hoa quý. Mỗi lần đi khảo sát dân tộc ở các miền núi ông cụ lại đem về một thứ. Cũng vì vậy trại này nổi tiếng về các loài hoa. Nó còn nổi tiếng thêm sau 'biến cố" Mậu Thân. Các cơ quan tuyên truyền của Chính phủ Sài Gòn đã đưa tin là toàn bộ gia đình giáo sư ở trại "muôn hoa" đã bị Việt cộng chôn sống vì có con là sĩ quan ngụy và bị nghi là Quốc dân đảng. "Ông già biển cả” nghe tin ngơ ngác. Nhiều người xui ông cải chính. Nhưng rồi ông chỉ cười.

Bà vợ ông đã mất từ lâu. Ông sống với Bạch và cô Thái Thị Nguyệt Mỹ Dung Kiều Vân, cô gái út vô cùng cưng chiều của ông. Cô rất đẹp nhưng quá yếu đuối. Cô mắc những chứng bệnh gì đó mà tên y học cũng dài dằng dặc như tên khai sinh của cô. Hễ động buồn là ngất. Vui quá cũng ngất. Ra nắng quá cũng ngất - Đi mưa lo quá cũng ngất. "Ông già biển cả" cho cô học hết tú tài rồi bắt ở nhà và chỉ giao có một việc là bắt sâu trong vườn hoa.

Nhà còn có một nhân vật nữa là bà giúp việc đã có tuổi, người thôn dã, khỏe mạnh, tính tình thật thà cứng cỏi. Gọi là thím Ba. Thím chỉ gọi vắn tắt tên cô út là: cô út, còn mặc hết, thím không cần biết những Thái, những Kiều, những Mỹ gì hết. Và bệnh của cô, thím cũng chỉ quy vắn tắt vào có mấy tiếng là bệnh không chịu ra nắng gió - Cũng vì vậy, hễ "Ông già biển cả" đi vắng là thím bắt cô út phải làm đủ việc: xách nước, tưới hoa, nhổ cỏ và nhiều khi đi chợ cùng thím, về nhà lại phải cùng nấu cơm nấu canh, ấy thế mà cô út lại có vẻ vui thích đặc biệt. Thím cấm không cho về kể với "Ông già biển cả", nhưng trong nhà này, xem ra người mà thím Ba quý nhất không phải là cô út mà là Bạch, mặc dầu "Ông già biển cả" không yêu anh. Bạch phải mắng luôn. Những khi ôn tồn. Ông già cũng có ý hối, thường bảo: cha con có số "xung khắc", không "hợp" nhau.

Hồi và tôi tới trại "muôn hoa” thấy không khí khác lạ lắm, không thấy cô út đi đi lại lại giữa các vườn hoa, tươi cười tỉa lá, bắt sâu như thường lệ. Cũng không thấy thím Ba vừa giặt giũ hoặc nấu nướng dưới bếp nhà nói oang oang như một vị “thống soái" trong cái gia đình này. Chúng tôi vén rèm bước vào nhà thấy "Ông già biển cả" đang ngồi thừ bên bàn uống nước, già xọm hẳn đi. Chúng tôi sực nhớ: Bạch cho biết ông già bị ốm từ mấy bữa nay. Nhưng không phải chỉ vì ốm. Rõ ràng ông đang lo nghĩ rất dữ dội. Trán nhăn lại. Đôi mắt sáng ngời lên khác thường. Bên cạnh ông là cô út. Cô đang chăm chú, lo lắng nhìn cha cô và không biết làm gì cả. Thím Ba thì đang hối hả ôm từng ôm quần áo nhét vào năm sáu chiếc va li cỡ lớn đang được mở rộng đặt trên chiếc giường. Tủ sách rất quý của ông cũng được mở toang. Nhiều chồng sách lớn đã được lôi xuống đặt gần kín trên sàn nhà.

- Kìa các cháu! Hay quá! Vô! Vô đây chứ! Bác đang cần hỏi câu chuyện? Vô, vô đây ngồi!

Hồi nhìn tôi rất nhanh. Có lẽ chơi với Bạch hơn mười năm nay, chưa lần nào chúng tôi được "Ông già biển cả" tiếp một cách niềm nở và "cần thiết" như hôm nay. Chúng tôi và cả Bạch vẫn bị ông liệt vào loại "trẻ con lông bông" hoặc khá hơn tí chút: "Bọn trẻ phiêu lưu" và mỗi lần chúng tôi tới gặp Bạch, ông thường tiếp một cách không đến nỗi lạnh nhạt, nhưng cũng rõ ràng: không yêu quý lắm.

- Bạch vừa đi khi hồi! Không rõ đi mô? Chừ bác muốn hỏi các cháu nghe: tình hình ngoài đường phố xá ra răng?

Tôi liếc nhìn Hồi. Bao giờ tôi cũng là thằng ít mồm ít miệng và Hồi cũng là tay bạo dạn, thông minh, nhạy cảm hơn. Hồi đáp:

- Thưa bác, dân chúng đang xôn xao quá dữ. Huế núng dễ sợ rồi. E không giữ nổi nữa?

Tôi thầm khen Hồi đã rất kịp thời "tấn công để thăm dò". "Ông già biển cả" càng chăm chú hơn.

- Vậy chừ, ra răng hè, mấy cháu?

Hồi liếc nhìn thím Ba đang được lệnh thu sắp áo quần, sách vở để đi. Anh mỉm cười - nụ cười rõ ràng có ý: Bác biết bác định làm chi rồi lọ là còn cần hỏi mấy cháu. Hay là bác cũng còn có chút nào do dự chưa quyết hẳn? Hồi nói luôn:

- Thưa bác, Cao Nguyên thất thủ rồi! Cao Nguyên thất thủ là một sự quá lớn. Số phận chính quyền ông Thiệu bắt đầu nguy ngập. Chiến sự đã tràn tới Huế rồi. Chắc chắn Huế sẽ mất nốt rồi Đà Nẵng nữa. Rồi, tất cả. Tất cả! Người Mỹ đã không cứu nổi chúng ta nữa. Họ cứu được thì phải cứu từ sau Ban Mê Thuột kia. Nay tất cả Cao Nguyên mất. Số phận Thiệu đã được định đoạt rồi! ...

Đến lượt tôi mỉm cười. Hồi đã nói gần đúng như chỉ thị của các anh trên Trường Sơn mà bọn tôi mới nhận được hồi sáng. Vầng trán "Ông già biển cả” càng nhăn lại như những luống cày.

- Vậy liệu có như Mậu Thân không mấy cháu?

- Thưa không. Chắc không! Lần này, e khác quá. Nghe mấy ông sĩ quan về gia đình tiết lộ như vậy - Lần này sẽ lớn hơn nhiều lắm, bác à!

"Ông già biển cả” không giữ nổi nữa, thốt lên cắt ngang lời Hồi:

- Trúng! Khi nãy ông Nguyên trung tá chiến tranh chính trị trong trại Trần Cao Vân bạn của Khoát (anh của Bạch, trung tá ở Plei Ku), vừa đến cũng cho biết. Tình hình đúng là quá xấu mất rồi ...

Hồi nhìn tôi, mặt anh hớn hở hẳn lên:

- Thưa bác, nếu vậy thì không còn nghi ngờ gì nữa...

Ông Nguyên cho biết thêm sáng nay tướng Trưởng đã ra lệnh sẽ công bố hồi năm giờ chiều nay trên đài Huế, dân Huế cũng bắt đầu phải triệt để di tản - Một chiến dịch di tản mấy cháu à, ông Nguyên bảo thế. Phải triệt để. Triệt để ...

- Trời! Thật vậy sao bác? - Hồi bật la lên. Tôi cũng không khỏi giật mình.

Mặt "Ông già biển cả" càng tối lại, đôi mắt ông như rớm lệ :

- Thế là chúng ta sẽ phải bỏ Huế. Bỏ Huế của chúng ta, mấy cháu à! ...

- Không! Thưa bác. Không thể bỏ Huế, không nên đi đâu hết! Bác nên ở lại! Và chúng cháu cũng sẽ ở lại! - Hồi bỗng nghiến răng lại, mặt anh đỏ bừng.

Tôi muốn ôm chầm lấy anh. Ai đã dạy anh những lời quá quan trọng, quá tốt đẹp ấy? Đã nhiều lần, trong những giây phút khó khăn của phong trào, tôi đã nghiệm thấy Hồi hay có một sức bật bất ngờ như vậy. Và thường thường anh đã nghĩ đúng và làm đúng với chỉ thị của các anh ở trên. "Ông già biển cả" cũng sửng sốt trước thái độ mạnh mẽ của Hổi - ông ngẩng lên mở to cặp mắt nhìn anh, miệng hơi há ra:

- Sao? Cháu nói sao? - mấy giây sau, ông mới gần như lắp bắp, run rẩy hỏi lại được.

- Thưa bác? Giờ phút trọng đại của đất nước đã tới rồi. Xin cho phép chúng cháu được mạnh dạn thưa thật với bác: Lúc này mọi người cần phải có một thái độ thật đúng. Sai một ly lúc này sẽ đi một dặm. Ngàn đời sẽ không sao sửa được nữa. Đi, nhưng dân Huế sẽ đi đâu? Đi tới đâu? Và làm gì? Huế sắp được giải phóng rồi, phải thừa nhận như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa. Mọi người dân Huế cần phải ở lại, phải góp một cái gì đó với sức mình ...

- Cháu Hồi! ...

"Ông già biển cả" thốt lên một tiếng nho nhỏ. Dường như lúc này ông mới nhớ ra: người đang nói với ông chính là anh sinh viên đã từng diễn thuyết trong những đám dân "di tản" mùa hè 1972 ở giữa thành phố này và đã bị bắt, mặc dầu lúc đó anh chỉ kêu gọi sự tương trợ "trong lúc buộc phải rời bỏ quê hương". Cũng anh sinh viên này đã bị nhiều lần gọi lên Ty An ninh vì những hoạt động "có tính chất tuyên truyền không phù hợp với quốc sách của chánh phủ”, nhất là trong thời kỳ thành lập Mặt trận cứu đói vừa qua.

- Thưa bác! Chúng cháu van bác! Bác nên ở lại! Không đi đâu hết!

- Nhưng người ta bắt buộc?

- Lúc này không ai bắt buộc được ai nữa! Họ lo cho thân họ còn chưa xong?

- Nhưng ở lại, nhỡ bom đạn?

- Lúc này, thưa bác, khắp miền Nam đâu đâu cũng có bom đạn.

- Nhưng - ông Nguyên nói - Huế sẽ bị làm cỏ. Và... nếu không thế, sống với Giải phóng cũng sẽ... khó lắm.

- Bác ơi, chúng cháu hoàn toàn không tin có chuyện ấy, những chuyện ấy.

- Nhưng ...

“Ông già biển cả" ôm chặt lấy đầu. Hai mắt ông càng đỏ hoe. Ông không vặn hỏi chúng tôi nữa, mà rên rỉ:

- Anh Khoát ở Plei Ku không có tin! Vẫn không có tin chi hết? Bây giờ lại có lệnh phải di tản! Di tản! Nhưng đi đâu? Đúng như cháu đã nói. Đi đâu? Và làm sao mà dứt bỏ dược chốn này? Cực quá mấy cháu ơi! Quả thật làm sao mà dứts Huế đi cho được? Nhưng ... nếu ở lại thì ra răng? Bác thú nhận cũng không thể nào biết trước hết được. Cực quá mấy cháu ơi! Thằng Bạch, không sao nói với nó được quá ba câu, than thở với nó được một lời. Cha con vốn xung khắc. Cực quá! Mấy cháu ơi! Chứ biết mần ăn ra răng đây?

Hồi nói thêm ít lời nữa. Tôi cũng mạnh dạn khuyên “Ông già biển cả" ở lại. Đoạn, chúng tôi cáo từ ra về. Chúng tôi đang còn biết bao nhiêu là công việc. Thời khắc lúc này sao quá eo hẹp. Ra khỏi cổng. Hồi thở trút, anh khẽ nói, như nói với riêng anh:

- Dầu sao, cũng rõ được một tâm trạng! Dầu sao... Cuối cùng, đấy rồi coi. Ông già sẽ ở lại, ít ra ông ta vẫn nhớ được là ông ta còn có một người con ra Bắc ...

Rồi anh ngẩng lên, nói to hơn, vui vẻ hơn với tôi:

- Và dầu sao, tới nhà này, thế là cũng hết sức có lợi. Chúng ta đã biết thêm được một tin mới nhất: Huế sẽ phải di tản!

Giọng anh càng như sôi lên:

- Và thế là mọi việc đã quá rõ ràng: Bọn chúng sẽ phải bỏ Huế! Các anh ở trên nói đúng quá: Vận hội đã tới rồi! Đúng là vận hội đã tới nơi rồi, phải không Nhuần ơi! Vận hội ...

Anh đấm mạnh vào lưng tôi, hai chân như nhảy nhót. Chúng tôi đến tìm Bích Hường, cũng có chân trong hội đồng, người có trách nhiệm liên lạc với các giới tiểu thương chợ Đông Ba 

Má của Hường có một sạp hàng nhỏ bán mè xửng và các thứ hoa quả kẹo bánh ở gần cửa chợ - ông già của Hường chạy xe tải dân sự. Ông chết trên đèo Hải Vân mùa hè 1972. Đáng đau buồn: ông chết vì một trái mìn chính của ta nhằm đánh cơ giới địch - Cũng tại ông đi liều - Bữa đó, lẽ ra ông phải ở lại. Chiến sự đang khá căng. Tụi tiểu đoàn dù "song kiếm trấn ải" đang rất hung hăng, chúng huênh hoang sẽ đánh gãy K8 Thừa Thiên trên đỉnh đèo này.

Ba Hường mất, lẽ cố nhiên gia đình rất buồn, nhưng không vì thế mà ảnh hưởng tới tinh thần má Hường và Hường. Bà là một tiểu thương, cũng giống y như mọi người buôn bán nhỏ khác: tháo vát, biết kiếm lời, biết cả tích trữ, đầu cơ nữa. Nhưng bà cũng rất có cảm tình với Giải phóng. Tết Mậu Thân bà đã nấu cơm giúp các anh một bữa - Sau đó ngụy đã bắt tù bà ba tháng và đánh gãy mất hai chiếc răng cửa. Tù ra, bà vẫn nói: "Giết tui thì giết! Tôi vẫn nói mấy chú là người tốt. Mấy chú ngoan hơn thằng Ngoạn nhà tôi xấp mấy!".

Ngoạn là em trai Bích Hường. Hắn theo đòi lũ "híp-pi" từ năm lớp chín, lớp mười. Cũng tóc râu tùm lum. Cũng áo quần xốc xếch, kỳ cục. Gần đây lôi hắn vô được phong trào học sinh. Bích Hường mới đỡ ngán cho thẳng em mình phần nào.

Chúng tôi tới nhà giữa lúc Bích Hường cũng vừa đạp chiếc xe minh vội vã trở về Nhà Hường ở một kiệt (Ngõ hẻm) gần đầu cầu Gia Hội. Hường xõa tóc, đeo kiếng mát to tròn gần kín mặt, áo dài trắng cắt theo đúng kiểu thời trang, dép đế cao, màu đẹp. Nom bề ngoài, ai cũng tưởng con nhà khá giả, biết đâu bữa nào cũng chỉ có vài con cá nhỏ, mấy đọt rau xanh.

- Anh Nhuần? Anh Hồi? Trời! Tôi đang muốn kiếm các anh bằng chết! - Hường reo lên, mừng quýnh

Chúng tôi chui vô một căn phòng hẹp, tối om ở dưới cùng một căn nhà gác quá nghèo nàn, tiều tụy.

Không để cho Bích Hường kiếm nước uống nữa, Hồi và tôi bàn ngay mọi chuyện. Hường như run lên vì xúc động

- Vậy, Hường phải đi gặp má ngay. Để má cho biết sự chuẩn bị bên phía chợ...

- Khoan! Dặn kỹ Hường! Dầu cho tới phút ni, vẫn phải tuyệt đối coi trọng nguyên tắc bí mật. Với má, cũng chỉ được bàn một số việc.

- Hường nhớ rồi! Tối nay, bảy giờ ba mươi Hường sẽ tới anh Hội ...

Chúng tôi vụt cùng chui vô căn nhà tối tăm, ọp ẹp, lại vụt lao ra như ba con chim sẻ từ một hốc tường bay vù ra. Chúng tôi cùng sang đường Trần Hưng Đạo. Chúng tôi lại lao vào giữa những đám người "tị nạn" đang như những đám bèo lục bình bị gạt, bị cuốn về đây mỗi lúc một thêm dày đặc. Và những toán quân xa chở lính sư đoàn 1 thất trận từ tuyến Mai Lĩnh - Hải Lăng - Quảng Trị vẫn dồn dập đổ về không ngớt.

Tôi cùng Hồi rẽ vô đường Phan Bội Châu - một trong những phố buôn bán sầm uất nhất của Huế - Một số nhà đã đóng cửa. Họ sợ. Sợ tàn binh về cướp bóc, như mùa hè 1972. Sợ dân "tị nạn" tràn vô phá phách, bẻ từng cánh cửa xuống đun, cũng y như cái gọi là "mùa hè đỏ lửa" năm trước - Và đáng chú ý hơn nữa: có mấy chiếc quân xa đã kéo vô tự lúc nào đang đứng quay đít lại, dí xát vô cửa của một số gia đình giàu có. Đó là những gia đình sĩ quan. Thấp thoáng những chiếc mũ nhà binh dính hai bông mai bạc, ba bông mai bạc, một vạch vàng, hai vạch vàng ... Các gia nhân bu quanh, chạy ra chạy vô. Va-li, hòm xiểng được ném lên xe như mưa. Những "bà phu nhân" mặt bự phấn la lối cuống cuồng, gọi đứa lớn gọi đứa bé hoặc la hét đầy tớ. 

- Bọn họ chạy thật rồi! - Hồi nói. Chân anh càng như nhảy nhót. 

“Họ" chạy rồi! "Họ" không còn giấu giếm được ai nữa. Mặc dầu suốt mấy ngày ròng, và ngay cả sáng nay họ vẫn căng cổ lên hét: "Không có chuyện rút Huế. Ai nói láo sẽ bắn bỏ". Vậy cái tin do "Ông già biển cả" vừa cho biết không phải là vu vơ. Hoàn toàn chính xác.

Chúng tôi lại chui vô một kiệt ở cuối một phố lớn, một kiệt chạy ngoắt dọc theo một đoạn của con hào bao quanh thành cổ của Cố đô. Nơi đây toàn là những căn nhà mái tôn, gỗ thùng, giấy dầu đứng chen chúc nhau trên bờ hào và ăn lấn cả xuống mặt nước, đậu chênh vênh trên những cọc gỗ cọc sắt chi chít. Đây là một trong những xóm gọi là ven hồ của Huế. Đây cũng là một trong những nơi lầm than, tối tăm nhất của đất Thần kinh xưa, và "thành phố Huế tươi đẹp" ngày nay, một trong những khu "ổ chuột”, những hang tối, nơi đáy cùng khổ cực của một thành phố đang còn đầy rẫy những mâu thuẫn, bất công. 

Chúng tôi cùng lướt qua những đống rác hôi thối nồng nặc, đi lẹ qua mấy thanh sắt bắc chênh vênh qua một rãnh đất sụt lở, tới trước một căn nhà cũng mái tôn, vách bằng gỗ thùng trăm miếng ghép lại. Cửa khóa. Chúng tôi thất vọng cùng quay ra. Chúng tôi không cần gặp Cống, cũng một bạn trong hội đồng, có trách nhiệm liên lạc với lực lượng tự vệ võ trang của sinh viên chúng tôi - một đội võ trang thực sự của chúng ta, nhưng bên ngoài lại là một đội “nhân dân dân vệ" của chính quyền Thiệu. Đội này được tổ chức từ 1972 - Có anh trong đội đã được đưa lên Trường Sơn huấn luyện, rồi trở về.

Cống đi vắng. Chúng tôi phải tới nhà giáo sư Vĩnh ngay. Nhưng vừa ra hết khỏi mấy đống rác, thì gặp bác Trường, ba của Cống. làm thợ ở nhà máy nước, hớt hải dắt chiếc Hon-da tàng chạy về. Ông gầy gò, xanh xao. đầu trần, tóc đốm bạc.

- Ủa! Mấy cháu! Thằng Cống đi mô rồi? May hung! May hung! Gặp được mấy cháu đây rồi!

Bác thở không ra hơi nữa:

- Mấy cháu ơi! Bác liều nhờ anh em trông hộ máy, nói là lại lên cơn đau dạ dày, phải về chút...

Bác nhìn quanh, thở vẫn không ra hơi. Rồi bác ghé sát tai hai chúng tôi, đôi môi run rẩy:

- Mấy cháu ơi! Bọn lính vừa kéo tới nhà máy nước. Chúng đặt thuốc độc sẵn vô máy rồi.

- Trời! Thiệt vậy sao, bác ơi!

Cả hai chúng tôi cùng rụng rời tay chân. Mặt bác càng trắng bệch.

- Anh em thợ kéo ra phản đối. Chúng giơ súng hăm. Bắt đi hai anh. Chúng nói đã có tiêu lệnh phá tất cả các vũ khí, kho tàng của thành phố... Đúng sáu giờ sáng mai sẽ cho thuốc độc tràn vô qua các ống dẫn nước ...

Chúng tôi đều như điên lên. Không còn kịp nghe thêm điều chi nữa. Chúng tôi chạy như bay ra khỏi kiệt, rồi cứ thế xé những đám dân tị nạn, lách qua những đoàn xe kẹt cứng ở giữa phố, mà lao đi. Không còn biết trời đất gì nữa. Người ta la. Người ta rủa chúng tôi. Thậm chí có cả những trái đấm, đấm theo vô đầu vô lưng, làm cho hai chúng tôi muốn té xấp.

Chúng tôi tìm đến giáo sư Vĩnh. Chúng tôi cần phải nhờ anh làm cách chi báo ngay cái tin ghê gớm này cho các anh ở trên. Phải chặn ngay bàn tay giết người của bọn thú vật Nguyễn Văn Thiệu! Phải làm sao cứu lấy đồng bào.

Nhà giáo sư Vĩnh ở trên đường ra Cửa Thuận. cách Huế chừng bảy tám ki lô mét. Nhưng không muốn phải đi xa và để tiện liên lạc với sinh viên và giới giáo chức, giáo sư đã ở nhờ một gia đình giáo sư bạn, dạy vẽ, trong khu thành nội. Gia đình này ở ngôi nhà gạch một tầng mới xây, kiểu đẹp, thoáng mát. Ngay cạnh ngôi nhà mới xây vẫn còn nguyên một ngôi nhà tranh ba gian, một trái đã quá già nua, nay dùng để chứa đồ lặt vặt. Giáo sư Vĩnh xin ở nhờ ngồi nhà lá đó. Mẹ bạn và vợ chồng bạn mời lên nhà trên thế nào cũng không chịu.

Hồi và tôi tới, thấy nhà vắng hoe. Giáo sư Vĩnh đi vắng. Cả hai vợ chồng giáo sư bạn cũng vậy. Bà mẹ đang ngồi ở hành lang ngôi nhà mới. Bà có một con trai út cũng là giáo sư dạy tiếng Anh ở Ban Mê Thuột. Từ hôm Tây Nguyên giải phóng, bà chỉ mong ngóng tin cậu út. Mong và lo. Nước mắt bà lúc nào cũng lưng tròng.

Không gặp được giáo sư Vĩnh, chúng tôi sang ngay khu nam Huế, ở bên kia sông và không ngờ đã tìm được anh tại nhà một giáo sư khác hiện đang giữ chức tổng thư ký hội giáo chức Huế. Tin dữ về âm mưu của bọn ngụy định đầu độc nguồn nước thành phố đã được chuyền đạt rồi, người chúng tôi như nhẹ hẳn được một nửa. Giáo sư Vĩnh ôn tồn bảo chúng tôi: tin này sẽ được báo cáo ngay với cơ sở lãnh đạo trong thành phố và sẽ được xác minh lại. Việc trước mắt của chúng tôi là: chắp mối cho nhanh tất cả các cơ sở của sinh viên. Khẩu hiệu trước mắt là phải giữ tất cả mọi người ở lại. Chống việc cưỡng ép di cư của địch. Giáo sư Vĩnh xác nhận tin: địch đã có lệnh bốc dân Huế di tán.

Giáo sư Vĩnh lúc nào cũng chỉ nói nhỏ nhẹ, mặt dường như không bao giờ đổi sắc ngay cả trong những lúc nguy nan, hoặc phấn chấn, vui sướng nhất. Mái tóc bồng bềnh, đôi mắt trẻ trung nhưng trầm tĩnh. Anh hay làm thơ. Chúng tôi thấy anh phảng phất như Lê Quang Vịnh trước đây vậy, mặc dù anh luôn luôn nói, một cách hết sức chân thành: "Tôi chưa xứng đáng là một người em út của Lê Quang Vịnh...”

Thế là đã báo cáo được tất cả những tin tức hết sức quan trọng và dược chỉ thị mới nhất của các anh ở trên. Hồi và tôi quay trở lại phía bắc thành phố, bên tả ngạn sông Hương, tiếp tục đi tìm gặp các bạn trong tổ chức. Để có thể đi nhanh hơn, Hồi kéo tôi về nhà anh, kiếm một chiếc Hon-da. Nhà Hồi ở đường Hùng Vương khu thành nội. Ba anh làm ở Ty Công chánh thành phố. Hồi là con trai độc nhất của gia đình. Mấy chị anh đi lấy chồng, ở riêng. Một chị lấy một trung úy ngụy quân thuộc phi đoàn đóng ở Đà Nẵng. Một chị lấy một nhà buôn máy lạnh và ti vi ở Nha Trang. Còn hai em gái ở nhà đi học. Hai cô đều không đẹp nhưng hết sức ngoan ngoãn dịu dàng và là thành viên trong nhóm nữ sinh áo trắng, một tổ chức học sinh có sự lãnh đạo của cách mạng.

Chiếc xe Hon-da đã phóng như hóa rồ, đưa hai chúng tôi chạy khắp thành phố. Cho tới xế chiều, người mệt nhoài, tôi mới quay trở về nhà mình. Nhà tôi là một căn nhà thờ nhỏ, đầy rêu phong ở sau vườn của một bà má làm nghề dạy may thêu và gia chánh - Mạ có hai anh con trai lớn - Một làm ở cơ sở đồ bản của Mỹ ở Đà Lạt. (vợ con anh này ở cả trên đó). Người thứ hai là lính hải quân, lênh đênh nay Po-lo Pan Giang, mai Phú Quốc ... có khi hai năm mới về thăm má một lần. Ở Huế má chỉ còn hai con trai nhỏ đang học, một cậu lớp mười hai, một cậu lớp tám. Cha của bằng ấy người con đã chết vì một tai nạn xe hơi trên đường Đà Nẵng - Huế do một quân xa Mỹ phóng quá ẩu. Ông là một thú y sĩ của thành phố 

Tôi đã tới ở nhờ ngôi nhà thờ của má do một anh bạn gọi má bằng dì giới thiệu. Má đã thương tôi như con. Tôi cũng quý má như mẹ tôi ở quê nhà. Quê tôi ở một làng quê gần quận lỵ Phú Lộc. Cha mẹ tôi đều nghèo. Anh lớn của tôi bị quân dịch, đã thành phế binh, mất hẳn một chân trái và cả bàn tay phải. Cha mẹ tôi phải nuôi anh. Mỗi lần tôi về, anh lại ứa nước mắt, nói nhỏ: "Anh chỉ ưng chết. Tất cả vì bọn Mỹ! Không có cuộc chiến tranh này, anh đâu có đến nỗi!...". Lần nào tôi cũng khóc theo. Và có lẽ trong muôn vàn nguyên cớ sâu xa gián tiếp, hoặc trực tiếp đã thúc đẩy tôi dám dấn thân theo các bạn hoạt động, có cả hình ảnh của người anh khốn khổ của tôi ...

Tôi về tới nhà thấy má vẫn ngồi cắm cúi trước chiếc máy may, búi tóc cao tới gần đỉnh đầu, điếu thuốc vấn tổ sâu dính ở một bên mép, chiếc kiếng lão trệ xuống sống mũi, tấm áo lụa dài màu vàng xỉn vén vạt vắt lên lòng. Nhà quá yên tĩnh dường như không có một chút âm vang nào của tất cả mọi sự xáo trộn ngoài đường phố dội vô. Nhưng bỗng má bỏ máy, đứng dậy mau lẹ, vẻ mặt xao xuyến khác lạ.

- Nhuần! Lối xóm đang trộn rộn hết! ... Tình hình chừ ra răng rồi con?

Thì ra, má cũng đang khá bồn chồn. Xưa nay tôi vẫn tưởng đối với má ngoài công việc làm ăn, không còn có chi hết. Ở với má đã hai năm, tôi chưa một lần nào thấy má hỏi hoặc nói một câu tới thời cuộc. Má sống y như một người già đã quá cổ lỗ không hề biết hoặc không hề chú ý gì tới mọi đổi thay, mọi biến động của xã hội bên ngoài nữa.

- Má ơi! Quảng Trị vỡ rồi! Giải phóng sắp tới Huế!

- Thiệt không? Có thiệt không?.

- E thiệt má à! Giải phóng sắp về!

- Thiệt giải phóng về không?

- Sắp má ạ!

- Nhưng...

- Nhưng, răng má?

- E rồi có giống như Mậu Thân ... mấy chú lại rút đi. Chánh quyền họ lại giận cá chém thớt, cực sao nói hết ...

Tôi mở to mắt nhìn má. Má như không phải bà già nua, an phận, tối tăm khi trước. Trên gương mặt má đang sáng lên một ngọn lửa nào đó lung linh.

Tôi vội nói lớn lên, tôi nói gần như Hồi nói với "Ông già biển cả". Tôi nói với tất cả nỗi ngạc nhiên và vui sướng, và tất cả niềm hy vọng chứa chan của tôi đối với vận hội mới ...

- Thiệt hả? Thiệt lần này khác hả? Trời phật! Vậy thì... Nhuần ạ, chưa biết chi nhưng trước hết là con và mấy đứa con trai còn lại của mạ không còn sợ phải đi lính nữa. Sang năm thằng Thắng đã đến tuổi quân dịch rồi! Phải không con?

Má nói xong đưa vạt áo lên mắt.

- Dạ, đúng vậy má ơi!

- Rồi ... còn bao nhiêu cái khác nữa chứ! Nhuần à, con chưa rõ: Mậu Thân có một chú thương binh ở nhà này. Má giấu được ba hôm dưới bàn thờ, nơi con đang ở đó. Không ai biết hết. Khi mấy anh đến đón chú đó đi, chú khóc nói với má: "Con còn sống sẽ làm con má! Con chết, sẽ phù hộ cho má bình an, mạnh khỏe". Chừ biết đâu đấy chú lại trở về đây, Nhuần hỉ! Trời phật! nếu được như vậy thì còn chi cho sung sướng bằng...

Tôi càng hết sức ngạc nhiên và cảm động. Tôi muốn la lên: "Má! Má ơi! thì ra chừ con mới hiểu hết má!".

Mạ nói tiếp: .

- Chừ lối xóm đang trộn rộn cả lên. Có mấy người nhà giàu đang rục rịch chạy. Mấy bà hàng xóm thì nhát gan chỉ sợ “tên bay đạn lạc" cũng hỏi mạ có chạy mô không? Mạ bảo có, nhưng phải chờ lũ thằng Nhuần, thằng Thắng, thằng Hùng về đã. Chúng chạy tung trời mô, ai mà biết được. Nhuần à! Nếu quả thiệt lần ni ... Huế đứng được ... Mạ tin cả thằng "Hải quân” của má rồi cũng sẽ thoát khỏi. Nó sẽ về thôi. Mạ biết! Mạ biết nó lắm, mặc dầu nó chẳng có thư từ chi hết. Tính nó rất đằm và kín đáo. Nó cực và buồn lắm. Má biết. Nó sẽ về thôi! Trời phật ạ! Nếu quả thiệt lần ni ...

Má nói một thôi dài. dường như chẳng phải nói với tôi. Tôi đứng ngắm mẹ, người mẹ nghèo quá dỗi dịu hiền và cũng xiết bao khéo léo, kín đáo. Má đang nói những lời chẳng phải của riêng má. Má đang nói cho cả tôi, cho tất cả những bà mẹ Việt Nam đã đau khổ quá nhiều và vẫn không ngừng hy vọng trong cuộc chiến quá lâu dài tàn khốc của dân tộc ta, cuộc chiến chống lại một đạo quân bán nước tay sai của chúng. “Mậu Thân mạ có giấu một chú ở nơi con đang ở". Mạ ơi? Tôi muốn quỳ xuống chân mẹ mà bày tỏ tất cả niềm kính trọng và yêu quí của tôi. Nhưng tôi không còn nhiều thì giờ. Tôi phải đi tìm Quỳnh của tôi nữa để coi Quỳnh ra sao trong giờ phút này.

Tôi nhảy lên chiếc xe đạp tàng của tôi, phóng miết trở ra những đường phố lớn. Những hàng cây mù u xanh sẫm bạn đường như bay dạt như mở tung ra trước mắt lôi. Tương lai cũng như đang vùn vụt lao tới và mở rộng phía trước ... Giờ phút này Quỳnh đang làm gì, có đang mừng, đang vui, đang hy vọng như bọn tôi không? Tôi chưa thật rõ, cũng như từ trước tới nay tôi vẫn chưa thật hiểu: Quỳnh có yêu tôi hay không yêu. Tôi chỉ biết một cách hết sức chắc chắn, và hùng hồn có một điều: Tôi yêu Quỳnh tha thiết. Quỳnh cùng học đại học dưới tôi hai lớp. Quỳnh là con thầy giáo dạy tư tiếng Pháp cho tôi.

Hồi còn ở trung học, tiếng Pháp của tôi quá yếu; mặc dầu nhà nghèo, tôi vẫn gắng xin cha tôi thêm chút tiền để kiếm thầy học. Các bạn tôi đã giới thiệu tới thầy, một nhà giáo nổi tiếng của thành phố. Thầy đã quá già. Gia đình theo đạo thiên chúa. Thầy ở trong một xóm giữa thành phố gán nhà thờ. Thầy có một người con cả là sĩ quan nhảy dù. Một con người cục cằn hung hăng. Năm 1971, anh ta thoát chết ở Nam Lào, đường 9 trở về. Nghe nói anh ta ở lữ đoàn dù 3 của viên đại tá Thọ. Từ năm đó, anh ta ít về nhà hơn và xem ra cũng bớt kiêu căng hơn, nhưng vẫn thô lỗ, cục cằn. Tuy vậy thầy vẫn cưng lắm và thường bào chữa hộ: cái nghề nhà binh nó phải vậy! Người con thứ hai của thầy theo học thần học ở bên Mỹ. Mới về mấy năm nay. Anh này như một người ngây dại. Suốt ngày câm lặng. Nhưng anh ta lại hoạt động có vẻ cần mẫn cho nhà thờ và giáo hội. Hay đi Sài Gòn luôn.

Quỳnh là con thứ ba. Nếu không vì quá hâm mộ tài năng của thầy và nhất là "phát hiện” ra Quỳnh, thì tôi đã không lui tới gia đình này làm gì nữa. Tôi quá ngán anh sĩ quan dù. Tôi cũng không chịu nổi cái không khí trong ngôi nhà thày. Mỗi lần bước vô cửa, ngước nhìn lên thấy bàn thờ chúa với một bức tượng lặng lẽ, là tôi lại chỉ muốn quay ra. Có lẽ đã đọc thấy được mặc cảm ấy của tôi, thầy thường khuyên: người ta cần có một lòng tin ở Chúa. Không có lòng tin không sống nổi với thế gian đầy đau khổ này. Tôi chỉ im lặng. Tôi không dám thưa thẳng thắn với thầy là tôi cũng đã có một niềm tin mãnh liệt và vĩ đại của tôi. Lẽ dĩ nhiên niềm tin đó hoàn toàn không phải là ở nơi đức Chúa của thầy. Nói tóm lại, dường như tất cả mọi điều đã giữ tôi lại, làm cho tôi vẫn lui tới đây chỉ là Quỳnh.

Hồi bảo tôi: Quỳnh không đẹp, thậm chí "đuồn đuỗn như cá rô đực" . Tôi đã giận Hồi mất một tháng. Tôi không thể nào nghi ngờ về vẻ đẹp của Quỳnh. Đối với tôi ở trên đời này không ai có thể đẹp hơn Quỳnh dù chỉ là chút ít nhưng tôi cũng quá giận tôi. Chưa một lần nào tôi dám thổ lộ bằng lời hoặc bằng thư tất cả những gì tôi đã nghĩ về Quỳnh. Mỗi khi gặp gỡ tôi chỉ biết nhìn Quỳnh không mỏi và khẽ mỉm cười với Quỳnh. Quỳnh cũng thường mỉm cười đáp lại tôi, cặp mắt đen và dài lóng lánh. Chỉ có vậy. nhưng tôi luôn thầm tự an ủi, hơn thế nữa thầm tin tưởng rằng: thế là nàng đã hiểu tôi và chắc chắn cũng yêu tôi hết sức sâu sắc. Cứ như thế "mối tình của tôi với Quỳnh" đã kéo dài mấy năm nay và tôi vẫn thỉnh thoảng lui tới nhà Quỳnh, mặc dầu tôi đã thôi học thầy từ khi lên đại học.

Tôi vẫn gặp thầy và thầy vẫn thường khuyên tôi: "Người ta cần có một lòng tin ở Chúa" cũng như thầy vẫn dường như luôn luôn có ý sẵn sàng chấp nhận tôi làm một người con rể trong gia đình này. Thầy vẫn công khai khen tôi trước mặt Quỳnh: "Nhuần là một thanh niên hết sức thông minh và có chí! Sau này ắt làm nên danh phận" - "Lạy chúa tôi!”. Nào tôi có cần hiểu thế nào là "danh phận!". Tôi chỉ cần biết có một điều: Quỳnh có yêu tôi cũng như tôi đã yêu Quỳnh tha thiết hay không? Điều này Quỳnh không hề bao giờ nói ra. Và tôi, thì rõ ràng chẳng phải là "hết sức thông minh” như thầy đã nhận xét.

Tôi vẫn rạp mình đạp miết. Trước mắt tôi mỗi lúc như hiện rõ thêm lên gương mặt tròn trịa của Quỳnh với cặp mắt đen dài, với nụ cười hồn nhiên tươi trẻ, với mớ tóc xõa óng ả, với cái cổ cao trắng ngần như hoa huệ. lòng tôi rộn ràng sung sướng. Nhưng khi tới nhà Quỳnh. tôi đứng sững, tất cả đang xáo trộn. Tất cả đang rối tung lên. Gia đình Quỳnh đang hối hả thu xếp đồ đạc, chất lên một chiếc xe lam để di tản. Người anh Quỳnh theo học thần học với bộ mặt vừa như ngây dại vừa như bí hiểm vẫn đang câm lặng, nhưng rất nhanh nhẹn, khuân vác các bọc đồ, va-li, hòm xiểng lên xe.

Tôi chào - Anh ta chỉ khẽ gật đầu. Xưa nay vẫn vậy. Hai chúng tôi chưa một lần nào nói chuyện với nhau một câu, dù tôi đã trở thành người thân trong gia đình này. Bà giáo đang te tái chỉ bảo người đầy tớ gái thu xếp chăn màn, bát đĩa. Thầy giáo cũng đang chạy ngược chạy xuôi. Thầy đã già yếu mồ hôi chảy ròng ròng, nom tội quá. Riêng Quỳnh  mặc một chiếc áo dài xanh nhạt vạt có thêu hoa đứng trên thềm, trước mấy chậu lan, mặt tái xanh. Quỳnh không làm một việc chi hết.

- Thưa thầy! Thầy đi đâu thế ạ? - Giọng tôi gần như lạc đi vì xúc động.


Thầy nhìn tôi. Đôi mắt thầy giận dữ và đau khổ. Nom thầy càng già và gần như khác lạ hẳn. Lần đầu tiên, tôi thấy thầy nói với tôi bằng một giọng có phần lạnh nhạt:

- Anh không hiểu nữa sao? Phải đi thôi, anh ạ!

- Thưa thầy ... sao lại phải đi ạ? - Tôi gặng hỏi.

Thầy đứng thẳng lên, trân trân ngó tôi một lần nữa, rồi bỗng như gắt gỏng:

- Anh không hiểu sao? Có thật anh không hiểu điều gì sẽ xảy ra không?

- Thưa thầy không ạ!

- Tôi có thể vẫn tin anh là một thanh niên tốt và thành thực chứ?

- Thưa thầy hoàn toàn như vậy.

- Tôi đang nói chuyện với ai đây .

Tôi nhìn thầy, thương quá! Có lẽ thầy quá rối ruột, hóa khùng rồi sao?

- Thưa thầy, con đây! Nhuần đây!

- Tôi phải nói gì với anh bây giờ nhỉ? ừ, mà phải, tôi cũng nên khuyên anh một vài điều gì! Anh không thể biết hết được mọi điều đâu! Huế sẽ trở thành một biển máu. 

- Thưa thầy ...

- Huế sẽ bị san bằng ...

- Thưa thầy ...

- Tôn giáo sẽ bị cấm. Công nghệ sẽ bị diệt. Buôn bán sẽ bị hủy. Học đường sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn ...

- Trời! Thưa thầy, sao lại có thế thế...?

- Nói tóm lại, thế là sụp đổ hết, ở đây, tất cả sẽ là một sa mạc ...

- Thưa thầy không!

Tới lúc đó lòng tôi đau như cắt. Tôi nói như gào lên. Lần đầu tiên tôi dám cắt ngang lời thầy và phải thốt lên với thầy, với tất cả niềm giận dữ và phản kháng.

- Không. Thưa thầy không! Trăm lần con không tin những điều ấy! Thưa thầy! Có phải đấy là những lời thực sự của thầy không? Hay của ai?

Thật bất ngờ, nghe tôi nói tới đó, thầy há hốc miệng ra, lưỡi như cứng lại. Đôi mắt thầy mở to kinh ngạc đến tột độ. Rồi mặt thầy nhăn nhúm lại. Thầy rên lên khe khẽ, chỉ tay ra cổng:

- Thôi, anh về đi! Anh về đi!

Thật là kinh khủng! Thầy đuổi tôi. Tôi bối rối lùi lại. Tới lúc đó. Quỳnh vụt chạy ra. Mặt Quỳnh càng xanh tái hơn trước. Toàn thân nàng run lên. Tôi cũng không khỏi bàng hoàng. Tuy vậy trong giây phút quyết liệt ghê gớm ấy, không hiểu sao tôi vẫn còn đủ một chút tỉnh táo để kịp hỏi nhanh: 

- Quỳnh! Quỳnh cũng đi sao. 

- Vâng! Em ... cũng phải đi.

- Sao lại phải đi?

- Em... không hiểu! Quả tình em không thể hiểu nổi!

- Sao Quỳnh không ở lại?

- Trời! Em ở lại làm răng được! Anh tha lỗi cho em! Ngàn lần tha lỗi cho em!...

Nước mắt giàn giụa trên mặt Quỳnh. Tôi muốn ôm chặt lấy Quỳnh để cùng khóc lên, và thét lên: "Không! Không! Quỳnh không đi đâu hết!” Nhưng từ trong nhà thầy đã bước ra, lạnh lùng gọi :

- Quỳnh.

Thế là hết! Quỳnh như buột khỏi tay tôi chạy vụt trở vào. Tôi có cảm giác như tất cả hạnh phúc vừa rơi khỏi tay tôi, bị giằng xé khỏi tay tôi. Mắt tôi hoa lên và tối sập. Mấy giây sau tôi mới lảo đảo dắt xe trở ra đường. Đường về nhà qua những đâu tôi không biết nữa. Trời đất như đang có mưa tuôn. Tôi đi lang thang như một linh hồn lạc lối. Và trời đã nhá nhem tối tự lúc nào, cũng không rõ nữa. Cho tới lúc có tiếng gọi lanh lảnh phía sau, tôi mới bừng tỉnh. Bích Hường! Cô đang đi tới nhà Hồi, theo lời hẹn khi trưa.

2
Bạch đã tới báo cho chúng tôi biết một tin vui của anh và cũng là của chúng tôi: "Ông già biển cả" đã ở lại. (Sau khi Hồi và tôi ở nhà anh về, Bạch trở lại nhà, được thím Ba hỗ trợ đắc lực đã nói chuyện thêm với cha anh một lần nữa. Cuối cùng ông già đã ra lệnh tháo dỡ tất cả đồ đạc và thở dài: "Thật ra nào ai có muốn đi!" Đây là lần đầu tiên, hai cha con đã tỏ ra có lẽ không hề có xung khắc) ...

Khoảng tám giờ sáng hôm sau - ngày hai mươi - Hồi và tôi lại đến tìm giáo sư Vĩnh. Vừa tới cổng, thấy một chiếc xe Jeep sơn mới tinh đỗ ở đó, cả hai chúng tôi đều gần như sửng sốt. Cũng đúng lúc ấy giáo sư Vĩnh tiễn chân một người sĩ quan ăn vận khá chải chuốt đi ra. Trên chiếc mũ vải của người đó đính ba bông mai, có vạch vàng bên dưới. Chúng tôi đã nhận ra Nguyên Hùng, anh trai của giáo sư Vĩnh - Người này mới được phong đại tá, làm ở Bộ Tổng Tham mưu. Rất ít khi người này về Huế. Vợ con anh ta đều ở Sài Gòn - Vĩnh cũng rất ít khi nhắc tới người anh này. Hai anh em bắt tay nhau như khách. Nguyễn Hùng có vẻ rất mệt mỏi. Chiếc xe nổ máy phóng vụt đi, để lại một đám bụi đó bay quẩn.

- Rất tốt. Các em đến rất đúng lúc.

Giáo sư Vĩnh quay lại phía chúng tôi, rồi kéo chúng tôi vô căn buồng nhỏ của ngôi nhà lá tồi tàn mà anh vẫn ở. Khép cửa lại, giáo sư nói rất nhanh:

- Ông Hùng mới ở Sài Gòn ra. Một tin rất quan trọng vừa được tiết lộ: Sài Gòn lệnh cho ông Trưởng phải kiên quyết cố thủ Huế và Quân khu một bằng mọi giá. Một chiến lược mới đã được xác lập: co cụm lớn ở ven biển, từng vùng để chống lại mọi cuộc tiến công của Giải phóng. Ông Hùng trực tiếp mang lời căn dặn của tướng Cao Văn Viên cho Trưởng. Ông Hùng nói Thiệu rất bực tức vì Huế có những tiêu lệnh phá vũ khí và các hệ thống điện nước của thành phố...

- Như vậy... Hồi hồi hộp cắt ngang lời giáo sư.

- Như vậy có nghĩa là, đúng như các em đã nghĩ, các tiêu lệnh phá hoại đã bị thu lại từ 0 giờ hôm nay và như vậy cũng có nghĩa: các khối thuốc độc đặt ở nhà máy nước và các khối nổ đặt ở nhà máy đèn đã được tháo gỡ...

- Trời! Hay quá!

Hồi và tôi cùng nhìn nhau rất nhanh và khẽ thốt lên, thở trút ra. Mặt Hồi đỏ lên. Mắt long lanh sung sướng, anh hỏi tiếp: 

- Thế còn lệnh di tản, thưa giáo sư? ... 

- Riêng lệnh này vẫn được thi hành triệt để. Họ muốn vét hết dân đi, đề phòng cái gọi là "trường hợp xấu nhất". Cũng như 1972, mấy em! Họ luôn luôn có chủ trương như vậy. Họ vét dân, chỉ vì những thủ đoạn chính trị rất xấu xa, hết sức xấu xa...

- Chúng em hiểu! Chúng em hiểu. Chừ công việc, nhiệm vụ trước mắt của bọn em có chi thêm, có chi thay đổi không, thưa giáo sư?

- Như đã nói: “Họ" đã có chủ trương kiên quyết đánh để giữ Huế đấy. Như vậy, chiến sự sẽ có thể diễn ra hết sức ác liệt, ngay cả trên đường phố này không biết chừng. Lúc đó, chúng ta sẽ phải làm gì? Tất nhiên là phải làm bằng mọi cách, với tất cả mọi giá, tất cả sự hy sinh của chúng ta, phải cùng mọi giới đồng bào khác, tiếp tay cho các chiến sĩ của chúng ta. Riêng tôi nghĩ qua Mậu Thân ta cũng đã có thể hình dung ra được một số công việc rồi: ví dụ phải tổ chức các lực lượng dẫn dường, lực lượng trinh sát, lực lượng cứu thương, lực lượng tuyên truyền và lực lượng tiếp tế vân vân ... Có phải thế không, mấy em .

- Thưa, đúng như thế.

- Tuy nhiên, các em hãy nhớ: trước mắt vẫn phải tập hợp thật nhanh lực lượng, đồng thời chống di tản, phải làm tốt những việc đó, theo chỉ thị của trên. Tôi nghĩ: những việc này có tác dụng rất tốt cho cả sự chuẩn bị các việc khác vừa kể. Tôi phải đi ngay đây! Ngay lúc này. Các em, chắc chắn chiều nay sẽ có thêm chỉ thị mới của các anh ở trên.

- Giáo sư đi ngay lúc này e nguy hiểm! - Hồi lo lắng.

- Tôi phải đi ngay! Tôi cần báo cáo những câu chuyện của ông Hùng với các anh! - Chúng ta hẹn nhau bảy giờ tối nay. Ở nhà ai nào? ở nhà Nhuần nghe!

- Dạ! Chúng em sẽ có mặt! Trời! Tình hình càng ngày càng khẩn trương quá sức! Giáo sư cẩn thận. Dọc đường, chúng em thấy bọn mật vụ vẫn đầy rẫy ...

- Các em cứ bình tâm

Giáo sư khoác vội chiếc áo ngoài. Chúng tôi cũng chui nhanh ra khỏi căn phòng để ra đường lớn trước. Chiếc Hon-da của Hồi lại bay đi khắp các ngả trong thành phố. Công việc quá gấp, không khí hoạt động quá căng thẳng đã làm cho mọi nỗi buồn của tôi hồi chiều qua trước việc Quỳnh phải ra đi, đã giảm bớt, hoặc nói cho đúng hơn, đã bị dẹp lại khá nhiều. Hồi cũng luôn luôn động viên tôi: "Mi hiểu không? Mi phải luôn luôn tỏ ra xứng đáng, ngay cả khi khó khăn, đau khổ nhất. Có vậy Quỳnh mới có thể tin yêu, kính trọng mi chứ". Anh ta nói cứ như Quỳnh vẫn còn ở lại đây vậy! Nghe tức anh ách, nhưng vẫn thấy dầu sao cũng là phải.

Cho tới sáu rưỡi chiều, toàn bộ các sinh viên trong tổ chức của ta đã được báo động; rất nhiều sinh viên có cảm tình với chúng tôi cũng đã được thông báo tình hình và yêu cầu sẵn sàng hưởng ứng mọi công việc của hội đồng đại diện. 

Trong lúc đó, Đài phát thanh Huế và các bộ phận công dân vụ của chánh quyền Sài Gòn đã chính thức hò hét truyền lệnh di tản. Và hàng ngàn tên mật vụ cũng đã được tung đi để phóng ra không biết bao nhiêu lời đồn đại và tin vịt; tất cả đều nhằm khủng bố triệt để tinh thần dân chúng. "Huế sẽ thành biển máu”. "Huế sẽ bị san bằng... ", những luận điệu kỳ cục giật gân ấy đã được nhắc đi nhắc lại công khai và hết sức tràn lan, đến nỗi cả thành phố như bị thiêu đốt cả lên trong những ngọn lửa đe dọa vô hình nhưng xiết bao khủng khiếp.

Tuy vậy, hết sức đáng mừng, chúng tôi đi khắp thành phố, nhận thấy thực tế lũ lượt và hối hả, kinh hoàng ra đi chỉ là những gia đình sĩ quan, những công thương gia loại bự, những tên ác ôn đầy nợ máu. Còn hầu như tất cả những người Huế khác đều ở lại - Họ ở lại cả, mặc dầu thực sự mà nói, trong những giờ phút này, gan ruột họ không phải không có chút nôn nao, xao xuyến phấp phỏng. Nhưng họ đã ở lại! Họ ở lại vì muôn ngàn duyên cớ trực tiếp, gián tiếp lớn lao và nhỏ bé, khác nhau. Nhưng dường như cùng có một cái gì đó rất giống nhau, ấy là một cái ẩn kín, cái sâu xa nhất trong lòng mọi người: niềm tin và hy vọng...

Tôi không phải được sinh ra ở ngay trên thành phố này. Tôi vốn là một dân quê - ở Phú Lộc - Nhưng tôi đã sống với Huế ít nhất cũng đã mười năm có lẻ. Tôi đã quá yêu thành phố của tôi cũng như đã quá kiêu hãnh vì nó. Một thành phố đã có quyền tự hào là: "Chưa bao giờ thực sự và hoàn toàn là một thành phố của Mỹ, ngụy" - Như thế đấy! Tôi đã chứng kiến Huế không phải chỉ một lần đứng lên đấu tranh dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Tôi đã từng nom thấy máu Huế chảy tung tóe trên mặt đường nóng bỏng. Tôi đã tận mắt mình thấy Huế bình thản ngồi chắn lối xe tăng Mỹ ... Tôi đã hiểu người dân Huế: dịu dàng hết sức, khéo léo hết sức, kín đáo hết sức nhưng cũng can trường và bền bỉ không biết nhường nào.

Bữa nay, đầu mùa xuân 1975 rung chuyển này. dường như tôi đã thấy được thêm một nét hồng tươi trong trái tim người Huế, ấy là sự sáng suốt trong những giờ phút rối mù, hỗn độn này. Lẽ cố nhiên, tôi cũng biết rất rõ Huế của tôi, của chúng tôi không phải không có những tì vết do bao nhiêu năm sống dưới ách ngoại bang và bọn tay sai bán nước vô lương tâm. Một bông hồng bị nhúng mãi vào dòng nước thối tha, sao khỏi có những cánh gãy rữa, ô nhiễm. 

Thành phố đã lên đèn. Chúng tôi vượt qua cầu Trường Tiền. Cây cầu ban đêm trên sông Hương nom càng đẹp biết bao. Đi trong lòng cầu mới càng thấy vẻ đẹp của nó: các thành cầu, vòm cầu (mà người phương Tây thường gọi là mắt cầu) đều sáng lên như bạc và bên dưới, dòng sông Hương êm đềm lung linh, như có hồn sống.

Tôi nghe nói, xưa kia những con đò sông Hương nổi tiếng với những mái chèo khua dịu dàng như đi trong những giấc mộng với những câu hò mái đẩy, mái nhì kéo dài lướt thướt. Bây giờ các phương tiện giao thông đã thay đổi. Thuyền gắn máy chạy nhanh hơn, những câu hò chậm rãi, nhặt khoan dường như cũng mất đi theo. Với tấm lòng hoài cổ, có lẽ cũng tiếc.

Nhưng chúng tôi là tuổi trẻ. Chúng tôi không hề thấy vì vậy mà dường như người Huế mất đi những nét sâu kín của cội nguồn dân tộc, mất đi lòng yêu nước. Nếu có những cái chi mà người Mỹ vừa qua cũng như người Pháp trước đây làm bẩn, làm hỏng một phần con người ở nơi đây, thì là những cái khác, là xì ke, là ác ôn, là gái điếm, là những lái buôn mại bản giàu sụ, vong bản...

Tới cuối đường Trần Hưng Đạo, Hồi và tôi tạm chia tay. Tôi đi nhanh vô cửa Thượng Tứ để hỏi về nhà mạ nuôi tôi. Mạ vẫn để phần cơm tôi. Bát canh chua, chút món ăn mặn và cay nồng ớt Huế làm cho tôi luôn luôn vui sướng. Tôi ăn xong, lui ra ngôi nhà chùa sau vườn bật đèn lên, ngồi xuống viết ngay một bài báo để kịp mai đưa cho Hồi chuyển cho tổ làm bản tin nội bộ sinh viên. Một bài báo sẽ nảy lửa. Tôi quyết đập thẳng vào chủ trương vét dân đi di tản. Tôi tin chắc tôi sẽ viết với tất cả nỗi đau đớn, lòng hận thù của tôi và nhất là với tình yêu nồng cháy không gì suy suyển đối với Quỳnh.

Tôi đang cặm cụi viết, hết sức say sưa, chợt có tiếng gõ cửa gấp. Tôi ngạc nhiên và không khỏi thoáng một chút lo lắng. Tôi cất vội bản thảo xuống dưới chiếu nằm. Cửa hé mở.

Một viên cảnh sát xung kích hiện ra. Tôi cố trấn tĩnh:

- Thưa... quý ông! Quý ông cần gì? Có lẽ quý ông... lầm nhà.

Viên cảnh sát nhìn tôi chằm chằm. Anh ta còn khá trẻ. Anh ta nói rất nhỏ và rất nhanh, nhưng cũng rất nghiêm nghị: 

- Ông là Nhuần! Tôi không nhầm chi hết, ông nên đi ngay. Một chút nữa, cảnh sát xung kích sẽ tới bắt ông.

Trái tim tôi như đứng lại một giây. Viên cảnh sát tiếp:

- Tôi không muốn hại các ông! Hiện nay cảnh sát xung kích đang đi ráp khắp thành phố. Tất cả những ai có nghi vấn liên quan tới ... "đối phương” đều bị bắt hết. Thôi chào ông. Chúc ông bình an!

Cánh cửa khép lại rất nhanh. Người cảnh sát xung kích biến mất. Tôi vẫn đứng như trời trồng, bàng hoàng. Thế là thế nào? Nhưng rồi tôi cũng có thể hiểu được: đây không phải là một trò đùa bỡn. Trong hàng ngũ địch, đúng như các anh ở trên vẫn nói, thật ra cũng vẫn có một số người chưa mất hết lương tâm, chưa mất hẳn gốc...

Thế là chỉ trong chớp mắt tôi đã băng mình theo một lối nhỏ sau vườn, trườn mình ra một đường phố khác, rồi lẩn vào một xóm có nhiều lối đi ngoắt ngoéo.

Quả nhiên, đúng như lời viên cảnh sát không quen biết vừa tới báo cho tôi biết, trên các đường phố, xe của những toán cảnh sát xung kích đang phóng rầm rầm. Nhiều đội đã tỏa vào trong các phường, khóm. Tôi càng bàng hoàng khi thoáng nhìn thấy trên một chiếc xe, giáo sư Nguyễn Xuân Hoa - ông là tổng thư ký hội nhà giáo yêu nước, người quen khá thân của giáo sư Vĩnh - Giáo sư Hoa đã bị còng chặt cả hai tay. Tôi cắm đầu biến nhanh vào những đám dân Quảng Trị di tản vẫn còn lúc nhúc trên bờ sông Hương. Rồi tôi lại vô xóm Ven hồ tìm Cống. Nhà Cống thật ra không phải là nơi an toàn nhất, tôi biết, nhưng trong những giây phút này, tôi đã có kinh nghiệm: không nên đi lang thang trên đường. Phải nhanh chóng tìm một nơi ẩn náu, dù chỉ là tạm trong một đêm, thậm chí một vài giờ.

Xóm Ven hồ là nơi toàn người nghèo, rất đông người lao động. Như vậy, thông thường có nhiều người tốt. Nhưng một nét có lẽ khá độc đáo của những thành phố dưới thời Mỹ ngụy là: ở những xóm lao động này cũng có không ít những phần tử phức tạp. Bởi vậy tôi tới nhà Cống cũng phải mắt trước mắt sau, và lẻn vào rất nhanh. Cống giấu tôi vào một góc nhà trong cùng. Tôi nói với anh: ngày mai có thể tôi sẽ đi chỗ khác. Và cả Cống cũng nên lánh đi. Cống đồng ý. Nằm trên một chiếc ghế bố, áp mình vào vách gỗ, tôi thao thức không sao ngủ được.

Ở nhà bên trái, tôi biết có một người trẻ tuổi vốn là thiếu sinh quân cũ của ngụy đã ra chiến đấu vài năm, đeo lon hạ sĩ. Bị thương cụt mất mấy ngón tay, anh này trốn lính về đã hai năm. Chui rúc ở nhà như chuột ngày. Sống nhờ vợ. Vợ làm ở Sở Ngân khố. Mới khoảng gần ba mươi tuổi mà đã có năm con. Năm đứa trẻ lúc nhúc. Bình thường anh này đối xử trong xóm không có chuyện gì, chỉ hay khùng, đánh chửi vợ om sòm, có lẽ cũng vì quá túng khổ. Nhưng bây giờ, trong những ngày biến động này, thái độ anh ta ra sao! Tôi chưa thể rõ. Anh ta có bán tin tức về Cống cho mật vụ không? Cống bị bắt đêm nay, cũng có nghĩa là tôi sẽ bị bắt theo.

Bên tay mặt là nhà một ông buôn dầu tràm, nay Huế, mai Đà Nẵng, Hội An. Ông mới hơn năm mươi còn khỏe mạnh. Vợ ông hiện nay là một người giúp việc trong gia đình. Khi bà vợ trước của ông đi theo một lính Phi-lip-pin vô Sài Gòn, ông lấy luôn cô giúp việc này. Cũng từ đó gia đình luôn luôn lục đục. Lũ con bà nhớn đánh bà bé. Ông bênh bà bé. Cha con đập nhau lộn bậy. Luôn luôn như có "đại chiến" trong gia đình. Ông còn hăng hái lấy thêm hai bà nữa như để trả thù. Một bà ở Hội An, một bà ở Đà Nẵng.

Mấy người con lớn ở cả với ông. Một người là lính xe tăng cũ, cao to nhưng nghiện ma túy đã thôi lính được vài năm, ở nhà giúp bố buôn bán. Nhưng khi anh này lên cơn nghiện ma túy, thật đáng sợ. Chính mắt tôi đã trông thấy anh ta dùng cả ngòi bút sắt rất bẩn đâm nát ven để tống xì ke vào. Và khi đã no thuốc, anh ta bủn nhủn, mê dại như một con vật yếu đi nhất, chỉ cần một đứa trẻ đấm cũng ngã... Đối với anh ta: không cần biết cái chi hết, kể cả Tổ quốc, kể cả gia đình. Tất cả là xì ke! Em trai anh ta là một thanh niên rất khỏe, đẹp. May mắn anh này không nghiện mà túy nhưng đã một thời đua đòi làm hip-pi. Bây giờ thất học, anh ta vô công rồi nghề ở nhà chơi tràn.
Anh em anh ta có tốt hay không? Anh em anh ta có thái độ thế nào đây trong lúc này? Làm sao mà tôi hiểu rõ! Cống cũng vậy thôi. Kế bên nữa cũng một gia đình nghèo khổ và kỳ cục khác Chồng là một thanh niên cũng rất khỏe mạnh, rất trẻ, vợ không có việc làm gì cả, chỉ ở nhà nuôi con. Họ có sáu con. Chồng chuyên môn trốn lính. Đó là điều tốt. Nhưng trốn lính cũng phải là tay có bản lĩnh. Anh này có một "bản lĩnh" riêng: anh ta là một tay du đãng trẻ tuổi nhưng cũng vào loại có "hạng". Tôi đã gặp anh ta nhiều lần đi trên đường phố với một lũ đàn em đi sau. Cảnh sát đều biết mặt, biết tên anh ta và cũng đều kiềng cái ngón phóng dao “con chó" và rạch mặt bằng lưỡi dao bào để "cảnh cáo nhà đương cục" của anh ta.

Giờ đây, anh ta thế nào tôi và Cống cũng chịu. Chỉ biết đang có nhiều tiếng cười nói huyên náo từ phía nhà anh ta vọng sang. Một đứa em của Cống chạy về, thì thào: "Họ đang tụ tập chiếu phim con heo, nghe nhạc và ăn nhậu. Có nhiều người mang vũ khí, quá sợ!" ... Xã hội Huế dưới ách Mỹ - ngụy đã có cả những lớp người, những góc đời lộn xộn, đau khổ và ghê gớm như thế đó.

Đại bác vẫn vọng về thâu đêm.

Năm giờ sáng hôm sau, Cống ra phố kiếm cho tôi ổ bánh mì. Anh hớt hải trở về báo tin: Đài phát thanh Huế đã truyền đi lời tuyên bố của tướng Trưởng, viên tướng mặt lấm tấm rô huê, "con người hùng số 1", một trong hai tướng lĩnh "số dách" của Sài Gòn (Trưởng và Nguyễn Văn Toàn) “tôi sẽ chết trên đường phố Huế, Việt cộng phải bước qua xác tôi mới vô cố đô được". Đồng thời Cống cũng cho biết: anh gặp chính anh thanh niên trốn lính, du đãng ở nhà bên. Anh này nói: lũ đàn em của anh ta, lũ "bụi đời" vừa báo một tin khẩn cấp mà họ lượm được: sáng nay cảnh sát xung kích sẽ lục soát tới xóm Ven hồ này.

Thế là tôi phải đi ngay. Cống nói; anh cũng phải tạm lánh xuống một nhà quen ở An Cựu. Chúng tôi gặp nhau ở đầu cầu Mới. Hồi đồng ý với tôi: phải tạm lánh ít nhất trong ngày hôm nay. Hồi gợi ý cho tôi: nên tiện thể về thăm nhà. Tôi nhảy lên một chiếc xe Lambro. Khoảng gần một giờ sau tôi đã có mặt ở gia đình, giữa sự mừng rơ và cả lo lắng của tất cả cha mẹ, anh em tôi. Nhà tôi ở kế bên quốc lộ 1, cách quận lỵ và chi khu quân sự Phú Lộc không bao xa. Cha tôi làm ruộng, làm thêm cả nghề chữa máy bơm, máy nổ, Hon-da cho bà con quanh đó.

Dọc đường, một lần nữa tôi được chứng kiến những đoàn xe di tản ùn ùn, hối hả kéo nhau trên đường, vô Đà Nẵng - Vẫn những chiếc xe có trọng tải lớn nhãn hiệu Ford hoặc Desoto, với đồ đạc chất cao ngất ngưởng trên mui, với những con người bị nhồi nhét như cá hộp và bám quanh xe như làm xiếc, quá sợ. Vẫn những bộ mặt kinh hoàng và tuyệt vọng. Nhưng dọc đường, tôi cũng được tận mắt thấy những đoàn thiết giáp, hung hãn dường như thí mạng, chạy về phía đường 14, Truồi, Núi Bông - có cả những đoàn quân xa chở đầy thủy quân lục chiến, vũ khí đeo đến "tận răng" 

Không còn nghi ngờ gì nữa. đúng là họ được lệnh quyết giữ Huế. Rõ ràng họ đang bị ném vào những trận đánh đẫm máu, đang diễn ra ở vành đai phòng thủ phía nam. Thêm những đoàn xe cứu thương chở đầy thương binh, tử sĩ, tấp nập từ phía trước chạy ngược lại thành phố, càng như khẳng định thần tất cả mọi điều phỏng đoán của tôi. Tiếng trọng pháo nổ rung chuyển cả mặt đất và từng phi đội A37, F5 đen sì liên tục xuất hiện trên bầu trời phía trước cũng đã làm cho không khí chiến tranh càng thêm nóng bóng sôi sục.

Cha mẹ, anh em tôi đều nhìn về phía những rặng núi chập trùng phía tây, nơi đó là Truồi là núi Bông, nói lên nhưr run rẩy: - Đánh nhau lớn quá! Chưa từng có! Biết bao nhiêu là thủy quân lục chiến và biệt động được đưa thêm vô đó, suốt hai ngày liền rồi ...

Tôi ngồi đứng không sao yên. Tôi cũng luôn luôn hướng về những rặng núi phía tây đang vang rền tiếng trọng pháo, tiếng bom

Ngày hai mươi mốt - Tôi như một nhân chứng bên đường để thấy thêm những đoàn quân xa chở đầy lính, những đoàn xe tăng đồ sộ đầm đìa dầu mỡ, nóng bỏng như những đầu máy xe lửa lao đi rung chuyển cả mặt đường, mờ mịt cát bụi và khói xăng, khói nhớt. Tất cả cứ tuôn đi, dốc đi. Như dốc vào một cái vực không đáy. Sắt thép và sinh mạng ùn ùn kéo vô, để rồi những xe hồng thập tự vội vã chạy ra. Không cần nói nhiều, không cần hỏi thêm ai, tất cả gia đình tôi, tất cả mọi gia đình ven quốc lộ đều thấy rõ quân Sài Gòn như thiêu thân đang lao vào lửa.

Cho tới sáng hăm hai, đang lúc tôi quá ngán, quá mệt, không buồn ra coi nữa, nằm lăn trên một chiếc phản ở trong nhà thì bỗng như có một cơn giông bão, nói cho đúng hơn một trận động đất đột ngột nổi lên. Tiếng súng lớn nổ xé màng tai. Trăm ngàn tiếng nổ như phá tan, phá sập hết trời đất. Tôi chỉ kịp lăn nhào xuống đất, trườn ra núp ở thềm sau nhà nhìn ra quốc lộ thì đã thấy một đoàn chiến xa lạ mắt - Hẳn là của Giải phóng - đang từ các triền núi phía tây tràn xuống, đuổi đánh một đoàn thiết giáp; có rất nhiều xe tăng M.48 của quân ngụy

Trời ! Một cuộc đấu chiến xa mà tôi không ngờ đã được chứng kiến. Toàn thân tôi run lên không phải vì sợ đạn lạc mà vì quá xúc động. Tôi đã nom rõ những chiến xa Giải phóng gầm lên, lao lên, bắn liên hồi và những chiếc xe tăng của quân ngụy trúng đạn nổ bùng, cháy ngất. Tôi nom rõ cả những chiếc đang mở hết tốc lực chạy, bỗng như húc phải núi, gần như dựng đứng lên rồi gục xuống, lửa phun ra phè phè từ khắp các ngóc ngách. Những tên ngụy giơ cả hai tay lên rồi ngã vật ngửa, xác vắt trên tháp pháo. Có một chiếc xe tăng Giải phóng quá ghê gớm. Nó gầm lên, rống lên như hổ vồ mồi, trong chớp mắt nó đuổi kịp bắn gục liền ba chiếc M.48. Lửa cháy ngần ngật suốt một đoạn đường dài. Có những chiếc xe M.113 lăn nhào xuống bên đường, lửa vẫn cháy mà nó vẫn lăn tròn. Lửa và khói. Khói mỗi lúc một mờ mịt. Thấp thoáng đã nom thấy rất nhiều bóng người quân phục bó chẽn, giơ cao tay lên khỏi đầu đi thất thểu trên đường, ngược về phía đoàn thiết xa của Giải phóng ...

Trận đấu xe kinh hồn đã diễn ra quá sức đột ngột và cũng đã kết thúc gần như bất ngờ. Bất ngờ vì nó quá nhanh chóng. Khi thấy tiếng súng đã im hẳn, tôi mới dám chồm dậy. Vừa đúng lúc một chiếc xe tăng Giải phóng rất to. bỗng đỗ lại xế cửa nhà tôi. Có điều chi hục hại thì phải - Khói lửa vẫn mù mịt khắp trên mặt đường đã ngổn ngang xác xe Mỹ, ngụy. Cửa xe mở, một anh Giải phóng nhanh nhẹn nhảy xuống. Chao ơi ! Anh giải phóng? Tôi chỉ còn thiếu lao tới ôm chầm lấy anh. Anh trẻ quá và sao mà hiền hậu! Đến mức tôi không thể tin anh là chiến sĩ thiết xa nếu như trên đầu anh không có chiếc mũ da kiểu của các chiến sĩ lái xe tăng. Mặt anh đầm đìa mồ hôi, quần áo anh đầy dầu mỡ.

Ôi anh Giải phóng! Anh Giải phóng! - Mậu Thân, khi ấy tôi mới là một thiếu niên, nhưng tôi cũng đã hiểu được ít nhiều, tôi đã nom thấy các anh trên đường phố Huế. Nhưng năm ấy các anh gày, nhỏ hơn, xanh hơn nhiều. Các anh đội mũ tai bèo, mang áo bà ba đen, quần xà lỏn cũng đen, đi dép lốp. Trên tay chỉ một khẩu AK và quanh lưng là mấy trái lựu đạn cùng mấy gói thuốc nổ. Chỉ có ba anh mà chiến đấu trên cả một khu phố đã bị đổ nát khá nhiều vì bom và trọng pháo Mỹ từ hạm đội Bảy bắn vô. Các anh còn bảo vệ và hướng dẫn hàng trăm đồng bào bị kẹt trong khu phố. Khi các anh bảo vô bên ni, y như rằng bên kia bị bom luôn. Khi các anh vẽ chạy nhanh sang bên kia, quả nhiên ngay sau đó, bên ni bị ăn pháo. Rồi một buổi, xe tăng địch áp tới ngã tư Phan Bội Châu. Cả dãy phố đã cháy đen, chúng vẫn bắn vô không ngừng. Một anh cười nói: "Bà con cô bác để tôi ra diệt cái cục sắt kia, nghe!". Thế rồi thoắt cái đã biến vô các dãy nhà đổ. Mấy phút sau một tiếng nổ cất lên dậy đất. Chiếc tăng địch lật nghiêng, phì lửa ra rất dữ. Nhưng rồi bọn Mỹ đã thi nhau dội bom xuống. Cả khu phố như thành mặt trăng. Từ đó, tôi không bao giờ được tận mắt gặp mấy anh nữa ...

- Này, bạn! Nhà ở gần đây ư? Không sợ ư? - Anh nói tiếng Bắc! Anh cười, hàm răng đều và trắng bóng.

Trong khi mấy anh xúm nhau sửa chữa chi ở dưới bụng xe, tôi vẫn đứng ngắm nhìn mấy anh như ngắm những thiên thần. Anh vừa hỏi tôi, thoắt lại ngoái cổ, hỏi tiếp:

- Bạn có còn đi học không? Hay làm nghề gì rồi?

Tôi đáp tôi là sinh viên ở Huế mới trở về. Anh có vẻ chăm chú:

- Bạn ở Huế hả? Vậy có biết bà mẹ dạy thêu, may và gia chánh ở Thượng Tứ không?

Tôi sửng sốt! Trời! Có phải ... anh đấy không? Có đúng là anh không? Lưỡi tôi gần như líu lại. Tôi hỏi:

- Mậu Thân, e anh có vô đánh Huế, ở nhà mạ?

- Phải rồi? Nhưng sao bạn biết? Hồi đó tôi ở bộ binh, sau được chuyển sang xe tăng - Anh cũng không giấu được vẻ ngạc nhiên.

- Dạ! Chính em đang ở nhà mạ! Em là... con nuôi mạ đây!

- Trời ơi ! - Anh kêu lên, đứng phắt dậy.

Tôi lao tới. Hai chúng tôi chỉ còn biết ôm chầm lấy nhau. Sung sướng tới tột độ. Cám ơn, trăm ngàn lần cám ơn sự bát ngờ tuyệt vời đã đưa chúng tôi tới gặp nhau giữa giờ phút lịch sử này.

- Nhuần ơi! Có cách chi nhắn vào thành cho má không? Nói là tôi vẫn còn sống! Chắc chắn tôi sẽ gặp má? Hôm nay Phú Lộc sẽ xong thôi. Mai mốt là tới Huế! Đường Một thế là bị cắt đứt rồi! Pháo ta hôm nay sẽ phong tỏa Phú Bài, Cửa Thuận, Tư Hiền...

Ngay sau khi chiếc xe của các anh tiếp tục ầm ầm lao đi theo đồng đội, tiến về phía quận lỵ và chi khu quân sự Phú Lộc. thì tôi cũng mượn một chiếc xe Hon-da của một gia đình trong xóm, phóng như bay trở lại Huế, bất chấp mọi sự hiểm nguy, bất chấp mọi điều trở ngại ...

3
Tới Huế tôi đã tìm được cách nhắn tin về anh chiến sĩ xe tăng cho má nuôi tôi ngay tức khắc. Cảnh sát xung kích vẫn đang lùng sục các cơ sở của ta rất gắt, và quân xa vẫn tiếp tục đi xúc từng mảnh gia đình đi. Cho nên tôi vẫn tiếp tục phải lẩn trốn. Suốt buổi chiều đó, tôi đã chuyển chỗ tới hai lần, lúc xuống An Cựu, lúc vô Bãi Dâu. Nhưng ngay trong những giờ phút tạm phải chui lủi ấy chúng tôi vẫn tiếp tục nhận được những tin tức mới nhất: phòng tuyến sông Mỹ Chánh đã bị phá vỡ buổi sáng nay. Quân giải phóng đã tràn qua cả sông Ô Lâu. Thậm chí, ba giờ chiều nay những đơn vị xung kích đầu tiên của ta đã dùng thuyền do nhân dân địa phương giúp vượt qua được bờ nam sông Bồ. Đang có huyết chiến ở đó. Sông Bồ là tuyến phòng thủ cuối cùng của vành đai vững chắc nhất của Huế. Mặt trận đã lan xuống nam sông Bồ.

Như vậy về quân sự mà nói có nghĩa là quân địch ở Huế chỉ còn lại khu tứ giác: Cửa Thuận, Phú Bài, An Lỗ, Tình Thiền! Một khu tứ giác chẳng rộng lớn là bao. Một khu tứ giác lúc nhúc, chặt cứng binh lính, chiến xa và dân tị nạn. Với mật độ khủng khiếp ấy, chúng tôi là những chàng học trò bình thường cũng có thể hiểu được: chỉ chen chân nhau mà đứng cũng không nổi, còn nói chi tới đánh chác ... ?

Vận hội đã tới thật rồi! Bình minh đang hé dậy! Chúng tôi lại muốn reo lên, nhảy cả lên, mặc dầu chúng tôi vẫn tiếp tục phải di chuyển chạy bát nháo khắp nơi trong thành phố để thoát các cuộc vây ráp của địch. Chưa bao giờ, trong lúc bị truy lùng, phải chạy trốn, mà chúng tôi lại thấy vô cùng vui vẻ, sáng suốt, tỉnh táo và hy vọng, như trong những giờ phút rung chuyển, đảo lộn này.

Tối, Hồi và tôi giả làm hai tên lính thủy đánh bộ chạy trốn, thuê một chiếc thuyền chứa gái điếm, đưa ra giữa dòng sông Hương lượn lờ, để cho qua đêm, đợi sáng. Đây cũng là lần đầu tiên trong đời tôi dám bước xuống một con thuyền đĩ điếm. Đặt bước chân xuống sạp thuyền mà cảm thấy toàn thân muốn run lên trong một nỗi ghê ghê, tởm tởm. Hồi bạo hơn tôi - Anh đóng kịch cũng giỏi. Anh đã cất cặp kiếng cận đi, tóc để rối bù. Vì không có kiếng, anh bước chệnh choạng. Nhưng cái vẻ chệnh choạng ấy lại dường như khá phù hợp với vẻ say rượu cộng với nỗi kinh hoàng của một tên lính bại trận, trốn chạy. 

Trong thuyền trang trí tựa một phòng ngủ. Hai cô gái khá to con. nhưng nhìn thịt da đã nhũn nhẽo, đón tiếp chúng tôi một cách dè dặt, cặp mắt đầy ngại ngùng. Hẳn mấy cô đã quá gờm những tên lính thủy đánh bộ.

-  Whisky không mấy em? Bọn anh quá mệt, quá ngán sự đời rồi! Đêm nay kiếm chiếc ghe đi chơi suông thôi! Đừng ngại chi nghe? - Hồi nói lè nhè.

Hai cô gái điếm đáp lí nhí. Vẻ vẫn dè dặt, thăm dò.

- Mấy eng ở mặt về?

- Rõ quá rồi! Phật tổ đã cứu sống mấy anh đó, em!

- Mặt trận mô, mấy eng?

- Sông Bồ.

- Sông Bồ? - Vậy rứa là...

- Vậy là Giải phóng sắp vô Huế, còn chi nữa? Mấy em có sợ không?

Hai đứa gái điếm đưa mắt nhìn nhau, im lặng. Đứa to con có bộ ngực xệ nhất, mặt lấm tấm tàn nhang hỏi tiếp:

- Thế bộ mấy eng ... không giữ nổi sao?

Hồi đập tay xuống ván thuyền làm mặt giận:

- Hỏi chi ngu lạ! Gĩư nổi hay không giữ nổi, can chi tới mấy em?

- Là hỏi vậy ?

- Thôi, cho ghe đi xuôi, cho mát nghe! Bọn anh ngủ đây! Cho mấy em tự do! Mai sớm, sẽ trả tiền minh bạch.

Hai đứa điếm cười: 

- Bọn em có lo chi đâu, mấy anh!

Một đứa lại hỏi:

- Vậy Giải phóng sẽ lấy Huế thiệt sao mấy anh?

- Thiệt chứ bỡn sao? Hỏi chi lạ?

- Vậy mấy eng sẽ đi mô? Răng không chạy vô Đà Nẵng hoặc Sài Gòn?

- Không chạy! Chi mà phải chạy? ở lại với Giải phóng càng tốt chứ sao?

Hai đứa lại nhìn nhau. Một đứa lại hỏi, có phần bạo hơn :

- Vậy mấy eng không sợ Giải phóng giết thiệt chứ?

- Không! Họ sẽ khoan hồng hết ráo. Chi mà sợ!

Đứa nhỏ hơn, mặc bộ áo quần toàn màu hồng hỏi thật thà:

- Khoan hồng cả bọn em nữa chứ hí?

Hồi cười to, cười mãi, rồi nghiêm mặt:

- Bọn mi can chi mà tội? Tội bầy tui đây nè! Bọn mi là những kẻ khốn cùng bởi cái chế độ chó đẻ này. Kiếm sống bằng hai bàn tay không nổi thì phải bán thân! Cuộc sống quá khốn nạn, quá khốn khổ này...

Hai đứa điếm thở dài, cúi mặt. 

Chiếc ghe ra giữa dòng, từ từ xuôi. Tôi nằm im thít từ đầu chí cuối ở sạp thuyền, phía mũi. Mọi câu chuyện giữa Hồi và hai đứa điếm cũng đã im bặt. Tôi được yên tĩnh hơn để ngắm nhìn bầu trời bao la, vời vợi ở phía bên trên cao vút. Chao ôi! Dường như từ tấm bé, xa quê ra Huế, tới nay là lần đầu tiên tôi mới được nằm ngửa mặt ngắm nhìn bầu trời đêm, xiết bao yên tĩnh và trong sạch của Huế, nhưng không thể nào ngờ lại nằm ngắm nhìn bầu trời đẹp đẽ này trên một con thuyền dơ bẩn.

Tôi nhìn sang đôi bờ: Huế của tôi vẫn đang sáng ngời ánh điện thủy ngân cao áp, in bóng lung linh xuống dòng sông đen xanh trầm mặc. Ai có thể hiểu thành phố đang sống trong những ngày bão táp. Ai có thể tin: sắp sửa rồi, ở đây cuộc đời sẽ sang một trang mới. Ôi Huế của tôi, của chúng tôi, thành phố cổ kính này đã phải trải qua biết bao năm ghê gớm. Pháp rồi Mỹ. Những dấu vết nhơ bẩn, những sự kiện hãi hùng đã như những làn sóng đen dữ dội độc địa lúc gầm thét, ào ạt, lúc nhặt khoan nhưng dai dẳng tràn qua đây, trùm lấp qua đây.

Sự đổi thay đang diễn ra, thật gay gắt, căng thẳng, thậm chí đau đớn đối với một số người nào đó. Nhưng làm sao có thể có một sự đổi thay quá êm đềm, quá vui vẻ mà triệt để được? Đối với chúng tôi những lớp người trẻ tuổi, bao giờ cũng cảm thấy dầu sao mình nhẹ nhàng hơn cả, mình sung sướng và trong sạch hơn hết. Bởi vậy chúng tôi, quả thật, thuộc lớp người của bình minh!

Chúc cho bình minh mau dựng dậy! Muôn năm ánh sáng và không khí trong lành tự do! Để làm sao, rồi cũng có những đêm, Hồi và tôi ngồi trên một con thuyền sạch sẽ, với những người bạn gái như Quỳnh, như Bích Hường, những người con gái có nhiều may mắn hơn hai cô gái điếm này, những cô gái trong suốt như pha lê. Chúng tôi cùng nói với nhau về thơ ca về vũ trụ ...

Tôi lại không khỏi nhớ tới cả anh chiến sĩ xe tăng gặp gỡ ở gần Phú Lộc. Tuổi trẻ như anh mới thật là tuyệt vời. Anh sẽ cùng những người chiến sĩ Giải phóng là những người đầu liên đem bình minh lại cho Huế, cho cả dải đất miền Nam quá lộn xộn, thối nát này. Cũng là tuổi trẻ, sao các anh hạnh phúc thế, các anh sung sướng, vĩ đại thế?

Hôm sau là hăm bốn, một ngày mà có lẽ lịch sử sẽ ghi nhận là ngày rung chuyển nhất của Huế. Các trận đánh đã diễn ra ác liệt nhất, quyết liệt nhất ở ngay tuyến phòng thủ cuối cùng sát chung quanh Huế. Trọng pháo của ta gầm thét gần như suốt ngày. Các cửa kính trong thành phố đều rung cả lên. Nhiều lúc tưởng chừng như đã nghe thấy cả những trung, đại liên nổ liên hồi, cả ở phía nam, cả ở phía tây cố đô. Sân bay Phú Bài đã bị phong tỏa. Tất cả các chuyến bay đã bị hủy bỏ. Đường bộ vô Đà Nẵng đã hoàn toàn bị cắt đứt.

Thành phố tràn ngập binh lính, thương binh, xe cộ, dân tị nạn từ khắp các hướng bị dồn về. Tướng Trưởng ra lệnh: rút toàn bộ lực lượng ra biển, càng sớm giờ nào càng tốt giờ nấy. Con đường ra Cửa Thuận là con đường hy vọng cuối cùng của quân ngụy. Từ mười hai giờ trưa, không biết cơ man nào là xe cộ, ùn ùn kéo nhau chạy ra phía biển. Con đường ra Cửa Thuận thoắt biến thành cả một dòng thác xe tăng, thiết giáp, quân xa. Xe kín đặc trên mặt đường, dài tưởng như vô tận.

- Thế là hết rồi! - Những nhà tư sản ném mũ xuống vỉa hè kêu lên rụng rời! Họ ra sân bay, sân bay bị pháo kích. Đóng cửa tuyệt đối. Trở về thành phố định nhảy lên xe hơi, lao ra Cửa Thuận, thì đường đã kẹt cứng xe nhà binh. Đã có những toán lính nổ súng bắn nhau hỗn loạn để cướp đường chạy trước.

Xế chiều, trên đường Trần Hưng Đạo, tôi và Hồi đang chạy tất tưởi để lại đến gặp giáo sư Vĩnh (anh vừa cho gọi gấp bọn tôi) thì thấy ba chiếc xe tăng ngụy ầm ầm phóng tới; nhưng bỗng cả ba đều đỗ xịch. Và kỳ lạ thay. chưa hề có một quả trái phá nào rót vô thành phố, chưa có một lá cờ Giải phóng nào xuất hiện. Mấy tên sĩ quan và lính xe tăng đã mở tung nắp xe nhảy vọt xuống, rồi cứ thế co giò chạy miết, mặc cho mấy chiếc xe vẫn còn nổ máy kêu rầm rầm đỗ ở giữa đường phố. Mấy tên vừa chạy vừa cởi bỏ áo lính, cứ thế chạy tuột vô các kiệt nhỏ, lủi trốn.

Giáo sư Vĩnh và cả Bích Hường, cả Bạch, cả Cống đứng đợi chúng tôi ở gần bến xe hơi phía đầu cầu Mới. Anh cho biết: phải tạm lánh xuống nhà ông cụ anh ở Phú Vang. Địch đang tổ chức rút lui gấp nhưng chúng vẫn còn hết sức thâm độc muốn vét một mẻ lưới lớn cuối cùng để tiêu diệt các lực lượng của ta trong thành phố.

Cả năm chúng tôi đều dùng Hon-da, luồn lách trong các dòng quân xa, về Phú Vang. Bọn lính luôn luôn tru lên như chó dại khi thấy chúng tôi phóng quá liều. Bọn sĩ quan thì nạt nộ. Nhưng khi thấy chúng tôi khai cũng ra Cửa Thuận để tìm cách ra tàu biển chúng lại cho đi.

Nhà ông cụ đẻ ra giáo sư Vĩnh ở gán quận lỵ Phú Vang. Đó là một ngôi nhà gạch ba gian, xây theo lối cổ. Nhà có vườn và cũng như rất nhiều nhà ở Huế: có một bể non bộ nhỏ ở trước nhà, với nhiều chậu cảnh, cây cảnh trong vườn. Ông cụ đẻ ra giáo sư Vĩnh cắt thuốc nam. Ông cụ gầy khô, tính bẳn gắt và có vẻ lãnh đạm với bọn trẻ. Tuy vậy ông cũng đón tiếp bọn tôi một cách phải chăng. Ông càu nhàu cho biết Nguyễn Hùng (đại tá anh trai Vĩnh) cũng về hôm hai mươi và giục ông di tản. Ông đã chửi cho y một trận nên thân và vác cả ba toong đuổi đi. Hùng sầm mặt lên xe phóng thẳng. Từ bữa đó không thấy trở lại.

- Tau đi là đi mô? Tau sống ở đất Huế, chết cũng đất Huế! Mấy người Giải phóng về, có giết tau, tau cũng vui lòng, có sao mô! Mà chắc đâu họ giết? Giết vì lẽ gì! Bậy! Tau chỉ thấy những người nhà nước này nói bậy hung! Đó, cái chuyện ông lão "muôn hoa" đó? Cách chi lại tuyên truyền ông ấy bị Việt cộng chôn sống? ông còn sống nhăn! Rứa mà nói lấy được. Bậy?

Ông cụ vẫn đầy vẻ tức giận, tưởng chừng như đang mắng cả giáo sư Vĩnh và bọn tôi. Nhưng nói xong, ông bỏ mặc chúng tôi đó, muốn làm chi thì làm, ăn chi thì ăn, ông lại quay vô với cái bàn thờ Phật có rèm vải đỏ che kín phía bên ngoài, bên trong là tượng Phật bà Quan âm với một bát hương lớn, luôn luôn nghi ngút khói. 

Chỉ lát sau, giáo sư Vĩnh cho biết cô Lộc, nữ sinh, đảng viên, người giao liên ưu tú của các cơ sở nội thành, cũng vừa mới tạm lánh về đây cùng mấy người nữa. Họ ở một nhà bên. Hồi, Bích Hường, Bạch, Cống và tôi rất mừng, cùng chạy sang. Lộc đang ngồi ở một chiếc ghế nhỏ ở cuối hiên, cô bận một tấm áo dài xanh lơ, mỏng nhẹ càng làm tôn thêm vẻ ngây thơ, dịu dàng của cô.

Bỗng nhiên tôi thầm nhớ tới Quỳnh của tôi và trong lòng lại vô cùng buồn bã. Quỳnh khá giống Lộc, cùng chạc tuổi cùng khuôn mặt nhỏ nhắn, cùng đôi mắt ngây thơ, thoáng rụt rè nhưng hết sức thông minh, cùng nụ cười kín đáo nhưng xiết bao thành thực. Tôi đứng lặng. Giờ này Quỳnh đang ở đâu? Đà Nẵng? Nha Trang? Sài Gòn? hay vẫn còn lênh đênh trên một chiếc xà lan dưới nắng hè chói chang, ngắc ngoải cùng với những người dân tị nạn? ôi? Quỳnh, Quỳnh của tôi! Tại sao em lại đi. Ai bắt em đi? Ai đã làm cho đầu em tăm tối? Anh không tin là thầy. Thầy cũng chỉ là một nạn nhân như em.

Chúng tôi cùng trao đổi ý kiến về tình hình các cơ sở sinh viên, học sinh trong thành phố. Mọi việc đều khá cả. Tất cả mọi người đều đã sẵn sàng. Trời càng tối dần, thì tiếng pháo lớn càng nổ kinh khủng phía Cửa Thuận. Xe cộ trên bộ càng tắc nghẹt, đen đặc. Lính trốn đã tràn vô các xóm, van lạy xin áo quần thường dân để mặc, hoặc xin giấu giếm chúng vô các nơi an toàn, kín đáo.

Bỗng nhiên, có người của chúng tôi từ Huế phóng xe xuống. Lúc đó đã nhọ mặt người, mọi nhà đã lên đèn. Anh bạn, người đẫm mồ hôi cho biết là các anh trên chỉ thị: phải báo ngay cho các cơ sở chuẩn bị gấp chậm nhất sớm ni bộ đội áp tới, nhất tề cùng đồng bào nổi dậy. Vận động đồng bào may gấp cờ Giải phóng, nhất loạt cắm lên, ngay từ đêm nay ... Và chậm nhất 5 giờ sáng mai chúng tôi phải trở lại thành phố...

Chúng tôi cùng siết chặt tay nhau, rồi cùng chia nhau đi vận động bà con ngay trong xóm nơi chúng tôi ở. Và ở nhà một giáo sư trẻ, nơi cô Lộc tạm lánh, một sự kiện độc đáo đã diễn ra. Cô Lộc và chúng tôi cùng may cờ. "Nhưng kiếm đâu ra vải màu?". Tôi la lên. Cô Lộc nhanh nhẹn đứng dậy, cởi luôn tấm áo dài xanh ra và mở sắc lấy một chiếc kéo, thoắt cái, cô đã cắt rời hai vạt áo,

- Nhưng còn vải đỏ?". Vải đỏ mới thật là khó, tôi tiếp

- Để tôi về coi xem! Giáo sư Vĩnh vội nói.

Lát sau, anh trở lại mang theo hai mảnh vải đỏ. Mọi người cùng nhận ra đó là hai tấm màn trên bàn thờ Phật của cha anh. Cũng lúc đó, ông già chống ba toong lục cục chạy vô, nói lớn:

- Lấy mà may, nghe! May cờ thì được quá rồi. Còn phải bàn chi? Cứ may!

"Nhưng còn vải vàng để may sao". Lại một khó khăn nữa. Bạch bỗng reo to:

- Ồ khó chi, có sẵn cờ vàng ba que, ta cắt luôn ra thôi 

Hồi phản đối. Anh nói: cờ ba que quá "bẩn" không dùng được. Nhưng rồi mọi người cùng nhất trí: lúc này, không nên quá câu nệ.

Thế là chỉ khoảnh khắc sau, cô Lộc đã may xong hai lá cờ Giải phóng, tuy chỉ nhỏ thôi, nhưng đẹp vô cùng. Tất cả chúng tôi cùng reo lên, nhảy lên như một lũ trẻ.

Và, đúng như chỉ thị của các anh ở trên, mờ sáng hôm sau một trong hai lá cờ đó đã được trao cho các lực lượng võ trang và nhân dân nổi dậy của quận lỵ và chi khu quân sự Phú Vang. Lá cờ tung bay trước tòa nhà hành chính của quận lỵ, giữa muôn ngàn tiếng hoan hô dậy đất của đồng bào từ các xóm, các ấp cuồn cuộn đổ ra, với các tổ du kích, tự vệ mật đã nhất tề cùng tuốt vũ khí đứng dậy.
Chúng tôi không có nhiều thì giờ để lưu lại Phú Vang. Tin cấp báo: bộ đội đã vô tới An Cựu! Chúng tôi, kẻ cưỡi Hon-da, người ngồi xe đạp cùng chở nhau phóng trở về thành phố. Trong lúc đó, trên đường, quân xa địch, xe tăng địch vẫn còn đang ầm ầm chạy trở ra phía Cửa Thuận. Cả tàn binh địch. Chúng chạy bộ. Đầy trên đường. Tơi tả. Lử lả. Chúng cứ chạy ra. Chúng tôi cứ chạy vô, ngược chiều nhau, không bên nào có đủ thì giờ để hỏi bên kia nữa. Mặc! Bọn tôi mặc chúng chạy! bọn chúng cũng kệ, không còn bụng dạ nào chú ý tới bọn tôi.

Phía Cửa Thuận! Pháo ta vẫn bắn long trời chuyển đất. Ở đường chân trời, khói đen vẫn liên tiếp dựng lên. Vậy mà những toán xe, những toán lính địch vẫn cứ lao ra y như điên, không còn hiểu chạy đi đâu nữa?

Trên đường. Ở nhiều quãng, xe cộ kẹt cứng. Có những chiếc xe tăng, chừng cuống quá, đã liều rẽ xuống hai bên ruộng lúa, để tìm đường vượt lên. Nhưng ruộng lầy. Chúng nằm chết lún như những con cua khổng lồ. Cả những chiếc xe Jeep cũng vậy. Có lẽ quá điên lên vì sợ chúng cũng lao bừa xuống. Bánh xe xé bùn ra thành những vệt dài loằng ngoằng, rồi cuối cùng. chúng cũng chìm lún xuống. Có cái bùn ngập tới quá nửa bánh xe. Có cái chỉ còn nhô lên được chiếc kính chắn gió và vành tay lái ... Quang cảnh hỗn độn kinh hoàng đến tột độ.

Chúng tôi vẫn cắm đầu phóng. Không có thể dừng lại dù chỉ là một phút để xem cái quang cánh thất trận cực kỳ bi thảm, cực kỳ dữ dội của cả một đạo quân nhà nghề tay sai do Mỹ huấn luyện và trang bị này.

Chúng tôi đã tới Huế.

Chúng tôi đã nom thấy những đơn vị đầu tiên của quân Giải phóng đang tiến vô thành phố, thành mấy mũi khác nhau. Các anh tiến đẹp quá.

Chúng tôi đã nom thấy cả những chiến xa Giải phóng đang ám ầm lao qua cầu Mới, khói bay mờ mịt phía sau.

Cả thành phố đang mở rộng những cánh tay đón chào các chiến sĩ. Mắt chúng tôi mờ lệ. Trái tim chúng tôi nghẹn ngào.

Tất cả chúng tôi cùng reo lên, gào lên: "Giải phóng rồi! Giải phóng rồi!". Cô Lộc giơ lá cờ lên. Lá cờ bay bay. Một đơn vị giải phóng đã đón nhận lấy lá cờ ấy. Và chỉ lát sau, chúng tôi đã thấy chính lá cờ ấy bay trên đỉnh cột cờ của thành phố trước Phu Văn Lâu.

Lúc ấy là buổi chiều ngày 25 tháng 3 năm 1975 lịch sử

Một lần nữa chúng tôi cùng la lên, reo lên: "Giải phóng rồi, giải phóng rồi!". Chúng tôi cùng ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở vì quá sung sướng, trước khi phân công nhau đi nắm từng tổ anh chị em để làm các công việc dẫn đường và tiếp tế phục vụ cho các đơn vị Quân giải phóng đang tiếp tục tiến vô thành phố. Chúng tôi đều không ngờ, trong đám đông dân chúng đổ ra đường hoan nghênh bộ đội giải phóng có cả "Ông già biển cả". Bữa nay ông ăn vận rất tề chỉnh, đeo cả cà vạt hẳn hoi. Hơn thế nữa, tuy nắng to. Ông cũng dắt cả cô út đi theo.

Trong lúc đó mẹ của Bích Hường đã sắng sở cùng các bác tiểu thương chợ Đông Ba đi lo gạo, lo nồi xoong nấu cơm cho quân ta. Bà to béo, tươi cười - Những người to béo dường như luôn luôn vui tính - Bà đều gọi các anh bằng con. Cả má nuôi tôi nữa, má vẫn ngậm điếu thuốc vấn sâu kèn ở góc miệng, bới tóc cao, mang chiếc áo dài lê thê màu vàng xỉn, chạy ngược chạy xuôi. gặp anh Giải phóng nào má cũng nắm lấy hỏi: "Rứa mấy chú xe tăng ở mô? Tui có thằng con trai ở xe tăng ta! Má nhấn mạnh tiếng ta một cách đặc biệt sung sướng.

Sang qua cầu Trường Tiền, chúng tôi gặp cả cha Cống. Ông già hom hem, có cái cục cổ gần như nhọn hoắt, phóng chiếc xe Hon-da tàng, có cắm một lá cờ Giải phóng. Ông kiêu hãnh la lớn "Bọn bay coi! Giải phóng vô, máy đèn, máy nước vẫn hoàn toàn! Công nhân hai nhà máy đấu tranh kiên quyết suốt đêm qua. Dám chết dưới chân máy. Tuyên bố: thằng giặc nào đem mìn, đem thuốc độc vô, hãy bước qua xác anh em công nhân đã. Anh em công nhân không có nói mép như thằng mặt rỗ" (Ý nói móc lại tên Ngô Quang Trưởng đã từng tuyên bố sẽ chết trên đường phố Huế.).

Cả thành phố cười vui. Bình minh đang rực sáng. 
Tháng 7 năm 1975

NHỮNG CÂY CẦU VÀNG

Thế là anh Năm Vân lấy một chiếc Hon-da đi liền. Theo anh chỉ có một chú liên lạc mang một cây AK báng gập, phải đi gấp. Từ đây là rừng cao su miệt Dầu Tiếng bọn anh phải tới Bình Sơn, Long Thành nội ngày mai. Đường khá xa; hầu hết là đường rừng và đồn điền cao su. Sẽ phải vượt qua cả quốc lộ Một. Vùng đó địch còn dày đặc, "thằng ngụy ở đồn bên này đái, thằng ngụy ở bốt kề bên cũng nghe thấy rõ", người ta nói vậy.

Mấy ngày nay chiến sự đang thêm sôi động. Xuân Lộc đang bị vây hãm riết. Do đó bọn Thiệu càng phải vận chuyển trên xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn và lộ Một rất dữ. Trinh sát kêu: ngày đêm quân xa chúng đi, nhìn đến chóng cả mặt. Vượt lộ Một, sẽ phải cải trang và đi đêm. Việc đó quá thường đối với con nhà đặc công. Là một trong những cán bộ chỉ huy đã lăn lộn mười năm có lẻ khắp vùng ven Sài Gòn - Gia Định, anh Năm chưa hề bị “lỡ" với bọn nó vì sơ xuất. Chỉ lo đường xa. Nội ngày mai, anh Ba Trần chỉ huy đoàn đã dặn anh Năm phải tới được Bình Sơn - Long Thành để hội với các anh Tư Thanh, Bảy Nhượng, triển khai ngay công việc.

Bình Sơn - Long Thành thuộc vùng đất giải phóng kế bên xa lộ 15 chạy từ Sài Gòn - Biên Hòa xuống Vũng Tàu. Như vậy cũng có nghĩa tới Bình Sơn - Long Thành là đã tới ngay bên sườn đông của Sài Gòn, cách có trên ba mươi cây số chim bay. Quá gấp rồi! Tất cả những kế, những đòn gì táo bạo thậm chí hiểm nhất nhưng tạo được thế đánh địch hiệu quả nhất đã được các anh ở trên "bật đèn xanh"... Phải tới ngay Bình Sơn - Long Thành! Tuyến phòng thủ sống còn từ xa của Thiệu ở Phan Rang đã bị đập bể rồi! Tướng ngụy Vĩnh Nghi bị bắt sống đã nói trên đài: " ...Chúng tôi không còn cách chi chống cự nổi nữa!".

Đêm, lửa phía Xuân Lộc đốt cháy cả một khung trời. Tiếng trọng pháo, tiếng bom lay chuyển cả mặt đất. Trung ương đã có nhận định: "thời cơ trực tiếp đã tới". Bộ chỉ huy Miền cũng đã kêu gọi: "Tình hình như lửa cháy!". Vậy, anh Năm vốn là người của "lửa cháy". Qua mười năm có lẻ, anh và các chiến sĩ đặc công của anh đã luôn luôn được tung vào những thời điểm nóng bỏng và những điểm "lửa cháy" - Lẽ cố nhiên không bao giờ một mình đặc công quyết định được chiến trường. Nhưng cũng luôn luôn, trong lịch sử thầm lặng và hùng tráng của mình, đặc công đã đóng vai trò một chiếc đanh ốc không thể thiếu ...

- Lẹ, nghe em. Ta "bay" suốt đêm, được hôn?

- Dạ, được chớ. anh Năm! .

- E chú sỉu mất.!

- Trời! Sức mấy đổ được em. Hãy lo cho cái cổ của anh kìa!

Hai anh em cùng cười xòa. Anh Năm vừa phải mổ lại một vết thương cũ nơi cổ. Nằm trong quân y viện giữa rừng, nghe tin Ban Mê Thuột rồi cả cao nguyên thắng lớn, anh như điên lên vì sốt ruột. Rồi Huế, Đà Nẵng ... Anh Năm đã tính nước trốn bỏ viện về luôn. May sao, giữa lúc đó có điện của anh Ba Trần gọi về "để nhận nhiệm vụ gấp". Anh Năm không kịp, nói cho đúng hơn, không cần lấy một thứ giấy tờ gì của viện, cứ thế một mạch dông thẳng về vùng Dầu Tiếng, cổ vẫn còn quấn băng to xù, râu ria còn tua tủa trên khuôn mặt vuông vức, dày dạn.

Tới Dầu Tiếng anh mới biết rõ về quyết định của Trung ương mở chiến dịch Hồ Chí Minh. Chảy cả nước mắt vì mừng, vì sướng quá! "Sáu hướng, năm binh đoàn ...". Anh Năm như nằm mơ. Các lực lượng đặc công, biệt động cũng đã được quyết định sử dụng toàn bộ, chia thành mấy cánh: Bắc, Đông, Tây, Nam, Tây Nam để phối hợp và phối thuộc cho các tập đoàn quân đột phá, giải phóng Sài Gòn. Ban chỉ huy lực lượng đặc công và biệt động cánh phía đông chiến dịch đã được chỉ định: anh Năm và các đồng chí Bảy Ước, Tư Thanh, Bảy Nhượng, Hai Thoảng. Cả mấy đồng chí này vẫn còn đang ở Bình Sơn, Long Thành chưa về kịp. Chính vì vậy anh Năm, sau khi nhận nhiệm vụ đã phải cấp tốc đi ngay.

Lực lượng cánh đông khá hùng hậu. Trong đời mình, anh Năm chưa từng bao giờ có được trong tay một số quân như vậy để thỏa sức hành động. Anh vẫn như nằm mơ: ba trung đoàn đặc công (113, 116, 10) và một số đơn vị của lữ 316 đặc công biệt động (các Z22, Z23, d81), cộng thêm tiểu đoàn 4 biệt động nội thành. Toàn những đơn vị đã lừng danh với những chiến công: Khách sạn Brinh-cơ, Victoria, cầu Bình Lợi, cầu Tân An, kho xăng Nhà Bè, Bộ Tổng tham mưu ngụy, dinh Độc Lập...

Các đơn vị đã được dự kiến sử dụng như sau:

- Trung đoàn đặc công 116 sẽ tập trung lực lượng đánh chiếm và giữ cho được một cây cầu lớn trên xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn (cây cầu trên sông Đồng Nai) nhằm bảo đảm đường tiến cho quân ta đánh vào hướng đó. 

- Trung đoàn đặc công 113 cũng có nhiệm vụ đánh chiếm giữ cầu nhưng là hai cây cầu trên quốc lộ Một sát Biên Hòa, bảo đảm đường tiến cho một binh đoàn khác sẽ đột phá theo hướng đó.

- Trung đoàn đặc công 10 sẽ đánh chiếm phân chi khu Phước Khánh. Phú Hữu, kho xăng Nhà Bè, diệt địch trên sông Lòng Tàu, không cho địch chạy ra, hoặc tiến vào thành phố bằng đường thủy.

- Các đơn vị thuộc lữ đặc công biệt động 316 (gồm d81, các Z22, Z23) sẽ chiếm xưởng đóng tàu ở quận Thủ Thiêm, tấn công địch ở Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy trên cảng Bạch Đằng (Nhiệm vụ này sau có thay đổi vì gấp quá, bộ đội vào không kịp, sẽ nói ở giai đoạn sau.).

- Riêng tiểu đoàn 4 biệt động nội thành có nhiệm vụ chiếm khu Bình Trung, Đồng ông Tố (trên đường xuống Cát Lái).

Nhiệm vụ thật không nhỏ. Và chỉ cần nhìn lướt qua kế hoạch như vậy ai cũng có thể nghĩ ngay tới những đơn vị nhảy dù trong các chiến dịch lớn. có tính chất quyết định. Quân dù thường vẫn được sử dụng như thế. Họ được bất ngờ và táo bạo tung ra, ném sâu vào hậu tuyến đối phương, vào những giờ phút quyết định nhằm đánh phá kho tàng, triệt cắt đường giao thông, tiếp tế, đánh úp sở chỉ huy, và chốt giữ hoặc chiếm đoạt các "đầu cầu” sinh tử để chia cắt, gây rối loạn, tạo điều kiện cho đại quân nhanh chóng thọc sâu, phá vỡ toàn bộ trận thế đối phương... Giờ đây, các chiến sĩ đặc công cũng sẽ làm những công việc ấy. Họ cũng sẽ là những đơn vị "nhảy dù”, những đơn vị "dù đặc biệt". Họ không có máy bay, cũng không một cánh dù nhỏ. Nhưng họ cũng sẽ nhanh như bất cứ những đơn vị nhảy dù nhanh nhẹn, tinh nhuệ nào trên thế giới. Và có lẽ còn hơn thế nữa. Bởi họ luôn luôn đã có mặt ở tại chỗ, bất chấp mọi khó khăn, mọi hiểm nguy ...

Như thế đấy, anh Năm và tất cả các đồng chí của anh sẽ đảm nhiệm sứ mạng đúng là của những đơn vị “nhảy dù” đặc biệt trong chiến dịch lịch sử, vĩ đại này. Bọn anh cũng sẽ đột ngột, sẽ táo bạo bất ngờ "đổ’ xuống ở ngay sau lưng địch. Bọn anh cũng sẽ chốt chặn, sẽ chiếm giữ những "đầu cầu”, mà cụ thể là những cây cầu trọng yếu. Trên từng tấc đất ấy, bọn anh sẽ "cắm ngập ở đó những lưỡi gươm đẫm máu”. Bọn anh sẽ ở đó cho tới khi đón được đại quân. dù lúc đó có thể ở mỗi đầu cầu chỉ còn một người thậm chí một thương binh đủ sức để nói được mấy tiếng: "Cầu vẫn còn. Các đổng chí cứ vượt qua, tiến nhanh vào Sài Gòn đi!" hoặc: "đặc công đã hoàn thành nhiệm vụ! Chào chiến thắng!".

*
*   *

Hai anh em vẫn bay giữa cái bạt ngàn của các vườn cao su và những miền rừng đất đỏ. Trên khung trời lóa nắng đầu hè nhiệt đới, một chiếc OV10 kiên nhẫn è è bay lượn, soi tìm. Chốc chốc, một tốp A37 hoặc F5E lướt qua, kéo theo sau những màn tiếng động rung chuyển. Bom nổ lúc xa, lúc gần. Trọng pháo vẫn gầm ở đường chân trời. Đất chuyển động không ngừng. Đất như đang trăn trở, cựa mình để trỗi dậy.

- Anh Năm, như vậy ban chỉ huy chỉ mới được thành lập trên giấy! Mấy anh ngày mai mới thấy mặt nhau, bắt đầu làm việc ở Bình Sơn - Long Thành, hả?

- Rồi! E cũng không kịp nữa, út nhỏ à!

- Em chưa bao giờ được sống những giờ phút như người ta nói, là những giờ phút mà lịch sử đang sống trong ...

- Ủa, anh Năm cũng văn nghệ thấy mồ!

- Văn nghệ chi tao! Suốt đời chỉ thạo có mấy cây “bá đỏ" mà!...

Rừng hoang vắng hoe. Nhiều đồn điền cũng vắng hoe. Không ít nơi cây cối đã cụt nát bom pháo, hoặc trụi 1ủi hóa học.

Nhưng đã tới lúc hai anh em gặp người trên đường. Càng đi càng thấy đông. Đoàn toàn xe đạp thồ chở những hòm đạn nặng trĩu. Đoàn toàn Hon-da. Máy kêu rầm trời, khói xăng nhớt mờ mịt khắp các nẻo đường rừng. Hầu hết là thanh niên. Con gái nhiều hơn con trai. Dân ruộng đồng, kênh rạch chiếm số đông. Nhưng cũng không thiếu dân nội đô mới ra, kiếng mát đủ kiểu, quần "pát" (Quần loe.) bay phần phật trong gió. Đạn và gạo; gạo và đạn không biết từ đâu rót tới, y như thác đổ. Rồi thấy cả xe tải cỡ lớn. Những chiếc Desoto, Inter, Diamant đồ sộ được huy động vào công việc vận chuyển từ lúc nào không rõ, xuất hiện giữa các khu rừng, nom vừa quen, vừa lạ, vừa vui, vừa mừng, vừa cảm động làm sao! Mới năm nào ta mới chỉ có đôi vai này, và giỏi lắm thêm ba chiếc GMC chiến lợi phẩm hoặc ba chiếc Lambro ọc ạch mua từ các thành phố đem về ... Mới năm nào, những đoàn chuyển tải quân lương đều phải đi chuyển trong đêm tối, bây giờ tất cả đã ra ban ngày, đi như sóng triều lên ... 

Nhưng ngạc nhiên hơn nữa, càng đi càng gặp nhiều đơn vị bộ đội. Quân đã đầy rừng, đầy khe. Đâu đâu cũng thấy lều lán, tăng bạt. Đến nỗi anh Năm và cả chú liên lạc đều cùng có một cảm giác: nếu có một phép lạ nào cuốn bốc hết được cây rừng đi, thì sẽ phơi lộ ra một cảnh tượng hùng vĩ, lạ lùng: tăng, võng bộ đội đã phú kín cả mặt đất, không để hở một ngọn cỏ. Đâu đâu cũng thấy quân ta. Toàn lính trẻ với những khuôn mặt rất linh lợi. Không ít anh em nói giọng Bắc. Nghe giọng nói ấy, nhìn những gương mặt ấy và cả những bộ đồ chiến trận màu xanh còn gần như mới tinh, với vũ khí, trang bị khá đầy đủ, khá hiện đại,

Anh Năm sững sờ, phải kìm xe lại. Ôi! Anh em từ miền Bắc đã vô tới đây rồi sao? Có phải anh lại nằm mơ. Hay anh đoán lầm? Mới hôm qua anh liên tưởng tới những đơn vị nhảy dù, khi nhận xong nhiệm vụ của cánh. Giờ đây trước mặt anh mới thật là cả một "binh đoàn nhảy dù” khổng lồ vừa mới "từ trên trời đột ngột đổ xuống". Thật vậy! Làm sao có thể tưởng tượng được nổi: bằng này con người, bằng này vũ khí chỉ trong có ít ngày đã vượt được ngàn dặm Trường Sơn gian nan, hiểm trở vào tới đây.

Mới hôm qua, 9 tháng 4, nhận nhiệm vụ xong, được cấp trên cho biết: A1 (mật danh của một binh đoàn chủ lực của Trung ương) đang thần tốc lao vào chiến dịch. Nhưng không rõ họ sẽ tới đây vào ngày nào. Nhanh lắm là 20. Vậy mà hôm nay đã thấy họ sờ sờ ở đây rồi, đang tấp nập căng lều, hạ trại, chuẩn bị vũ khí. Đất nước ta quả đã có lắm chuyện thần kỳ mà dường như càng tới những ngày đổi đời này, tất cả những điều kỳ diệu ấy càng thêm nhiều, thêm rực rỡ.

"A1 phải không?". Anh Năm gặp một anh cán bộ trên đường, tự giới thiệu mình và mạnh dạn hỏi. Cả hai cùng xiết chặt lấy nhau. Mừng hết ý! ôi những người anh em miền Bắc. Chẳng phải đây là lần đầu anh Năm được gặp họ. Trong các đơn vị của Miền, ngay cả các đơn vị dân công cũng có không thiếu những người con mà miền Bắc đã rứt ruột thầm lặng gửi vào, ròng rã hết năm này qua năm khác, như tiếp mãi cho miền Nam những dòng máu hồng tươi không bao giờ dứt. Những người con miền Bắc đã sống và chiến đấu ra sao, Tổ quốc đã và sẽ đời đời ghi nhớ họ. Riêng anh, cũng đã hơn một lần, ôm trong tay mình thi thể còn nóng ấm của những chàng trai, tuổi chỉ mới bằng đứa con đầu của anh, mà khóc không thành tiếng, không ra nước mắt. Chỉ còn biết sau đó đứng trước đoàn quân của mình, thốt lên: "Chúng ta đã mất thêm một đồng chí, một người anh hùng của đất nước... ". Giờ đây anh lại được gặp họ, nhưng không phải chỉ là một vài trăm, mà là cả một binh đoàn - một binh đoàn hùng mạnh như vừa "tự trên trời đột ngột đổ xuống" ...

Anh Năm và chú liên lạc phải xuống xe nhiều lần vì đường rừng đã kẹt xe, pháo. Càng đi, càng kẹt. Xe, pháo di chuyển không ngừng. Anh Năm và chú liên lạc ngây người ngắm nhìn mãi những cụm cao xạ cỡ lớn, cũng lần đầu tiên xuất hiện ở miền Nam. Đi len vào những đơn vị cơ giới, pháo binh tràn ngập đó, như đi giữa một rừng sắt thép. Qua khỏi các đơn vị sắt thép lại kẹt giữa các đơn vị bộ binh. Không còn đường nào mà đi nữa. Trời dần tối. Một anh chỉ huy bộ binh khuyên anh Năm tạm nghỉ ở đây. Theo anh biết không ai có thể qua lộ Một đêm nay. Bởi ngoài gần lộ, các đơn vị càng dày đặc. Cả A1, cả những đơn vị chủ lực Miền.

Anh Năm đành "hạ trại”. Hai anh em căng võng ở ngay bên đường. lẫn trong đội hình các đơn vị xe tăng, pháo binh. Ban ngày, nom quân như nước khắp rừng đã lạ, đêm xuống càng thấy có cái gì xô bồ hơn, kỳ diệu hơn nhiều. Đèn lửa như cả một trời sao sa dưới rừng. Tiếng xe pháo gầm gào, tiếng vũ khí va chạm vang rộn. Anh Năm bỗng liên tưởng tới quang cảnh của những “trăm vạn hùng binh" xuất trận mà anh đã từng đọc trong những pho chuyện cổ của Trung Hoa xưa...

Nằm vắt chéo chân trên võng, anh Năm không sao ngủ. Quang cảnh xung quanh kích thích anh tới cao độ. Càng nghĩ, càng thấy thật ghê gớm! Làm sao mà Bộ Chính trị và Trung ương đã có thể hạ quyết tâm mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử này ngay từ sau khi Đà Nẵng được giải phóng? Phải có một tầm mắt chiến lược thật xa rộng đã đành, còn phải có cả một dũng khí, đảm lược thật lớn.

Đã quá khuya mà vẫn không sao ngủ, anh Năm mở chiếc đài bán dẫn đặt trên bụng. Vô tình mở đúng làn sóng của Sài Gòn. Một ca sĩ nào đó đang run rẩy, nức nở:

Thôi đã muộn rồi
Đừng đi qua đời tôi 
Thôi đã muộn rồi
Tình yêu xa xôi lắm
Trên dốc ân tình . ~
Mù sương thoáng yên bình
Đừng như cơn gió thương đau
.
(Một bài hát "vàng" khá quen biết của Sài Gòn cũ.)

Anh Năm bật cười, tắt chiếc đài, chửi thề một câu. Anh thực sự không hiểu Sài Gòn vẫn còn đang mê muội, chìm đắm như vậy, hay nó cố làm ra vẻ "vẫn bình thường" ngay cả trong giờ phút này?

Anh nhìn sang võng bên, chú liên lạc của anh đã ngủ ngon. Dáng ngủ đẹp như trẻ thơ. Nhìn gương mặt thiên thần ấy anh bỗng cảm thấy như lần đầu mình mới hiểu ra thật rõ, thật cụ thể: thanh niên của chúng ta đã lớn lên trong ánh sáng và trong những tiếng ru, lời ca dịu dàng, đẹp đẽ khác hẳn.

Suốt đêm, anh vẫn không sao ngủ; gần sáng chỉ chập chờn trong muôn ngàn tiếng động của rừng, của đất của người, chập chờn trong những giấc mơ rực rỡ và kỳ lạ trong chiến đấu ...

Phải nghỉ lại đêm ấy, đợi suốt cả ngày hôm sau nữa, đêm thứ hai anh Năm và chú liên lạc mới vượt qua được quốc lộ Một. Đúng như đã dự kiến và được báo trước: quân xa địch chạy không ngừng. Con đường sáng lóa thâu đêm. Trên các quầy xe bóng lính nghiêng ngả - " Thôi đã muộn rồi!" Nằm giấu mình dưới cỏ ở bên đường anh Năm lại bật cười nhớ tới bài tình ca vàng vọt chợt nghe lúc nửa đêm hôm trước. "...Thôi đã muộn rồi, đừng như cơn gió thương đau!..." hai anh em lẹ làng vọt qua lộ như hai cánh chim đêm. Khi qua được một quãng xa, anh Năm mới ngửa mặt lên thở hít bấu không khí trong lành yên tĩnh của đêm nhiệt đời. Lòng anh thật vui.

Sáng dần. Ở miền Nam trời dường như mau sáng hơn. Chỉ trong chốc lát cả một khung trời đằng đông đã chói lòa.

Tới Bình Sơn - Long Thành rừng cao su càng như thêm mênh mông. Đây là tam giác xanh nổi tiếng nằm kẹp giữa xa lộ Biên Hòa - Vũng Tàu và quốc lộ Một. Nó nổi tiếng vì cao su trước kia và nổi tiếng về những trận giao phong kịch liệt giữa quân Cách mạng và quân Sài Gòn ròng rã mấy năm qua. Tam giác xanh đã cơ bản trở thành khu giải phóng cách đây chưa lâu lắm. Dưới gốc cao su dường như vẫn còn có máu người.

Hai chiếc Hon-đa xả khói xanh mù trời, lao đi giữa các rừng cao su vùng Long Thành, Bình Sơn. 

Ở đây cũng đã đầy quân (cả địa phương, cả chủ lực). Các đơn vị cũng đang tấp nập chuẩn bị gạo đạn, tương tự như bên bắc lộ Một.
Như một cơn gió lốc, anh Năm lao vào một chiếc lán giữa rừng. Ở đó các anh Tư Thanh, Bảy Nhương, Hai Thoảng... cũng đang cháy ruột chờ anh. Mấy "con cọp xám" đặc công cùng như vồ lấy nhau vì sung sướng. Những cặp mắt cùng cháy lên những ngọn lửa sáng...
*
*   *

Sau mấy ngày làm việc cật lực, đêm cũng chong đèn lên bàn cãi thảo luận, cuối cùng mọi công việc đã được hoạch định: Anh Hai Thoáng được phân công thay mặt ban chỉ huy trực tiếp đi với trung đoàn đặc công 11 ở phía Bắc lộ Một. (Trung đoàn này có nhiệm vụ đánh chiếm hai cây cầu trên lộ Một, bảo đảm đường tiến cho một binh đoàn đột phá hướng đó). Còn toàn ban chỉ huy sẽ nắm các lực lượng ở phía xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn.

Anh Năm lại di chuyển một lần nữa. Lần này anh vượt lộ 15 (Biên Hòa - Vũng Tàu) để vào sâu trong vùng ém quân, kiểm tra một lượt các đơn vị trước khi vào chiến đấu. Lần này quẳng Hon-đa lại, anh xắn cao quần lội bộ. Đi theo anh vẫn là chú liên lạc với cây AK báng gập.

Tuy nhiên cũng có khác trước: đối với những người chỉ huy đặc công, như thế này là đã coi như bắt đầu vào trận, nên anh còn mang theo một máy VTĐ 15 oát để sẵn sàng lên làn sóng khi cần thiết.

Vùng ém quân tương đối hẹp nhưng kéo dài, nằm kẹp giữa con sông Đồng Nai và lộ 15. Đây là một vùng chỉ có một chút ít rừng cây thưa thớt gần phía ấp Tam An, còn toàn là ruộng đồng khá trống trải với những đám dừa nước rải rác. Đây cũng là một vùng sình lầy nước mặn, kênh rạch chằng chịt. Đặc công đã ra vào Sài Gòn, Biên Hòa như đi chợ. Hầu khắp các vùng đất quanh đây đều đã in dấu chân của những người chiến sĩ giải phóng đặc biệt tinh nhuệ. Nhưng chưa có một đơn vị nào dám tới vùng đồng ruộng sình lầy, kênh rạch này để ém quân. Hoàn toàn đây là một vùng đất hiểm nghèo "tiến không khả dĩ công, thoái không khả dĩ thủ”. Chỉ riêng lần này, các đơn vị đặc công mới táo bạo vào “nằm" ở giữa cái vùng ghê gớm nhưng khá bất ngờ này. Tất cả là ở cái thế! Trong quân sự tạo được một cái thế quả thật không ít khó khăn. Nhưng khi đã có thế thì phải biết và dám tận dụng nó. Chẳng dễ dàng gì nếu thiếu một dũng khí và thiếu cả một đầu óc tỉnh táo.

Trước hết anh nắm tìm tới trung đoàn đặc công 116, đơn vị sẽ có trọng trách đánh chiếm và giữ cầu Đồng Nai trên xa lộ, cây cầu chiến lược, mục tiêu "nóng bỏng" của các anh trong chiến dịch này.

Vượt lộ 15, bọn anh bắt đầu vào vùng đất sình lầy chằng chịt kênh rạch. Vào vùng đất lạ, bọn anh phải "đi bằng bản đồ". Không một ai biết đường; cũng không một giao liên. Vượt qua những khu rừng thưa thớt ở Tam An, bắt đầu thấy ruộng lầy, ngút ngàn cỏ dại. Cỏ mọc tới chân trời, tiếng chim chóc kêu khàn khàn, hoang dại, buồn se sắt. Chốc chốc lại thấy từ những bờ kênh xanh rậm dừa nước phía xa vọt lên những cây cột khẳng khiu trên rũ những lá cờ vàng ba sọc. Thằng ngụy nào phải đóng bót trên cái vùng đất này nhỉ?. Hẳn phải loại ác ôn! Thỉnh thoảng chúng lại bắn. Chẳng có chuyện gì cũng bắn. Cối nổ vọt nước trắng xóa trên đồng. Đại liên kéo dài dằng dặc, đạn cắt reo réo trên ngọn cỏ hoang. Chim chóc lại bay lên chao chát, đầy trời. Nhưng đáng chú ý hơn là những chiếc ghe mỏng chở lính ngụy đi tuần lướt xuôi các dòng kênh hoặc trên đồng nước.

Bọn anh Năm tạm dừng lại ở một nhà lẻ thuộc ấp Tam Anh, lên làn sóng VTĐ liên lạc với phía sau. Một mệnh lệnh nhận được làm cho tất cả mọi người rất phấn khởi: Để tăng cường sức mạnh đột phá trên các hướng. nên cần thống nhát sự chỉ huy. Vì vậy E đặc công 113 đi hướng bắc, trên quốc lộ Một, đã được quyết định trực thuộc một binh đoàn hùng mạnh của Miền ở hướng đó. Còn các đơn vị khác ở vùng đất nằm giữa sông Đồng Nai và lộ 15 sẽ trực thuộc một binh đoàn mới tới: binh đoàn Duyên Hải. Anh Năm đấm mạnh tay xuống sạp, muốn reo lên. Thế là cái binh đoàn đã đánh thắng như chẻ tre suốt từ Huế cũng đã vào tới đây rồi? Mừng khi gặp A1 ở bắc quốc lộ Một thế nào, nay mừng được tin binh đoàn Duyên Hải vào cũng y như vậy. Cũng ngày hôm đó, có điện của binh đoàn triệu tập một đồng chí trong ban chỉ huy đặc công về họp.

Anh Bảy Nhượng tham mưu trưởng được phái đi ngay trong đêm .

Chiều hôm sau (20-4-1975) anh Bảy trở lại, báo cáo lại tất cả những gì anh đã mắt thấy tai nghe ở cái binh đoàn đang nổi tiếng ấy. Binh đoàn trưởng, một thiếu tướng còn khá trẻ, người đã chiến đấu ở đồi A1 Điện Biên Phủ khi trước, đã trực tiếp làm việc với anh Bảy với một thái độ thân ái, tin tưởng đặc biệt. Binh đoàn trưởng dặn dò khá nhiều, cuối cùng anh nhấn mạnh: Đặc công phải chiếm giữ các cây cầu trên xa lộ, cho binh đoàn tiến vào Sài Gòn. Đó là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu. Bọn Thiệu, chắc chắn khi bị đánh lui, sẽ phá cầu triệt đường ta... "Các đồng chí nhớ nhé! Cầu Đồng Nai và cả cầu Rạch Chiếc! Quan trọng lắm! Bằng mọi giá! Đây là trận chiến đấu cuối cùng! Chúng ta phải quyết thắng. Các đồng chí hiểu chứ?”,

Thế là rõ! Trên những cây cầu đó, các chiến sĩ đặc công vinh quang sẽ chiến đấu và chiến thắng ở đó. Cầu Đồng Nai, cầu Rạch Chiếc! Chỉ là hai cây cầu thôi, nhưng chúng dài biết bao nhiêu! Dường như dài bằng cả chiều dài lịch sử đất nước hoặc ít ra cũng bằng tất cả những ngày chống Mỹ gian nan, ác liệt vừa qua. Chỉ là hai cây cầu thôi nhưng chúng cũng to lớn làm sao! To lớn như tất cả sứ mạng mà dân tộc đang trao nặng trên vai các chiến sĩ đặc công trong những giờ phút quyết định này ...

Anh Năm và những người cùng đi tiếp tục công cuộc lội bộ xuống 116. Cả một hệ thống các kênh rạch Lá Buông. Rạch Bà Bông, Rạch Bà Lé ... đan nhau như lưới dăng. Nước lợ. Bùn non. Cỏ mục. Quãng quãng lại phải né tránh đồn bốt hoặc những xuồng tuần tiễu của bọn địch. Xế chiều hôm đó, mọi người mới tới một đơn vị ém trong một vùng dừa nước loi ngoi, lúp xúp. Dẫm đâu cũng thấy bùn, bước một bước là nước. Lác đác mới thấy một bờ đất hoặc gò nổi lè tè. Bộ đội không đào được hầm, tụ lại từng nhóm, từng tổ trên những bờ đất ẩn kín dưới các tàu lá, như cá rạch trên nước cạn. Tăng võng treo sát mặt nước, bê bết đất bùn. Các chiến sĩ thả chân xuống nước, nhai vội những miếng cơm nguội ngắt. Gương mặt đều xanh xao dưới bóng lá.

- Cơm nước lợ, ăn khó nổi thủ trưởng ơi!

Anh Năm đứng lặng người. Có thể tưởng tượng được đây là những dũng sĩ trẻ, chỉ ngày mai ngày mốt thôi, tiến lên trước tiên, đánh chiếm các cây cầu chiến lược ở ngay cửa ngõ Sài Gòn, hiên ngang cắm cao những ngọn cờ cách mạng để chờ đón đại quân vào hạ thành. Có cái gì nghẹn lại trong cổ anh Năm. Chẳng phải đây là lần đầu anh nhìn thấy cái cảnh khổ cực này của các chiến sĩ. Nhưng trong giây phút này, trước giờ chiến thắng (anh vẫn tin như vậy) sao thấy cảm thương và cả kiêu hãnh lạ lùng. Anh và những đồng chí đi cùng đều sà xuống ngồi với các chiến sĩ, chân cũng thả xuống nước. Anh cũng cầm chiếc bi đông nước lợ ngửa cổ lên uống một hớp. Nước chát đắng nơi cổ họng.

- Thế nào? Sẵn sàng chứ anh em?

- Rồi, thủ trưởng! Khi nào tụi em được nổ súng, thủ trưởng.

Anh em trẻ quá! Một chàng trai dong dỏng cao, mặt trái xoan, đôi mắt to rất đẹp, đôi môi nom như môi con gái, tiếp:

- Thủ trưởng cho anh em "dô" cả dinh Độc Lập nữa nhá!.

Đó là Khánh. Anh em trong tiểu đội quen gọi Khánh Hồ Gươm. Khánh vào đây từ 1971. Lúc nào em chỉ hát có một bài " ... ôi Hồ Gươm, Hồng Hà. Hồ Tây ... ". Khánh nói nhà ở phố Cầu Gỗ, đứng trên gác nhìn ra thấy đền Ngọc Sơn. Mỗi khi cất lên tiếng hát giữa những cánh rừng cao su phương Nam này, dường như đôi mắt anh lại rớm lệ. Đang học Đại học Văn khoa năm thứ ba, chàng trai Hà Nội ấy lên đường đi làm nghĩa vụ. Vào tới đây Khánh được về đặc công luôn. Đã trên hai mươi lần vào trận, trên hai mươi lần anh đều tỏ ra xứng đáng với mảnh đất đã nuôi dạy mình từ thơ bé! ... Trong đơn vị này, cũng còn nhiều những người con của miền Bắc đã vào đây cùng chiến đấu như thế. Tỉ lệ, anh Năm biết, cứ năm người thì ba người là người ngoài đó.

- Còn cậu, thế nào Tám Nam Hà? Tư Bắc Thái? Và Út An Phú Đông nữa? - Anh Năm cười hỏi.

- Đồng ý với Khánh Hồ Gươm! Xin thủ trưởng cho bọn em vô dinh Độc Lập nữa! - Mọi người cùng đáp.

Anh Năm ngắm nhìn những gương mặt đang như được thắp sáng lên ngọn lửa của niềm tin, của niềm vui và lòng hy sinh cao đẹp.

- Nhé! Thủ trưởng nhé! Cho "dô" liền? Những cây cầu thì xong rồi! Cần nói chi nhiều mà?

- Trời! Các chú chớ có coi những cây cầu là dễ ợt!

- Rõ rồi! Những cây cầu sẽ phải đỏ lên như nung mà, thủ trưởng!

Anh Năm lại bật cười, đập vào lưng các chiến sĩ trẻ vây quanh anh. Họ có chủ quan quá không? Hay họ vui quá? Ôi! Trên thế giới này, ở đâu trước khi vào trận đánh cuối cùng, các chiến sĩ đã vui như thế và đã tha thiết chỉ đòi xin thêm nhiệm vụ như ở đất nước này?

Anh Năm đi tới các đơn vị khác. Vẫn cái cảnh gần như chui rúc dưới các khóm dừa nước, nằm trên nước, trên bùn, uống nước lợ, nhai cơm vắt... Vẫn những bộ quần áo linh tinh đủ kiểu: chính qui chưa ra chính qui, du kích không hẳn du kích, dân không hẳn dân... ướt át và nhàu nát. Vẫn những gương mặt gầy, xanh, những đôi chân không giày dép lấm đất đầy chai sẹo. Vẫn những cặp mắt sáng láng, đầy nghị lực, đầy hy sinh. Vẫn những nụ cười thật yêu đời, vẫn những lời nói vui vẻ khảng khái, lạc quan ...

Trước khi trở thành một trong những người chỉ huy đặc công, anh Năm đã ở bộ binh. Anh hiểu rõ chiến sĩ ta dù ở đâu cũng vậy, Nam hay Bắc, bộ binh hay đặc công đều giống một loài hoa cùng được trồng trên một thứ đất, lớn lên trong một khí hậu. Tuy nhiên, dẫu sao mỗi binh chủng vẫn ít nhiều có những phong cách hoặc sắc thái độc đáo khác nhau. Những chiến sĩ đặc công đã được huấn luyện một cách riêng biệt. Đó là những người lính thiện chiến, có một sức chịu đựng thật ghê gớm. Đó cũng là những người lính hơi thầm lặng. Và cũng là những người lính rất nhẹ nhàng, nhẹ nhàng cả về vũ khí, trang bị, nhẹ nhàng cả về tâm hồn. Họ thường, như người ta vẫn nói vui, "đùa giỡn với cái chết" . Nhưng cũng chính họ đã luôn giáng những đòn "chết tươi" cho quân thù một cách rất bất ngờ. Cách đánh của họ thật ra không có gì là "phép lạ". Cái chìa khóa là đã phát huy dược đến cao độ khả năng tuyệt vời của Con Người - con người cách mạng. Cũng bởi vậy họ vừa là những người lính bình thường và là những chiến sĩ đặc biệt. Nhiệm vụ và cách đánh của họ đã đòi hỏi họ phải được rèn luyện thành những con người gần như toàn diện và gần như hoàn thiện. Cũng bởi vậy, anh Năm đã từ lâu có một mong ước là chừng nào còn mặc áo quân nhân, anh còn ở mãi, chiến đấu mãi mãi bên những người chiến sĩ gánh vác những nhiệm vụ đặc biệt này ...
*
*   *

Chỉ huy sở của cánh đặt ở Núi Đất - một gò đất nhỏ giữa vùng kênh rạch. Nhìn về phía tây chừng bốn cây số chim bay là chi khu Bến Gỗ của địch, sát bên tả ngạn sông Đồng Nai, nhìn về phía đông, chỉ hơn một ngàn mét đã là xa lộ 15 Biên Hòa - Vũng Tàu. Hầm hố đều đào tạm, che kín bằng cành lá và những tấm vải hoa nghi trang. Về đêm hôm trước, đêm sau thấy súng nổ đã quá dữ. Súng rung chuyển suốt đêm. Chân trời phía Xuân Lộc càng cháy đỏ hơn bao giờ hết. Máy bay ném bom bay liên tục, đèn nhấp nháy lướt đi như sao rớt không ngừng trên khung trời. Cả chỉ huy sở thức trắng. Đốt thuốc đến cháy cả hai ngón tay. Mở đài ta, tin chưa có gì mới. Mở đài BBC tin cũng chung chung. Chưa có lệnh gì thêm của binh đoàn ... Nhưng sớm hôm đó, khi ngoài cửa hầm vừa sáng lên như bạc thì đã nhận được tin: Xuân Lộc tháo chạy.

Cả ngày hôm đó chỉ huy sở căng thẳng chờ đợi lệnh hành động.

Rồi tin Thiệu đổ. Nó nấc lên khóc. Nó rên la, nó chửi rủa Mỹ, chửi rủa cả lũ chúng nó. Ấy là ngày 22 tháng 4 năm 1975. Lại nôn nao chờ lệnh binh đoàn. Anh Năm và cả ban chỉ huy duyệt lại một lần nữa kế hoạch tác chiến của trung đoàn 116. đơn vị có nhiệm vụ đánh chiếm cây cầu lớn nhất trên xa lộ qua sông Đồng Nai. Một phân đội nhỏ gồm toàn chiến sĩ giỏi chuyên đánh dưới nước của tiểu đoàn 19 sẽ có nhiệm vụ vượt sông Đồng Nai bất ngờ nổ súng chiếm giữ khu đầu cầu phía đông (phía vào Sài Gòn). Đại bộ phận còn lại của tiểu đoàn 19 sẽ lập trung đột phá (vừa bằng mật tập vừa bằng cường tập) khu vực quân địch ở đầu cầu phía tây (phía Biên Hòa).

Khu vực này có một đại đội bảo an tăng cường, toàn ác ôn, đóng ở dãy nhà của lính hải quân và một loạt lô cốt vây quanh đầu cầu theo hình móng ngựa. Trong khi đó, một tiểu đoàn khác (tiểu đoàn 25) có nhiệm vụ đánh chiếm một khu vực của tổng kho khổng lồ Long Bình, nhằm bảo vệ sau lưng cho tiểu đoàn 19 hành động. Cũng cùng một lúc, một tiểu đoàn nữa (d40) có nhiệm vụ đánh chiếm khu vực từ chi khu Bến Gỗ ngược sát tới kho tồn trữ Long Bình, nhằm giữ sườn cho tiểu đoàn 19, và làm dự bị cho toàn trung đoàn. Riêng đại đội trinh sát của trung đoàn sẽ bất ngờ đánh địch ở khu Bến Gỗ, có điều kiện thì chiếm giữ luôn, nếu không thì kiềm chế, không cho địch nống ra chi viện cho bọn chúng trên cầu xa lộ.

Kế hoạch ấy đã được bàn đi tính lại tới hàng chục lần. Chỉ còn lo cho những đơn vị thuộc lữ 316 có nhiệm vụ đánh chiếm xưởng đóng tàu và Bộ Tư lệnh Hải quân địch trong nội đô Sài Gòn. Từ vùng kênh rạch sình lầy ngoài này vào tới đó cũng khá xa và đường đi rất nhiều khó khăn. Ban chỉ huy quyết định một phương án mới khi có lệnh nổ súng, tính toán lại thời gian, nếu không kịp sẽ cho các đơn vị đó chuyển hướng, đánh chiếm cầu Rạch Chiếc, cây cầu nhỏ nhưng cũng rất quan trọng ở sát một khu vực tập trung nhiều cơ sở công nghiệp, nhà máy nhiệt điện, nhà máy xi măng Hà Tiên và kho tồn trữ Thủ Đức

Thế rồi những ngày chờ đợi lại dai dẳng, chậm chạp trôi đi. Anh Năm và Ban chỉ huy đều đứng ngồi không yên. Chỉ lo bộ đội ốm hết. Mười năm có lẻ, anh đã từng chứng kiến anh em ngâm mình dưới nước mặn hàng chục ngày liền, nhịn đói thông sáu, bảy bữa, chịu đựng những cơn khát cháy điên người, chôn mình trong cát nắng thiêu, hoặc phơi mình trong bão tố, ngụp lặn liên tục trong sình lầy... Nhưng chưa lần nào bộ đội phải sống dài ngày trong một địa hình rất khó khăn và dày đặc đồn bốt như lần này.

Anh lại sục xuống 116. Lại gặp các chiến sĩ. Lại ngồi trò truyện với nhóm út An Phú Đông, Khánh Hồ Gươm, Tư Bắc Thái... chỉ trong những giờ phút đó anh mới thấy lòng mình thư thái, yên ổn được đôi chút.

Cho tới trưa ngày 26 tháng 4 mới có lệnh tấn công. Cả chỉ huy sở như sôi lên. Cũng khi đó, mọi người được tin thêm: binh đoàn Duyên hải bắt đầu tiến đánh căn cứ Long Thành, và xe tăng của binh đoàn cũng đã tràn tới công trường Nước Trong. Nơi đây là trường thiết giáp và biệt kích ngụy. Thế là tất cả những cái gì phải đến đã đến! Súng lớn bắt đầu rền vang khắp một dải ở chân trời phía đông. Từng cột khói dựng lên liên tiếp, nom khá rõ. Chỉ trong khoảnh khắc, khói đã tụ lại như mây. Nơi ấy, trong giây phút này, đang là tiền duyên của mặt trận. Anh Năm và các anh em trong Ban chỉ huy, Tham Mưu trưởng cùng rời khỏi vị trí cũ. Đã tới giờ phút đặc công "nhảy" xuống, "cắm những lưỡi dao nhọn" vào sau gáy quân thù ...

3
Hôm đó, thật ra các binh đoàn lớn cách Sài Gòn cũng còn khá xa. Mới chỉ thấy pháo nổ rền rĩ ở đường chân trời. Nhưng đã có lệnh cho trung đoàn đặc công 116 xuất kích khi hoàng hôn vẫn còn vàng rực trên khắp các cánh đồng nước. Những dòng kênh, những con rạch sáng lên như thép chảy trong lò. Anh Năm và Ban chỉ huy đoàn cũng di chuyển. Một toán chiến sĩ thông tin, cán bộ tác chiến nối theo sau. Trên bầu trời. những chiếc trực thăng võ trang đang bay lùng. Dường như chúng đã "ngửi” thấy gì rồi. Nhiều chiếc liên tiếp sà xuống, bắn xả vào những đường tiến quân của ta. Đạn 12 ly 7 ran lên trên các mặt ruộng trên những cánh đồng sình lầy. Một chiếc bỗng quay lại. Nó thắt vòng rất nhanh. Tiếng máy nổ cành cạch nhức óc. Gió quạt dạt hết các vạt dừa. Gió quạt cồn cào mặt nước như có bão lớn. Anh Năm và những người đi cùng vừa kịp nằm rạp xuống một bờ kênh thì một tràng đạn 12 ly 7 đã quất xuống, cày sủi một vệt dài .

- Báo cáo anh Năm ! ...

Quay lại, đã thấy một chiến sĩ bị tử thương, máu đỏ một khuôn mặt còn rất trẻ. Anh Năm cúi gục đầu xuống ngực người chiến sĩ. Nhưng không thể nán lại ở đây lâu hơn. Để lại một bộ phận nhỏ lo việc mai táng, anh và mọi người lại lao lên. Trên các cánh đồng, các đơn vị của anh đang tiếp tục cuộc tiến quân cực kỳ gấp rút. Mặt trời đã lặn. Cả một vùng trời đằng tây cháy lên nghi ngút. Ròi bóng tối lan dần. Chỉ còn thấy những bóng người nhấp nhô, ẩn hiện trên màn sáng bạc của đồng nước. Anh Năm vẫn chưa hết nghẹn ngào về cái chết của anh chiến sĩ. 

Bắt đầu phải vượt qua các kênh rạch. Bộ đội không có đủ xuồng. Chủ yếu là bơi, và lội tràn. Trên mấy hướng, bộ đội nghi ngóp tiến, áo quần ướt đẫm, bê bết bùn non. Những kênh rạch mỗi lúc một nhiều hơn, dường như có một sự thách đố đang căng ra trùng trùng trước mắt các chiến sĩ. Đêm càng xuống, gió thổi càng dào dạt, xao xuyến trên khắp các ngọn dừa. Bộ đội đã thấm mệt. Nhiều anh vừa lên được một bờ kênh đã lảo đảo ngã vật, nằm ngất đi đến mấy giây, sau lại cắn răng cố vùng dậy, đuổi theo đơn vị. Khoảng chín giờ đêm, một tin báo về làm cho anh Năm lại bàng hoàng một lần nữa: một đại đội trưởng vì quá mệt và có lẽ bị chuột rút, qua kênh đã bị chết đuối...

Thế là đã hai người hy sinh, trong đó có một cán bộ, trước khi nổ súng! Nhưng chưa hết, bắt đầu có hiện tượng lạc quân. Trong đêm tối mờ, kênh rạch chằng chịt, không dễ gì giữ vững được liên lạc với nhau. Tiểu đoàn 1 đã lạc mất một đại đội, tiểu đoàn 40 cũng vậy. Những người chỉ huy đơn vị đều như cháy ruột. Làm thế nào tìm được họ? Ngẩng lên chỉ thấy một vòm trời với vầng trăng lu, với gió thổi triền miên. Nhìn quanh chỉ thấy mặt đất mênh mông chỗ tối đen, chỗ sáng đục loang lổ. Tất cả đều câm lặng. Chỉ có chốc chốc lại rầm lên tiếng đại bác, tiếng bom.

Tuy vậy, những mũi chủ yếu vẫn tiến được với một tốc độ đáng kể và đã tới gần được mục tiêu. Trước hết là phân đội nhỏ gồm 15 người toàn đặc công nước có nhiệm vụ vượt sông Đồng Nai đánh chiếm đầu cầu phía tây Mười lăm anh em đã gắng sức, luôn luôn bện được với nhau thành một khối. Người khỏe dìu người yếu, không một ai bị tụt lại hoặc bị lạc. Nhưng cả 15 người đều đã gần như thở không ra hơi. Chân tay, mặt mũi đều đã xây sát rớm máu. Mười hai giờ đêm, mới nghe thấy như có tiếng nước chảy trong gió. Và hỏa châu ở phía trước bắn lên nhiều hơn như muốn báo hiệu: sắp tới mục tiêu.

Gần một giờ sáng, 15 anh em tới được bờ sông Đồng Nai! ôi dòng sông quen thuộc mà vẫn xiết bao xa lạ! Nó đây rồi, một dải mênh mông sáng ngời dưới trăng nhạt. Con sông thật trẻ trung và sôi nổi. Dòng nước lấp lánh cuốn trôi mãi tới cuối trời. Dường như mỗi năm con sông này một phình ra, lớn lên mãi cùng với cây cỏ nhiệt đới xanh ngắt, bồng bột ở hai bên bờ. Đồng Nai? Có phải vì đây là vùng Hố Nai, mới cách đây trên mười năm còn là rừng hoang và nai hươu ở những cánh rừng này đã từng nổi tiếng? Nếu quả vậy thì cái tên Đồng Nai có lẽ quá dịu hiền, quá ngây thơ đối với dòng sông lớn, mãnh liệt này!

Mười lăm anh em cùng đứng lặng ngắm dòng sông trong giây phút. Từ chỗ này nhìn chéo về phía tay phải đã thấy cây cầu lớn, bên trên cầu là những ngọn điện thủy ngân cao áp. Cây cầu toàn bê tông cốt sắt. Xa lộ vắt qua nó, chạy dài như cắt ngang lưng trời. Bỗng thấy xúc động rất lạ. Người chiến sĩ đặc công gần như đã không quen xúc động như vậy. Đã phải rèn luyện cho trái tim mình thật rắn, thật lạnh, không dễ vui, không dễ buồn, càng không dễ sợ! Có phải vì đây là một mục tiêu lớn? Nhưng lớn đâu bằng những kho xăng Nhà Bè, những phi trường Biên Hòa, Tân Sơn Nhất ...? Có lẽ bởi đây sẽ là một trận góp phần kết thúc cuộc chiến này, giành lấy thắng lợi hoàn toàn, kết thúc tất cả những chuỗi ngày gian nan, những tháng năm dằng dặc quá đau khổ?

- Chuẩn bị! - Phân đội trưởng, một thanh niên săn dẻo như một cây chàm cất tiếng nói nhanh, sau khi một cụm ba trái hỏa châu ở đầu cầu bắt đầu tắt, kéo theo ba dải khói trắng ngùng ngoằng rớt xuống.

Trong khoảnh khắc cả mười lăm anh em cùng lao mình xuống dòng sông. Họ đã quá quen thuộc với sông nước nên chỉ như những chiếc lá bay. Cũng lúc đó. Ở những lô cốt bên kia sông, nơi đầu cầu, những khẩu súng máy nào đó chợt rộ lên. Đạn lửa cắt là là trên những làn cỏ rối, rồi lả tả rơi xuống mặt sông. Trên xa lộ, một “công voa” hiện lên, ầm ầm vượt qua. Tiếng cây cầu vang vang - Dường như những người đặc công đã nghe được cả tiếng nói của đất, của nước, của cả những dòng sông ... Cây cầu đang mách bảo với các anh về mọi sự hiểm nguy, muốn nói rõ cả những sự bất cẩn của bọn địch. Cây cầu thầm bảo với các anh: Địch chưa đặt mìn. Chúng vẫn còn đang muốn giữ cây cầu này cho tới giờ phút chót...

Mười lăm anh em tiếp tục lướt nhẹ dưới làn nước chảy. Sông càng như thêm rộng mênh mông, hàng trăm thước nước. Cát lầy và cỏ dại kéo dài hai bên. Hàng ngàn, hàng vạn trái mìn ẩn náu, rình rập không biết tự bao năm, có lẽ từ những ngày chống Pháp, trong những bãi cát lầy và cỏ dại ấy. Từ phía chân cầu chợt rực lên một luồng ánh sáng rất mạnh. Tiếp đó là tiếng máy nổ ran. Hai chiếc giang thuyền tuần tiễu, loại cực nhanh không rõ đã đãnh hơi thấy những gì, đang lao lới, nước xe ra thành hai chiếc cánh trắng trước mỗi con tàu. Chúng vừa chạy vừa bắn.

- Bình tĩnh! - Phân đội trưởng vừa thét lên, đã thấy hai chiếc giang thuyền như hai con quái vật trên mặt sông chồm tới trong những luồng ánh sáng chói lòa...

*
*   *
Giữa lúc đó. những phân đội khác của tiểu đoàn 19 (trừ mười lăm chiến sĩ đang vượt sông và một đại đội bị lạc) cũng vừa vặn tới xáp xa lộ. cách khu cư xá hải quân ở đầu cầu phía đông chừng ba trăm mét. Từ đây nhìn với lên phía trước dưới ánh trăng mờ, thấy được toàn cảnh cây cầu mục tiêu nóng bỏng của không phải riêng tiểu đoàn mà toàn cánh. Nó kia rồi! Nó hiện lên, dưới ánh trăng và những ngọn điện, trắng xóa như toàn bằng thạch cao và con đường giống một tấm thảm bằng thép dát. Tấm thảm trải dài tận đâu đâu lao tới vắt qua cây cầu rồi băng đi mãi, mất hút ở chân trời xa sáng bạc ánh trăng.

Tất cả các chiến sĩ ở đây cũng đều bỗng cảm thấy một cảm xúc khác lạ và một niềm khao khát căng thẳng. Từ trước tới nay, mỗi lần vào trận, trên các trục lộ giao thông, khi đã cất đầu lên nhìn thấy những cây cầu là chỉ nghĩ ngay tới việc phá sập. Khi những tiếng nổ kinh khủng vỡ ra với tất cả những tia lửa, những mảnh xi măng, sắt thép, thì những người đặc công cũng cất lên những tiếng cười sảng khoái nhất. Nhưng đêm nay thì khác. Cây cầu! Nó kia rồi, trắng toát. Đẹp quá! Đêm nay, những người đặc công không giết chết nó, mà sẽ nâng niu nó. Như thế đấy, cũng đôi bàn tay này, từ đêm nay và có lẽ mãi mãi sẽ chỉ làm những công việc giữ gìn, bảo vệ và dựng xây chăng? ...

Tiểu đoàn trưởng, một người con ở chiến trường, cũng từng lăn lộn khắp vùng ven đô, mím chặt đôi môi, mắt mở căng, nằm dán mình trong đám cỏ. Quân của anh đã dàn đội hình xong xuôi, chỉ còn đợi giờ nổ súng. Từ đây tới cây cầu kia chỉ có "ba bước chân". Thật gần mà cũng thật xa. Nhưng không khó khăn gì nữa. Những người đặc công một khi đã vào bám sát được mục tiêu một cách êm gọn thế này, chiến thắng coi như đã cầm chắc trong tay. Giờ đây tất cả vấn đề chỉ là ở chỗ sau đó làm sao giữ được nó. Từ trước tới nay đặc công chưa bao giờ đánh phòng ngự. Đây là lần đầu phải! Lần đầu nhưng cũng sẽ là lần cuối chăng?

Lại một "công voa" nữa trên hai chục chiếc chạy qua. Những khối sắt thép lướt loang loáng trong những làn ánh đèn dệt liền thành một dòng ánh sáng trên mặt đường. Bóng những tên lính ngất ngưởng trên các thùng xe - Y như Mỹ! Nhưng Mỹ cút rồi! Đây là những cái bóng của Mỹ. Những cái bóng thật xấu xí. Trực thăng đêm vẫn còn bay. Đèn đỏ, đèn xanh như những ngôi sao lạc. Dữ dội nhất vẫn là trọng pháo. Tiếng nổ thật tàn phá và quyết liệt.

Bỗng thấy dưới sông rộ lên tiếng giang thuyền rồi tiếp đó là những tràng súng liên thanh, trái tim tiểu đoàn trưởng thoáng như đứng lại. Anh ngoái nhìn chính trị viên. Tiếng súng nổ phía hạ lưu? Có cả tiếng cối từ những lô cốt ở đầu cầu và gầm cầu nổ chát chúa.

Nhưng tất cả chỉ diễn ra trong khoảng mười phút rồi bỗng im bặt. Sự im lặng này là tin vui hay tin dữ đây? Cây cầu vẫn trắng xóa, lồ lộ. Bóng những tên lính gác nhòm nhòm ngó ngó xuống sông.

Tiểu đoàn trưởng nhích dần về phía trước. Một thân hình chắc lẳn đang nằm nghiêng nghiêng.. Dưới ánh sao đêm, một khuôn mặt rất đẹp hiện lên. Anh mỉm cười, Khánh Hồ Gươm đêm nay sẽ đảm nhiệm cùng với út An Phú Đông nhiệm vụ đầu tiên. Út An Phú Đông đang ôm cây tiểu liên, quanh mình đầy những gói thuốc nổ và lựu đạn, nằm chếch về phía trước, toàn thân anh nhỏ thó như một chú bé.
Chiếc kim trên mặt đồng hồ vẫn chạy bồi hồi ....

Ở đầu cầu phía tây, bên kia sông đột ngột đỏ rực lên, tiếp đó là năm tiếng nổ rất mạnh.

“Anh em ta! Xong rồi!" Tiểu đoàn trưởng muốn bật reo lên. Mười lăm chiến sĩ đặc công nước thế là vẫn còn và chiến thắng!

Ngay tức khắc, toàn bộ lực lượng ở đầu cầu bên này cùng nổ súng. Bộ phận đánh chiếm dãy cư xá hải quân (nay do bọn bảo an ác ôn giữ) nhanh chóng ập tới, đèn phụt tắt. Bọn lính và sĩ quan la lối ầm ĩ "Việt cộng! Việt cộng!". Một vài khẩu liên thanh bắn ra. Nhưng sao kịp nữa! Những trái lựu đạn, thuốc nổ đã cùng một loạt bay lọt vào các ô cửa. Bằng ấy ngôi nhà cũng nổ tung. Lửa phì ra từng lưỡi dài khỏi các khung cửa đã bay hết cánh - Những bóng lính rơi lả tả. Một tên thét lên như đã hóa rồ, hai tay ôm chặt lấy đầu, từ trên tầng lầu cao nghi ngút khói nhào thẳng xuống mặt đất. Năm sáu tên khác, ở tầng dưới, đầu tóc đều cháy bùng bùng, y như năm sáu cây đuốc sống. Chúng vừa lao ra ngoài được vài ba bước, đã ngã chồng lên nhau. Lửa tiếp tục cháy khét trên những xác người. Những cây tiểu liên đặc công rít lên, ghim đạn như mưa vào các mặt nhà.

- Báo cáo! Cư xá đã hoàn toàn giải quyết xong.

- Tốt! Đầu cầu xong chưa? Báo cáo đi! Sao vẫn còn thấy B40 nổ?

Trong tiếng gió rống với lửa cuốn, trong tiếng súng tới tấp những tiếng báo cáo truyền miệng lan dài về phía sau.

Những chiếc lô cốt bao cát như những quả trứng thối đã bị đập vỡ tung tóe. Lửa cháy nơi này nơi khác. Lửa đỏ trên những tấm áo ngụy, lửa chấp chới trên những báng súng và giày lính. Riêng cây cầu vẫn y nguyên. Một tổ ba chiến sĩ đặc công lao lên giữa cầu, gió thổi dựng đứng những mái tóc rậm.

Chính trị viên cũng chạy lên. Đúng lúc ấy, anh nhìn thấy ở đầu cầu bên kia, 15 đồng chí của anh cũng đang reo hò nhảy nhót chạy sang. Tất cả cùng ôm chầm lấy nhau, vật nhau lăn bon bon trên mặt cầu.

Với những người đặc công, những trận đánh, dầu ác liệt đến đâu cũng vẫn thường chỉ diễn ra chớp nhoáng có vậy

- Báo cáo về đoàn và anh Năm: cầu Đồng Nai đã hoàn toàn!

Tiểu đoàn trưởng đứng xế bên dãy cư xá hải quân đã dày đặc vết đạn như những tổ ong khổng lồ, cất tiếng nói. Trước mặt anh là cây cầu vẫn rờ rỡ sáng, dướn lên thành một đường cong pa-ra-bôn phớt nhẹ, vắt dài qua sông, nguyên vẹn. Trắng lóa. Đẹp lạ lùng! ở hai đầu cầu, công sự, lô cốt đều đã be bét. Xác lính ngụy nằm rải trên mặt đường. Có tên chết nằm vắt ngang những tấm xi măng thấp ngăn đôi lòng đường theo dọc lộ. Không ít tên đã biến mất hẳn trong những bãi mìn của chính bọn chúng gài ở hai bên đường.

- Thương vong bao nhiêu, các phân đội báo cáo đi !

Con số quá nhỏ. Chỉ có ba chiến sĩ bị thương! Không một ai hy sinh! Ba chiếc cáng lần lượt được khiêng qua trước mặt tiểu đoàn trưởng. Các thương binh đều ngóc đầu lên và giơ tay vẫy vẫy. Chưa bao giờ tiểu đoàn trưởng được chứng kiến cảnh những cáng thương chuyển khỏi mặt trận như đêm nay: ba chiếc cáng kiêu hãnh đi xuyên qua những làn khói, hiện ra dưới ánh điện cầu đi trong những tiếng nói cười bồng bột, trong tiếng trọng pháo của quân ta đang nã dồn dập phía Nước Trong và Thành Tuy Hạ ...

- Tất cả về vị trí! Chuẩn bị đánh quân phản kích!

Mệnh lệnh được phát tiếp. Tiểu đoàn trưởng và chính trị viên cùng đi lên cầu. Các anh bỗng có cảm giác như cây cầu được lát toàn vàng. Nó đang dẫn quân ta tiến thẳng vào Sài Gòn - Gia Định...

Chính trị viên cất tiếng:

- Không rõ các nơi khác thế nào nhỉ? Chắc cũng xong rồi. Thấy êm lắm! Quái! Từ nẫy tới giờ chưa thấy có một quả nào của nó rót tới đây!

*
*    *
Điện đài trong chỉ huy sở làm việc liên tục từ lúc lên làn sóng hồi 24 giờ đêm. Hầm chật chội và sơ sài. Anh Năm và các anh khác trong Ban chỉ huy gần như nằm bò trên tấm bản đồ lớn để thảo luận, nhận định và xử trí...

Cầu Đồng Nai đã xong. Đại đội trinh sát cũng đã hoàn thành giòn giã nhiệm vụ đánh chiếm khu Bến Gỗ! Tiểu đoàn 25 đã lọt được vào tổng kho khổng lồ ở Long Bình chiếm một khu vực nhằm bảo vệ sau lưng cho đơn vị chiếm cầu Đồng Nai. Tiểu đoàn 40 cũng đã triển khai rất nhanh, sau khi Bến Gỗ bị hạ, sẵn sàng làm đội dự bị cho toàn cánh. Chỉ riêng các đơn vị trước có nhiệm vụ vào tận cảng Bạch Đằng tấn công Bộ chỉ huy hải quân ngụy đã được lệnh hồi trưa chuyển sang đánh chiếm cầu Rạch Chiếc (cây cầu giữa đường từ Biên Hòa vào Sài Gòn) chưa nổ súng được, vì lệnh tới quá gấp. các cán bộ đi nghiên cứu địa hình chưa về đơn vị kịp. Đêm mai 27 tháng 4 năm 1975 họ mới có thể hành động.

Ban chỉ huy nhận định: như vậy về cơ bản trong đêm đầu, nhiệm vụ của toàn cánh đã được thực hiện rất tốt. Các anh nhận định tiếp: địch chắc chắn sẽ phản ứng mạnh. Và đấy mới là giai đoạn khó khăn nhất đối với đặc công, những chiến sĩ xưa nay chỉ quen tấn công chớp nhoáng rồi lui quân cũng chớp nhoáng, chưa quen giữ đất...

Chỉ huy sở bắt đầu di chuyển, ngay khi chưa rạng sáng. Chi khu Bến Gỗ được quyết định chọn làm hậu cứ của toàn cánh.

Nhạt bóng đêm. Đúng như dự đoán, trên vòm trời vẫn còn nhấp nháy những vì sao lẻ, pháo của bọn ngụy đã từ quân trường Thủ Đức và thị xã Biên Hòa bắt đầu bắn tới. Đạn như xé vải trên không trung. Căn cứ Bến Gỗ của địch đã bị đánh trong đêm, giờ đây lại bị hủy diệt lần thứ hai. Thị trấn cũng bị bắn phá. Tất cả chìm ngập trong một biển khói. Lửa lằng nhằng. Đất, đá, tôn, xi măng, hòm đạn, lều vải, gạch ngói ... bay lên thành những trận mưa kỳ dị trút xuống sầm sập khắp thị trấn.

Nhưng pháo ở cầu xa lộ dữ nhất. Đứng ở chi khu Bên Gỗ cách cây cầu ba cây số, nghển cổ nhìn lên khỏi miệng hầm thấy khói đen kịt cả một vùng trời. Tin điện từ trung đoàn 116 báo tin về liên tục:

- Mười lăm chiến sĩ ở đầu cầu Đồng Nai phía tây đã phải lui xa ra phía ngoài ém lại vì địa hình quá trống trải ...

- Các lực lượng ở đầu cầu phía đông cũng bị bắn phá rất mạnh, đang trụ lại trong mấy chiếc lò gạch...

- Địch đang từ phía Biên Hòa vượt qua tiểu đoàn 25 tràn tới, toàn bằng cơ giới ...

- Chúng cố mở đường nhằm chiếm lại cây cầu...

- Máy bay địch đã tới oanh tạc ...

- Đã có một số chiến sĩ thương vong ...

- Lò gạch đã bị phá hủy một phần. Một số xe địch bị bắn cháy. Nhưng một số đã vượt được qua cầu ...

- Địch vẫn đang tiếp tục dồn tới. Xe gần như kín cả một đoạn đường dài. Hỏa lực chúng rất mạnh...

- Thêm một số chiến sĩ nữa thương vong ...

- Việc chuyển tải thương binh về phía sau đang gặp nhiều khó khăn vì pháo địch phong tỏa...

- Các chiến sĩ ta, cả 25, cả 19 vẫn đang cố bám lấy từng tấc đất. Về cơ bản, vẫn kiểm soát được cây cầu. Nhưng pháo địch vẫn tiếp tục bắn, bộ binh cơ giới địch vẫn tiếp tục tràn tới ...

Anh Năm, cúi xuống nói như gào lên bên tai anh chiến sĩ giữ máy thông tin:

- Hỏi các đại đội bị lạc đêm qua đã tìm thấy chưa? Trả lời ngay!

- Lệnh cho tiểu đoàn 40 sẵn sàng!

Rồi anh nói với tham mưu trưởng mồ hôi đang chảy dài nơi thái dương:

- Bằng mọi giá: chuyển ngay đạn B40 cho trung đoàn 116, để trung đoàn ấy chuyển tiếp ra trận địa đầu cầu.

Rồi anh với Chính ủy cùng đi thẳng ra trận địa.

Lúc đó đã quá trưa. Mặt trời rung rinh ở trên cao khi hiện ra đỏ như máu, khi tối xầm lại sau những đám khói từ những trận địa, và những nơi bị oanh tạc ở khắp nơi đang cuồn cuộn bốc lên.

Hai anh cùng những chiến sĩ bảo vệ, điện đài, theo dọc lộ chạy dốc. Súng vẫn nổ bốn bề. Súng địch và súng ta. Súng trên xa lộ, súng ở Biên Hòa, ở Nước Trong. Ở Long Thành, ở Thành Tuy Hạ... Dọc đường, xe lam, xe đò xe gắn máy la liệt. Cái nằm trên mặt lộ, cái nhào xuống ruộng, cái húc vào cột đèn. Dân chúng bồng bế, dắt díu nhau rùng rùng ngược chiều chạy trở lại.

- Các ông Giải phóng ơi! Về lẹ! Về lẹ đi, kẻo lính chúng nó chạy đang cướp sạch, giết sạch bà con! Các ông ơi! ...

- Ở Long Bình. Chúng nó đang vỡ! Chúng nó đang cố chạy vô Sài Gòn! Lẹ lên! Lẹ lên các anh Cách mạng ơi! ...

- Ở Biên Hòa họ cũng đang chạy! Gắng lên! Gắng lên mấy anh1 ...

- Thôi phen này mất sạch! Nhưng Giải phóng về được là mừng rồi!

- Xe đây! Có xe đây mấy anh! Để em chở cho! Một Jeep nghe? Honđa nghe? Có ngay? Có ngay.

Người chạy mỗi lúc một đông. Nhưng cũng thật lạ, người cần chạy cứ chạy người không cần chạy vẫn không chạy. Một số cửa tiệm ăn uống lẻ ở dọc lộ vẫn mở cửa. Những ông chủ tiệm, thậm chí cả gia đình họ và khách hàng đều đổ ra trước cửa, ngóng về xa lộ cười nói như xem hội, áo quần xanh xanh đỏ đỏ.

- La-de mấy chú! Uống ly la-de rồi uýnh cho thêm mạnh? Không dám lấy bạc của mấy chú đâu? Hay xài thuốc thơm? Capstan, Sa lem đây mấy chú!

- Cô ca đây! Cô ca đây! Xin một li nghe, mấy ông? Trời, Giải phóng, coi hùng quá ta mà cũng trẻ quá ta!

Những cô gái không đẹp lắm như phần đông con gái ở miền này, nhưng vóc người chắc lẳn, dong dỏng cao, nom thật khỏe và trẻ trung, phóng những chiếc hon-đa vù vù về phía trước.

- Tự vệ đó, mấy anh! Bữa nay mới rõ mấy cổ cũng là người cách mạng.

Có cả những chàng trai tóc hippi dài như bờm ngựa, áo sơ mi sặc sỡ bó lấy những tấm thân gầy nhẳng, quần pát (Quần ống loe.) cũng phóng xe như bay ra xa lộ. Xe nào cũng đèo theo những hòm đạn hoặc hòm thuốc nổ. Những lá cờ Mặt trận may kín tự lúc nào reo réo trên các tay lái.

Đoàn anh Năm ra tới khu lò gạch vừa lúc một đợt phản kích bị đánh lui. Mặt trận tạm lắng dịu trong chốc lát. Trên xa lộ, chỉ còn thấy xác những chiếc xe GMC và một chiếc xe tăng bị bắn gục, còn đang khói nghi ngút. Máu người, dầu xe loang lổ khắp nơi. Cây cỏ hai bên lộ đều đã trụi nát. Đất đá cồn lên, xáo trộn, cháy xém.

Có tiếng rên rỉ yếu ớt của những tên lính ngụy bị thương ở bên kia đường. Trên đầu cầu, năm sáu tên khác đã chết, còn nằm đó, những cây tiểu liên cực nhanh, những cây ga-răng văng ra xa cùng với những chiếc nón sắt, cái đã bẹp dúm, cái lỗ chỗ mảnh đạn. Mặt trời như một con mắt chột bàng hoàng nhìn xuống bãi chiến trường. Gió giận dữ thổi tung khỏi mặt lộ và các đám cỏ cháy ở hai bên từng nắm bông băng. Những dải băng bẩn thỉu đầy máu kéo dài lê thê, như giỡn nhau, đuổi nhau mãi trên mặt lộ. trên các xác người ...

Hai anh chỉ huy cùng khom mình, trườn qua một lỗ đại bác phá rộng. chui vào trong một lò gạch. Các chiến sĩ đều ngẩng lên. Những cặp mắt gặp nhau. Nước mắt mừng vui, cảm khái dường như cùng muốn chảy ra. Những người chỉ huy xiết chặt từng bàn tay, áo người nào cũng bết mồ hôi, bết máu và đất cát. Những mái tóc rối bù, đầy bụi gạch đỏ kè. Những gương mặt như lạ hẳn và già hẳn đi. Chỉ có những nụ cười là vẫn vô cùng quen thuộc, vẫn hết sức trẻ trung.

- Các em đấy ư?

Các anh chỉ thốt lên được một câu như vậy. Nhưng các chiến sĩ đều nở những nụ cười thật vui và kiêu hãnh, Ai cũng hiểu câu hỏi dù chỉ ngắn ngủi, đơn giản vậy thôi nhưng đã có đầy đủ ý nghĩa của tất cả những lời khích lệ biểu dương, và yêu quí...

- Các em đấy ư?

Câu hỏi cũng là một lời khẳng định: thế là chúng ta, những người đặc công không những đã tiến công thắng lợi mà còn trụ lại được. Thế là chúng ta đã tìm ra được một đáp số: “đặc công có thể đánh được cả phòng ngự"

Tiểu đoàn trưởng và đại đội trưởng đã có mặt. Tuy nhiên, không phải chỉ nghe báo cáo, anh Năm và chính ủy mới có thể hiểu được những gì xảy ra ở đây suốt từ mờ sáng. Chỉ nhìn quang cảnh bên ngoài, với vẻ mặt các chiến sĩ, hai người chỉ huy cũng đã có thể biết: ở đây, trên từng tấc đất, cuộc vật lộn đã diễn ra tại sao. Ở đây, các chiến sĩ của chúng ta dường như đã phải lấy cả răng mình cắn chặt lấy từng tấc đất thiêng liêng. Ở đây, mỗi tấc đất không phải chỉ là một tấc vàng mà còn là một bát máu!

- út An Phú Đông! Hai anh dừng lại trước anh chiến sĩ trẻ, người bé quắt và rắn như một nắm đất ấy. Đầu và mặt út đã quấn đầy băng, nhưng hai anh vẫn nhận ra cặp mắt gà chọi lồi lồi bướng bỉnh, gan góc quá đỗi thân thuộc.

- Khánh Hồ Gươm đâu?

- Có em đây!

Một chiến sĩ mình đầy bụi gạch đang nằm ôm một cây trung liên hướng ra phía xa lộ, bật đứng dậy. Khánh tới gần, hai anh nhìn thấy một bên chân Khánh đã cứng đơ cũng quấn băng đỏ máu.

Khi hai anh di chuyển tới các ổ chiến đấu khác, vẫn còn nghe thấy tiếng huýt sáo trong trẻo bay lượn theo: "Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây...".

- Báo cáo! Chúng lại đến!

Tiếng một chiến sĩ nào đó trèo lên trên bức tường đổ cửa lò gạch, lập một "đài quan sát" ở trên cao, chợt reo lên. .

- Đông quá sá! Nhiều xe dữ! Dễ tiểu đoàn hăm lăng (25) trên đó quét cũng đã quá trời, mà sao chúng vẫn còn lọt tràn?

- Các đồng chí đảng viên! Các đồng chí đoàn viên1 Các chiến sĩ yêu quí! Hãy kiên quyết tiêu diệt địch, giữ vững vị trí, giữ vững cây cầu!

Chính trị viên đại đội, đầu trần, tay trái bị thương đeo trước ngực, tay phải lăm lăm cây AK, bước lên một đống gạch đổ, hô lớn.

Cùng lúc đó, anh chiến sĩ trên "đài quan sát”, lại reo lên:

- Phía sau, có nhiều Hon-đa đang chạy ra! Bụi nhiều dữ! E tiếp tế đạn ra chăng? ... Đã nom thấy cờ Mặt trận. Báo cáo! Đúng rồi! Cờ Mặt trận! Cờ Mặt trận! ...

Tiểu đoàn trưởng mặt nhem nhuốc thuốc đạn và bụi gạch, cặp mắt sáng long lanh, đứng nghiêm lại:

- Vậy hay quá! Xin các đồng chí lui lại cho, để chúng tôi lại ra tay. Xin hứa với Ban chỉ huy: Người còn, cầu còn !

Trong ráng chiều muộn, cây cầu bỗng vàng rực hẳn lên. Dòng Đồng Nai cũng như đồng thau từ một lò nung khổng lồ nơi chân trời đang tuôn chảy mênh mang, sáng lòa, làm cho cây cầu càng kỳ ảo như trong một thần thoại.

5
Đêm ấy, đến lượt cây cầu trên sông Rạch Chiếc, cây cầu quan trọng thứ hai trên xa lộ - và cả cây cầu trên sông Sài Gòn bị quân ta đánh chiếm.

Lực lượng đánh chiếm cầu Rạch Chiếc là những đơn vị thuộc lữ đoàn 316 và đơn vị chiếm cầu Sài Gòn thuộc Thành đội Sài Gòn - Gia Định. Thế là toàn bộ những cây cầu lớn và trọng yếu trên suốt xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn, con đường sống còn của ngụy đã bị các đơn vị đặc công và biệt động ta đột ngột "nhảy dù” đánh chiếm.

Đêm thứ nhất, thì cầu Đồng Nai mất, Sài Gòn đã rất lo lắng. Qua đêm thứ hai, mất tiếp hai cây cầu nữa, Sài Gòn dường như không thể chịu nổi.

Cũng vì vậy từ mờ sáng ngày 28 tháng 4, ngày thứ hai của trung đoàn 116 trên cầu Đồng Nai (và là ngày đầu tiên của các đơn vị thuộc 316 trên cầu Rạch Chiếc), Sài Gòn đã nã pháo ra rất dữ. Dữ nhất và kéo dài nhất là trận pháo kích trên cầu sông Đồng Nai: bốn giờ liền. Pháo từ Biên Hòa bắn xuống. Pháo từ Thủ Đức bắn lên. Bốn giờ liền pháo nổ như không dứt tiếng trên cả hai khu vực đầu cầu và cả chi khu Bến Gỗ ở gần đó. Dân chúng hai bên xa lộ vừa sợ bị thiệt hại, vừa không chịu nổi sóng xung kích và những tiếng nổ chấn động đến lộng óc đã dắt díu nhau chạy khắp các nẻo đường. Người tị nạn cứ xuyên qua các làn khói mà chạy. Hon-đa, Lambro, xe đạp ba gác... chất đầy người và đồ đạc. Có chiếc xe Hon-đa chở tám người vừa ông già vừa trẻ nhỏ. Họ ngồi ôm chặt lấy nhau thành cả một đống người như làm xiếc. Cũng có nhiều người chạy bộ, áo quần tơi tá. Họ cứ hướng về phía trận tuyến của các chiến sĩ ta mà chạy tới, lử lả lê lết.

Pháo vẫn nhiều, vẫn quá dữ! Vừa thương, vừa lo cho anh em. Lại lo, lại thương cả cho dân.

Trước mắt anh Năm. anh Bảy lại như vẽ ra hình ảnh những chiếc lò gạch đã sụp đổ gần hết ở đầu cầu Đồng Nai với những hầm hố ở chung quanh đã be bét hố bom, hố pháo. Lại như vẽ lên trước mặt các anh từng gương mặt chiến sĩ với áo quần bê bết bùn đất và máu tươi. Phần lớn anh em đã bị thương hoặc vừa hoặc nhẹ. Phần lớn súng đã hỏng hóc và đạn đã gần hết ... Nhưng chỉ có một điều vẫn thừa tràn và tươi rói: ấy là tinh thần hy sinh quyết tử. Hầu như tất cả các chiến sĩ đều đã nói với các anh một câu tương tự như nhau: " ... Bọn em sẵn sàng nằm lại đây, dù mãi mãi, ở đây, lấy thân mình làm cây cầu cho quân ta vượt qua sông tiến vào Sài Gòn".

Anh Bảy và anh Năm chưa vào được với các đơn vị đánh cầu Rạch Chiếc. Nhưng cứ như các tin điện trong đêm của các anh Tư Thỉnh, Bảy An, Tư Một đánh về thì cũng có thể hiểu được phần nào cả cuộc chiến đấu ở đấy. Cũng đang hết sức gian nan và oanh liệt.

Anh Tư Thỉnh báo cáo: Khi một bộ phận vừa mới vượt sông Rạch Chiếc đã có thương vong: một trung đội trưởng và hai chiến sĩ. Tàu bo bo bắn đỏ cả mặt sông. Đại liên địch bố trí ngầm ở gầm cầu bắn rất ác.

Khi các đơn vị ở hai đầu cầu cùng xung phong, địch chống trả rất dữ, bởi đã đề phòng từ sau khi cầu Đồng Nai bị đánh. Ngoài ra, bọn địch ở nhà máy xi măng, nhà máy điện ở gần đầu cầu cũng phối hợp bắn cắt chéo sườn quân ta, gây rất nhiều khó khăn. Thêm một đại đội trưởng hy sinh, nhiều chiến sĩ bị thương. Nhưng cuối cùng, vẫn với truyền thống bất hủ, vẫn lối đánh tuyệt vời dũng cảm của những người đặc công, chỉ sau hơn 20 phút toàn bộ cây cầu đã bị anh em ta kiểm soát. Bây giờ, anh em ở đó cũng giống như ở Đồng Nai, đang nghiến răng chịu đựng bom pháo để rồi sẵn sàng "nói chuyện" với những lực lượng phản kích...

Cho tới gần mười giờ mới thấy im tiếng pháo lớn trên sông Đồng Nai. Bầu trời mặt đất, chợt như tan loãng ra, chìm hẳn xuống trong một sự im lặng lạ lùng, như không có thực.

- Sắp có bộ binh và cơ giới phản kích đó!

Anh Năm phán đoán. Những điếu thuốc đã liên tục cháy nhuộm đen kịt cả hai đầu ngón tay anh. Anh lại xòe bật lửa đốt tiếp điếu khác, bập bập khói gần như nhai nát cả điếu thuốc. Đêm qua, Ban chỉ huy đã tính toán bổ sung lại một lần nữa kế hoạch đánh địch ở khu vực cầu Đồng Nai. Để có một chiều sâu phòng ngự, và đủ cho tiểu đoàn 19, các tiểu đoàn 25 và 40 đã được lệnh tổ chức đánh địch có hiệu lực và quyết liệt hơn nữa.

Tất nhiên địch vẫn còn có thể tràn qua 25 và 40 để vào chạm 19. Nhưng vào được đó, sức đột kích hẳn đã yếu đi nhiều ... kế hoạch đã rất cụ thể. Nhưng dầu sao riêng anh Bảy vẫn cứ lo lo. Là một cán bộ chính trị. anh luôn luôn lo nghĩ nhiều hơn là vui mừng thoải mái. Những nỗi lo như xếp hàng ở trên vầng trán của anh, và như luôn luôn bay quẩn cùng với những đám khói thuốc đặc sệt, rít rất sâu và nhả rất chậm của anh. Anh lo cho 25, lo cho 40. Nếu họ không "làm ăn" được tốt thì sao? Có nguy cơ 19 lại phải bật ra xa khỏi đầu cầu. Anh cũng lo cho cả các đơn vị ở Rạch Chiếc. Họ quá đơn độc, xa chỉ huy. Cũng có nguy cơ họ sẽ bị địch giành lại mục tiêu...

- Sắp có phản kích rồi đó! - Anh Năm khàn khàn nhắc lại.

Quả nhiên, chỉ hai mươi phút sau đã có tin kịch chiến. Và cũng đúng như sự tính toán, trận kịch chiến đã nổ ra ở khu vực chốt chặn của các chiến sĩ tiểu đoàn 25 và tiểu đoàn 40.

Cả sở chỉ huy lại theo dõi trận đánh qua điện đài một cách căng thẳng.

"Chúng chết nhiều quá sá.”

Chúng vẫn lao tới như điên. Chúng đang hô: “tiêu diệt Việt cộng, giữ vững thủ đô!"

Đã hơn 10 giờ. Mặt trời lại chói lợi, ngạo nghễ đứng sững trên vòm trời. Khắp bốn phía vẫn tiếp tục ran lên tiếng súng. Mười giờ ba mươi. Nóng bức và ngột ngạt. Mồ hôi ròng ròng trên tất cả các khuôn mặt. Khát đến cháy cổ. Đầu óc như nung. 14 giờ.

“…Chúng lui rồi! Lui rồi! Chúng lui xa rồi! Báo cáo! Máu chảy đỏ cả mặt lộ, nom dễ sợ!".

Bấy giờ mới thở trút ra được. Những cặp mắt khẽ nhắm lại trong một niềm vui và cả một sự mệt nhọc ghê gớm.

Nhưng chỉ hơn nửa giờ sau, lại có tin về một đợt phản kích mới ở Đồng Nai cùng với tin xe tăng địch đang áp gần sát cầu Rạch Chiếc. Những cặp mắt lại căng ra cùng với những vành tai đỏ lựng, và những giọt mồ hôi lại thánh thót rơi.

Rồi đợt phản kích thứ ba.

Đợt thứ tư.

Cho tới đợt thứ năm ...

“Báo cáo chúng tôi sắp hết đạn". 

Lần này anh Năm bỗng cảm thấy có một lưỡi dao sắc nào đó lướt qua gáy mình.

"B.40 chỉ còn một số khẩu dùng được. Mỗi khẩu chỉ còn một trái đạn! ...”

"Địch vẫn đang tiếp tục mở đường. Nhiều loại, cả dù, cả biệt động, cả thuỷ quân lục chiến ... Rõ! Rồi! 

Rồi! Tàn binh của chúng vẫn nhiều hơn. Nhưng đây là tàn binh vẫn còn chỉ huy. Toàn ác ôn, chúng dám chết lắm ...

Ghê gớm hơn nữa: Tin Rạch Chiếc chợt bay về: Địch đã cướp lại được cầu. Anh em đã phải tạm dạt ra xa vài trăm thước ...

Ngày 28 tháng 4 năm l975! Những đơn vị đặc công, biệt động trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa này đã gọi nó là “ngày phản kích". Anh Năm ngửa mặt nhìn lên bầu trời chiều đang vần vũ một cơn mưa đầu hè. Mây đến bay cuồn cuộn như trăm nỗi lo lắng trong lòng anh. Đại quân! Đại quân đâu? Sao vẫn chưa tới nơi. Chưa bao giờ anh thấy thấm thía bằng lúc này ý nghĩa của hai tiếng Đại quân. Chúng tôi đã và đang cắm sâu lưỡi dao sau lưng địch để đón chờ các đồng chí! Chúng tôi đã vào đây và đang nghiến răng lại để đứng vững. Ở đây cơ bản là vùng sau lưng địch. Chúng tôi đang chiến đấu trong một hoàn cảnh đặc biệt và theo một kế hoạch đặc biệt, chưa từng có!

Nhưng rồi y như những kỹ sư trong một sở chỉ huy trên phi cảng. trước tình hình khó khăn của những chiếc máy bay đang ở trên không trung, đã không ngừng hướng dẫn từng động tác cần thiết cho các phi công xử lý anh Năm và chính ủy Bảy cùng Ban tham mưu cũng đã liên tục trao đổi ý kiến và liên tục điện xuống hướng dẫn và cổ vũ các đơn vị. Mặt khác, một tổ phái viên cũng được tung ra ngay hỏa tuyến.

Cơn mưa tan dần. Nhưng trời vẫn đầy mây. Gió thổi lay phay. Dưới mặt đất, các cuộc chiến đấu vẫn diễn ra trong bầu không gian thật ảm đạm, những trận địa pháo vẫn liên tục nhả đạn. Trên xa lộ, những đám quân ngụy như những làn sóng đục vẩn, lúc trào lên, lúc rút. Để rồi lại hung hăng trào lên và lại rút lại.

Chính trong lúc đó, những phi đội oanh tạc của chúng ta cất cánh nhằm thẳng sân bay Tân Sơn Nhất lướt tới ...

Đó là trận oanh tạc có một không hai trong lịch sử cứu nước, giải phóng miền Nam - trận oanh tạc đã đột ngột nổ ra như để góp thêm một đòn đánh sụp hẳn những cái gì đang sụp đổ ở Sài Gòn và quất thêm một lần nữa vào đít tên cướp Mỹ, buộc nó phải cút khỏi xứ sở này nhanh hơn. Trận oanh tạc đã được giữ tuyệt đối bí mật, và diễn ra quá đột ngột, cho nên không mấy ai biết rõ.

Những chiến sĩ đặc công cũng vậy. Trên các tuyến phòng ngự ở các đầu cầu, trong các lò gạch đã đổ nát hoàn toàn, trong các lô cốt đoạt được của địch, anh em vẫn còn đang mải mê lia, quét những tên ngụy xốc xếch, bẩn thỉu liều lĩnh xông tới.

Cho nên khi tiếng bom rền lên nặng nề ở xa xa, phía bắc mặt trận, ít người để ý tới. Chỉ có anh Năm lắng nghe rồi lẩm bẩm:

- Nó lại ném chặn trên lộ 13 hoặc quốc lộ Một, nẻo Trảng Bàng - Hóc Môn, để chặn bước tiến các binh đoàn của ta ở hướng đó đấy mà. Nhưng khéo nó cũng đã “ngửi" thấy cả cái gì rồi cũng nên!

Rồi anh bỗng bật cười ha hả. Tham mưu báo cáo: đợt phản kích thứ năm của địch bị đẩy lùi.

Bước qua ngày 29.

Khác hẳn với hôm trước: cả buổi sáng nay mặt trận trên xa lộ khá yên tĩnh. Trong khi đó, trực thăng Mỹ như chuồn chuồn vỡ tổ, bay tới tấp trên bầu trời. Chưa bao giờ thấy nhiều trực thăng đến như thế. Các chiến sĩ đặc công đóng trong công sự ngửa mặt nhìn lên, không khỏi ngạc nhiên. Tất cả những con "còng cọc" ấy cứ nối đuôi nhau lao ra hướng biển, nơi mặt trời đang mọc, rồi từ phía đó hấp tấp quay trở lại thành phố.

- Có lẽ chúng bốc hết dân đi chăng?

- Đại quân! Đại quân! Sao vẫn chưa thấy nhào "dô"?

Mặt trận trên xa lộ vẫn im lặng - Sự im lặng phập phồng căng thẳng. Chưa một ai ở đây đã sớm nghĩ tới một sự kết thúc. Ai ai cũng biết: địch vẫn còn đầy trên vùng Biên Hòa, Bình Dương, Hố Nai, Trảng Bom... Bởi vậy những cây cầu chắc chắn vẫn còn là những điểm rực lửa trên con đường sống còn phía đông này.

Không sai! Mười hai giờ trưa tất cả các đài quan sát của trung đoàn 110 báo cáo về: địch lại xuất hiện. Hôm nay có nhiều tăng. Bụi mù cả một đoạn đường dài. Bộ binh địch cũng đông gấp bội. Nhưng đặc biệt, hôm nay hầu hết chúng đều từ hướng Biên Hòa đổ xuống, từ đường 1 - kéo lên, từ quốc lộ Một cùng tiến về Sài Gòn, chứ không phải từ Sài Gòn nống ra ...

Và gần như cùng một lúc, từ phía cầu Rạch Chiếc có tin: bộ binh địch có xe tăng yểm trợ cũng đã bắt đầu từ quân trường Thủ Đức xuống. Toàn là bọn học viên sĩ quan. Chúng cũng đang muốn trở vào Sài Gòn...

Sở chỉ huy lại như nứt vỡ ra trong sự căng thẳng. Nhưng chúng vào hay ra cũng vậy thôi! Đối với đặc công lúc này chỉ có một điều quan trọng: không cho một tên địch, một chiếc xe nào qua các cây cầu nữa! Tin báo về tiếp: Địch vẫn từ các hướng tràn về như kiến ngày mưa lụt.

Xe tăng địch mỗi lúc một thêm nhiều.

Xe tăng nào vậy? Phải chăng là xe tăng của quân đoàn 3 ngụy đang muốn co về "trợ thủ” Sài Gòn? Bấy giờ anh Bảy anh Năm mới ngờ ngợ. Sự kiện này chắc phải liên quan tới hàng trăm trực thăng hối hả bay từ Sài Gòn ra các hạm tàu biển, rồi lại từ biển trở vào. Như vậy quân mở đường co về thường đánh thí mạng. Nhưng, nếu húc phải lực lượng phòng ngự kiên quyết thì tinh thần chúng cũng mau tan rã hơn lúc nào hết. Rõ rồi: địch đông, nhưng lại mừng hơn lúc nào hết!

Sở chỉ huy ra lệnh: trung đoàn 116 tung ngay toàn bộ tiểu đoàn 40 vào chiến đấu cùng tiểu đoàn 25, đồng thời đưa thêm một đại đội của tiểu đoàn 19 dịch lên ngã tư An Hòa, cùng phối hợp đánh quân phản kích và diệt tàn binh.

Rồi cả hai anh cùng ra đài quan sát. Một toán cán bộ, chiến sĩ thông tin lại rùng rùng chạy theo sau.

Trước cầu Đồng Nai, hai xe tăng địch đã bị bắn cháy.

- Bắn! Trung liên đặt đây! Bắn!

- B.40! B.40!

Trên đầu cầu, những người chỉ huy các phân đội hết bò trườn tới ụ súng này lại sang ụ súng khác, từ đoạn chiến hào này tới đoạn chiến hào khác, thoắt nấp sau mô đất này, thoắt né mình sau bức tường nọ. Thêm chiếc tăng thứ ba bị bắn hạ. Nó vừa chực chồm lên úp chụp lấy một ổ súng của quân ta thì một chiến sĩ, đầu đầy băng trắng bỗng từ một đám khói mù mịt ở xế bên, đột ngột đứng bật dậy, cây B.40 đưa phắt lên vai. Một lưỡi lửa rất dài ngoằng lên. Chiếc xe tăng rống lên một tiếng man rợ, đứng khựng lại. Một bên vòng xích của nó rã tung. Lửa phì ra từ khắp các khe hở. Trong chớp mắt cả chiếc xe như biến mất trong một đám cháy.

Tiếp tới chiếc thứ tư.

Rồi chiếc thứ năm. Cả năm chiếc nằm phủ phục, cháy đen. Chúng quanh chúng, lính đủ sắc áo nằm tơi tả, ba lô, súng đạn, điện đài ... chùm kín lên từng khuôn mặt méo mó, từng thân xác co quắp.

Tất cả những làn sóng người điên dại phản kích dần dần như bị tê liệt. Và bỗng nhiên, đúng vào thời điểm rung chuyển đó, có những tiếng nổ lớn trong Tổng kho Long Bình. Rồi các cửa tổng kho đều bật tung. Lính tuôn ra như thác. Xe lớn, xe nhỏ đủ các loại cùng gầm rú, chen lấn nhau phóng ra. Chiếc nọ đụng chiếc kia. Nhiều chiếc đổ lật ở ngay trước lối ra vào. Những tên sĩ quan chồm lên các tháp pháo xe tăng, trên mui xe tải, vẩy súng sáu, gào lên. Nhưng binh lính vẫn không ngừng xô đẩy nhau, giày xéo nhau, xe cộ vẫn không ngừng phóng bừa, đâm vào nhau, nghiến tràn cả lên những tên lính yếu ớt bị biển người xô đẩy ngã quị.

Tổng kho Long Bình vỡ rồi. Nó đang bị sức ép cả ở xa lộ, cả ở phía Long Thành - Nước Trong.

- Nhào dô! Nhào dô! Cho 25 nhào dô! Chiếm ngay các lô cốt vững chắc của địch ở ven đường mà đánh! Tiếp tục tiêu diệt bọn phản kích, bọn tàn binh! - Anh Năm gầm lên trong máy nói.

Tình thế dường như đã thay đổi về cơ bản rồi.

Không còn nguyên vẹn những đơn vị phản kích nữa. Chúng đang tan.

Chúng không chỉ còn nhằm một hướng Sài Gòn, cũng không chỉ bám có một đường là xa lộ nữa! Chúng bắt đầu chạy tung tóe ra khắp các triền đồi, khắp các cánh đồng hai bên. "Chúng lội dưới đồng như thợ cấy ngày mùa vậy". Quân ta đã phải la lên. Trên xa lộ, ba lô, súng đạn kín đặc. Con đường đã thoắt trở thành “con đường mũ, áo lính", mà sau này sẽ được đời đời nhắc lại trong lịch sử thảm bại của Mỹ - ngụy.

Đã có những toán chạy tới bờ sông Đồng Nai. Chúng ngửa mặt nhìn lên cây cầu một cách bi thảm rồi cùng nhào xuống nước, bơi nghi ngóp, đầy trên mặt sông. Nhưng lúc đó cũng xuất hiện những người cầm AK. Bóng họ in bật trên nền trời chiều đang cháy đỏ phía Sài Gòn - Gia Định...

Chỉ huy sở cũng bắt đầu chuyển dịch ra phía ngoài. Trên các con đường dẫn ra xa lộ, dân chúng không rõ ở đâu đổ ra ngàn ngạt. Khác với mấy bữa trước, hôm nay họ tấp nập ồn ào vui vẻ lạ thường. Không còn thấy những nét mặt tái xanh, kinh hoàng. Không còn thấy những tiếng rên la khắp đường. Cờ Mặt trận không rõ ai may tự lúc nào đã mọc lên ở khắp các xóm ấp. Các cửa hàng trên thị trấn Bến Gỗ và dọc đường đều đã mở cửa. Không hiểu sao mà nhanh thế! La-de, nước ngọt xanh đỏ đầy ắp các quầy tủ.

Anh Năm bỗng thấy một người quen quen, có tuổi, vận đồ bà ba, đeo súng sáu, đang xăm xăm đi trước một đoàn người mang vũ khí trên đường. Tới gần, tưởng ai, té ra đồng chí Bí thư Huyện ủy, đã gặp ở Long Thành. Thì ra chính quyền và Đảng bộ địa phương cũng đã trở về! Súng vẫn còn nổ, tất cả đã trở về! Anh Năm ôm lấy người đồng chí quen biết ấy. Ông kéo anh Năm vào một tiệm cạnh đường. "Uống ly la-de để mừng đã mà! Xong rồi! Dám chắc xong thôi mà!" Hai li la-de đầy bọt cùng giơ cao, cụng vào nhau giữa tiếng cười sảng khoái của khách hàng, của chủ quán. Anh Năm ngồi dạng chân, ngửa cổ dốc một hơi liền, đặt mạnh chiếc ly xuống, giơ ống tay áo quệt ngang miệng, "khà" một tiếng như trong các bữa nhậu đoạn đứng dậy tiếp tục cùng anh em tiến ra phía trước. Quân tiến ra, dân kéo về. Đầy đường áo màu, đủ sắc, đủ kiểu. Đầy đường niềm vui, niềm tin và hy vọng. Ai cũng đã hiểu: Khu vực này đã được giải phóng!

- Các chú ơi! Dô Sài Gòn đi! Lẹ lên! Lẹ lên mấy chú 

- Hoan hô quân giải phóng!

- Quân giải phóng muôn năm! ...

Cờ Mặt trận càng như nở hoa khắp trên vùng đất mới mở còn đang như nóng bỏng lửa đạn.

Nhưng trong lúc đó một tin bay về làm cho cả chỉ huy sở lại chìm lặng hẳn đi: địch đã lại chiếm cầu Rạch Chiếc! Anh em ta lại phải tạm dạt khỏi hai đầu cầu. Liên lạc với Rạch Chiếc đã mất, sau khi nghe trọn đủ một câu: " Địch đang tràn qua! Chúng tôi tạm lui ra vài trăm mét!."

- Sao! - Anh Năm đứng sững xuống bên đường. Các hiệu thính viên gọi liên tục - Tiếng gọi thiết tha và bỏng cháy. "... Hoa mai đâu? Hoa mai đâu? Hoa đào gọi! Hoa đào gọi! ..."

Nhưng chỉ có tiếng gió mỗi lúc một thêm dào dạt. Trời đã nhá nhem tối. Gió càng lồng lên trên khắp cánh đồng.

“Hoa mai đâu? Hoa mai đâu?. Hoa đào gọi! ..."

Như có cả tiếng nức nở của anh hiệu thính viên trẻ.

Sao đã bắt đầu mọc lấm tấm trên vòm cong xám xanh bát ngát. Những vì sao thật xa vời và câm lặng.

6
Ngay sau đó, có cuộc họp tại một góc kề đường của tổng kho Long Bình. Để nhận định về tình hình Rạch Chiếc. Để đánh giá tổng quát tình hình trên xa lộ. Đại quân vẫn chưa tới. Vẫn phải lo cho cả những trận ngày mai!

Mới có ba ngày đêm mà tưởng như đã lâu lắm! Những người chỉ huy áo quần xộc xệch, nhàu nát, đầy đất cát, mặt mũi hốc hác, râu na tua tủa, ngồi bệt xuống. Cuộc chiến đã biến người ta thành những con người dày dạn và mạnh mẽ. Mạnh mẽ từ cách đi đứng, đến cách nói năng và suy nghĩ. Những ý kiến trao đi đổi lại rất vắn tắt, cụ thể và thảy đều cứng rắn. Một nhóm phái viên lại được tung đi. Cắt đồng, cắt rạch mà đi. Nhiệm vụ là tìm cho được anh em ta ở cầu Rạch Chiếc, mang tới đó quyết tâm không lay chuyển của toàn đoàn: Nội đêm nay phải đánh lấy lại bằng được cây cầu đó. Sử dụng cả cường tập lẫn mật tập, phát huy cao độ trí dũng của người đặc công. Tận dụng hỏa lực B40 và B.41 ...

Về phía cầu Đồng Nai, vì địch đã vỡ lớn cả một vùng Trảng Bom, Hố Nai, Biên Hòa, và tổng kho Long Bình cũng đã tháo chạy, áp lực của địch ngày mai có thể sẽ nhẹ hơn. Chủ yếu sẽ chỉ còn là những làn sóng tàn binh. Nhưng vẫn không thể chủ quan. Càng củng cố vững được cầu Đồng Nai, càng đỡ được cho Rạch Chiếc ở phía trong ...

Cuộc họp vừa chấm dứt, nhóm cán bộ phái vào Rạch Chiếc mới được tung đi, bỗng có hàng trăm tiếng đạn lớn xé gió, rít lên từng hồi, rồi nổ trùm lên phía sau tổng kho Long Bình. Đất như chao đi.

- Cái gì vậy? Bắn vào đây hử?

Tất cả mọi người đều sửng sốt. Pháo ở đâu bắn tới? Địch còn những trận địa pháo lớn ở đâu vậy, mà bây giờ mới xuất hiện. Nhưng chỉ thấy rộ lên một loạt rồi lại im bặt. Càng lạ! Ba phút sau lại thấy tiếng đạn hú gió. Nhưng lần này không phải nổ ở Long Bình. Đạn rú rít bay vượt qua đầu quân ta ở Bến Gỗ. Ở ngã tư An Hòa rồi vượt mãi vào phía trong, nổ phía quân trường Thủ Đức.

- Ủa? Có lẽ pháo ta chăng? Anh Năm vỗ đùi, la lớn.

Anh Bảy và các anh khác mắt cũng sáng rực, cùng họa theo:

- E đúng! Nghe như từ Long Thành bắn tới. Đó! Đó, nghe thấy có tiếng đề pa. (Tiếng nổ từ đầu nòng bắn đi.).

- Vậy anh cho anh em ăn cơm ngay! Xem xét lại toàn bộ trận địa!

Anh Năm ra lệnh. Trái tim anh đổ hồi. Đại quân sắp tới thật rồi sao Nhưng biết đâu lại là quân địch ở Long Khánh, Bà Rịa tập trung lực lượng đánh về đây nhằm giải tỏa áp lực cho thành phố. Vậy bề nào cũng cứ phải cảnh giác, phải chuẩn bị sẵn sàng để tác chiến!

Những vắt cơm đã khô cong. Nhưng cũng có cả những thúng cơm còn nóng ấm từ các xóm ấp chung quanh, từ thị trấn Bến Gỗ được chuyển ra. Cơm nóng ấm tình người mới được giải phóng. Chùi tay vào cỏ, vào quần vào báng súng, quân ta ăn liền, ăn ngay trên bờ công sự, ăn ngay trong lô cốt tối mò. Tiếng trọng pháo vẫn rền lên sao xuyến phía quân trường Thủ Đức.

“Nó sẽ phản ứng".

Đúng như vậy, ba mươi phút sau đã nghe thấy những tiếng rít không kém phần dữ dội, rồi tiếng xèn xẹt của những trái đạn từ trên tầm cao lao thẳng xuống với một tốc độ vũ trụ. Đạn nổ úp chụp lấy khu vực ngã tư An Hòa. Đạn nổ bao bọc kín cả hai khu đầu cầu xa lộ. Trận pháo kích bốn giờ liền mấy bữa trước tưởng đã hơn nhiều. Chiến sĩ ta đều vật vã trong các lô cốt. Người nào cũng gần như điếc đặc và choáng óc đến mức muốn hét lên, lồng ra khỏi các hầm hố. Đạn vẫn nổ như bão táp.

Ngoài lỗ châu mai bỗng thấy có những đám cháy bốc lên. Không hiểu những người nào đang lao đi lao lại mãi qua những nền lửa cháy ấy. Rồi đột nhiên, trong tiếng pháo gầm thét, nghe có tiếng máy nổ rần rần.

- Báo cáo! Xe tăng! Anh chiến sĩ quan sát ở phía ngoài cửa hầm chợt hô to, giọng anh ta dường như nghẹt đất cát.

Xe tăng? 

Nhưng là xe tăng của ai?

Binh đoàn Duyên Hải đã tới chăng?

Hay là địch?

Tất cả những con mắt đều mở căng, im lặng nhìn nhau, như những dấu hỏi lớn.

Hồi hộp quá!

Tiếng xe tăng quả mỗi lúc một thêm gần hơn.

Có phải là binh đoàn Duyên Hải không?

Hoặc đúng là địch đã tập trung được thiết giáp từ Bà Rịa thốc lên như dự đoán.

"Tăng rất nhiều! Chúng đã vượt qua Bến Gỗ!".

Điện thoại bỗng dứt hết. Chỉ còn liên lạc được bằng vô tuyến điện (nói thẳng, không kịp dùng mật khẩu nữa) với đơn vị bố trí ở thị trấn Bến Gỗ, hướng có tiếng xe tăng đang tiến lại.

- Có thiệt hại gì không? Báo cáo ngay!"

- "Báo cáo. Chúng không bắn! Chúng chỉ tràn qua thôi! Đông lắm! Đông lắm!".

Lạ! Thế là thế nào? Anh Năm lại kêu lên, nghi nghi hoặc hoặc. Nhưng chưa kịp tính sao đã lại thấy đạn lớn bắn thẳng nổ chát chúa ở ngay cạnh sườn của đơn vị gần chỉ huy sở.

- Báo cáo! Tăng đã tới Long Bình! Chúng đang bắn vào chúng tôi ở các lô cốt! ..."

- Báo cáo! Chúng bắn dữ lắm! Nhiều công sự của chúng tôi sập rồi! ...

- Đề nghị điều thêm B40, B41 lại đây. Lẹ lên, chúng đang bắn chúng tôi tối mặt tối mày, ói máu đây này ...

Anh Năm chồm tới đài quan sát. Anh đã nhìn thấy những chiếc tăng đứng lù lù ở phía xa, ước tới hai mươi chiếc. Đúng là chúng đang bắn như dội lửa vào các lô cốt, nơi quân của anh đang trú ẩn và bố trí đánh quân phản kích. "Lạy chúa". May sao lại có được những lô cốt xi măng cốt sắt kiên cố này!

Nhưng cũng không hiểu sao ngay trong giây phút đó anh Năm bỗng thấy lóe lên trong đầu óc một ý nghĩ: “Hình như xe tăng ta thì phải!" Trời ơi! Mới chỉ phỏng đoán có vậy mà nỗi mừng đã làm cho toàn thân anh như run lên. Ừ mà phải, nếu là địch, sao qua Bến Gô lại không bắn?. Nơi đó, đoạn con lộ chạy qua toàn là dân chúng. Vậy chỉ có ta mới không bắn vào dân! Còn tới đây tất nhiên là phải bắn, vì có "trời" mới biết được những lô cốt này đã hoàn toàn lọt vào tay quân ta.

Anh Năm tụt nhanh xuống, trao đổi những ý kiến ấy với anh Bảy và các anh khác trong Ban chỉ huy. Mọi người cùng sững sờ, những gương mặt da đã dày cộp cả lên vì mất ngủ, vì mồ hôi, và đất cát, bỗng cùng như nở rãn ra trong một nỗi ngạc nhiên và mừng rỡ.

Anh Năm lại trở ra đài quan sát. Năm chiếc xe tăng đã ào ào lăn tới. Chúng như những con voi lồng, xông thẳng tới đầu cầu xa lộ. Nhưng pháo từ Biên Hòa vẫn bắn tới dày đặc trên mặt đường. Cả năm chiếc xe cùng lùi lại. Trăng nhạt. Trời đầy mây.

"Địch hay ta?" Mối lo lại bùng lên trong đầu tóc anh Năm bỏng cháy. Phía sau đoàn tăng vẫn bắn lên. Năm chiếc đi đầu đang tiếp tục lùi.

- Bắn hay không bắn? Cho lệnh ngay!" .

Các đơn vị lại nhao lên.

- Khoan đã! - Anh Năm hạ lệnh. Rồi quay lại phía các đồng chí chung quanh, giọng anh không giấu nổi sự hồi hộp:

- Các anh à, hay ta cứ đem cờ ra thử xem sao? Nếu là ta ...

- Đã chắc gì? ...

- Hỏi khẩu lệnh nữa!

- Có khẩu lệnh không?

- Binh đoàn đã có qui định rồi .

- Vậy tôi ra cho!

Anh Sáu Trực, một cán bộ của đơn vị nói gọn. Ngay tức khắc anh Sáu và một anh nữa cùng cầm một cây cờ Mặt trận trườn ra. Cứ hướng theo bóng lô cốt, các anh tiến ra ven đường. Những chiếc tăng vẫn đang lùi. Chiếc cuối cùng đang ầm ầm lùi tới gần nơi anh Sáu núp, đất rung rinh. Mùi dầu máy cháy khét.

Lấy hết can đảm. hai anh cùng tiến ra giữa đường căng rộng lá cờ Mặt trận lên. Trái tim các anh cùng thoắt đứng lại trong một giây.

Nhưng, chiếc tăng gầm lên, ào qua trước mặt các anh như một chiếc đầu máy xe lửa, nóng rực. Nó chẳng nhìn thấy lá cờ, cũng chẳng nhìn thấy hai anh.

Thất vọng. Và cũng không khỏi lạnh giá đi một chút sợ hãi. Thế là thế nào . Đứng mãi đây, hay rút vào trong lô cốt?

Đúng lúc đang hết sức hoang mang ấy, từ phía đoàn tăng ở đằng xa. một chiếc xe tải bỗng rồ rồ phóng tới.

- Xe zin! Xe zin! Đúng là xe của chúng ta rồi? Trời ơi! Tay anh Sáu muốn run lên. Chiếc xe đã nom thấy hai anh và lá cờ. Nó phóng tới rồi phanh khựng.

- Hồ Chí Minh? - Anh Sáu thét lên câu khẩu lệnh.

Một người trên xe thò đầu ra. Ngược ánh trăng mờ, không rõ mặt, cũng không rõ áo quần. Người đó cũng hô lại rất gấp:

- Mười chín tháng Năm?

Đất dưới chân anh như sụt xuống. Thế là thế nào? không đúng khẩu lệnh rồi! Anh năm đã dặn hỏi là "Hồ Chí Minh", phải đáp là "Muôn năm" mới đúng! Một lần nữa, gắng hết sức bình tĩnh, anh hô lại:

- Hồ Chí Minh!

Người trên xe bật la lên:

- Muôn năm?

Cửa xe mở toang. Người trên xe nhảy xuống. Anh Sáu lao tới. Cả hai ôm choàng lấy nhau, nước mắt chảy giàn giụa, ôm riết lấy nhau mãi. Nước mắt càng chảy ra.

- Tìm các đồng chí mãi không thấy? Đang lo quá!

- Trời! Các đồng chí bắn chút nữa chết cả bọn tôi! Này sao lại trả lời là Mười Chín tháng Năm?

- Ôi! Tôi mừng quá, quên béng đi mất. Đáp bừa!

Anh Năm với Trung đoàn trưởng và Chính ủy trung đoàn 116 cùng chạy tới. Mừng không sao nói hết. Lại ôm lấy nhau, lại giàn giụa nước mắt.

Anh Năm nói:

- Tôi muốn được gặp Binh đoàn trưởng ngay để báo cáo!

- Binh đoàn trưởng đang còn ở phía sau với bộ binh. Ở đây chỉ có Lữ trưởng xe tăng thôi1.

- Cũng được! Cho tôi được gặp ngay!

Mấy phút sau một chiếc xe tăng chạy lên. Từ trên xe một cán bộ ăn vận gọn gàng, nét mặt cứng cỏi nhảy xuống.

- Cầu sao anh? Còn không? Có qua được không .

- Còn! Tôi bảo đảm với các anh! An toàn! Xin cho tiến ngay! Nhiệm vụ các anh sẽ đánh tới đâu?

- Lệnh binh đoàn: chúng tôi phải nhanh chóng thọc sâu, tiến thẳng tới dinh Độc Lập càng nhanh, càng sớm càng tốt!

- Trời ơi, hay quá sá ! Thế thì tuyệt quá sá!

- Nhưng chúng tôi cũng đang lo: bộ binh còn cách sau khá xa!

Anh Năm sôi nổi, toàn thân nóng bừng:

- Tôi có sẵn lực lượng đặc công đây! Cho anh em tôi cùng lên tăng đánh vô với các anh được không?

- Ôi! Được chứ! Thế thì tốt quá! Anh cũng đi với chúng tôi chứ?

- Có chứ! Có chứ! Sao không đi? Cho tôi đi với chứ? Tôi đã làm tình báo nội thành, đã chỉ huy đặc công mười năm có lẻ ở đây. Tôi thuộc Sài Gòn như lòng bàn tay. Tôi sẽ dẫn các anh tới dinh Độc Lập bằng một đường gần nhất!

- Vậy anh lên xe này cùng với tôi?

- Cho tổ chức lực lượng cái đã

Anh Năm trao đổi những ý kiến hết sức vắn tắt và cụ thể với Trung đoàn trưởng và Chính ủy 116: lực lượng đặc công thủy cộng một đại đội của tiểu đoàn 25 có nhiệm vụ ở lại giữ cầu, đón đoàn bộ binh lớn ở phía sau còn toàn bộ các tiểu đoàn 19, 40 và đại đội trinh sát của trung đoàn lên ngồi hết trên các xe tăng biến thành bộ binh chiến đấu. Cả Ban chỉ huy trung đoàn. Ban tham mưu Ban chính trị trung đoàn cũng lên xe tiến đánh Sài Gòn.

Trong khoảnh khắc, tất cả các chiến sĩ đặc công từ trong các lô cốt, các công sự đổ ra đầy đường. Lữ đoàn xe tăng cũng đã dịch lên. Một cuộc gặp gỡ, hội quân tuyệt vời đã diễn ra trên mặt lộ. Các chiến sĩ xe tăng ôm lấy các chiến sĩ đặc công. Các chiến sĩ đặc công kiệu các chiến sĩ xe tăng lên vai. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng chào mừng mênh mông, rạo rực.

Trời đã mờ sáng! Đồng hồ chỉ năm giờ ba mươi phút. Đang rạng đông của ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử. Thời tiết hôm nay chắc chắn tốt. Đã quang mây. Cả một vùng trời xa đang sáng lên như bạc.

Anh Năm cùng Lữ đoàn trưởng xe tăng của binh đoàn Duyên Hải đi bộ lên xem xét lại cầu cho thật yên tâm.

Đã sáng rồi. Nom rõ thành cầu đầy vết đạn và trên mặt cầu có một lỗ thủng bằng cái nia, do một trái pháo lớn nào đó dội trúng. Cây cầu đã khá nhiều thương tích nhưng vẫn xiết bao hiển hách như đang dang cả hai tay ra hân hoan đón chào những người chiến thắng.

Một chiếc xe tăng được lệnh vượt qua thử.

Chiếc xe phì ra một đoạn khói, giật lên mạnh mẽ, rồi từ từ lăn lên mặt cầu. Những chiếc ba lô ngụy, những cây súng cá nhân ngụy, những chiếc nón sắt ngụy vỡ bẹp rau ráu dưới hai làn xích. Ánh bình minh chiếu lấp lánh những đồng xu, đồng hào nào đó rơi tung tóe ở mặt cầu. Những mảnh giấy linh tinh, nhũng thẻ lính trắng xóa cuốn lên theo xích xe, nát vụn.

Chiếc xe đã sang hẳn đầu cầu phía tây và dừng lại. Nó đánh tín hiệu: An toàn!

Thế là toàn bộ lữ đoàn xe tăng với gần cả một trung đoàn đặc công ngồi trên cùng bắt đầu tiến lên. Cả đoàn tăng nối tiếp nhau qua cầu. Tiếng gầm dường như càng lớn, càng rung chuyển hơn. Lúc đó là đúng sáu giờ ba mươi phút ngày 30-4-1975. Những người chiến sĩ đặc công cùng giơ cao súng quay lại, thét lên, vẫy chào cây cầu như vẫy chào một người thân yêu ruột thịt. Từ đây tới quân trường Thủ Đức còn có mười sáu cây số. Xa lộ tràn ngập tàn binh. Lúc này dường như không có súng nổ trên đoạn xa lộ này nữa.

Lũ tàn binh giờ đây chỉ còn biết chạy. Súng đã quẳng như củi suốt hai bên lề đường cùng với ba lô, áo quần, mũ sắt, giày da... Nhưng hôm nay chúng chen nhau, cướp đường của nhau từ phía Sài Gòn - Thủ Đức chạy trở ra phía Đồng Nai, Biên Hòa chứ không chạy vào nữa. Xen lẫn với tàn binh là dân chúng. Có quãng dân nhiều hơn tàn binh, có quãng tàn binh nhiều hơn dân. Lộn xộn, hỗn loạn kinh khủng. Đã thấy có cả những chiếc quân xa cắm cờ trắng lồng ra. Lính trên xe đều đã vứt hết mũ áo, súng đạn, mặc toàn may ô hoặc cởi trần. Gặp đoàn xe tăng ta tiến vào, chúng dạt sang bên đường. Tất cả những tên lính đã vứt bỏ vũ trang trên xe cùng đứng hết lên, giơ cao hai tay hét lớn: "Chúng em hàng rồi! Hàng rồi. Quân giải phóng muôn năm Hoan hô quân giải phóng!"

Tuy vậy vẫn còn một số ổ đề kháng lẻ tẻ bên đường. Các chiến xa ta cứ lướt qua, không hề dừng lại. Lữ đoàn trưởng xe tăng như lên cơn sốt. Anh luôn luôn nói cùng anh Năm:

- Chúng ta phải vào nhanh! Vào thật nhanh anh ạ! Phải chớp lấy thời cơ! Chúng sụp đổ rồi! Sụp đổ rồi

Nhưng khi năm chiếc xe đi đầu vừa vượt qua khỏi khu vực quân trường Thủ Đức, thì pháo của địch đột ngột bắn rất mạnh, tạo thành cả một tuyến lửa ngăn chặn trên xa lộ. 

Chiếc xe chỉ huy chở lữ trưởng xe tăng và anh Năm xịch tới. Pháo địch vẫn tiếp tục loằng ngoằng lửa và dựng khói đen đặc ở phía trước. 

- Đây là đâu anh? Địch có bao nhiêu? - Lữ trưởng hỏi. 

- Một quân trường lớn! Phải dừng lại đã, cho tiêu cái bọn này mới đi được anh ạ! - Anh Năm đáp. 

Cả hai người cùng nhảy xuống. Pháo địch vẫn bắn xa xả. Nhưng không rõ cụ thể chúng từ điểm nào bắn ra. Chỉ đoán biết là ở khu vực liên trường. Tăng và cả cao xạ 37 được lệnh nhanh chóng tản rộng.

Thấy có mấy người dân đang thập thò ở một ngôi nhà bên đường ngó ra. anh Năm chạy bay lại hỏi to:

- Đồng bào ơi! Trận địa pháo nó ở đâu vậy?

Một người đàn ông, áo ca rô, tóc bờm xờm chạy ra, mặt tái xanh nhưng lại nớ một nụ cười rất tươi, chỉ tay:

- Thưa quí anh giải phóng. Đó. Hắn ở cái lùm cây đó! Đó!

- Thế là rõ rồi. Cám ơn đồng bào.

Anh Năm qua lại với Lữ đoàn trưởng xe tăng. Năm chiếc tăng được lệnh tạt xuống thung lũng Suối Cái, cùng với ba khẩu cao xạ hạ ngang nòng xuống làm pháo bắn thẳng bọc lấy phía sau hông quân trường Thủ Đức mà trọng điểm là trận địa pháo 155, 150 ly.

Năm chiếc tăng, ba khẩu cao xạ cùng một loạt trút lửa. Trong quân trường khói bốc lên mỗi lúc một dày đặc rồi kết tụ lại thành cả một chiếc nấm khổng lồ. Chưa đầy ba mươi phút, toàn bộ những khẩu pháo địch đã câm bặt.

Lữ đoàn xe tăng tiếp tục tiến. Xa lộ như rung rinh. Các chiến sĩ đặc công lại ngồi trên nóc xe, súng chĩa ra bốn phía, tóc bạt trước gió.
Đã nom thấy cầu Rạch Chiếc. Trái tim anh Năm rộn lên. Có nhiều người lố nhố ở đầu cầu. Ta hay địch? Nhưng đã thấy bay lộng lên một lá cờ Mặt trận.

- Trời ơi! Bọn Tư Thinh! hay quá! ...

Chiếc xe chỉ huy vượt lên.

Anh Năm nhảy vọt xuống, băng tới. Anh đã nom rõ người đang đúng ở giữa cầu là ai rồi . .

Đúng là Tư Thinh. Mặt anh đen cháy, áo rách xã một bên vai, đầu trần. Quanh lưng anh là một dây lựu đạn tấn công của Mỹ. 

- Báo cáo! Cầu vẫn vững! 

Chỉ còn biết ôm riết lấy người đồng chí!

Có cái gì nghẹn chặt ở cổ họng, mấy giây sau anh Năm mới thốt lên được:

- Tốt lắm! Chúc mừng chiến công của các đồng chí. Còn tất cả bao nhiêu tay súng? 

- Báo cáo, hai mươi! Địch vẫn còn rất nhiều ở hai bên đường, nhất là khu các nhà máy VINESCO, xi măng, nhiệt điện và kho tồn trữ. Cho đánh chiếm ngay. Các đồng chí có trách nhiệm quân quản đoạn xa lộ này: từ quân trường tới cầu Sài Gòn! Còn chúng tôi, tiếp tục tiến đây!

- Các anh vô nội thành?

- Rồi! Chúng tôi cùng binh đoàn sẽ đánh tới dinh Độc Lập!

Ngoảnh sang hai bên đầu cầu, anh Năm thấy các chiến sĩ yêu quí của mình đang đứng hết cả lên giơ tay vẫy chào đoàn chiến xa và cao pháo của binh đoàn đang rầm rộ tiến qua. Tiếng máy, tiếng xích vang trời. Khói xả ra cùng với bụi đường cuốn lên mù mịt. Anh Năm thấy rõ những gương mặt quen thân. Nhưng không có nhiều thì giờ để dừng lại nữa. Sài Gòn đã ở trước mặt. Đoàn chiến xa đang phải gấp tiến. Đứng hẳn trên một nóc xe, anh vẫy lại các chiến sĩ của mình: "Chiến thắng! Chiến thắng!" Anh hô to. Những chiếc xe tăng đi đầu bỗng dừng lại. Hình như lại chạm một khu vực đề kháng nữa của địch? Những chiếc A.37 xuất hiện. Bom rung chuyển. Hai chiếc bay xẹt trên đầu đoàn tăng.

- Dùng 12 ly 7 tiêu diệt máy bay! Tiếp tục tiến! Mở hết tốc lực! Quyết bắt sống toàn bộ quân thù tại dinh Độc Lập!

Những chiếc chiến xa lại cùng gầm lên, xả khói như bay trên mặt lộ. Gió xé mặt các chiến sĩ. Đồng ruộng, nhà cửa hai bên như chong chóng quay tròn, chóng mặt.

Sài Gòn kia rồi. Đã nom thấy những nóc nhà cao tầng nhấp nhô, những tháp chuông nhà thờ nhọn hoắt. Cả thành phố đang sáng rõ dưới ánh mặt trời.

- Chiến thắng! Chiến thắng !

Tất cả các chiến sĩ xe tăng, tất cả các chiến sĩ đặc công một lần nữa lại reo lên, thét lên đến vỡ lồng ngực:

- Chiến thắng! Chiến thắng.

Cây cầu Rạch Chiếc đã mất hút ở phía sau. Cũng y như lúc nãy, cây cầu Đồng Nai chỉ trong khoảnh khắc đã lùi xa, rồi mất hút ở đường chân trời. Dường như không hề có những cây cầu ấy trên còn đường này, mà chỉ có một con dường bằng phẳng thênh thang vươn dài, băng mình về phía trước, để đưa dắt đại quân vào thành phố.

PHÍA TÂY MẶT TRẬN

1
Đêm. Trời biên giới đầy sao, khô lạnh. Gió như từng đàn ngựa hoang lồng trên những giồng đất, những cánh đồng đã gần cạn nước, mênh mông cỏ dại. Xa xa, thị xã Mộc Hóa hiện lên sáng dài ánh điện

Những đơn vị pháo binh nhỏ vẫn còn đang tiếp tục hì hục đào công sự. Nhưng tất cả các đơn vị xung kích của cả ba trung đoàn đều đã vào chiếm lĩnh trận địa, dàn ra trên các hướng lấn công. "Trời! Bọn nó trong Mộc Hóa giả dụ mò ra đây, nom thấy quân ta cơ man thế này, hẳn chết liền, chưa cần đánh!". Một chiến sĩ ôm cây B40 nằm sau một mô đất, khoái chí thì thào với anh giữ trung liên bên cạnh.
Quân đã đầy kín đồng, vây chặt lấy Mộc Hóa. Chỉ còn hơn một giờ nữa, số phận của toàn bộ quân ngụy trong cái thị xã biên giới ấy sẽ được định đoạt.

Trên hướng đột kích chủ yếu chỉ còn chờ có pháo 85 ly. Trung đoàn trưởng chốc chốc lại lật tay áo xem đồng hồ. Anh thoắt rời chỉ huy sở. Một toán trinh sát, trợ lý tác chiến vội vã chạy theo sau. Trung đoàn trưởng đi thảng tới tiểu đoàn đột kích đầu tiên.

Các chiến sĩ bỗng nhận ra người chỉ huy của mình, cùng reo lên khe khẽ: “Trung đoàn trưởng".

Trung đoàn trưởng dừng lại ở từng ổ súng máy, từng chiến sĩ B40. Anh trao đổi ý kiến, kiểm tra lại một lượt quyết tâm chiến đấu của từng đại đội trưởng. Anh rất hài lòng. Anh cũng không ngờ các chiến sĩ cán bộ của anh vẫn còn sung sức, nhất là tinh thần vẫn tốt như vậy.

Trung đoàn của anh cũng như các trung đoàn khác của cái sư đoàn 5 này đã phải tác chiến liên miên, vô cùng gian khổ từ trước trận đánh lịch sử Ban Mê Thuột mở màn tới hai tháng. Sư đoàn đã hoạt động mạnh trên chiến trường đồng bằng khu Tám, chủ yếu là tỉnh Kiến Tường (ở biên giới Việt - Miên) - Sư đoàn đã cùng các đơn vị địa phương ráo nết đánh địch ở các quận Tuyên Nhơn, Tuyên Bình, Châu Thành trên một trận địa hình bằng phẳng, mênh mông sình lầy, chi chít kênh rạch, địch như trấu, đồn bốt dày đặc. Những trận đánh ác liệt, khó khăn nhất đã vượt qua: Long Khốt, Gò Mang Đa... Kết quả, sư đoàn cùng các đơn vị địa phương đã giải phóng hoàn toàn năm phân chi khu: Thuận Nghĩa, Thúy Đông. Thanh Phước, Thái Trí, Bình Châu với 12.500 dân.

Và bây giờ, sư đoàn đã tập trung lại nhằm tiêu diệt địch, giải phóng thị xã Mộc Hóa ...

Trung đoàn trưởng còn đang trao đổi một vài ý kiến với tiểu đoàn trưởng đột kích thì một liên lạc viên từ phía chỉ huy sở lao tới như một mũi tên. Anh gần như thở không ra hơi :

- Trung đoàn trưởng! Báo cáo có điện! Có điện của sư! Ngừng lại hết! Lui quân.

- Sao? - Trung đoàn trưởng giật giọng, gần như không tin ở lỗ tai mình nữa. 

Anh như bay trở về chỉ huy sở. Anh bóp chặt ống tổ hợp trong tay:

- Sao? Yêu cầu nhắc lại! ... Rõ? Nhưng báo cáo sư trưởng cho biết sao kỳ vậy.... Mệnh lệnh của Quân đoàn và Miền hả? Vậy thì chúng tôi phải chấp hành thôi!

Anh ném chiếc ống tổ hợp xuống, thở phù. Thế là bao nhiêu công sức chuẩn bị cho một trận đánh lớn vào thành phố, thế là bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu nỗi mừng... đùng một cái tiêu tan!

Nhưng rồi anh lại phải cầm lấy chiếc ống tổ hợp lần nữa. Anh gọi các tiểu đoàn trưởng của anh:

- Mệnh lệnh: Thu quân! Thu quân gấp? Rồi! Sẽ có mệnh lệnh tiếp cho các anh! Hãy thi hành ngay, không được hỏi!

Anh cố nói cho thật nghiêm khắc, nhưng thật ra trong lòng anh đã quá rầu rĩ.

2
Nhiệm vụ mới của toàn sư là nhanh chóng tiến thẳng xuống phía lộ 4. tiêu diệt địch ở Tân An (thị xã của tỉnh Long An) và quận lỵ Thủ Thừa. Bỏ cái Mộc Hóa lại.

Tình hình chiến cuộc chung đang sôi động và có những chuyến biến rất quan trọng. Địch đã mất Huế, mất luôn cả căn cứ quân sự liên hợp - khổng lồ: Đà Nẵng. Đà Lạt đã tháo lui ...

Hôm nay đã là 3 tháng 4 năm 1975.

Toàn sư đoàn mới chỉ được biết nhiệm vụ như vậy. Đó là Tân An và các vùng phụ cận. Còn ý đồ về chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vẫn được giữ kín. Tuy nhiên, khi nhận mệnh lệnh bỏ Mộc Hóa, chuyển hướng xuống Tân An, sư đoàn trưởng Thược và Chính ủy Hòa đều nhìn nhau, mắt lóe sáng. Cả hai, không ai bảo ai, đều linh cảm được rằng: những sự kiện trọng đại, lịch sử nào đó dường như đã sắp tới. Đây là tiến công, tiến công lớn, chứ không phải lùi lại ...

Sư đoàn trưởng mở rộng tấm bản đồ vùng Đồng Tháp Mười và Long An, lộ 4. Trên gương mặt xương xương, của anh có cái gì đó dào dạt như sóng. Nhận lệnh ngày 3, ngày 9 đã phải nổ súng. Chỉ có mấy ngày nữa thôi, làm sao bốc được cả sư đoàn của anh từ cái vùng biên giới này vượt qua cả một phần Đồng Tháp Mười chưa cạn hẳn còn mênh mông cỏ, nước, sình lầy, để kịp về tiến đánh Tân An? Có lẽ từ khi là một người lính xung kích trưởng thành lên tới một sư đoàn trưởng như bây giờ, chưa lần nào anh thấy mình đứng trước một nhiệm vụ lớn lao và cấp bách đến thế.

Tuy nhiên. anh vẫn có đầy đủ lòng tin ở sư đoàn của mình, một sư đoàn tuy mới thành lập chưa được bao lâu, mang tên Sư đoàn Đồng Bằng, nhưng bao gồm toàn những đơn vị đã từng lăn lộn, dày dạn nhất trên chiến trường khu Tám khó khăn, ác liệt này. Không phải đơn vị nào khác, chính cái Sư đoàn Đồng Bằng này đã lập nên chiến công nổi tiếng: giải phóng Lộc Ninh trong mùa hè đỏ lửa năm 1972 không sao quên. Bởi vậy, lần này, về đồng bằng, về lộ 4, nếu biết lổ chức, biết khơi dậy trong lòng các chiến sĩ ngọn lửa chiến thắng Lộc Ninh năm trước, chắc chắn cũng có thể vượt qua mọi thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ ...

Chính ủy Hòa cùng chăm chú nghiên cứu tấm bản đồ và nghe sư đoàn trưởng Thược trình bày những ý kiến lớn của mình. Hòa vốn là một giảng viên trường lý luận ương cao cấp Trung ương của quân đội. Anh nhỏ nhắn, hiền hậu, từ công việc đến cách nói năng dường như vẫn còn giữ nguyên tính sư phạm sáng sủa, khúc chiết, khoa học. Anh cũng đã cùng các chiến sĩ khu Tám vào sống ra chết nhiều phen. Vùng đất mênh mộng cỏ nước, sình lầy này đã trở thành quá thân quen gần như một quê hương thứ hai của anh. Anh và Thược làm việc rất ăn ý.

Sau khi cùng đồng ý về mọi điểm trong kế hoạch tổ chức di chuyển, tác chiến. Thược gấp bản đồ, nhấn mạnh lại không phải với Chính ủy mà như với chính mình:

- Như vậy, chúng ta sẽ tấn công trong hành tiến! Đúng thế! Tấn công trong hành tiến! .

Chính ủy Hòa gật đầu nhỏ nhẹ:

- Tôi bỗng nghĩ tới cái chuyện "quân lệnh như sơn" của anh Vương Thừa Vũ năm 1954, trước Điện Biên Phủ, anh ạ!

Sư đoàn trưởng Thược "à!' một tiếng. Đúng vậy Hòa đã có trí nhớ tốt và cũng khéo biết lấy chuyện cũ để thầm cổ vũ anh, nhắc nhở anh bài học của sư trưởng Vũ. Đúng! Cách đây đã 21 năm, khi đó Thược là một đại đội trưởng của cái sư đoàn 308 nổi tiếng ấy, và trung tướng Vương Thừa Vũ khi đó là Sư đoàn trưởng. Cũng tương tự như sư 5 hôm nay, 308 lúc đó đã dàn quân xong hết, chỉ còn đợi đúng giờ G nổ súng xông vào Điện Biên Phủ. Nhưng đùng một cái có lệnh toàn sư phải lui quân, và trong 24 giờ phải bốc được toàn sư đoàn lên đường, tiến sang Lào mở đòn chiến lược thứ năm, trước khi quay trở lại cùng các sư đoàn khác tiến vào tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ ...

Tất nhiên Mộc Hóa không ví được với Điện Biên Phủ. Nhưng cái việc đột ngột phải thu quân rồi phải cấp tốc bốc cả sư đoàn lên đường tác chiến ở hướng khác thì dường như cũng khá giống nhau. Ngày đó, sư đoàn trưởng Vũ đã trả lời các trung đoàn trưởng như sau: "Đi là đi! Quân lệnh như sơn! Tuyệt đối phải chấp hành triệt để". Và đồng chí đã thắng lợi hoàn toàn trong việc đưa cả sư đoàn của mình đi tác chiến ở hướng mới, trong khi lên lưng mỗi chiến sĩ chỉ còn độc một ngày gạo và trong đầu thì đầy những thắc mắc: Sao lại phải lui quân? Sao lại chuyển hướng... .

3
Trung đoàn 3 đang làm đội dự bị cho sư đoàn nằm ở cuối đội hình trong kế hoạch đánh Mộc Hóa nay thoắt trở thành trung đoàn đi đầu toàn sư. tiến xuống vùng Tân An, lộ 4.

Tiếp đó là trung đoàn 2.

Sư đoàn trưởng Thược và chính ủy Hòa đã có mặt ở trung đoàn này để trực tiếp đôn đốc việc chuyên quân.

Một cảnh tượng hùng tráng diễn ra trước mắt các anh, trên những cánh đồng vùng Tháp Mười chưa cạn hết nước, sình lầy kênh rạch chằng chịt. Nhiệm vụ quá gấp, các đơn vị đã bỏ hết các bờ kênh, các con lộ sẵn có,  cứ chiếu hướng Tân An, cắt đồng mà tiến tới. "Thời gian là lực lượng!". Khẩu hiệu đó được sư đoàn đưa ra để chỉ đường cho các chiến sĩ.

"Thời gian là lực lượng!". Quân ta reo hò, lội đồng đi trùng trùng, điệp điệp. Nước ngập ngay thắt lưng. Ba lô súng đạn đội hết lên đầu. Người khỏe dìu người yếu, lúc lội sình, lúc vượt kênh, áo quần, đầu tóc quân ta đã đầy bùn đất. Một đạo quân kỳ dị hiện lên trên cánh đồng mênh mông cỏ lác ... Các cán bộ chỉ huy cũng lội sình, cũng vác đạn, vác gạo y như các chiến sĩ. Vì vậy quân càng nức lòng. Người này kiệt sức tụt lại, người sau hăm hở tiến lên. Anh này gục ngã, anh khác xốc tới dìu cõng, tiếp tục tiến bước ...

“Thủ trưởng ơi! Thủy quân lục chiến cách mạng đây nhá."

"Tiến lên! Tiến lên anh em! Quyết tới mục tiêu trước nhất toàn sư" ...

Khí thế đẹp quá!

Chính ủy Hòa nao nao xúc động. Sư đoàn trưởng Thược cũng sáng rỡ mặt mày. Có lẽ đã lâu lắm, phải rồi, có lẽ từ “cái thuở Điện Biên" ấy bây giờ giữa ban ngày ban mặt, trên đồng ruộng mênh mông, dưới vòm trời cao rộng này anh mới lại được chứng kiến một cảnh tiến quân tuyệt vời nhường ấy. Anh muốn lao tới, giữa vùng sình lầy kia ôm lấy từng chiến sĩ mà thét lên vào tai họ: Cố nữa lên! Hay lắm! Sắp tới ngày toàn thắng rồi! Hãy cố nữa lên! Các em!...".

Hai ngày sau, đại bộ phận của sư đoàn đã tới bên quận lỵ Thủ Thừa và thị xã Tân An.

Thị xã này nằm ngay trên lộ 4. Nó lớn hơn Mộc Hóa nhiều.

Tân An! Một thị xã mà quân ta hoàn toàn chưa biết một chút gì hết.

Quanh đây, cơ sở gần như trắng. Địch càn quét khốc liệt đã bao năm rồi. Chỉ có hai đảng viên làm ruộng ở phía ngoài và một cô cơ sở bán trái cây trong thị xã được dẫn tới làm người cung cấp tin tức và dẫn đường cho quân ta ...

Tuy vậy, đã có phương hướng tác chiến: tấn công trong hành tiến! Như vậy sư đoàn sẽ vừa đánh vừa nắm tình hình địch.

Chỉ huy sở sư đoàn đã đặt xong ở Cống Tượng. Từ đây Bộ Tư lệnh sư đoàn vừa có thể chỉ huy đánh thị xã Tân An vừa có thể theo dõi cả bên hướng phụ đánh quận lỵ Thủ Thừa.

Trước giờ nổ súng, sư trưởng Thược rời chỉ huy sở. Anh xuống tận trung đoàn đột kích. Anh đã tới sát cửa ngõ Tân An. Cả một khu phố hiện ra trước mắt anh với những dãy nhà cao táng san sát, đèn thủy ngân cao áp sáng trắng. Những lô cốt dày đặc án ngữ ngay trên lộ 4. Giây thép gai nhiều lớp, khá dày. Đáng chú ý: có một đoàn thiết giáp địch từ đâu về đã nằm ngay ở lối vào thị xã tạo thành những lô cốt thép di động.

Tuy nhiên, tất cả mọi dấu hiệu cho thấy: bọn địch vẫn chưa biết sẽ có thể ngờ được lại có trận tấn công lớn! Bởi, theo sự tính toán thông thường thì cũng còn lâu quân cách mạng mới có thể đưa được chủ lực lớn từ Kiến Tường xuống vùng đồng bằng đã được bố phòng chặt chẽ này ... 

Đúng 4 giờ sáng (ngày 9 tháng 4) trung đoàn đột kích 1 bắt đầu nổ súng vào Tân An và một tiểu đoàn của trung đoàn 3 tấn công vào quận lỵ Thủ Thừa. Hiệu lệnh tấn công là một phát B40 nhằm trúng chiếc lô cốt đầu tiên án ngữ trên lộ 4.

Trận đánh đã diễn ra thật mau lẹ. Những người chiến sĩ sư đoàn 5 quần áo ướt đẫm, bê bết bùn đất, nối tiếp nhau lướt lên dưới ánh lửa đạn nháng đổ liên hồi và những đám cháy bắt đầu lan rộng. 

Bị hoàn toàn bất ngờ, quân địch bị đè bẹp ngay trong những phút đầu tiên. Toàn bộ đoàn thiết giáp đã biến thành những cái bia thép, nối tiếp nhau phát nổ. 

Quân ta chỉ có toàn vũ khí nhẹ. Pháo 105 còn ở tít mãi biên giới. Trong khoảnh khắc, các mũi đột kích đã tràn được vào trong khu phố đầu thị xã. Một lá cờ nửa xanh, nửa đỏ với ngôi sao vàng năm cánh đã bay trên nóc một tòa nhà cao tầng chế ngự toàn bộ khu vực. Nhưng quân địch ở đây đã rút chạy được một phần vào trung tâm thị xã. 

Và chỉ nửa giờ sau những cuộc phản kích bắt đầu được tung ra dưới sự yểm trợ của chiến xa.

Quân ta vẫn chỉ có toàn vũ khí nhẹ. B40 đã hết rồi. Phía sau chưa tiếp tế kịp. Những người chiến sĩ mặt đỏ ánh lửa, nghiến răng ném thủ pháo không ngớt và những khối thép khổng lồ đang gầm rít, chồm lên trong khói mù và lửa cháy.

Những ngôi nhà nối tiếp nhau đổ sập. Cuộc chiến đấu đã diễn ra trên từng ngã ba, ngã tư và từng căn nhà.

Những người chiến sĩ của chúng ta vẫn giữ vững được khu vực đầu thị xã cho tới khi trời sáng bạch. Máu đã đầy trên các mặt đường, hè phố. Xác lính ngụy rải rác khắp nơi. Những chiếc xe tăng bị bắn gục nằm đó, cháy đen.

Máy bay địch bắt đầu lên. Cả bầu trời vang động rung chuyển. Bom dội xuống ngay trên các đường phố.

Sư đoàn trưởng bắc ống nhòm nhìn về thị xã lúc này đã biến thành một biển lửa. Anh quay lại phía chính ủy Hòa trao đổi ý kiến. Cả hai đều nhất trí: tạm cho bộ đội lui ra bám giữ các thôn ven thị xã, để chuẩn bị cho một đợt tấn công mới vào đêm sau.

Trời mỗi lúc mọt nắng gắt. Máy bay địch tiếp tục lên oanh tạc. Đứng ở đài quan sát của Chỉ huy sở nhìn ra thay các làng mạc, thôn ấp quanh thị xã lần lần bốc cháy.

Các trung đoàn báo cáo: địch đang tràn ra, phản kích cả vào những nơi quân ta vừa co về.

Mặt sư trưởng rắn đanh lại. Không! Không có gì đáng phải quan tâm nhiều về việc đánh bọn phản kích ấy. Anh đã hiểu rất rõ khả năng và bản lĩnh của cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn. Anh quyết tâm vẫn để hầu như toàn bộ tâm trí của mình vào việc chuẩn bị cho đợt tấn công thứ hai vào thị xã. Làm sao đưa pháo 85 và cả 105 xuống kịp? Làm thế nào để kiếm ra dân công, vận tải để tiếp tế bổ sung đạn dược cho các đơn vị trước 6 giờ chiều nay? Thương binh sẽ giải quyết ra sao? Cán bộ bổ sung như thế nào đây? Còn phải làm gì nữa trong việc nắm lại tình hình lực lượng và sự bố phòng của địch trong thị xã? Còn phải bổ sung gì thêm vào kế hoạch tấn công của trung đoàn 1? ...

Biết bao nhiêu công việc đang ùn ùn trước mắt anh và Đảng ủy, Bộ Tư lệnh. 

Quyết tâm vẫn không thay đổi: Đêm nay sẽ tiếp tục tấn công vào thị xã?

4
Nhưng bỗng đùng một cái lại có lệnh của cấp trên: Ngừng cuộc tấn công vào Tân An! Sư đoàn có nhiệm vụ sử dụng lực lượng của mình nhanh chóng mở một vùng giải phóng rộng lớn ở bắc lộ 4 để lấy chỗ đứng chân cho vững, đón nhận nhiệm vụ mới.

Sư đoàn trưởng đứng sững. Không phải anh cay cú đánh vào thành phố mà ngạc nhiên về sự thay đổi nhiệm vụ luôn luôn và rất bất ngờ này. Chính ủy Hòa bao giờ cũng quen sự so sánh và phân tích. Anh nhận định:

- Như vậy cũng có nghĩa là tình hình chung càng khẩn trương gấp bội. Như vậy cũng có nghĩa là...

- Phải nhanh chóng cắt lộ 4 đến nơi! - Sư trưởng Thược nói liền.

Hai bàn tay cùng đập mạnh vào nhau. Nhiệm vụ thay đổi đột ngột này đã không làm cho họ hoảng hồn vì mọi công tác tổ chức, lãnh đạo mà đã làm cho cả hai phấn chấn hẳn lên.

"Chuyển hướng tấn công"! Mệnh lệnh được ban ra ngay tức khắc, như một dòng điện mạnh chạy lan khắp các đơn vị .

Và cũng ngay đêm ấy, bọn chỉ huy tiểu khu Long An và Bộ chỉ huy sư đoàn 22 ngụy trong Tân An thấy những lực lượng tấn công bỗng biến mất khỏi những thôn ấp sát nách thị xã. Còn chưa hiểu ra sao, ngay đêm sau, chúng bỗng cùng choàng dậy giữa những tiếng chuông điện thoại réo gấp giữa không biết bao nhiêu tiếng nổ vang dậy trên suốt một vùng đồng lúa mênh mông nằm giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây lấn cả xuống phía kênh Nguyễn Văn Tiếp, giữa Tân An và Tân Hiệp.

Hàng loạt đồn bốt nhỏ đã bị quét sạch trong một đêm. Tân binh lả tả, máu me đầy mình, lội bì bõm trên khắp các cánh đồng chạy ra lộ 4, chạy về Tân An, Tân Hiệp.

Y như có một đợt sóng thần đột ngột dâng lên trong cái đêm 11 không sao quên ấy!

Suốt đêm, sư đoàn trưởng Thược và chính ủy Hòa không chợp mắt được một phút. Chỉ huy sở đặt trên một vườn dừa nhỏ. Hầm hố đều còn đang làm dở. Suốt đêm, trời miền Tây như bị nung đỏ.

Sáng dần. Mặt trời bàng hoàng hiện lên giữa một vùng đồng nước, kênh rạch mông mênh đang nghi ngút lửa khói. Quân hai bên vẫn đang tiếp tục vận động, di chuyển, quần nhau không ngừng. Thiết giáp địch bò lồm cồm trên những con lộ đã be bét hố bom. Chốc chốc một chiếc lại nổ tung, nằm lăn ra bên lộ. Những chiếc khác chạy quàng xuống các ruộng lầy và nằm chết đi. Những chiếc A37 đen chũi lao liên tục xuống các xóm ấp. Pháo binh địch từ Tân An, Tân Hiệp bắn không ngừng vào các tuyến đang xung sát. Đất bùn bắn lên từng vạt đen cả "đường chân trời’. 

Sư đoàn trưởng, sau khi xem xét bao quát tình hình, quyết định: tiếp tục cuộc tấn công! Anh yêu cầu trung đoàn 27 tách ra một tiểu đoàn đánh nhỏ ở quãng Tân An, Tân Hiệp, và kiềm chế, chặn bọn liên đoàn biệt động quân không cho chúng ra bám trụ ở lộ 4. Anh lệnh cho một trung đoàn khác nhanh chóng nhổ nốt mấy đồn còn lại để mở rộng hơn nữa địa bàn ở Vàm Thủ Thừa. Một trung đoàn khác nữa cũng có nhiệm vụ tập trung lực lượng mở một vùng ở kênh Nguyễn Văn Tiếp, Vàm Bắc  Đông. 

Ý đồ và quyết tâm của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh sư đoàn đã rõ ràng: hai vùng Vàm Thủ Thừa và vùng Vàm Cỏ Đông phải được nối liền với nhau để hình thành cả một vùng giải phóng, một địa bàn đứng chân liên hoàn.

Bốn chung quanh Chỉ huy sở, các cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục mỗi lúc mót quyết liệt hơn. Những trận đánh có lúc đã gần như trở thành hỗn chiến. Lính biệt động, lính bảo an, lính trung đoàn 12 (sư 9 ngụy) lính sư 22 ngụy chạy mỗi lúc một đầy đồng. Khoảng 3 giờ chiều, bỗng có tiếng súng nổ ở ngay trước Chỉ huy sở. Sư trưởng rút súng ngắn đứng bật dậy. Nhưng Tham mưu trưởng mặt đỏ gắt, đầm đìa mồ hôi, đã từ phía hầm bên lao tới: "Báo cáo! Tân binh địch không biết đường, lao bừa cả vào chỉ huy sở. Vệ binh tiêu diệt chúng!".

Bốn giờ chiều, vẫn Tham mưu trưởng, lần này quần áo anh đã lấm tấm như chui ở dưới bùn lên: "Báo cáo! Cả hệ thống đồn bốt dọc sông Vàm Cỏ Tây đang điên lên. Chúng đã điện về Sài Gòn, xin rút vì không đủ sức giữ được nữa!"

Năm giờ chiều.

Chuông điện thoại réo lên như xé.

Hai trung đoàn ở hai phía Vàm Thủ Thừa và Vàm Bắc Đông cùng báo cáo: đã bắt liên lạc được với nhau!

Sư trưởng Thược gấp tấm bản đồ, không nén nổi một lời reo sung sướng: “Xong rồi!". Chính ủy Hòa cũng không giấu được nỗi vui mừng, chìa tay ra xiết chặt, xiết mãi lấy tay sư trưởng. Rồi anh nhỏ nhẹ: "Chủ trương của trên cho chuyển hướng, mở địa bản quả thật là tuyệt”

Mặt trời đã gần lặn, hoàng hôn như đẫm máu trên Đồng Tháp Mười mênh mông của miền Tây Nam Bộ. Chính ủy Hòa bỗng có một niềm xúc động, anh đang nhìn thấy trong hoàng hôn ghê rợn ấy một bình minh rực rỡ đang hé dậy ...

5
Thế là sư đoàn đã làm chủ hoàn toàn cả một vùng Vàm Thủ Thừa, Vàm Bắc Đông. Sông Vàm Cỏ Đông đã hoàn toàn được giải phóng. Hậu phương ta đã thông suốt từ biên giới Việt - Miên xuống tới tận Vàm Thủ Thừa, chỉ còn cách lộ 4, con lộ sống còn của miền Tây Nam Bộ, khoảng từ 3 tới 5 ki lô mét. Hàng chục vạn dân đã được giải phóng.

Quân ta đã có gạo tại chỗ.

Đã có dân công tình nguyện phục vụ tác chiến tại chỗ.

Như vậy nhiệm vụ bước đầu của sư đoàn đã hoàn thành.

Như vậy tuyến phòng thủ lộ 4 của ngụy đã bị chọc thủng. Ta đã có đủ điều kiện để tiến ra đánh chiếm con lộ chiến lược này. Còn có nỗi mừng, niềm vui nào lớn hơn? Sở chỉ huy sư đoàn di chuyển ra gần sông Vàm Cỏ Đông. Một cảnh tượng như trong mơ diễn ra trước mắt quân ta: 

Trên sông, xuồng ghe xuôi ngược tấp nập, cờ đỏ sao vàng, cờ Mặt trận rực rỡ múa như trong một ngày hội lớn ở miền Bắc, phải rồi! Đây là hội giao lương hay là hội gì đó trên đất Bắc chứ đâu phải ở giữa đồng bằng Nam Bộ địch còn dày như trấu, bom đạn đầy trời, đầy đất này nhỉ?

Xuồng ghe không một lúc nào ngớt. Tiếng máy reo vang cùng với tiếng cười, tiếng nói rạng rỡ. Xuồng chở thương binh về các trạm phẫu thuật phía sau, ghe chở gạo, chở đạn từ các kho, các tuyến sau lên phía trước ... Dòng sông bỗng trở nên một dòng sông thần thoại: "ơi hỡi dòng sông, nước xanh biêng biếc, chẳng đổi thay lòng ..." Câu hát năm nào bây giờ cất lên càng làm xao xuyến, xúc động lòng người.

Chính ủy Hòa ghé tới một bến chuyển thương binh. Những người lính trẻ của sư đoàn đều nhận ra anh, áo quần còn đầy bùn, đầy máu, anh bị nặng, anh bị nhẹ, nhưng tất cả đều tỏ ra rất vui. Một chiến sĩ trẻ măng, má tròn vo, dường như còn cả lông tơ, đã bị cụt mất một bàn chân, khi tỉnh lại, nhìn thấy chính ủy Hòa, anh không khóc, chỉ khẽ hỏi: "Chắc ta sắp vào Sài Gòn rồi, Chính ủy nhỉ?"

Một chiến sĩ khác da đen cháy, người Trà Vinh, bị thương cũng khá nặng vào bụng. Anh cầm tay Chính ủy, rất lâu, không nói gì hết, mà chỉ mỉm cười, nụ cười buồn nhưng thật bình tĩnh.

Những xuồng thương binh nổ máy ngược dòng. Những xuồng lớn khác quay về xuôi chở những đơn vị pháo binh và cả bộ binh của sư đoàn di chuyển sâu xuống phía lộ 4. Trên trời, những chiếc A37 vẫn tiếp tục gầm gào. Pháo binh địch vẫn còn ì ầm liên tục ở xa xa.
Đâu đó trong những vườn dừa vang lên bài Quốc tế ca: "Đấu tranh này là trận cuối cùng" ... 

Chính ủy Hòa biết, đó là các chi bộ Đảng đang tiến hành kết nạp đảng viên mới ngay tại trận, để chuẩn bị cho những trận đánh sắp tới và chắc chắn sẽ là những trận cuối cùng của cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt và gian khổ này - Những trận đánh quyết định, để cho lịch sử sẽ mở sang một trang mới.

6
Và điều mà .người ta đã phỏng đoán, đã mong đợi cháy lòng cháy ruột từ bao lâu đã tới

Quân đoàn 232, quân đoàn phụ trách hướng Tây nam của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã chính thức giao nhiệm vụ cho sư đoàn 5 yêu quí của mình: nhanh chóng và kiên quyết cắt đứt lộ 4. Thời cơ lớn, thời cơ trực tiếp đã tới!

Tưởng như trái tim mình đã rắn lại nhiều rồi, qua biết bao năm trời chiến đấu, sư đoàn trưởng không ngờ khi chính thức nhận được nhiệm vụ này vẫn cảm thấy mình khá xúc động.

Không phải vì đây là lần đầu tiên sư đoàn được chiến đấu ở lộ 4. Năm 1972 trong mùa hè rực lửa, khi đơn vị bạn tác chiến ở An Lộc thì sư đoàn 5 cũng đã tiến ra lộ 4. Tất nhiên năm đó, sư đoàn chỉ đứng chân ở trên con lộ chiến lược này được vỏn vẹn có hai giờ, sau đó đã phải rút lên Kiến Tường, trở về với vùng sình lầy Đồng Tháp...

Nhưng năm nay khác rồi! Hoàn toàn khác rồi! Sư trưởng đã hiểu được cái thế chiến lược đang diễn ra, lần này ra lộ 4, chắc chắn sẽ còn ác liệt gấp bội năm 1972 nhưng cũng chắc chắn sư đoàn cũng sẽ góp phần tạo nên một cái gì đó quyết định.

Sư trưởng đã tính toán: cắt thì cắt được. Nhưng cái khó là ở chỗ giữ. Quân đoàn yêu cầu: sư 5 cố giữ được từ năm tới bảy ngày.

Vậy giữ ra sao đây? Chống phi pháo thế nào cho có hiệu lực? Đánh quân phản kích lớn giữa ban ngày trên đồng trống sao cho hay?. Địch có sư 22 và sẽ có thể có sư 9 của quân khu 4 lên phản kích. Đó là chưa kể những lực lượng biệt động, bảo an địa phương tuy đã hoang mang nhưng vẫn còn đông như kiến.

Sư trưởng đã điện xin quân đoàn cho thêm lực lượng. Nhưng, không những đã không được thêm một tiểu đoàn nào, mà còn bị cắt lại trung đoàn 271 (để trả về cho sư 9 của ta đánh vào Hậu Nghĩa). Quân đoàn chỉ hứa sẽ cho thêm hai khẩu pháo 105. Nhưng phà đâu có! Mà làm sao chuyển được pháo lớn từ tít trên biên giới xuống đây kịp tác chiến. Như vậy sư đoàn chỉ có thể trông cậy hoàn toàn vào lực lượng bản thân mình, ngoài ra không có gì khác. Và như vậy vấn đề then chốt là ở chỗ tự mình phải tổ chức lãnh đạo cuộc chiến đấu làm sao cho thật chính xác, thật sáng suốt... 

Đài quan sát phía trước của sư đoàn đã đưa ra cách lộ 4 không quá một nghìn mét. Bắc ống nhòm lên, nom rõ tùng nhãn hiệu trên những chiếc xe đò dân sự đồ sộ, sặc sỡ chạy ngược xuôi không ngớt. Nhìn rõ cả từng tên lính đội mũ sắt, mặc áo giáp đỡ đạn trên những đoàn quân xa cắn đuôi nhau chạy rung chuyển cả mặt đất. Nhìn rõ cả từng họng đại bác trên tháp những chiếc xe tăng quay phải rồi quay trái "đánh hơi", và đe dọa... Riêng mật độ xe cộ đã có thể chứng tỏ được một phần nào tầm quan trọng sống còn của con đường chiến lược này.

Sẽ cắt

Nhưng cắt ở đoạn nào thì có lợi? Đoạn nào ta dễ phòng ngự giữ đất hơn, và địch khó triển khai binh khí, hỏa lực phản kích hơn? - Tham mưu quân đoàn đã gợi ý với sư đoàn: nên cắt đoạn từ thị xã Tân An xuống tới thị trấn Tân Hiệp gần Mỹ Tho.

Nhưng như thế có lợi gì? Theo trinh sát và dân chúng đang ồ ạt từ các thị trấn đang chạy về vùng ruộng cho biết: ở quanh Tân Hiệp có sư 9 ngụy mới lên. Đó là một trong những sư chủ lực của quân khu 4 (quân khu Cần Thơ và đồng bằng sông Cửu Long). Sư 9 ngụy chưa đụng độ, còn mạnh, lại có cả thiết giáp đầy đủ.

Còn đoạn từ thị xã Tân An ngược trở về Bến Lức (phía Sài Gòn ) thì sao? Đoạn này hiện có sư 22 ngụy. Nhưng đó là sư đoàn ngụy bị đánh thua mới chạy từ cao nguyên trở về để củng cố. Thiết giáp nó đã quị, sinh lực nó đã bị tiêu hao khá nhiều. Trong lúc đó, lực lượng của sư đoàn ta đang bố trí sẵn ở hướng Tân An - Bến Lức. Đây lại là đoạn đường nằm kẹp giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây. Vậy có phải đoạn này có lợi cho ta hơn, khó khăn cho địch hơn không?.

Sư đoàn trưởng trao đổi ý kiến hồi lâu với Tham mưu trưởng và các cán bộ tác chiến đi cùng.

Đêm đó, Thường vụ Đảng ủy sư đoàn họp. Tất cả cùng đi tới một quyết tâm: đề nghị quân đoàn cho cắt lộ 4 ở đoạn giữa Tân An và Bến Lức.

Ấy là đêm 22 tháng 4 năm 1975.

Sáng hôm sau (23 tháng 4 năm 1975) điện từ quân đoàn gửi về: quân đoàn phê chuẩn quyết tâm của sư đoàn và chúc sư đoàn hoàn toàn thắng lợi. Riêng sự phê chuẩn ấy cũng đã làm cho toàn sư đoàn phấn chấn ngay từ trước khi nổ súng tiến ra lộ.

Lực lượng đã được nhanh chóng quyết định sử dụng như sau: hai trung đoàn ra cắt lộ, một trung đoàn làm dự bị, bố trí ở phía Nam Vàm Cỏ Tây. Sư đoàn phán đoán: hướng phản kích của địch lớn chắc chắn sẽ từ Mỹ Tho lên, chứ không phải từ Sài Gòn xuống. Sài Gòn nếu có xuống chỉ là quân thua chạy.

Nhưng ai dám khẳng định là phán đoán này sẽ trúng?

Đảng ủy sư đoàn vẫn quả quyết: địch sẽ chỉ có phản kích lớn từ Mỹ Tho lên là chính (Về sau, tất cả các sự kiện xảy ra đã chứng minh nhận định này là đúng.).

Đã là đêm 25 tháng 4 năm 1975.

Tình hình chung đang biến chuyển từng ngày, từng giờ.

Cả miền Nam đang rung lên trong cơn bão táp của các trận đánh quyết liệt. Quân đoàn Duyên Hải tiến như chẻ tre, giải phóng một loạt các thành phố, các thị xã ven biển, đã tập kết đầy đủ ở phía nam Xuân Lộc. Các quân đoàn chủ lực hùng mạnh khác cũng đã phá tan tành mọi phòng tuyến xa gần của quân ngụy, đang ồ ạt áp sát Sài Gòn...

Mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy tối cao: sáng 28 tháng 4 năm 1975 chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh bắt đầu mở màn .

Nhưng ở đây sư đoàn 5 được lệnh: ngay từ 26 đã phải bằng mọi giá, cắt đứt được lộ 4, cắt đứt con đường miền Tây chiến lược này. Quyết không cho bọn ngụy ở đồng bằng sông Cửu Long tiến lên ứng cứu Sài Gòn và cũng không cho bọn ngụy ở Sài Gòn có đường để tháo chạy về Cần Thơ.

7
Đêm 26. Bầu trời miền Tây Nam Bộ mọi khi rất yên tĩnh, thuần một màu đen xanh thăm thẳm với những chòm sao chi chít. Nhưng đêm nay dường như khác lạ hẳn. Lửa cháy từ đâu hát lên mà nhiều vậy? Đại bác ở đâu gầm thét mà quá dữ? Hay đó chỉ là những ảo giác do một tình cảm nhiệt cuồng trong đêm xuất trận lịch sử gây nên.

Hai trung đoàn thành hai mũi, cùng nhằm lộ 4, vượt đồng tiến ra. Ven lộ, trinh sát đã báo cáo cho biết, vẫn còn rất nhiều đồn bốt. Quân địch cũng vẫn còn cả ở Vàm Thủ Thừa - một con kinh gần như chạy song song với lộ 4, chặn ngang đường tiến của quân ta.

Hai trung đoàn đã được lệnh: tiến nhanh, bỏ qua mọi đồn bốt lẻ, vượt qua địch mà ra bám lộ. Kiên quyết không vì một lực lượng nào cản trở mà dừng lại.

Sư trưởng, Chính ủy cùng ra hẳn phía trước, ngay trên đường tiến quăn của sư đoàn. Trong đêm ngầu đục ánh lửa bốn bề, rung chuyển tiếng trọng pháo, không nhìn rõ mặt một ai, chỉ thấy các chiến sĩ đều nai nịt rất gọn gàng. Chỉ thấy những vóc người nhỏ nhắn, dẻo dang, chắc lẳn. Chỉ thấy những bước chân như lướt trên đồng cỏ rối, như bay trên mặt đất đang rung rinh hồi hộp. Và chỉ thấp thoáng những nụ cười trắng bong, với những lời chào thật trẻ trung và nồng nhiệt: “Bộ Tư lệnh cứ tin tưởng ở chúng em".

“Thủ trưởng ơi! Ngày mai, cờ ta nhất định sẽ bay trên lộ 4" .

"Thủ trưởng ơi! Chúng em sẽ uýnh một trận thiệt đẹp nghe"

Chính ủy Hòa cố nén nỗi xúc động. Anh ôm lấy một cậu chiến sĩ trẻ nhất khi cậu ta vừa chạy sát qua trước mặt. Không mũ nón, đầu quấn băng trắng, máu còn loang đỏ ngực áo mở rộng, chân mang dép lốp, AK trước ngực, cười má lúm hai đồng tiền như con gái.

- Em tên gì?

- Báo cáo. Lâm! 

- Quê em ở đâu? 

- Báo cáo Hà Nội!

Ôi Hà Nội! Hà Nội của chúng ta, của cả đất nước này, của tất cả dân tộc anh hùng này. Hà Nội ở đây, ở đây

Chính ủy Hòa lại ôm lấy một chiến sĩ khác, nét mặt phóng khoáng, bồng bột. Anh này cũng đã bị thương nhẹ ở cánh tay trái .

- Em ở đâu?

- Báo cáo em ở Long An. Mới nhập ngũ hồi đầu năm mà! Uýnh xong trận này, cho phép em về thăm bà già ông già ít bữa nhá, thủ trưởng?

Đây là trước giờ chiến thắng!

Chắc chắn không một chiến sĩ nào không biết rõ như vậy. Nhưng họ vẫn vui quá. Y như trẩy hội lớn. Không thấy dấu vết nào của sự tính toán cá nhân nhỏ bé! Phải chăng chính vì vậy mà họ quá vĩ đại?

Quân vẫn tiến rất nhanh. Các đơn vị ta đã hao hụt khá nhiều nhưng đã có câu "Binh bại như núi lở". Nay quân ngụy đúng như một trái núi đang sụt lở, không có cách gì cứu vãn được nữa. Trong cái thế ấy, những người chỉ huy của chúng ta đã hiểu rằng phải biết táo bạo, phải dám lấy một đánh mười, dám lấy quân chuẩn bị chưa kỹ đánh quân đã hoảng loạn...

Quân tiến vẫn rất đều.

và vẫn hết sức bí mật.

Nén từng cái ho. 

Gượng nhẹ từng bước chân trên bùn ...

Bỗng một loạt trọng pháo gầm lên, rực lửa ở ngay trên đường tiến của một trung đoàn.

Cái gì vậy? Lộ há?

Không sao! Địch vẫn bắn cầm canh vu vơ vậy thôi?

Ai bị thương thế. - Phó chính ủy trung đoàn 2 hả?

Đưa anh ấy về phía sau, lẹ lên! Còn tất cả tiếp tục tiến. Tiến!

Phía sau, những chú trinh sát, liên lạc nhỏ tuổi, ướt đẫm, bùn bê bết từ đầu tới chân chạy như bay về Sở chỉ huy sư đoàn báo tin: 105 ly đã tới.

Cả Sở chỉ huy muốn reo lên. Mấy khẩu 105 lúc này, ai cũng hiểu, có giá trị như hàng chục đạn đại pháo...

105 đã được tháo rời ra bỏ xuồng, xuôi sông từ vùng biên giới, lẽ ra có thể tới đây từ đêm 25. Nhưng vì xuồng nhỏ, pháo nặng, đã chìm xuống. Phải mò lên từng bộ phận nặng hàng tấn. Sau đó lên bộ. Nhưng lại phải kéo những con voi thép ấy vượt sình. Lại chìm. Lại trục vớt.

Một tin mừng nữa: 7 xe thiết giáp cũng đã tới! Cũng không thể hiểu anh em ta đã làm thế nào mà đưa được cả bảy chiếc xe ấy vượt sình, vượt kinh tới đây được .

Dường như tới những ngày quyết định này, mọi con người đều đã có một sức mạnh màu nhiệm mới. Cũng vì thế đã có biết bao sự việc thành đạt được, mà tuồng như không thể nào tin nổi!

Sư trưởng Thược và Chính ủy Hòa luôn luôn thường trực ở Sở chỉ huy. Cả hai chỉ uống trà đặc. Không ăn uống một miếng gì hết. Chốc chốc lại hỏi Tham mưu trưởng. Chốc chốc lại quay máy, gọi xuống các trung đoàn.

Gần 4 giờ sáng. bỗng nghe tiếng súng cối nổ rất hỗn loạn và thấy cả tiếng súng máy rộ rát, gay gắt khác thường.

- Có chuyện rồi! - Sư trưởng Thược bật nói.

Quả nhiên, lát sau, có điện về, báo cáo tiểu đoàn 6 của trung đoàn 2 bị địch phục kích trên cánh đồng. Một đại đội bị tổn thất khá nặng.

Cả Thược, cả Hòa đều sững sờ. 

Một đại đội bị tổn thất nặng

Đau quá!

Giữa lúc này mà còn bị tiêu mất gần cả một đại đội. Hai anh muốn bay ngay ra cánh đồng mù tối phía trước giữa những tiếng súng vẫn đang còn như cắn xé nhau. Nhưng xem xét lại, các anh thấy: hầu hết các đơn vị đều đã ra trót lọt sát lộ. Có chốt đã cắm xong. Tình hình chung như thế là thuận lợi và có đủ điều kiện để chiến thắng. Hai anh bèn ra lệnh: Tiếp tục tiến! Những bộ phận nào vẫn còn giữ bí mật được lực lượng, tiếp tục giữ kín mọi tung tích ... 

Năm giờ sáng, điện từ hai trung đoàn cùng gọi về chỉ huy sở báo cáo gần như cùng một lúc: 

"Chúng tôi đã có mặt ở lộ 4!" 

Sư trưởng lặng đi trong một giây. Anh nghẹn ngào vì quá mừng. 

Trời sáng dần. 

Ngoài lộ 4, trên trận tuyến của trung đoàn thứ nhất, các chiến sĩ ta đã đặt xong các chướng ngại vật, rải truyền đơn, và đặt thuốc nổ ở các cột điện để khi cần thì đánh gục xuống tạo thêm nhiều vật chướng ngại, một đại đội bám sát lộ, tạo thành một cái chốt cứng. Hai đại đội khác đã tiến hành bao vây mấy đồn nhỏ cách đó khoảng năm trăm mét. Các đơn vị còn lại nằm im, làm lực lượng cơ động sẵn sàng đánh quân phản kích.

Về phía trung đoàn thứ hai: cũng đã bố trí xong hai chốt một ở Cầu Voi, một ở ấp Bù Na chặn lối từ Thủ Thừa ra. Trung đoàn này cũng đã có một đại đội vây một đồn địch án ngữ trên đường tiến quân của ta.

Như vậy trên toàn trận địa của sư đoàn đã có tất cả ba chốt, và lực lượng cơ động để đánh quân phản kích vẫn còn khá dồi dào.

Trời đã sáng rõ.

Con lộ 4 chiến lược nằm phơi mình phẳng lì trước mặt các chiến sĩ ta. Những chiến sĩ đã từng ra tới con lộ này mùa hè năm 1972 đều không khỏi nhớ lại cái đêm đầy lửa đạn ấy. Bữa đó, có anh khi vừa nhảy được lên mặt lộ, cảm động quá bắt chước người xưa, đã cúi xuống hôn mặt đường, như hôn tất cả những niềm ước mơ của mình. Những chiến sĩ mới bổ sung về sư đoàn không được chứng kiến cảnh đó. Hôm nay là lần đầu họ được ra con lộ quá đỗi quan trọng này, cũng không khỏi thấy bồi hồi, sung sướng. Nhiều anh đã rớm lệ.

Nhưng tất cả đều im lặng.

Ngoài lộ cũng im lặng.

Một sự im lặng phập phồng, căng thẳng.

Chắc chắn địch đã "đánh hơi" thấy ta từ lúc bốn giờ sáng, trong trận đụng độ ấy. Chúng còn đang nghe ngóng chăng? Hoặc chúng đang chuẩn bị để tung ra những trận phản kích đẫm máu?

Mặt trời mỗi lúc một cao hơn. Nắng chói chang khắp cánh đồng. Con lộ phẳng lì sáng lên như một phiến thép khổng lồ đang trải dài.

Tám giờ.

Mười giờ.

Bỗng sự im lặng đã căng mỏng ra như thủy tinh bóng đèn bắt đầu nổ tung, vỡ vụn.

Địch bắt đầu ra!

Điện thoại réo lên như mưa rào trong Sở chỉ huy sư đoàn.

- Báo cáo! Địch đã xuất hiện1

- Địch thế nào? Phải nói cụ thể?

- Báo cáo, bộ binh!

- Bộ binh?

- Vâng! Bộ binh!

- Nhưng bao nhiêu? 

- Chúng tiến ra hai mũi, hướng trung đoàn 2 mỗi mũi một đại đội.

Sư đoàn trưởng nhíu lông mày lại. Anh trao đổi với Chính ủy vài lời rất nhanh, rồi ra lệnh:

- Chúng ra cấp đại đội, trung đoàn cho nổ súng cũng chỉ cấp đại đội! Vẫn phải giấu kỹ lực lượng! Có thể là chúng mới chỉ làm những động tác thăm dò...

Mà quá đúng như vậy. Từ lúc đó tới hết ngày, mấy lần bọn địch chỉ tung ra có một vài đại đội. Ta cũng chỉ nổ súng cấp đại đội. Và lần nào cũng vậy, chỉ nổ súng một chặp, chúng đã rút liền. Rõ ràng chúng chưa chấp nhận chiến đấu.

Mặt trời đã xuống đỏ rực cả một vùng trời đằng Tây. Một ngày thật căng thẳng đã qua đi, nhưng lại không có chuyện đáng kể, y như là một cuộc thách đố về cân não.

Đêm xuống dần. Gió nổi lên, dào dạt như sóng biển trên cánh đồng. "Phải cảnh giác!" Sư đoàn vừa hạ lệnh, thì liền ngay đó, tiếng súng bắt đầu dậy lên dữ dội ở phía Cầu Voi

- Báo cáo! Một tiểu đoàn của sư 22 địch bất ngờ ào ra chiếm mất chốt của trung đoàn 2. Quân ta đang phản kích để lấy lại.

- Dùng mật tập. Từng đơn vị nhỏ, nhọn, sắc. Thọc sâu rồi chia cắt. Nhớ phải bọc hậu! - Sư trưởng ra lệnh.

Tiếng súng gay gắt. Lửa nháng lên từng hồi, chiếu hắt vào đến tận mặt người ở đài quan sát của Sở chỉ huy sư đoàn.

Hai mươi phút sau, trung đoàn 2 báo cáo về: đã lấy lại được chốt.

Sư đoàn trưởng chỉ im lặng. Anh không nhếch một nụ cười. Anh hiểu: tất cả mới chỉ là những "khúc dạo đầu” của cả một bản giao hưởng lửa máu ghê gớm ngày mai ...

8

Sư đoàn đã đứng vững trên lộ 4 như thế đã trọn một ngày.

Bước sang ngày thứ hai.

Điều mà toàn sư đoàn dự kiến, chờ đợi, quả thật đã tới.

Sư đoàn 22 ngụy cộng các đơn vị bảo an, biệt động, từ Tân An bắt đầu tiến hành phản kích ngay từ 6 giờ sáng, có trọng pháo yểm trợ, có xe tăng dẫn đầu, có máy bay chi viện bên trên.

Pháo lên tiếng trước. Những màn đạn rít như từng bầy ma quỷ trên không trung rồi trút xuống các điểm chốt của quân ta. Lửa khói mỗi lúc một thêm dày đặc. Những cột khói cao ngất dần dần tụ lại với nhau thành những đám mây đen che gần kín ánh mặt trời.

Trong các công sự, các chiến sĩ sư đoàn vẫn tiếp tục quan sát, theo dõi mọi hoạt động của bọn bộ binh, thiết giáp địch. Bom đã vùi lấp mất một số hầm hố. Nhiều chiến sĩ sờ lên tai mình mới biết máu đã bật chảy. Có những cỗ đại liên bay lên, quay tít như chong chóng rồi lả tả rơi xuống thành từng mảnh sắt vụn... 

Trong chốc lát, một số vườn cây ăn trái, một số thôn ấp bên đường như đã biến mất. Đồng ruộng trơ ra, ngơ ngác, hãi hùng. Và lúc đó, bộ binh địch bắt đầu tiến. Chúng tiến một cách dè dặt nhưng cũng không kém phần liều lĩnh - Sự liều lĩnh thí thân của những kẻ biết rõ ràng chỉ có liều xông lên cướp lấy con đường này mới có cơ may sống sót.

Chúng đã gần tới trước các họng súng của sư đoàn.

Một trăm thước.

Tám mươi thước.

Năm mươi thước.

Lửa như từ dưới đất bỗng phụt tung lên. 

Thép như mưa từ dưới các ruộng bùn, các bờ kênh sụt lở hắt ngược trở lại.

Một loạt, các chiến sĩ cùng chồm dậy, súng lắp lê, lao thẳng tới đám đông quân địch vừa tràn tới.

Thế là tan vỡ.

Một sự tan vỡ nổ bùng và không sao kìm giữ nổi nữa.

Quân sư đoàn 22, quân biệt động, quân bảo an chạy tung tóe. Những viên AK ghim chặt lấy từng đứa xuống ruộng lúa. Những quả lựu đạn xé tan từng chiếc thân xác trên các giồng cao, và ở ngay giữa mặt lộ máu tươi đã chảy thành từng dòng, từng vệt dài. Hai chiếc xe tăng chết gục không cách xa nhau là bao. Lửa khói thốc ra phì phì. Những viên đạn đại bác trong lòng xe nổ liên hồi phá nốt những cái gì còn lại trong ruột nó.

- Báo cáo, bọn còn lại rút hết về Tân An - Cầu Voi rồi!

- Tốt! Chuẩn bị ngay cho đợt phản kích khác. Các đồng chí nghe rõ đây: Đảng ủy sư đoàn nhận định hôm nay chúng ta phải sẵn sàng đánh thắng liên tục! Hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ! Vậy phải có "kíp" nghỉ, 'kíp" đánh. Nhớ chưa? Vẫn phải nắm vững phương châm: lấy nhỏ, lấy tinh để thắng lớn, thắng ô hợp. Nhớ chưa? Sư trưởng và Chính ủy sẽ ra các chiến hào tiền duyên cùng với các đồng chí! Nửa giờ nữa! ...

Nửa giờ sau. Chính úy và Sư trưởng tới chốt Cầu Voi. Đi cùng, có cả Trung đoàn trưởng trung đoàn 2.

Những đồng chí lãnh đạo, chỉ huy đứng trong một đoạn chiến hào be bét đầy mảnh bom mảnh cối, cùng nhìn về phía Tân An và ngắm nhìn con lộ. Khói vẫn còn mờ mịt khắp nơi. Khói chạy dài trên con lộ đã ngổn ngang xác xe, xác người. Những mảnh áo giáp tung tóe, trắng xóa. Những mảnh giấy bay lên từng hồi dưới những làn gió giận dữ. 

Một giờ sau, đợt phản kích thứ hai lại nổ ra. Lần này khác trước, quân ngụy không đánh chính diện các chốt của ta nữa mà vu hồi phía sau. Xe tăng toàn lội ruộng để bọc hậu.

Nhưng tất cả mọi tình huống ấy đều đã được tính toán và chuẩn bị.

Chốt là một cái vòng thần kỳ rất mềm mà cũng rất cứng. Nó ở một chỗ, nhưng lại không bao giờ chết cứng một chỗ. Nó lung linh. Nó biến hóa. Nhưng nó luôn luôn là một cái gì khép kín, luôn luôn là một mũi tấn công và cũng luôn luôn là một ổ phục kích. Ở bất cứ hướng khác nào, địa hình nào. dù phức tạp.

Lần này những chiếc xe tăng không bốc cháy nằm xếp hàng dọc trên con lộ chiến lược nữa. Chúng đã chết thiêu ở ngay trên các ruộng lúa, cái chìm lún tới ngang thân, cái chổng đít lên, đầu cắm sâu xuống. Lúa còn xanh mà đã hóa thành lúa đỏ. Lửa cháy sôi cả nước ruộng. Những xác ngụy nằm lẫn trong những đám lúa cháy rụi. Chết rồi mà đất bùn vùi cả lên mặt mũi, thi thể.

Đợt phản kích thứ hai chấm dứt bằng sự mở đầu của những đợt máy bay oanh tạc tập trung. đánh điểm.

Ai đã từng ở Quảng Trị 1972, chắc đã biết rõ cái gọi là “chiến dịch phong lôi" của quân Mỹ khi buộc phải quay trở lại Mỹ hóa cái cuộc chiến tranh mà chúng đang cố Việt Nam hóa.

Những đợt máy bay ngụy oanh tạc liên hồi suốt từ mười hai giờ trưa hôm đó tới lúc mặt trời lặn vào các trận địa của sư đoàn cũng dã man không kém lắm cái "phong lôi” ấy. Nếu có kém chỉ là thiếu B52 với bom rải thảm. Những chiếc máy bay như những con vật điên.

Tuy vậy, cũng như đã mấy chục năm chiến tranh qua, chưa bao giờ chỉ riêng máy bay và trọng pháo giải quyết được chiến trường. Quyết định cuối cùng vẫn là người lính với cây súng cá nhân trên tay.
*
*   *

Đã qua ngày thứ hai...

Rồi ngày thứ ba.

Thế là đã ba ngày liền lộ 4 bị hoàn toàn cắt đứt. Nơi tiếp giáp giữa hai quân khu ngụy (Quân khu 3 và Quân khu 4) thế là đã bị chọc thủng. Mấy hôm trước, những tên hiếu chiến, ngoan cố nhất trong ngụy quân, ngụy quyền còn ra rả gào lên: "Nếu cần, chúng ta sẽ lui về Cần Thơ - Quân khu 4 để tử thủ”. Mỹ cũng đã gợi cho Thiệu viễn cảnh về một vùng cố thủ vững chắc cuối cùng: vùng đồng bằng sông Cửu Long biển lúa...

Tối hôm nay đã thấy im bặt những lời hò hét ấy. Chỉ vì cái tin rụng rời: lộ 4 đã bị cắt đứt!

Tại đây, sư đoàn 5 - một mũi độc lập, tách biệt hẳn một hướng, ở phía tây mặt trận - không được tin tức nhiều vì mọi diễn biến khổng lồ ở các mặt trận phía khác. Như một người lính xung kích, trên một cái chốt nhỏ, được lệnh: giữ đến cùng! Sư đoàn chỉ biết có đánh. Và cũng gần như chỉ cần biết có điều ấy. Đánh! Đánh nữa! Đánh với tất cả sức mạnh và ý chí, và tâm hồn mình. 

Đã là ngày thứ ba. Sư đoàn vẫn còn đủ lực, đủ ý chí để đóng ở đây, khóa chặt ở đây, bốn, năm, sáu, bảy, tám... ngày, và có thể lâu hơn nữa nếu cần. 

Đêm xuống dần. 

Tham mưu trưởng bỗng lật đật chạy sang hầm chỉ huy của Tư lệnh và Chính uỷ. Bộ phận kỹ thuật của Ban thông tin sư đoàn vừa bắt được điện của bọn ngụy ở Tân An với bọn liên đoàn biệt động 6 và sư đoàn 9 từ Cần Thơ mới lên. Chúng hẹn với nhau: sáng 30 sẽ triển khai lực lượng, cùng hiệp đồng dốc toàn lực, giải tỏa lộ 4 bằng mọi giá.

Thường vụ Đảng ủy họp liền, mọi người nhận định: bọn Tân An (chủ yếu là sư 22) đã mất sức rồi sau ba ngày phản kích ra lộ 4 mà không ăn thua. Như vậy như đã dự kiến từ trước, chắc chắn địch sẽ tập trung lực lượng (mà có lẽ chủ yếu là sư 9 với liên đoàn biệt động 6) phản kích từ phía Mỹ Tho lên.

Sư đoàn bèn ra lệnh: thiết giáp, pháo 105 ly sẵn sàng. Đội dự bị của sư đoàn cũng sẵn sàng đê xuất kích.

Ngay trong đêm, mọi công việc chuẩn bị để đánh quân phản kích lớn được triển khai nhộn nhịp. Pháo được kéo ra. Thiết giáp được ăn dầu ăn mỡ. Ghe, xuồng của đồng bào chuyển đạn được ra hỏa tuyến, cắm cờ, thắp đèn, chạy như sao sa trên các sông Vàm Cỏ và Vàm Thủ Thừa ...

Nửa đêm bỗng lại có điện.

Trời! Hậu Nghĩa xong rồi! Đặc công cũng đã chiếm được cầu xa lộ? Thế thì ... sắp có chuyển biến lớn đến nơi?

Chính ủy Hòa vốn luôn luôn có một dáng vẻ thư thái và tỏ ra quen phân tích tình hình, dự kiến tình huống, lúc này cũng không khỏi trở nên bồi hồi và gần như không dám tin ở sự phán đoán của chính mình nữa.

Trời đã sáng. Một buổi sáng chói lòa nắng nhiệt đới. Im hẳn. Tự nhiên lại thấy rất im tiếng súng. Có một cái gì như rất long trọng, rất thiêng liêng đang xảy ra ở đâu đây

Cơ quan tham mưu báo cáo gấp: Rất lạ. Vừa bắt được điện thẳng (không qua mật mã) của bọn sư 9 ngụy ra lệnh cho trung đoàn 14 của chúng hãy thận trọng, dừng lại ở Tân Hiệp. Liền ngay đó, lại có điện thẳng của bọn Tân An gọi cho sư 9 nói: "Có gì, các anh chớ có bỏ chúng tôi".

Thế là thế nào?.

Sao hồi hộp làm vậy? 

Trời! Dám nói là địch đã suy sụp hẳn rồi!

Chắc chắn chúng suy sụp rồi!

Nhưng ở đây liệu chúng có bỏ Tân An không?

Chắc không! Vì dẫu sao vẫn còn Sài Gòn. Bọn Tân An phải giữ đường cho bọn Sài Gòn tháo chạy chứ!

Vậy sư đoàn nên hành động ra sao đây?

Đánh thẳng luôn vào Tân An?

Hay vẫn phải nắm vững nhiệm vụ: Khóa chặt lộ 4?

Cả Chỉ huy sở náo nhiệt.

Mọi người còn đang tiếp tục phán đoán thì một cán bộ tham mưu lao tới như một cơn gió lốc. Anh ta nói như thét lên: "Dương Văn Minh đã ra lệnh cho quân nó ở đâu ở nguyên đó, chờ lệnh mới!".

Có cái gì đó như nổ tung. 

Những cặp mắt sáng lòe.

- Cho triệu tập cả cơ quan tham mưu, cơ quan chính trị lại đây! Mau! - Chính ủy Hòa ra chỉ thị .

Một mặt Thường vụ Đảng ủy trao đổi ý kiến thật gấp

Rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa, địch đã hoàn toàn quỵ ngã. Không thể trù trừ gì nữa. Phải mau chóng, kiên quyết xốc tới!

Có một ý kiến: lúc này tranh thủ dùng loa gọi hàng tất cả bọn địch.

Nhiều ý kiến khác bác đi: Phải đánh! Không dễ gì mà gọi hàng!

Sư trưởng và Chính ủy cùng ngả theo ý kiến: nhanh chóng đánh tới!

Thế là trong khoảnh khắc, toàn sư đoàn như một con đại bàng từ trên cao dang rộng đôi cánh mãnh liệt, sà xuống mặt đất, lao thẳng tới con mồi. Không cần chuẩn bị gì nhiều nữa. Đơn vị nào nắm được quân trước cho đánh trước. Đơn vị nào ở gần địch, cho nổ súng luôn, ít cũng đánh! Nhiều cũng đánh! Đánh quyết liệt! Đánh thần tốc! Binh bại như núi lở. Một chiến sĩ ta lúc này có khả năng đánh cả một thiết đoàn địch!

Cả một vùng đồng bằng như trào sôi trong một cơn lốc đỏ rực

Một trung đoàn báo cáo về: đã đánh chiếm được một khu vực gần căn cứ Cầu Voi, bắt trên năm trăm tù binh.

Chỉ lát sau một trung đoàn khác điện báo đang đánh Bến Lức. Trung đoàn vừa bắt được trên năm trăm tù binh gần Cầu Voi báo cáo tiếp: đang tiến về thị xã Tân An. Một trung đoàn nữa có tin đã chiếm được vị trí Cần Đốt (gần Tân Hiệp, Mỹ Tho) và cũng đang tiến về sân bay...

Pháo 105 của sư đoàn lập tức gầm lên, nã dồn dập vào sân bay Cần Đốt. DKB, H12, những loại pháo mang vác hiện đại cũng tiếp tục mãnh liệt bắn vào Chỉ huy sở sư đoàn 22 ngụy.

Chín giờ.

Tham mưu trưởng báo cáo: Dương Văn Minh xin ngừng bắn và sẵn sàng đề bàn giao chính quyền cho ta.

Nhưng sư đoàn đã có kinh nghiệm xương máu rồi. Sư đoàn trưởng đỏ mặt, gạt tay nói như gầm lên:

- Bàn giao! Bàn giao cái con mẹ gì? Chúng nó lại định mẹo như năm 1972 để rồi lại lấn tới tấn công chứ gì! Đánh! Đánh tới thôi!

Mười giờ.

Chiếm xong căn cứ Cầu Voi.

Mười hai giờ.  Chiếm xong sân bay Cần Đốt. Tại thị xã Tân An, một trận đánh rất ác liệt đã diễn ra ở khu chợ, một số chiến sĩ ta thương vong. Nhưng sau đó toàn thị xã đã được giải phóng. Cờ đỏ bay rợp thị xã. Tù binh đã lên tới hàng ngàn ... 

- Trung đoàn 1 đâu? Truy kích mau! Tiến xuống Tân Hiệp. Lẹ lên! Thiết giáp đâu? Đi theo trung đoàn 1, yểm trợ, chi viện cho nó! Gấp lên! 

Sư đoàn trưởng liên tiếp ra lệnh, điều động các đơn vị. Mồ hôi anh ướt đẫm trên khuôn mặt cháy nắng quả cảm.

Ngay lúc đó, có tin báo về: Thủ Thừa và Bến Lức cũng đã đầu hàng.

Như vậy, chỉ còn bọn sư 9 ở Tân Hiệp vẫn ngoan cố chống cự, mặc dầu Dương Văn Minh đã ra lệnh cho chúng. 

- Đánh! Tiếp tục đánh! Hãy tiêu diệt sạch bọn ngoan cố! Khoan hồng cho những tên đã đầu hàng! 

Sư đoàn trưởng nhảy lên một chiếc xe díp. 

Anh ra tới lộ 4. Tàn binh và tù binh ngụy kín mặt đường. Xe phải vừa nhấn còi không ngắt nhịp vừa lao lên. Quân của trung đoàn 1 đã lên tới Tân Hiệp gần hết rồi. Chỉ còn thiết giáp vì trục trặc đường sá bây giờ mới ra tới nơi, cũng đang gầm lên, phóng như voi lồng trên con lộ đã thoắt biến thành một dòng thác người kỳ lạ, địch ta lẫn lộn, dày đặc.

Đêm đã xuống. Xe vừa bật đèn sáng lóa thì cũng vừa lúc có tin:

Tân Hiệp đầu hàng! Chúng đã phất cờ trắng sau một trận giao phong tuyệt vọng với trung đoàn 1.

Thế là xong!

“Hoàn toàn rồi! Hoàn toàn rồi!" Quân reo như sóng dậy. Từ trên xe, Sư đoàn trưởng nhảy xuống. Chân anh dẫm lên những đống ba lô, súng đạn, mũ sắt, dây lưng ... toàn đồ Mỹ lổn nhổn đầy đường. Anh gặp một chiến sĩ vừa chạy tới vừa giơ cao khẩu AK múa tròn, thét vang: “Hoàn toàn rồi! Hoàn toàn rồi!"

Cả hai, Sư trưởng và anh lính cùng xiết chặt lấy nhau, cùng ứa nước mắt - Những giọt nước mắt sung sướng hạnh phúc tuyệt vời của những người Chiến sĩ.

- Các đơn vì bạn đã vào hết Sài Gòn từ sáng nay rồi, thủ trưởng ơi! - Anh chiến sĩ nói to.

- Đúng vậy! Nhưng thật ra chúng ta cũng đã cùng vào đó từ sáng nay với tất cả các binh đoàn hùng mạnh khác. Em hiểu chứ!

- À! Đúng! Thủ trưởng ạ! Em hiểu! Em hiểu rồi! 

Con lộ như vẫn còn đầy máu và bốc lửa.
1-1976

NGÀY MAI THÀNH PHỐ SẼ HỒI SINH

Bến phà Mỹ Thuận một buổi sáng trung tuần tháng 4 năm 1975. Dòng Hậu Giang mênh mông rực nắng sớm. Đứng bên này nhìn sang bên kia, phía Cán Thơ, chỉ thấy một vệt cây xanh nhỏ tắp, chạy dài.

Con phà đồ sộ chở sáu chiếc xe đò lớn với hai chiếc xe du lịch bắt đầu nhả câu, từ từ lướt sang ngang. Hành khách khá đông đứng đầy hai hành lang trên, dưới và tràn cả ra mũi phà. Tiếng trò truyện ồn ào dường như át cả tiếng một anh xẩm đang ôm một cây ghita có gắn micrô pin, gân cổ lên ca sáu câu vọng cổ, át cả tiếng rao hàng lanh lảnh của những chị và cô bé choai choai đội từng mâm chim sẻ chiên vàng, đeo từng xâu khô mực lủng lẳng trước ngực.

Chuyện của hành khách hôm nay dường như chỉ toàn là những tin chiến sự: Huế vỡ, Đà Nẵng thất thủ, Nha Trang và Đà Lạt tháo chạy... Toàn những chuyện "động trời" đang làm đảo lộn, làm lay chuyển cả cái xã hội tưởng như đã chịu nằm yên dưới gót giày của người Mỹ và bè lũ Thiệu ...

Trong lúc đó, một phụ nữ chạc hai bốn, hai lăm tuổi vận một tấm áo dài xanh, đứng ở mũi phà lại có vẻ hoàn toàn lơ đãng, nếu không muốn nói là thờ ơ với tất cả những câu chuyện thời sự nóng bỏng ấy. Cô đứng đó, im lặng, cặp mắt buồn nhìn vơ vẩn mãi ra sông rộng; gió thổi lay bay những sợi tóc mai mềm mại. Cô khá gầy yếu gương mặt hơi xanh xao. Một bà đẫy đà, nhai trầu, vẻ người miền ruộng đứng bên, ái ngại:

- Đứng lui vô trong kẻo gió cô hai.

Người con gái quay lại, khẽ gật đầu cảm ơn. Bấy giờ bà nhai trầu đã có thể nhìn được kỹ hơn: đó là một người con gái không đẹp lắm, nhưng thật dịu dàng và kín đáo, hết sức dễ thương.

- Cô cũng vô Cần Thơ?

- Dạ!

Tiếng “dạ" sao mà ngọt ngào.

- Cô vô mua bán chi?

- Con vô thăm bịnh, bác à!

- Hèn chi: ngó bộng cũng không được mạnh lắm. Xin lỗi nghen, cô hai đã chồng con chưa?

- Thưa, chưa!

Cô gái mỉm cười nhìn xuống, vẻ mắc cỡ.

- Ồi thế cũng may! Thời buổi này... lấy chồng thường là phải lấy lính. Mà cô hai coi, vợ lính bây giờ có cực hay không?

Bà già lại nhìn "cô gái". Ngó bộ cũng con nhà tử tế, Bà càng thấy mến cô gái mới quen.

Bà không thể nào ngờ bà đang nói chuyện với một “nữ cán binh Việt cộng chánh hiệu”! - Một "nữ cán binh" mà hồ sơ đã cao tới gang tay trong Ty An ninh Cần Thơ - Một "nữ cán binh" mà bọn cảnh sát, mật vụ truy đuổi nhiều phen, chưa một lần bắt trúng, đã đồn đại là một cô gái “xuất quỷ nhập thần".

Thật ra cô chỉ là một nữ cán bộ cũng như nhiều nữ cán bộ khác của ta đã nhiều năm ra vào thành phố này để xây dựng cơ sở và đánh địch. Cô không có tài "xuất quỉ nhập thần" gì hết. Nhưng quả là cô đã biết tự tạo cho mình một chiếc áo giáp thần kỳ: ấy là sự đùm bọc, sự che chở của bà con, cô bác ...

Bữa nay, cô lại trở vào Cần Thơ. Nhưng khác hẳn mọi khi, lần này cô không phải chỉ đơn độc một mình hoặc với dăm ba đồng chí mà có cả một lực lượng cán bộ đủ các ngành các giới, đông tới hàng trăm, bằng nhiều đường, nhiều cách khác nhau cùng vào Cần Thơ, theo một quyết định lịch sử của Khu ủy và Thành ủy, ấy là đoàn cán bộ được đưa vào thành phố để gấp rút chuẩn bị lãnh đạo nhân dân nổi dậy cướp chính quyền.

Thời cơ lớn đã tới! Từ đầu tháng 4 Khu ủy đã quyết định lấy Cần Thơ làm trọng điểm nổi dậy của toàn miền châu thổ này. Tại căn cứ Long Mỹ đã có một cuộc họp trọng đại của Thành ủy Cần Thơ bàn cụ thể công việc. Một Ban Chỉ huy khởi nghĩa đã được thành lập gồm đại diện của Quân khu và Thành ủy. Đồng chí Nam Hưng Bí thư thành ủy phụ trách chung. Cần Thơ đã được chia ra làm năm khu vực nội, ngoại thành: bao gồm mười lăm điểm khởi nghĩa. Đồng chí Năm Bình Thường vụ Thành ủy đã được phân công đặc trách những khu vực nổi dậy trong nội thành.

Người “nữ cán binh" gầy yếu qua phà Mỹ Thuận một cách táo bạo, bất ngờ bữa nay là người đã được phân công lãnh đạo công cuộc nổi dậy của một phường thuộc một khu vực trọng điểm của thành phố, nơi vừa đông dân cư vừa có nhiều công sở đầu não địch. Nơi đây cũng là địa bàn mà người con gái "xuất quỷ nhập thần" nay đã lặn lội, vào sống ra chết với đồng bào ròng rã sáu bảy năm trời qua.

Con phà đã cặp bến. Hành khách ồn ào tranh nhau kéo lên mặt lộ. Cô gái biến mất trong đám đông nhốn nháo ấy. Lát sau, đã thấy cô ngồi trên một chiếc xe lôi chạy vào thành phố. Gương mặt của cô dường như càng thêm xanh xao, ốm yếu.

Chỉ loáng mắt, Cần Thơ đã hiện ra phía trước, sáng rõ và bề bộn dưới ánh nắng sớm chói chang của miền Tây lúa gạo. Đã gặp lại những gương mặt phóng khoáng, khỏe khoắn và trung thực của người Cần Thơ, với cách ăn mặc giản dị, xuề xòa quá đỗi quen thuộc của họ. Nam Bộ! Phải rồi? Cô gái vẫn thường thầm nghĩ: ai muốn hiểu được đúng bản sắc Nam Bộ, phải tới Cần Thơ với vùng biển lúa này. Sài Gòn, dẫu sao cũng chỉ là một thành phố tứ chiếng ...

Cần Thơ! Thành phố này đã gắn bó với cô biết mấy! Tuy ra đời ở vùng ruộng, nhưng giờ đây cô cũng đã coi Cần Thơ như chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đã có biết bao kỷ niệm máu xương với đồng bào. Nơi đây cô cũng đã có cả một kỷ niệm riêng chẳng ít đau buồn, ấy là một con người phản bội. Tất nhiên nguyên nhân đã thúc đẩy hắn bỏ cứ trốn chạy có nhiều điều khác nhau. Nhưng muốn sao thì sao, hắn vẫn là một tên phản bội. Hắn trước là y sĩ của ta.

Trong bưng biền những năm gian khổ trước đây hắn đã gặp cô. Hắn tìm gặp cô không biết bao lần để bày tỏ tình yêu "nồng cháy" của hắn. Cô đã ưng thuận. Hắn đòi cưới ngay, mặc dầu lúc đó cô đang có biết bao công chuyện quan trọng trong nội thành. Nhưng cuối cùng, cô cũng đã chiều lòng, chấp nhận lời van nài của hắn. Đám cưới xong độ hai tuần, cô lại phải trở vào thành phố. Năm tháng sau, cô mới có dịp trở ra, về cứ. Thì tai họa đã xảy ra rồi! Hắn đã có quan hệ bất chính với một người con gái khác. Liền ngay đó, căn cứ bị bom, pháo "đánh điểm" tan nát gần hết. Hắn đã bỏ chạy vào vùng địch. Từ đó mất tăm. Hắn đã chết? Hay là hắn đã trở thành một tên ác ôn khát máu? Chưa có tin tức gì hết.

Cần Thơ! Như thế đấy, ít ra ở nơi đây cũng coi như cô đã góp một hy sinh, dẫu không phải máu, xương, tính mạng mình như nhiều anh chị em cán bộ khác, nhưng xem ra cũng chẳng kém phần đau khổ...

*
*   *

Dân "tị nạn” từ Huế, Đà Nẵng, Nha Trang... tràn về Vũng Tàu. Sài Gòn như thác. Một số người có bà con quen thuộc chạy tuốt vô tận Cần Thơ. Họ tới thành phố này mang theo cả nỗi kinh hoàng và biết bao tin tức sốt ruột. Tin thật lẫn tin đồn đại. Chuyện hay lẫn chuyện dở, cứ lan tràn mãi, làm cho Cần Thơ bắt đầu như lên một con sốt dữ.

Bọn an ninh, mật vụ điên đầu. Chúng trở nên căm ghét lũ người "di tản hoảng loạn" ấy hơn bất cứ ai hết trong lúc này. Chúng đã ra lệnh cấm ngặt mọi chuyện xì xào mọi tin thất thiệt. Đã bắt. Đã đập tới bể sọ nhiều người. Nhưng những tin "làm tan rã tinh thần binh lính" vẫn không ngớt lan truyền...

Cũng vì vậy việc kiểm soát ngặt nghèo đã tập trung vào đám dân các thành phố miền Trung, và miền Cao Nguyên di tản. Riêng dân địa phương đã từng bị thẩm tra kỹ lưỡng từ lâu, có phần dễ thở hơn.

Trong số những người dễ thở đó có gia đình ông y tá nọ, ông vốn rất hiền lành, chỉn chu, thuộc loại người đã nổi tiếng là “cơm nhà... váy vợ”. Lại thêm dưới thời Diệm - Nhu, ông đã bị an ninh xét hỏi tới trăm lần vì cha ông, một cán bộ có tuổi, đã tập kết ra Bắc. Tới thời Thiệu - Kỳ ông cũng đã phải khai đi khai lại không biết bao lần về việc này. Chỉ từ sau Mậu Thân tới nay ông mới được yên thân. Cũng từ đó, ông càng trở nên nhút nhát, không dám bước ra khỏi nhà một bước, trừ ngày hai buổi đi làm. Ai động nói tới chính trị là ông đã xua tay, lắc đầu quầy quậy. Hễ nghe thấy tiếng súng nổ là ông đã tái xanh tái xám. kêu sợ muốn chết.

Nhà ông mấy bữa nay cũng có một người nhà tới ở đỡ. Một cô gái gầy yếu. Bà con bên cạnh được ông bà y tá cho biết đó là em họ bà y tá ở quê lên chữa bệnh, chứ không phải dân Huế di tản. Cô em vợ ông y tá mới tới ít bữa đã được bà con chung quanh mến ngay. Người thật dịu dàng. ngây thơ. và đặc biệt lễ độ. Gặp bất cứ ai cô cũng cúi đầu kính cẩn hoặc thân mật chào hỏi trước. Ngày nào cô cũng phải lên bệnh viện trên phố ít nhất một buổi. Sau những buổi đi thăm bịnh, hoặc làm thuốc về cô lại giặt rũ áo quần và nấu cơm, nấu nước cho cả nhà, quần quật không khác gì một người làm công cần mẫn nhất.

Chúng ta đã biết người “em vợ ông y tá" ấy là ai.

Cô đã nhanh chóng bắt liên lạc được với tất cả các cơ sở cũ của cô. Và cũng rất nhanh chóng, tất cả các cơ sở ấy đã được tổ chức lại thành những “tổ hạt nhân". "tổ nòng cốt". Riêng những người trẻ tuổi đã được tổ chức lại thành một chi đoàn hẳn hoi. Tất cả những tổ chức ấy đều đã được nghe truyền đạt chỉ thị trọng đại của Thành ủy: "Thời cơ lớn đã tới! Sẵn sàng để hành động!".

Êm ả và kín đáo, thận trọng và tỉ mỉ, cô đã tiến hành mọi công việc của mình, tưởng chừng như thong thả, nhưng thật ra hết sức táo bạo và khẩn trương. Mới qua có năm ngày, mọi công việc đã gần như đâu vào đấy. Các gia đình cơ sở đều phấn chấn, háo nức đợi chờ. Các mục tiêu hành chính, an ninh. quân sự trong khu, trong phường đã được trinh sát và nghiên cứu tỉ mỉ. Những tên ác ôn nhiều nợ máu được dự kiến có thể sẽ là những trở ngại cho công cuộc nổi dậy của quần chúng cũng đã được lên danh sách và bị theo dõi, bám sát hàng ngày...

Theo tin tình báo do Ban Chỉ huy khởi nghĩa cho biết, các sư đoàn chủ lực ngụy, sư 9, sư 7, sư 21 đã bị tướng ngụy Nguyễn Khoa Nam - một tên ác ôn cuồng tín – “đưa hết ra vòng ngoài quyết chiến với Việt Cộng, bảo vệ Tây Đô!". Trong nội thành chỉ còn rặt bảo an và cảnh sát ngụy. Trước tình hình ấy quần chúng càng thêm yên tâm và càng tin chắc ở công cuộc nổi dậy thắng lợi.

Đã năm ngày.

Kế hoạch khởi nghĩa đã ấn định: Ngày 20 tháng 4 năm 1975 bộ đội chủ lực ta sẽ mở cuộc tấn công lớn nhằm đè bẹp các sư đoàn chủ lực địch ở vòng ngoài. Trong thành phố nhân dân sẽ cùng đồng thời nổi dậy; lấy tiếng trọng pháo 130 ly làm hiệu lệnh.

Đã là ngày 20! Từ mờ sáng, "cô em vợ ông y tá" và "những người bạn của cô" trong Cần Thơ đã thức dậy, hồi hộp lắng đợi. Băng cờ, khẩu hiệu dù mới có một ít nhưng đã hoàn toàn sẵn sàng. Những tổ tự vệ võ trang đã nhanh chóng được tập hợp lại dưới dạng những nhóm thanh niên cùng rủ nhau đi ăn sáng.

Nhưng bảy giờ, tám giờ, rồi chín giờ.

Mười hai giờ. 

Mười lăm giờ.

Rồi mười tám giờ. 

Cần Thơ vẫn yên tĩnh. Ở ngoài xa vẫn thỉnh thoảng chỉ vọng về một vài tiếng cối nổ bập binh hoặc vài tràng súng máy lẻ tẻ.

Một em bé gái trạc mười một, mười hai tóc cắt ngắn, đạp một chiếc xe mini tới trước cửa nhà ông y tá bỗng dừng lại rồi rụt rè bước vào:

- Thưa hai bác! Ba má cháu biểu vẫn chưa nhận được thuốc từ Sài Gòn gửi tới. Ba má cháu biểu muốn mời dì Ba tối nay lên nhà, có mấy người từ Đà Nẵng chạy vô, nói chuyện chơi!

Ông y tá bàng hoàng, lắp bắp đáp lại:

- Được! Được! Cháu cứ về! Bác sẽ kiếm dì Ba ngay!

Xẩm tối hôm đó, một thanh niên học sinh mặc một chiếc sơ mi thể thao rất đẹp phóng một chiếc Hon-da, chở một phụ nữ gầy yếu, chạy ngoắt ngoéo qua nhiều đường phố như thừa thì giờ, đi chơi đón gió. Chiếc xe bỗng dừng lại trước một tiệm ăn. Người phụ nữ xuống xe vào gọi một tô mì vịt tiềm, trong khi đó thanh niên kia phóng xe về một rạp hát ở cuối đường.

Khách ăn khá đông. Không một ai chú ý tới người vừa mới tới. Cô vô lúc nào, ra lúc nào cũng không một ai hay.

Lát sau, cô đã thả bộ dọc theo một phố buôn bán trung bình, người không đông lắm, cũng không vắng lắm, ở gán đó.

Cô rẽ vào một tiệm ảnh.

Bà chủ tiệm niềm nở tiếp cô, rồi đưa cô lên lầu.

Một người da sạm nắng. vóc người săn dẻo, ăn vận khá sang, có vẻ một tay thầu khoán "có hạng", đang ngồi hút thuốc lá, nghe nhạc băng. Những bản nhạc trẻ thời trang đang cất lên náo nhiệt, vui vẻ

Bà chủ tiệm chỉ đưa cô gái gầy yếu tới cửa phòng rồi lễ phép lui ra.

- Anh Sáu?

- Cô Mười!

Người đang nghe nhạc, băng là anh Sáu Minh, cán bộ phụ trách trực tiếp công cuộc lãnh dạo nôi dậy của khu vực này.

Anh Sáu ngước nhìn cô gái một lần nữa, mỉm cười:

- Ngó bộ vất vả dữ hả! Cô càng ốm (gầy) hơn bữa nọ đó!

- Dạ! Thưa anh Sáu, thôi cho em hỏi liền, sốt ruột quá trời rồi! Sao vẫn chưa có gì vậy?

- Mời cô tới, cũng để nói cô rõ: Bộ đội ta chuẩn bị chưa kịp. Hơn thế nữa, trên vừa có chỉ thị: cần phải đợi hành động phối hợp với Sài Gòn ...

- Sài Gòn? Sao anh? 

- Cô nghe đây: trên đã quyết định mở một chiến dịch lịch sử, lấy tên: Chiến dịch Hồ Chí Minh, nhằm đánh tới Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam!

- Trời!

Cô Mười thốt lên một tiếng, hai tay ôm vội lấy ngực. Mặt cô tái hẳn. Cô ngồi lặng đi trong giây lát. Mối xúc động quá lớn đã làm cho cô xuýt té xỉu. Anh Sáu rót một chén trà nóng đưa cho cô: 

- Uống đi! Uống đi đã!

- Trời! Thiệt vậy, hả anh Sáu? Vậy hay quá xá! Vậy có nghĩa là...

- Là ngày toàn thắng, ngày mai tất cả dân tộc ta chờ đợi, phấn đấu bao năm ròng sắp tới! Chớ sao?

- Hay quá. Anh Sáu, Em mừng muốn chết!

- Vậy cô hãy nghe đây: Ban Chỉ huy khởi nghĩa quyết định: Ta phải ráng chờ một chút, để phối hợp cùng Sài Gòn! Hiểu không?

- Hiểu! Hiểu rồi, anh Sáu! Nhưng trong những ngày chờ đợi này thì làm chi, anh Sáu?

- Tiếp tục mở rộng diện tuyên truyền. Anh Năm chỉ thị: tuyên truyền mạnh bạo bất cứ ai, chỉ trừ những kẻ nào xét ra có thể bắt ta được.

- Rồi!

- Và tiếp tục củng cố các tổ chức quần chúng! Xem xét lại toàn bộ kế hoạch nổi dậy cho tốt. Cần có những dự kiến thêm trong tất cả các trường hợp tốt, xấu, địch chống cự mạnh hoặc địch tan rã. Ta vẫn giữ được bí mật chủ trương và lực lượng, hoặc bất ngờ bị lộ trước giờ hành động...

- Rõ rồi, anh Sáu ...

- Nhưng Ban Chỉ huy khởi nghĩa nhận định: có nhiều triệu chứng cho biết có khả năng địch sẽ lùng sục gay gắt trong những ngày sắp tới. Vậy cô phải ráng đề phòng. Tuyệt đối không để lộ lực lượng quần chúng. Trước khi trời sáng, bao giờ cũng sẽ tối sập lại một lúc! Không có chi lạ hết, nghe

- Em hiểu, em hiểu anh Sáu .

Lát sau, cô Mười bước nhanh xuống cầu thang. Bà chủ tiệm vẫn ngồi ở đó để canh chừng, báo động. Bà đi theo cô ra cửa. Bà bỗng ghé tai cô thì thào một cách hết sức bí mật và quan trọng:

- Nè, nghe nói "hắn" mới từ Nha Trang hoặc Phan Rang chi đó chạy vô đây, dì Ba à!

- Hắn nào? - Cô Mười hỏi lại. Nhưng rồi cô chợt nhớ ra ngay. Đôi mắt cô tối lại. Giọng cô run run:

- Thím nghe ai nói?

- Ông nhà tôi! Nhưng ổng cũng nghe mấy anh đàng mình nói vậy thôi. Nghe đâu "hắn" mới về bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa 

Cô Mười cảm thấy ngực mình đau nhói. Nhưng cô chỉ gật đầu, rồi bước rảo. Bà chủ tiệm vẫn đi theo, tiếp tục thì thào:

- Giá mà dịp nầy bắt được hắn hả, hay biết mấy, dì Ba?

Cô Mười vẫn chỉ khẽ gật đầu và bước nhanh ra cửa. Nhưng trong lòng cô như đã có sóng dạt. Có đúng không? Tin này có thật đúng không? ôi, sao tin này lại tới với cô đúng trước ngày hành động? Nên vui hay nên buồn hay căm giận đây? Cô chỉ mới cảm nhận thấy mơ hồ một điều: nó gần giống như một hạt cát bỗng đột ngột bay vào mắt người chiến sĩ đúng vào lúc trước khi bóp cò nổ súng ...
*
*   *

Đúng như dự kiến của Ban Chỉ huy khởi nghĩa, bọn địch đã tăng cường lùng sục, khám xét khắp trong, ngoài thành phố. Dường như chúng đã “đánh hơi" thấy một vài điều gì đó. Các trạm gác mọc lên như nấm. Riêng từ cầu Cái Ráng vào tới Cần Thơ, chẳng xa là bao, đã mọc lên tới hai chục bốt gác. Không một người bị tình nghi nào không bị bắt giam. Không một người lạ mặt nào sống trong thành phố không bị truy hỏi. Nhiều nhà đã bị lục soát tanh bành.

Chốc chốc lại thấy có tiếng súng nổ.

Đêm đêm, xe mật vụ, an ninh đi bắt người rú như ma như quỷ.

Bộ mặt Cần Thơ thoắt trở nên hết sức căng thẳng.

Người đi đường cắm dầu đi cho nhanh.

Xe cộ thưa thớt. 

Nhiều tiệm đã đóng cửa. 

Giá cả thực phẩm tăng vọt. Bến Ninh Kiều mọi khi sầm uất làm vậy, nay xơ xác như một khu chợ chiều.

Những người di tản co rúm cả lại, không dám ho he gì nữa.

Những người ở các quận, các vùng ngoại ô có việc vào thành phố cũng hối hả thu xếp công việc cho mau để trở ra...

Trước tình hình đó "cô em vợ ông y tá" cũng buộc phải rời ngôi nhà này.

Nhưng cô không trở về quận Cái Sắt, mà lại đến nằm ở một bệnh viện tư đắt tiền vào loại nhất thành phố. Hai ngàn đồng một ngày nằm, chưa tính tiền ăn uống thuốc men.

Ông bác sĩ già, chủ của bệnh viện, rất hài lòng về người bệnh mới tới. Qua cách nói năng và nom cách ăn vận của cộ, ông có thể biết đây là một người thuộc dòng dõi quý phái và giàu có. Qua lời khai của bệnh nhân, cộng với kinh nghiệm nghề nghiệp đã từng nổi tiếng, ông cũng có thể khẳng định được ngay: bệnh nhân mắc chứng đau tim ở thời kỳ thứ nhất.

Ông đã dốc sức mình để an ủi và chăm sóc cô. Bệnh nhân đã tuân theo mọi lời chỉ dẫn thuốc men của ông một cách vô cùng ngoan ngoãn. Tuy nhiên, ông cũng phải phàn nàn một điều là bệnh nhân hay đòi ra ngoài đi dạo. Khuyên răn sao cũng không được. Cô nói: Cô có thói quen đi dạo rồi, ngồi một chỗ không chịu nổi. Ông bác sĩ thở dài đành chịu thua cái thói quen mà ông nghĩ là cũng quý phái y như cái bệnh tim của cô vậy.

Không những cô hay đi chơi, mà ngược lại bè bạn vào thăm cô cũng khá nhiều. Tuy vậy, điều này không làm ông khó chịu lắm, vì toàn là khách sang trọng quý phái, xoàng nhất cũng là một ông kỹ sư trẻ tuổi mới du học bên Mỹ quốc trở về ...

Bữa nay lại có người đòi vào thăm cô. Thiếp đề: Huỳnh Văn Đông, giảng sư trường Đại học Văn khoa, Sài Gòn.

Đó là một người đã đứng tuổi, trạc trên năm mươi, vóc người hơi đậm, khuôn mặt tuy đã có nhiều nếp nhăn nhưng vẫn tỏ ra rất linh lợi.
Chưa bao giờ người bệnh này đón tiếp người quen tới thăm mừng rỡ đến như thế. Vừa nom thấy ông giáng sư cô đã reo lên sửng sốt rồi đang từ trên giường nhảy thót ngay xuống, chân không kịp xỏ dép. Hai tay vồ lấy bàn tay người mới tới:

- Chú? Trời ơi! ... Chú không báo trước? Cháu mừng hết nổi!

Ông giảng sư nhã nhặn nghiêng mình chào người bệnh cùng nằm chung phòng, rồi xin phép cô y tá trực đưa cô cháu của ông ra khuôn viên lớn phía sau nhà dạo cảnh.

Hai chú cháu không ngồi ở một chiếc ghế đá nào, mà chỉ đi dạo trên những lối sỏi ở một góc vắng của khuôn viên.

- Chú Năm! Chú mới vô? Lũ nó đang làm gắt lắm! Chú cẩn thận!

Giảng sư đó không phải ai xa lạ, chính là anh Năm Bình, Thường vụ Thành ủy, người được phân công trực tiếp phụ trách công việc nổi dậy trong nội thành. Anh mỉm cười, ung dung:

- Không sao! Chú biết rồi! Cần vô, phải vô chứ! Nè, Mười, cháu khá đó! Anh Sáu Minh khen công việc cháu lắm...

Cô mỉm cười, cúi đầu, rồi hỏi lại:

- Các nơi khác cũng tốt cả, chú? 

- Tốt! Mặc dầu chúng nó đang lùng dữ lắm, như cháu đã biết.

- Chú ơi? Chỗ khác không rõ lắm, chỗ cháu bà con nôn ruột quá trời rồi! Cơ sở và cán bộ mình thì chỉ lo lộ.

- Sao lộ được?

- Sợ không giữ nổi bí mật cho tới ngày... hành động. Chú ơi! Có người đã dao động hẳn hoi. Ngay sáng qua, cháu đã phải ra làm công tác tư tưởng khá mệt với một cán bộ của ta...

- Ráng! Ráng chút xíu nữa thôi! Hôm nay đã hai mươi bảy. Cháu biết không: từ sớm ngày hôm qua, lộ 4 đã bị chủ lực ta cắt đứt rồi!

- Trời! Thiệt vậy ạ, chú?

- Cầu xa lộ cùng đã bị đặc công đánh. Đang giành giật nhau ác liệt lắm ?

- Chú ơi ...

Cô Mười lại muốn co rúm cả người lại vì một nỗi xúc động quá lớn.

- Nhưng cháu nghe đât, hãy nghe đây...

Tiếng anh Năm thoắt nhỏ, trầm hẳn xuống thành những tiếng thì thào. Chỉ còn thấy gương mặt cô Mười mỗi lúc như một thêm nở nang và rực sáng.

Ngày hôm sau cô xin xuất viện.

Ông bác sĩ ngẩn ngơ. ông cố giữ cô lại nhưng không được

- Bác sĩ ơi, em có chút việc phải về mà? Rồi em sẽ trở lại đây nằm điều trị. Em còn phải nhờ sự chăm sóc của bác sĩ nhiều mà....

Một thanh niên học sinh cưỡi một chiếc Hon-da đã đợi sẵn cô ở cổng bệnh viện. Đó là Chánh, con trai ông y tá

Cô vừa ngồi lên sau xe. Chánh đã tăng ga, chiếc xe lao đi như bay.

- Cô ơi! lính sư 9 chúng nó đánh nhau ở lộ 4 thua chạy về, đang đầy nhóc các quán rượu. Chúng say bét nhè! Chúng đang đập lộn với nhau. Chúng nói: mất lộ 4, coi như sẽ mất hết, không còn hy vọng gì hết trơn hết trọi?

- Vậy hả! .

- Thành phố đang tùm lum hết cả lên. Nhưng lạ quá cô! Không hiểu sao chẳng có mấy ai sợ như mấy bữa trước nữa. Có lẽ vì lũ lính sư 9 chạy về làm loạn lên, lũ cảnh sát, an ninh cũng bớt làm tàng chăng, cô?

- Rồi! Cho cô về lẹ lên. Chánh Nhiều công việc lắm! Nhiều công việc lắm!

Miệng dục, nhưng mắt cô cũng không quên quan sát: quả là bộ mặt các đường phố bữa nay dường như có một cái gì đã đổi khác. Không có vẻ nơm nớp, sợ hãi quá như mọi khi. Đã thấy có những người ngẩng cao mặt, với những nụ cười, tiếng nói vui vẻ, bạo dạn. Đã thấy xe gắn máy, xe đạp, xe lôi chạy đi, chạy lại tấp nập, mặc dầu bọn cảnh sát vẫn còn nhan nhản trên đường phố. Và, cũng đúng như Chánh nói, trong những tiệm ăn uống, các phòng trà thấy có khá nhiều bóng lính - những tên lính mặc áo trận, đang ngả nghiêng bên những cây rượu, cười nói hô hố, hoặc chửi bới hết sức tục tĩu. Ở một vài ngã ba, ngã tư có tiếng súng nổ. Rồi người chạy rần rần. Người ta la lối: “lính uýnh nhau với cảnh sát?" – “lính bắn chết ba an ninh trước cửa tiệm vàng Con Rồng. Chạy lẹ thôi bà con!".

Ngay trong đêm đó. cô Mười cũng như tất cả các cán bộ khởi nghĩa ở các khu vực, các phường khác đã cấp tốc triệu tập cán bộ cơ sở lại để phổ biến nhiệm vụ.

Cũng trong đêm đó, viên tướng ngụy Nguyễn Khoa Nam đột nhiên nhận được một bức thư, có ký tên hẳn hoi: “mặt trận giải phóng".
" Chúng tôi tin rằng ông là người thức thời.. Tình hình chính trị, quân sự ở miền Nam nay đang thay đổi tới tận gốc. Ngụy quyền Sài Gòn sắp sụp đổ tới nơi! Thiệu bỏ chạy, những người kế cvận y hiện còn làm được những gì trước tình trạng tan rã tới cực điểm này. Ông hãy mau mau suy tính và quay trở về với chính nghĩa, với cách mạng, với đồng bào, lập công chuộc tội...".

Nam như chết cứng. Thiệu bỏ chạy, y đang hy vọng được người Mỹ dựng lên thay thế, cố thủ miền đồng bằng biển lúa này...

Nhưng trong đêm đó, chẳng phải riêng Nguyễn Khoa Nam mà hầu hết các sĩ quan cao cấp, các cán bộ cao cấp trong ngụy quân, ngụy quyền cũng đều nhận được những bức thư kêu gọi tương tự như vậy - những lá thư, dù không thể làm cho chúng tức thời tỉnh ngộ, nhưng rõ ràng cũng đã làm cho tất cả bè lũ chúng không khỏi bàng hoàng, và ít nhiều hiểu được ra: thế là dù trăm phương ngàn kế lục soát, vây ráp, cuối cùng té ra đối phương vẫn ngồi sờ sờ ở ngay trước mũi chúng...

*
*   *

Căn hầm trước đây được ông bà y tá đào để tránh bom pháo bừa bãi của địch từ hồi Mậu Thân, nay đã thoắt biến thành một “nhà in" bí mật của lực lượng khởi nghĩa phường, thậm chí của cả khu vực. May chỉ là một chiếc máy in stăng-xin tầm thường thôi nhưng được việc biết bao nhiêu! Truyền đơn, khẩu hiệu, chính sách. Rất nhiều tài liệu cần được in gấp, in thật nhiều để dùng trong ngày nổi dậy. Hai bàn tay Chánh đã đen kịt. Cô Mười phụ việc cho cậu ta, mặt mũi cũng đã lọ lem như hề. Hai cô cháu làm việc túi bụi suốt từ mờ sáng. Không khí trong hầm ngột ngạt mùi mực in, dầu máy. Nhưng niềm vui thì tràn ngập. Chốc chốc Chánh lại reo lên:

- Cô ơi cháu cảm thấy y như đêm giao thừa vậy!

- Đúng rồi! Giao thừa của cách mạng mà!

Những tập truyền đơn, chính sách, thông cáo mỗi lúc một cao dần, gần chấm nóc hầm. Chốc chốc cô Mười lại gõ tay lên nóc hầm nhè nhẹ mấy tiếng. Nắp hầm lập tức hé mở và có hai bàn tay nào lại vươn xuống đỡ lấy từng xếp tài liệu đã in xong đem lên.

- Vui quá sá cô ơi! Mai mốt giải phóng, cô cho cháu công tác, cháu không ưng học nữa!

- Tùy mi! Giải phóng xong mi ưng học tiếp, cho học tiếp. Mi ưng làm việc, cho làm việc liền!

Cô Mười cười suốt. Gương mặt cô thoắt trở nên hồng hào, khỏe mạnh. Cô cảm thấy rất rõ, chưa bao giờ trong đời hoạt động của cô lại có những buổi vui như tối nay. Cô cũng mừng thầm là đã sớm biết tổ chức một cơ sở ấn loát, dù nó hãy còn vô cùng nhỏ bé. Ai đã bày cho cô? Phải chăng trước đây, một thời gian quá đau yếu, chưa trở vào nội thành được, cấp trên đã đưa cô về tạm làm việc ở một cơ quan tuyên huấn vài tháng, do đó cô đã hiểu được phần nào tác dụng của dụng cụ in ấn này...

Chín giờ sáng. Anh Sáu Minh đã ba lần cho người tới chỗ cô Mười lấy tài liệu để phân phát cho toàn khu vực. Anh hết sức hài lòng và phần nào tự hào về cái cơ sở ấn loát này. Dường như, theo anh biết, các khu khác không tổ chức in tài liệu được nhanh chóng và nhiều như ở đây

Bà y tá cũng ngồi bên chiếc máy may kỳ cạch đạp suốt từ sáng. Hết vải, bà xoay ra vá quần áo rách, hết quần áo rách, bà phải xé những chiếc còn rung rúc ra, để có việc mà làm. Chiếc máy may của bà đặt trên đúng cái nóc hầm, nay đã trở thành "nhà in khởi nghĩa". Bà đã trải lên nóc hầm một tấm thảm gai nhỏ như để cho sạch sẽ nơi ngồi may vá. Bà cặm cụi đạp máy nhưng mắt vẫn luôn luôn ngước nhìn ra cửa để canh chừng, mặc dầu bà đã dặn kỹ mấy đứa con nhỏ của bà chơi ngoài lề đường: có ai vào phải gọi to cho bà hay.

Ngoài đường phố, cảnh sát vẫn còn đấy. Chúng không hung hăng rít còi, quát tháo, bắt bớ dữ dội như mấy hôm trước, nhưng thinh thoảng vẫn giữ người này lại để xét giấy, gọi người kia lại để vặn hỏi vài điều. Và những cặp mắt cú vọ vẫn soi mói nhìn vào tất cả các nhà hai bên đường phố.

Chợt một toán ba tên xồng xộc bước vào mà không thấy lũ nhỏ báo trước.

- Nhà này có ai ở nhà không? Cho xét giấy!

Bà y tá rụng rời. Trời! Con với cái! Thật chết người

Nhưng dẫu sao bà vẫn còn đủ chút can đảm đẩy ghế đứng dậy.

- Dạ! Xin rước ba ông vô! Lũ trẻ quá hư, không báo trước để ra tiếp ba ông!

Miệng nói, tay bà mở rộng cánh cửa sổ phía sau lưng, rồi bật ngọn đèn giữa căn phòng cho sáng sủa thêm. Ngay tức khắc, một dòng điện nhỏ xíu chìm trong tường, ăn thông xuống hầm đã làm bật lên một ngọn đèn đỏ báo hiệu: có động!

Hai tên cảnh sát, súng lăm lăm, đứng xây lưng vào nhau, dạng chân giữa phòng, đảo mắt nhìn khắp xó xỉnh, trong lúc đó một tên xem xét các tờ khai gia đình.

- Chồng bà đâu?

- Ổng đang ở bệnh viện, thưa ba ông.

- Thằng con lớn, thằng Chánh đâu?

- Thưa hắn đang ở trường. Bữa nay có phải chủ nhật đâu ba ông! Cháu đang học mà! .

- Mấy đứa nhỏ?

- Chúng chơi ngoài đường đó. Dạ, thưa để tôi ra gọi chúng về!

- Khỏi ! - Vậy người em bà về Cái Sắt rồi hả!

- Dạ! Thưa ba ông, đó, trong tờ khai gia đình đã gạch bỏ rồi đó! Dì Ba các cháu về từ sáu bữa nay rồi!

- Cho xét nhà !

- Dạ! Thưa ba ông. để tôi mở các phòng bên, mở các Tủ

Bà y tá bỗng thầm khen cho "ông thần khẩu” của mình bữa nay khá. Bà nói năng không một chút vấp váp, do dự. Và thật lạ, càng nói bà càng cảm thấy mình bình tĩnh hơn. Cũng may, cứ rụng rời như giây phút đầu tiên, thật khó mà thoát khỏi mắt lũ chó.

Tuy làm ra vẻ hung hăng, nghiêm khắc, nhưng xem ra ba tên cảnh sát cũng không lục soát gắt như mọi khi. Bà y tá đi theo chúng từng bước, từ phòng này qua phòng khác. Mấy phút sau, bọn chúng cùng quay trở ra gian phòng thứ hai, nơi bà y tá đang ngồi may vá quần áo. Chúng đứng gần chiếc máy may của bà.

Một tên bỗng cúi xuống, hỏi giật giọng:

- Cái gì đây?

Trời như sụp đổ ngay xuống. Bà y tá chưa kịp định thần, thì tên cảnh sát đã nhặt ở trên chiếc thảm gai lên một ống kim khí mạ vàng khá đẹp.

Tên cảnh sát mở nắp ống, mấy chiếc kim máy may, vài kim khâu tay nhô lên. “mô Phật!". Bà y tá thở trút, thầm kêu lên. Chiếc ống kim máy may ấy bà đánh rơi xuống tự lúc nào cũng không nhớ nữa.

Tên cảnh sát ngắm nghía chiếc ống kim một chút rồi ném trả lại cho bà.

- Thưa ông, nếu ông ưng... Thưa ông... cũng là thứ đồ chơi thôi mà...

- Khỏi !

Ba tên cảnh sát đi khuất. Bà y tá gieo mình xuống chiếc ghế. Tim bà dường như vẫn còn rung. Đến mươi phút sau, bà mới hoàn hồn, đứng dậy, từ từ khép lại hai cánh cửa sổ và nháy ngọn đèn một lần nữa.

Ba tên cảnh sát đi khuất. Bà y tá gieo mình xuống chiếc ghế. Tim bà dường như vẫn còn rung. Đến mươi phút sau, bà mới hoàn hồn, đứng dậy, từ từ khép lại hai cánh cửa sổ và nháy ngọn đèn một lần nữa.

Ba tên cảnh sát vừa đi được một lúc, một em bé gái cắt tóc ngắn - vẫn em bé bữa nào - lại đạp xe tới, bước vào rụt rè:

- Thưa bác, ba má cháu biểu muốn gặp người nhà. Thưa bác, người Mỹ đang rút. Ba má cháu biểu vậy. Cháu đi qua nơi họ, thấy đúng như vậy. Họ đang chạy đông lắm bác à?

Bà y tá tròn hai con mắt:

- Vậy hả. Được! Con cứ về! Bác sẽ cho gọi người nhà ba má cháu ngay, nghe?

Cô Mười vọt lên khỏi hầm. Cô chỉ kịp quấn một chiếc khăn trên đầu, rồi nhảy lên một chiếc xe lôi.

Cô cố tình vạch cho người lái xe lôi một con đường để đi tới nhà cô - Thật ra, cô muốn tranh thủ lướt qua những cư xá sĩ quan Mỹ đế xem sao.

Quả nhiên, bọn Mỹ đang tới tấp dọn đồ xuống đường, chất đống lên những chiếc xe tải nhà binh, những chiếc xe du lịch bóng lộn. Chúng vừa ra khỏi nhà là bọn lưu manh bụi đời - không hiểu đã đánh hơi thấy chuyện này từ lúc nào, đã chờ chực sẵn ở gần đó như một bầy ruồi xanh - lập tức ùa vào. Chúng giẫm đạp lên nhau, cắn xé nhau, tranh nhau lên các cầu thang lao lên các tầng lầu để vơ vét. Chúng lôi xuống đủ các thứ, từ tủ lạnh, tới chăn đệm. quần áo lót... Chúng cướp phá tới đâu nổi lửa đốt luôn tới đó, lửa khói bốc lên ngùn ngụt từ cư xá này sang cư xá khác.

Bọn Mỹ, mặt mũi bàng hoàng, nhễ nhãi mồ hôi, ngoái nhìn lại những ngôi nhà bốc cháy, lắc đầu hoài. Những chiếc xe chở đầy tài liệu, đồ đạc quý, rồ máy lao đi. Toán chạy ra bến tàu trên sông Cần Thơ, toán hướng về phía sân bay Trà Nóc.

"Bọn mi chết rồi'" Cô Mười thầm reo lên cực kỳ sung sướng.

Anh Sáu Minh đã đợi cô trong một căn nhà khá sang trọng khác ở ngay trước một ngân hàng lớn.

- Anh Sáu! Cho nổ luôn đi chứ, anh Sáu? - Cô Mười, phần vừa chạy lên cầu thang bị mệt, phần quá xúc động trước tình hình mới, thở không ra hơi nữa.

- Khoan!

- Sao khoan, anh Sáu? Mỹ chạy, ngụy sẽ tan rã hết tinh thần, còn chi nữa? Cho nổ liền chứ còn đợi chi, anh Sáu?

- Chờ bộ đội chủ lực ta chút xíu! Cho thiệt chắc chắn! Anh Năm chỉ thị vậy! Ráng chờ chút xíu nữa.

- Vậy bây giờ phải làm gì? .

- Ban Chỉ huy chỉ thị: phải in gấp, in thật nhiều truyền đơn hơn nữa! Và tập hợp thêm, xây dựng gấp thêm những toán vũ trang...

- Rõ, anh Sáu! 

Trên đường trở về, cô lướt qua bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa. Cô bỗng thở dài. Ôi thì ra, từ bữa đó tới nay mình đã quên khuấy mất chuyện về "hắn" rồi sao. Ngay cả mấy ngày nằm ở bệnh viện của ông bác sĩ nọ, lo công việc đến nỗi cũng quên cả hỏi thăm ông ta xem cái tin về "hắn" có thực hay chỉ là một sự nhầm lẫn. Vì công việc hay tại lòng mình từ ngày ấy đã hóa thành sa mạc?

*
*   *

Suốt cả ngày 29 bọn Mỹ nối tiếp nhau rút chạy không ngừng.

Đúng là khi bọn quan thầy đã tháo chạy, lũ đầy tớ không còn lòng dạ nào trụ lại nữa. Nhiều trạm gác đã gần như tê liệt. Các công sở gần như chỉ còn khoảng một phần mười nhân viên ngồi lại. Nhưng cũng chỉ là ngồi lại chứ không một ai thiết làm hoặc dám làm, một việc gì nữa. Tất cả chờ đợi, mà không biết chờ đợi ai, chờ đợi cái gì. Bọn lưu manh, bọn bụi đời tiếp tục ào ạt tràn vào các cư xá Mỹ để hôi của. Bọn binh lính thất trận từ lộ 4 trở về cũng nổ súng cướp phá công khai ở ngay giữa chợ, trên đường phố lớn, "bất cần đời" nữa.

Trong lúc đó, dân chúng cũng đổ ra đầy đường. Người đưa gia đình chạy ra ngoài thành phố. Người đi tìm cha, tìm anh đang bị kẹt ở công sở này, ở đường phố nọ. Khắp nơi hỗn loạn. Xe cộ tắc nghẽn trên khắp các ngã ba ngã tư. Không còn bóng một tên cảnh sát giao thông nào tới giải tỏa nữa.

Cả thành phố đã dường như đã ttrở thành vô chính phủ.

Suốt cả ngày hôm đó, cô Mười chỉ ăn được có một chén cơm. Cô chạy ngược chạy xuôi mệt đến đứt hơi, để xem xét lại, bổ sung lại kế hoạch hành động của tất cả các tổ các nhóm... trong phạm vi cô phụ trách.

Suốt cả ngày hôm đó, sự chờ đợi căng thẳng đã tới mức tưởng như có thể vỡ tung tất cả các đầu óc.

Đêm hôm đó, thành phố càng như chìm ngập trong sự hỗn loạn. Nơi này lính cướp phá, nơi kia bọn du đãng chẹt cổ người, cắt tai, chặt tay lấy vòng. Chốc chốc lại thấy lửa cháy rực trời.

Trong cảnh tượng ấy, tên tướng Nguyễn Khoa Nam ác ôn ngoan cố vẫn chưa hết hy vọng. Những đội quân cảnh đặc biệt đã được y cấp tốc tổ chức, tung đi khắp thành phố với mệnh lệnh bắn bỏ tại chỗ, bắn không cần xét xử gì hết tất cả mọi người làm rối trật tự hoặc tung những tin hoang mang. Nhưng càng bắn, thành phố chỉ càng thêm rối loạn. Dường như đã tới lúc sự khủng bố và tàn sát không còn có hiệu lực và đã tới lúc sự tan vỡ không còn bất cứ một "phép mầu” nào cứu vãn nổi nữa...

Sáng hôm sau, 30 tháng 4, Ban Chỉ huy khởi nghĩa hội ý khẩn cấp và phát đi mệnh lệnh đầu tiên "Hãy sẵn sàng!".

Khoảng 9 giờ, Dương Văn Minh bỗng cho phát đi bản tuyên bố muốn điều đình với "phía bên kia" và kêu gọi hai bên hãy ngừng bắn.

Đồng chí Năm Bình đứng bật dậy, nói gần như la lớn:

- Khởi sự đi thôi!

Thế là, một mặt cử người ra ngoài bắt liên lạc với bộ đội chủ lực, một mặt Ban Chỉ huy khởi nghĩa phát đi mệnh lệnh lịch sử trọng đại của thành phố: Hãy kịp thời lãnh đạo quần chúng nổi dậy, nhanh chóng đoạt chính quyền!

Chỉ trong vòng hơn một giờ sau, Cần Thơ đang náo loạn, đang bàng hoàng thoắt bỗng như có một sự nổ bùng. Trước hết là những trận mưa truyền đơn, những trận mưa thông cáo, chính sách... Cả thành phố ngập trắng những truyền đơn. Người dân Cần Thơ mắt rực sáng reo lên, giang cả hai tay ra đón lấy những tờ bướm bay; chạy đuổi theo những chiếc hon đa, những chiếc xe lam đang chạy khắp thành phố, tung lên, tung lên mãi những xếp giấy bay phơi phới đầy trời. Rồi tiếp đó là những toán thanh niên, ăn vận đủ kiểu khác nhau, anh sơ mi thể thao sặc sỡ, cô áo dài trắng muốt trinh bạch, nhưng đều giống nhau: đeo một băng đỏ ở cánh tay trái, và có vũ trang không rõ đã tụ tập sẵn từ những căn nhà, những công viên nào, nhanh chóng tỏa ra khắp các phường khóm, tiến thẳng vào công sở, với mệnh lệnh: "Tất cả đã thuộc về cách mạng!...". Trên đường phố nhà ông y tá, mọi người cũng đều sửng sốt, la lên:

- Ủa? Dì Ba! Dì Ba! Té ra dì chính là... Chèng đéc ơi! Tuyệt quá?

Cô Mười lúc này đã chính thức xuất hiện. Nhà ông y tá đã thoắt biến thành một trụ sở, nói cho đúng hơn: một Sở Chỉ huy. Các toán thanh niên vũ trang, những tổ chức quần chúng trung kiên tấp nập kéo tới để nhận mọi chỉ thị, mệnh lệnh của Ban Chỉ huy khởi nghĩa. Ban Chỉ huy khởi nghĩa là những ai? Tại nơi đây, người ta chưa rõ, mới chỉ biết có mình cô gái gầy yếu này. Đó là hình ảnh của Ban Chỉ huy khởi nghĩa khá độc đáo, khá hấp dẫn đối với họ.

Trong lúc nhân dân trong thành phố đang tưng bừng xôn xao về những trận mưa truyền đơn, về những toán cán bộ chiến sĩ giải phóng đột ngột xuất hiện, đang tràn đi các nơi cùng nhân dân chiếm lĩnh các công sở, thì những toán lính ngụy ở vòng ngoài cũng đột ngột chạy trở vào làm náo loạn cả thành phố.

Chủ lực ta đã nổ súng.

Chủ lục đang chọi với chủ lực?

Nguyễn Khoa Nam đang cuồng lên trong những trận đánh “tử thủ” cuối cùng.

Một số trung đoàn của sư 21 đã tan vỡ. Bọn bộ binh chạy thốc trở vào để tháo thân. Bọn thiết giáp cũng ầm ầm cuốn theo sau như trong một cơn mê sảng.

Vừa vào tới thành phố, chúng ném bỏ luôn mũ áo, súng đạn ngay trên mặt đường, lủi trốn. Bọn thiết giáp cũng vậy. Xe vừa vào tới nội thành, chúng đã vứt hết, bỏ hết tại chỗ, chạy liền.

Tan rồi! Chủ lực của Nguyễn Khoa Nam tan rồi! Tin ấy lan đi rất nhanh.

Phải tấn công ngay vào trung tâm huấn luyện 4! Nơi đó ta đã có tổ cốt cán.

Đồng chí Năm Bình bàn cùng đồng chí Tư Hiền, (cũng là một Thành ủy viên mới được phái vào tăng cường cho Ban Chỉ huy khởi nghĩa).

Liền sau đó, một chiếc xe díp chở một cán bộ đại diện của Ban Chỉ huy lao đi, xé tan những đám lính và cảnh sát ngụy đang nháo nhác đầy đường, phanh cứng lại trước một chiếc cổng lớn vẫn còn lính gác.

- Hãy mở mau! Chúng tôi là đại diện cho quân Giải phóng cần gặp ông Hảo.

Hảo là trung tá, chỉ huy trưởng trung tâm.

Y mặt tái ngắt, bước xuống khỏi bậc thềm.

Cuộc thảo luận giữa đôi bên kéo dài không quá ba mươi phút.

Hai cánh cổng sắt nặng nề của trung tâm huấn luyện lập tức được mở rộng hết cỡ. Một vạn lính mới cùng ùa ra như thác.

- Quân giải phóng muôn năm!

- Hoan hô cách mạng! Cách mạng muôn năm!

Một vạn con người ấy ầm ầm tiến vào thành phố. Vừa đi, vừa hò reo vang dậy.

- Giải phóng tiếp tù chính trị!

Ban Chỉ huy khởi nghĩa quyết định.

Lại một nhóm cán bộ lên xe .

Cũng chỉ trong chốc lát sau, hai cánh cửa nhà lao Cần Thơ không phải được mở rộng mà đã bị đẩy gần như đổ sập.

Anh chị em tù chính trị, với băng cờ chuẩn bị sẵn từ lúc nào, cũng tiến vào trung tâm thành phố như cả một đoàn quân chiến thắng. Tiếng hô khẩu hiệu, tiếng reo hô rung trời chuyển đất.

Thế là trong khoảnh khắc, cả hai lực lượng; anh chị em tù chính trị và một vạn thanh niên bị bắt lính, gần như hợp làm một đã tạo nên một sức mạnh chính trị khổng lồ. Cả Cần Thơ như cùng bay lên với những ngọn lửa đấu tranh. Chính trong những giây phút đó những tên ác ôn, những bọn ngụy quân, ngụy quyền còn cố gan, cố bám lấy doanh trại hoặc công sở, đã phải kinh hoàng bỏ chạy gần hết. Trung đội lính bảo vệ thân cận nhất của Nguyễn Khoa Nam cũng tan vỡ chỉ còn lại tám tên. Viên thư ký của Nguyễn Khoa Nam đã bất ngờ chiếm luôn trực thăng đậu thường trực trong sân nhà y bay đi thẳng.

Và cũng chính lúc đó. Cô Mười, dẫn đầu những toán thanh niên võ trang mà cô mới cấp tốc tập hợp ngay trong buổi sáng, tiến thẳng tới căn cứ tiếp vận 4 của quân đoàn ngụy.

Cô tiến trước, các tay súng dàn hai bên tiến sau. Gió thổi bay tà áo xanh, thổi xòa những món tóc mai xuống đôi gò má xanh xao của cô.

Tất cả sĩ quan và binh lính trong căn cứ đều đứng há hốc mồm kinh ngạc. Chúng không thể nào ngờ người chỉ huy "Việt cộng" tiến vô bắt chúng phải đầu hàng lại chỉ là một cô gái mảnh mai.

- Các anh hãy lập ngay bản thống kê toàn bộ vũ khí, quân nhu, quân lương, xe cộ... của căn cứ để nộp chúng tôi coi!

Đến lượt vị “nữ chỉ huy Việt cộng" không khỏi ngạc nhiên khi thấy viên trung tá chỉ huy trưởng căn cứ lễ phép và nhanh nhảu mở cặp, đưa ra một tập giấy tờ:

- Trình quý bà! Chúng tôi đã làm xong từ hồi sáng! Thưa, đầy đủ!

Thì ra bọn này đã tiên liệu được hoàn toàn đúng những gì sẽ xảy ra với chúng nên đã chủ động chuẩn bị, để trình báo với những người chiến thắng, ngay từ buổi sáng nay.

Mục tiêu thứ nhất đã xong. Mục tiêu thứ hai: Cuộc cảnh sát phường. Tại nơi đây cũng không gặp một sự kháng cự nào hết. Nói cho đúng hơn: Không còn gặp một bóng ma nào hết. Bọn cảnh sát đã chuồn, đã trốn biệt mất tăm. Chưa có thể tìm ra ngay bọn đó.

Trên đường quay trở lại phường, qua Ty An ninh địch. Cô Mười tranh thủ cho anh em tiến vào chiếm lĩnh luôn. Chỉ còn một vài tên nhân viên quèn đang run lên.

- Treo cờ lên, Chánh!

Cậu học sinh tú tài "dạ" một tiếng rõ to rồi vác lá cờ Mặt trận leo thoăn thoắt lên tầng lầu cao nhất. Lá cờ được mở tung. Gió từ sông Hậu Giang mênh mông hùng vĩ phía xa thổi vào dào dạt, nâng lá cờ bay lên, reo lên mãi trên nóc tòa nhà đã từng bao năm là một trong những nơi ghê rợn đối với tất cả những ai đã từng đặt chân lên thành phố này hoạt động.

Đã quá trưa, tin các anh Năm Bình và Sáu Minh trực tiếp chỉ đạo lực lượng quần chúng chiếm được Đài Phát thanh làm cho toàn thể các cán bộ và quần chúng nổi dậy càng thêm phấn chấn.

“Đây là tiếng nói của nhân dân cách mạng Cần Thơ..."

Ôi, mới chỉ có bằng ấy tiếng phát đi, vang rộn trên loa phóng thanh đặt ở các ngã ba, ngã tư... đã làm cho không biết bao người đổ nước mắt vì mừng rỡ, cảm động.

Và cũng liền ngay đó, từ các nẻo đường tiến vào thành phố bỗng trào lên tiếng hò reo vang dậy của quần chúng:

Bộ đội ta đập tan các tuyến "tử thủ” của Nguyễn Khoa Nam, đang tiến vào thành phố, đang chiếm nốt những mục tiêu quân sự trọng yếu còn lại! Và tên tướng ngoan cố ấy đã tự sát.

Đẹp quá! Một sự phối hợp tuyệt vời. Tiến vào đầu tiên là tiểu đoàn Tây Đô với những người con yêu dấu của đồng bằng sông Cửu Long đã bao năm lăn lộn, dạn dày chiến đấu. Tiếp đến là thành đội, rồi các trung đoàn 2, trung đoàn 3, trung đoàn 10 của quân khu...

Thành phố trong phút chốc chìm ngập trong một biển cờ. Ở trên các xóm nghèo. Cờ trên các bin-đinh hiện đại. Cờ trên các công sở lớn, nhỏ. Có trên các trại lính, các căn cứ của quân đoàn ngụy. Cờ bay múa trong mắt người. Cờ nở đẹp trên những đôi môi hổng của những người cô gái Cần Thơ.

Cũng trong những giây phút đó, tại ngôi nhà tạm làm trụ sở của phường mình, cô Mười đang ngồi giải quyết công việc cho hàng trăm chiến sĩ tự vệ đang đứng vây quanh, bỗng tối tăm cả mặt mày. Cô không gượng nổi nữa, từ từ ngã xỉu. Chánh la lên vội ôm choàng lấy cô xốc dậy: Cậu kinh hãi, chưa biết xử trí ra sao, ông y tá cha cậu, đứng bên đã ôn tồn:

- Kiếm cái giường cho cô nằm nghỉ chút, con! Không sao đâu! Cô quá mệt đó thôi. Suốt cả ngày hôm nay, má mày chỉ ép cô uống được độc có một ly sữa nhỏ!
*
*   *

Mờ sáng hôm sau cô đã gọi Chánh:

- Đi theo cô tới bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa coi! Anh em báo cáo đã xong, nhưng chưa trực tiếp tới đó được, cô chưa yên tâm !

Chánh can sao cũng không nổi nữa, cậu đành tập hợp một tiểu đội vũ trang cùng theo cô.

Chiếc xe đỗ ở cổng ngoài. Cô và nhóm thanh niên võ trang cùng đi bộ vào trong viện.

Hầu hết nhân viên của bệnh viện, được Chánh gọi điện báo trước, đã tề tựu ở trong phòng họp lớn. Hết sức im lặng. Một sự im lặng trang nghiêm lẫn sợ sệt.

Cũng như ở nhiều nơi, họ đang chờ đợi một "võ tướng" oai dũng, mặt cháy nắng, vũ khí đầy người tiến vào. Nhưng chỉ là một cô gái. Những ánh mắt đang căng thẳng thoắt dịu đi.

Họ cùng kính cẩn cất lời chào.

Cô Mười đưa mắt nhìn lướt qua một lượt. Không có hắn. Toàn những bộ mặt xa lạ. Cô thong thả nói:

- Tôi yêu cầu các ông cho tôi xem danh sách toàn bộ bác sĩ, nhân viên ở đây ! Các ông đã có sẵn chứ? Hay cần có thời gian để làm?

- Thưa bà, chúng tôi đã có đầy đủ! ...

Một ông bác sĩ già tiến lên, mở một cặp tài liệu, đưa cho cô một bản danh sách dài tới năm trang.

Cô Mười nhíu đôi lông mày lại, chăm chú đọc thong thả, từ đầu tới cuối - Cũng không có hắn! Cô thầm thở trút ra nhè nhẹ. Cũng lạ! Thật là nhẹ hẳn! Phải chăng như thế này dễ xử hơn? Hoặc vì những nguyên cớ phức tạp sâu xa nào khác mà chính cô cũng không thể hiểu nổi. Cô chỉ biết: rõ ràng cô cảm thấy nhẹ nhàng.

Cô bắt đầu nói chuyện với mọi người trong bệnh viện. Cô nói về chiến thắng lịch sử của cách mạng. Cô nói về chính sách mới ... Rồi cô yêu cầu mọi người hãy nhanh chóng bắt tay vào việc, không để cho bệnh viện ngừng trệ dù chỉ một ngày. Cuối cùng cô yêu cầu tổ chức ngay một trung đội tự vệ gồm các anh chị em lao công và cả nhân viên chuyên môn hăng hái nhất! ...

Cô nói thật thanh thoát, rõ ràng.

Rồi cô trở ra xe.

Cần Thơ đỏ rực bóng cờ trong nắng sớm. Cả thành phố như đang hát ca rộn rã. Một lần nữa cô thấy lòng mình thật thanh thản. Chuyện cũ dường như không còn gì nữa trong lòng cô. Đúng vậy! Hình bóng đen tối của con người ấy có lẽ đã không còn để lại một dấu vết gì trong tâm hồn cô, một tâm hồn đang mở ra sáng tươi, mới mẻ như buổi sáng nay, trên thành phố đang hồi sinh.

HAI MƯƠI NĂM SAU

Buổi trưa ngày 1 tháng 5 năm 1975. Cả thành phố còn đang ngây ngất trong niềm vui giải phóng, chợt có tiếng người la thất thanh ở một hẻm gần đường Công Lý cũ: “Có người chết! Có người ngộ độc!"

Hàng xóm đổ xô tới một căn nhà mang số lẻ. Rồi xe cấp cứu thét còi hối hả lao tới. Người ta khiêng ra xe một người đàn ông trạc ngoài bốn mươi, cao, gầy, mặt xanh ngắt, trên mép có một hàng ria nhỏ. Nhiều người nhận ra đó là một viên trung tá ngụy cũ. Hàng xóm xôn xao. Người ta cho biết: vợ con người này đã đi Mỹ. Một mình anh ta ở lại, mấy ngày nay như một cái xác không hổn...

Ngộ độc thật hay tự vẫn? Vì nỗi đau mất vợ, mất con? Hay còn gì những vì gì nữa? Nạn nhân đã được đưa tới bệnh viện của thành phố. Những bác sĩ giỏi nhất của Giải phóng đã tập trung cứu chữa.

Nạn nhân được tẩy rửa dạ dày và tiêm đủ các thứ thuốc. Các bác sĩ áp dụng tất cả mọi biện pháp cần thiết. Một tia sáng le lói. Nạn nhân vẫn còn giữ được chút hơi thở mong manh ...
*
*   *

Mùa xuân năm 1954. Hai mươi mốt năm đã qua. Mặt trận Điện Biên Phủ sáng hôm đó dầy sương mù. Cứ điểm đồi Độc Lập đã bị tiêu diệt đêm trước như một xác người bị đâm chém nhừ nát, đẫm máu vẫn còn nằm đấy.

Một đơn vị nhỏ của ta phòng ngự ở đó.

Hơn một tiểu đoàn Lê dương cộng một đại đội quân dù ngụy với bốn xe tăng đã được lệnh Đờ Cát-xtơ-ri tiến ra phản kích hết sức quyết liệt tại căn cứ đã thất thủ. Các đợt phản kích liên tục kéo dài từ tám giờ sáng tới trưa nhưng hai xe tăng đã bị phá huỷ, hơn một đại đội Lê dương bị loại khỏi vòng chiến đấu, đại dội dù ngụy bị thiệt hại tới một nửa. Đờ Cát-xtơ-ri buộc phải cho lực lượng còn lại rút lui. Tuy nhiên, khi rút vào phía trong, bọn lính nhảy dù ngụy cũng khiêng về được một thương binh của ta bị chúng bắt, khi anh bị ngất đi sau một loạt pháo từ Mường Thanh dội xuống trận địa. Người thương binh bị mảnh đạn ở cánh tay phải và cả ở sườn trái.

Vừa lộn xộn, vừa quá mệt mỏi, bọn lính dù đã quên hoặc cố tình quên mọi sự quy định, không đưa thương binh bị bắt vào Sở chỉ huy căn cứ ở Mường Thanh để cho các sĩ quan phòng Nhì kịp thời khai thác tài liệu. Chúng khiêng thương binh bị bắt về thẳng căn cứ của đại đội đóng bên bờ sông Nậm Rốm. Chỉ huy trưởng đại đội là một viên trung úy hai mươi bốn tuổi. Anh ta cùng đơn vị thất trận trở về, lê đi không nổi đôi giày nhảy dù đã bê bết bùn đất. Bộ quần áo trận tả tơi cũng nhuộm đầy bùn. Chiếc mũ sắt cầm lỏng nơi tay, tóc rũ rượi, anh ta bước vào lều bạt gieo mình xuống một chiếc giường vải. Đầu óc anh ta hỗn loạn đủ trăm nghìn tiếng nổ. Tròng mắt anh ta còn tràn ngập máu người và ngùn ngụt lửa khói... Toàn thân anh ta rã rời và ớn lạnh.

Nhưng lũ lính đã vào báo cáo là có một tù binh, một “thắng lợi phẩm".

Quát lên một câu chửi thề tục tĩu, mắt ngầu đỏ, anh ta đuổi lũ lính đi rồi úp mặt xuống chiếc chăn dù để cố ngủ, cố quên đi tất cả. Nhưng lát sau, biết không thể không giải quyết sự vụ này, anh ta đành phải gượng ngồi dậy:

- Cho nó vào đây tao xem sao!

Mấy tên lính đem chiếc cáng thương tới. Vén lá bạt, viên trung úy mệt nhọc cau có miễn cưỡng bước ra.

Trên cáng vải, một người đang nằm thiêm thiếp. Một người mảnh dẻ, và cũng trạc hăm bốn, hăm lăm, gương mặt xanh mét mầu sốt rét rừng và cả vì mất máu, mái tóc bết đất bùn, hai chân anh mang một đôi giày vải cũng đầy bùn. Chiếc trấn thủ thì đẫm máu và đã bị mảnh đạn xé tan thành nhiều mảnh.

Viên trung uý bỗng sững người. Đôi mắt hơi lồi của anh ta càng như lồi thềm ra. Cái miệng với đôi môi khô trắng há hốc. Anh ta thở gấp. Rồi hấp tấp tiến lại, quỳ xuống, vội vã lục lọi các túi áo của người thương binh. Hai bàn tay trắng trẻo, ngón dài như búp măng - tay của những chàng trai yếu ớt và được nuôi dưỡng khá đầy đủ - dường như đã sũng nước và nhoè nhoẹt bùn non.

Nguyễn Văn Di
Sinh 1930. quê quán: Nghi Tàm - Hà Nội.
Đại đội phó đại đội 3 - tiểu đoàn 4, trung đoàn Tam Đảo - Đại đoàn Thép

Viên trung uý đứng sững

Một tên lính rụt rè, tò mò:

- Thưa trung úy, có lẽ... trung úy biết người này!

Như choàng tỉnh khỏi một cơn mộng dữ, viên trung úy quay lại, trừng mắt, nạt lớn:

- Cút! Ai cho mày đứng đây? Đồ con lợn?

Hồi lâu sau, khi đã tỉnh lại và được băng bó sơ sơ, người thương binh được lệnh vào trong lều vải để cho trung úy chỉ huy trưởng đại đội “trực tiếp hỏi cung". Các binh lính hầu cận bị đuổi ra hết, vì lý do "cơ mật".

Hai người ngồi đối diện, ở giữa là một chiếc "bàn" làm bằng những hòm đạn chồng lên nhau. Trong lều vải tối mung lung, nhưng cũng đủ nhìn thấy rõ hai bộ mặt hết sức khác nhau. Một người gày yếu, xanh xao, một người trắng trẻo mập mạp, no đủ. Một người đã trút bỏ bộ đồ trận lấm láp, nhàu nát, thay vào đó là một bộ khác còn hoàn toàn phẳng phiu và được may cắt một cách cực kỳ khéo léo; còn người nọ, vẫn chiếc áo trấn thủ rách tơi tả vì mảnh đạn và đầy máu, vẫn đôi giày vải sũng nước, đất bùn và chiếc quần rộng thùng thình xắn cao quá gối như kiểu dân cày.

"Anh Di! Phải không? Tôi đây!" .

“Anh Cường trố? Vâng, tôi đây...".

Hai người đã nhận ra nhau. Trước đây họ đã là một đôi bạn. Từ nhỏ, tuy không thân nhưng họ cùng học một trường, cùng qua tiểu học rồi trung học. 

Thời tiểu học họ đã cùng vào "Sói con". Đã cùng nhau vui vẻ hát những bài của ta và của nhi đồng Pháp mà cho đến bây giờ vẫn chưa ai quên: "Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm... " và "Này em Giắc, hãy ngủ đi!” “Dưới ánh trăng, anh bạn Pi-e-rô của tôi..." Khi gần hết trung học, phong trào yêu nước do Đảng Cộng sản phát động như một làn gió mới tràn ngập khắp các tầng lớp thanh niên, sinh viên, học sinh, thì họ lại cùng nhau say sưa hát "Thăng Long thành xưa" ... “Bạch Đằng giang..." và "Này thanh niên ơi ...". Máu trong tim họ đã một thời cùng dạt dào chảy theo một hướng và nóng hổi tình nghĩa đồng bào, cùng tinh thần ái quốc...

Đến khi quân Pháp quay trở lại gây hấn, chuẩn bị đánh chiếm lại Hà Nội và cả nước ta, Hà Nội được lệnh tản cư. Phải chia tay, họ đã ngậm ngùi cùng hứa "sẽ có ngày gặp lại". Dạo ấy Cường theo cha mẹ về Hưng Yên, Di vẫn ở lại. Kháng chiến bùng nổ, Di mặc nhiên trở thành một người lính của trung đoàn Thủ đô. Còn Cường sau đó đã nghe theo gia đình hồi cư về Hà Nội. Năm 1949, anh ta theo học Trường võ bị Thủ Đức.

Cuộc chiến đã cuốn mỗi con người theo một xoáy lốc khác nhau. Đã bao nhiêu con người bị nghiền nát, và bao nhiêu con người được sàng lọc lại? Và không thể nào ngờ hôm nay hai người bạn cũ lại gặp nhau như thế này. Ở đây - cái Điện Biên Phủ sôi bỏng này...

- Anh Di ạ, tôi biết nói gì với anh bây giờ nhỉ? Trước hết anh đừng nhìn tôi bằng con mắt thù hận như vậy

Người bị bắt chỉ hơi nhếch miệng cười.

- Trời, nom anh cười, thật càng không sao lẫn được nữa! Anh không khác trước là bao, những cái năm lớp nhì, lớp nhất trường Hàng Than ấy.

- Anh vẫn chưa quên hả .

- Quên sao được anh! Chao ôi! thời thơ ấu bao giờ cũng đẹp.

- Cái đó cũng còn tuỳ...

- Tôi vẫn nhớ tôi hay quay góp bài của anh. Nhưng nhớ nhất cái lần chúng ta đánh nhau với bọn thằng Tân ở Hàng Đường. Anh đã nhận tất cả mọi chuyện, để tôi khỏi bị đuổi học... Hồi đó, tôi nhút nhát lắm, không được như anh...

- Thôi chuyện cũ ...

- Anh trước là người giàu tình cảm lắm! Tôi vẫn nhớ như thế...

Cường vừa nói vừa đưa bao thuốc thơm ra. Di lắc đầu:

- Tôi con nhà nghèo, không quen những thứ này từ nhỏ. Điều này chắc anh cũng vẫn nhớ.

Cường hơi ngượng, đặt bao thuốc xuống. Rồi chép miệng:

- Anh Di ạ, tôi thật không ngờ chúng ta lại gặp nhau trong cảnh ngộ này ... Tôi không muốn đối xử tệ với anh như là... thường lệ.

Di gật đầu :

- Tôi có nhận thấy điều đó.

Cường có vẻ hả dạ:

- Anh hiểu bụng tôi, vậy tôi... có thể giúp anh...

Đôi mát Di bật sáng.

- Có thật thế không? 

- Thật chứ! Anh Di ạ, tôi có thể sẵn sàng bảo lãnh cho anh khỏi bị... Mọi điều không hay xảy ra, khi người Pháp biết là anh bị bắt vào đây...

Đôi lông mày Di thoáng nhíu lại, như chưa hiểu rõ:

- Anh cứ nói tiếp đi!

- Anh sẽ được cứu chữa vết thương và được đưa về Hà Nội. Và anh sẽ yên ổn làm ăn sinh sống...

Di ngồi thẳng người dậy, cắt ngang câu nói của Cường:

- Như vậy có nghĩa là …

- Phải, có nghĩa là anh thôi đừng trở lại hàng ngũ Việt Minh kháng chiến làm gì nữa.

- Ôi! Nghĩa là tôi phải từ bỏ ... tất cả? ...

- Không phải. Chỉ có nghĩa là... anh thôi đừng hoạt động.

- Thì cũng vậy thôi, cũng có nghĩa là tôi phải từ bỏ tất cả?

- Là bạn cũ, tôi thành thật khuyên anh. Anh Di ạ, đừng có ảo tưởng. Chúng ta không làm gì được người Pháp đâu? Thân phận nhược tiểu da vàng mà anh!

Mặt Di thoắt đỏ dần lên:

- Anh nói là Pháp mạnh. Nhưng chúng tôi đang thắng họ ở Điện Biên Phủ đây thôi ?

- Không đâu anh? Đây chỉ là mấy "cứ” tạm thời ban đầu họ bị bất ngờ. Các anh chưa thấy hết được cái căn cứ quân sự khổng lồ này đâu. Nó là đệ nhất châu Á sau thế chiến thứ hai đấy. Các anh đánh vào đây là sai lầm lớn.

Người bị bắt lặng đi và mặt càng xẩm đỏ. Cường nhận thấy điều đó. Anh ta ngừng lại. Lát sau, Di mới cất tiếng, giọng anh như trĩu hẳn xuống và lạ hẳn đi:

- Anh Cường trố. Tôi biết anh nói thực, song anh nói hoàn toàn không đúng. Nhưng thôi, khoan tranh cãi đã. Bây giờ tôi chỉ muốn anh giúp tôi một việc, liệu có được không? 

Cường chăm chú. Di mạnh bạo:

- Anh hãy thả tôi ra, anh có thể làm được không anh Cường? 

Như có một quả trái phá bất ngờ lao tới nổ tung ngay giữa chiếc lều vải. Cường như bàng hoàng, choáng váng. Mãi sau anh ta mới ấp úng được:

- Không! Anh Di, không! Sao lại thế được? Tôi đâu dám! Tôi không có thẩm quyền ...

- Nhưng tôi đang còn ở trong tay anh kia mà!

- Anh Di? Anh thông cảm cho tôi. Thả anh ra, tương lai sự nghiệp cả đời tôi nữa...

Di nhếch mép cười:

- A, thì ra... anh vẫn thế! Anh vẫn không dám làm một điều gì khác, mặc dầu...

- Anh Di! - Cường trố như van vỉ: - Anh hiểu cho tôi tôi chỉ là...

Di lại nhếch mép cười lần nữa. Nhưng lần này giọng anh rít hẳn lại:

- Là tay sai, là một lính đánh thuê, có phải không anh ?

Đến lượt Cường vụt đỏ mặt. Anh ta đập tay xuống bàn :

- Anh không được nhục mạ tôi! Anh nên nhớ muốn gì thì anh đang là tù binh trong tay tôi. Anh cần giữ lễ độ! Tôi đã không muốn làm dữ, làm hại anh thì thôi, anh lại còn ...

Di quay lưng lại. Từ đó anh câm bặt như một tảng đá mặc cho Cường trố lảm nhám nói tiếp những điều gì đó

Xẩm tối, Di được đưa lên một chiếc xe gíp để vào khu trung tâm Mường Thanh. Một tên thượng sĩ nhảy dù đi áp giải anh. Cường trố cố tình lánh mặt.

Chiếc xe gầm lên, lao trên con đường đất đỏ bụi mù. Lát sau quẹo đi quẹo lại nhiều lần, vượt qua những vị trí dày đặc, chiếc xe dừng lại trước một khu hầm rất lớn trên nóc chất nhiều bao cát. Phía trước khu hầm là một tấm biển gỗ có vẽ một chữ thập đỏ và một dòng chữ: Trung tâm Quân y.

Di ngạc nhiên quay lại phía tên thượng sĩ ngụy ngồi bên:

- Vào đây chứ không phải vào phòng Nhì, hoặc chỗ Đờ Cát xtơ ri? 

- Vâng ! Trung uý tôi bảo đưa ông vào đây để người ta băng bó lại cho ông, và chữa chạy cho tử tế đã. Rồi đưa ông sang bên phòng Nhì cũng không muộn.

Di thở trút ra nhè nhẹ. Rồi chiếc xe gíp quay về. Và ngay đêm hôm đó một tin từ Trung tâm Quân y bay đì như một dòng điện: tên tù binh Việt Minh cả gan lợi dụng tình trạng quá lộn xộn của trung tâm sau hai trận Him Lam, Độc Lập đã trốn mất. Các lực lượng tuần tra đã được lệnh kiên quyết truy tìm, bắt lại bằng mọi giá...

Năm tháng sau. tập đoàn cứ điểm Điện Biên hoàn toàn thất thủ. Cũng may cho Cường trố, anh ta đã bị thương sau buổi Di trốn thoát không lâu. Còn may hơn nữa, chiếc máy bay tải thương đưa anh ta cùng hơn tám mươi thương binh ngụy về Hà Nội, là chuyến máy bay cuối cùng hạ cánh được xuống sân bay Mường Thanh. Từ đó về sau: ba tiếng Điện Biên Phủ như đã đồng nghĩa với: Địa ngục sống.

Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết và quy định bộ đội kháng chiến sẽ vào tiếp quản Hà Nội chính thức từ ngày 10 tháng 10 năm 1954 .
Hà Nội đã trải qua những ngày náo động, Pháp, ngụy tới tấp lo di chuyển vào Nam. Đi hay ở lại? Câu hỏi ấy quay cuồng dữ dội trong không ít gia đình. Với một tâm lý hết sức chán nản và mệt mỏi, Cường đã đi tới một lựa chọn cuối cùng là ở lại. Phải, ở lại, và cố quên đi mọi chuyện. Ở lại, và thử làm lại cuộc đời xem sao...

Nhưng không ngờ, ngay giữa ngày 10 tháng 10 năm ấy quyết định của anh ta đã hoàn toàn sụp đổ. Tò mò, đứng lẫn trong đám đông dân chúng để "xem" những người kháng chiến, những người cộng sản trở về, mắt Cường bỗng như lồi hẳn ra. Anh ta không thể lầm được. Hoàn toàn không phải là một giấc mơ, hoặc một huyền thoại nào đó về những "tráng sĩ ra đi nay trở về" mà những bà già vẫn kể cho trẻ nhỏ. Đi đầu một tiểu đoàn bộ binh xung kích không phải ai khác, chính là người mà Cường đã bắt được ở Điện Biên Phủ, người đã yêu cầu Cường nếu quả là vì tình bạn còn có tình bạn thì hãy thả anh ra, mà Cường đã không có đủ can đám đáp lại... “Thì ra anh vẫn thế". Anh ta đã nhếch mép cười khinh bỉ và nói vậy. Có thể hiểu câu ấy là: “Thì ra ngày thơ bé anh đã hèn yếu, nay anh vẫn hoàn toàn là một tên hèn nhát, không hơn không kém".

Choáng váng, Cường bỏ đám đông quay về. Có cái gì sụp đổ ghê gớm trong lòng anh ta. Đồng thời một nỗi đắng cay cũng tràn ngập. Thêm cả một nỗi lo sợ. Dù mơ hồ, dù viển vông, nhưng nó cứ âm thầm gặm nhấm, cưa xẻ mãi tinh thần anh ta một cách thảm hại.

Hơn một tháng sau, Cường có một quyết định mới: bí mật đưa vợ con xuống Hải Phòng, nơi đó thuộc khu "ba trăm ngày", quân Pháp vẫn chưa rút hết khỏi miền Bắc để vào Nam...

Hai mươi năm sau.

Cường đã là trung tá chỉ huy phó một tiểu khu trên cao nguyên miền Trung.

Mùa xuân 1975, trận Buôn Ma Thuột kinh hoàng đã mở đầu cho sự sụp đổ của toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn trong năm đó.

Sau Buôn Ma Thuột, tất cả như tan ra từng mảng, như đứng trước một sức mạnh thần bí khủng khiếp, như đã tới giờ tận số của định mệnh không gì cưỡng lại nổi.

Cường bị bắt sống trên đường đang tháo chạy cùng một số nhân viên hành chính địa phương.

Anh ta bị giải tức khắc tới Sở chỉ huy nhẹ của một sư đoàn tấn công đang như bão lốc đuổi giặc. Gọi là sở chỉ huy, thực ra chẳng có cái gì hết. Chỉ có mỗi người chỉ huy nhỏ nhắn đeo súng ngắn đang đứng ở bên đường. Mặt xanh xám nắng gió. Tấm vải dù khoác sau lưng lỗ dỗ vết đạn, còn cạnh anh là một nhóm người, chắc là sĩ quan tham mưu tuỳ tùng và một tổ điện đài lưu động.

Cường bị trói và dẫn tới sáp mặt người chỉ huy ấy. Lúc đó, Cường mới nhìn được rõ hơn và kêu lên một tiếng nho nhỏ, giật lùi trở lại, gần như té ngửa... Người chỉ huy cũng sửng sốt và bước hẳn lên mấy bước:

- Cường trố phải không .

- Trời, anh... à! ông Di, nếu tôi... tôi không nhầm?

- Phải, tôi, Di đây? Hay quá nhỉ? Thì ra... là anh!

Di bật cười vang. Hàm răng của anh vẫn trắng và rất đều đặn như xưa. Tiếng cười thật sảng khoái. Tiếng cười ấm. Không thấy vẻ hận thù, hoặc rợn lên sự tàn bạo.

Và thế là, lại như hai mươi năm về trước, ở bên đường truy kích này đã diễn ra cuộc đối thoại giữa hai con người đã một thời là bạn hữu, nay địa vị đã hoàn toàn bị lật ngược. Người bị bắt trước kia nay đã trở thành người chiến thắng và kẻ tự coi là chiến thắng trước kia, nay hai tay đang bị trói chặt...

Di ngồi xuống tảng đá. Anh xoè diêm, thong thả mồi một điếu thuốc. Khi anh cúi xuống, nom lại càng đúng là Di xưa, "Di học gạo" "Di gầy". "Cái thằng quanh năm từ thời một cái quần ka-ki, một chiếc áo sơ-mi xanh nhàu nát. Nhưng là một thằng dễ mến, hay giúp đỡ mọi người và đặc biệt tự trọng, khẳng khái ...". Cường ngắm nhìn và một cái gì đó tựa như một niềm tủi hổ hơn là một nỗi sợ hãi, xâm chiếm toàn bộ đầu óc, làm cho hai mắt anh ta bỗng cay cay muốn ứa lệ.

- Ngồi xuống! Phải, tôi cho phép anh ngồi xuống gốc cây đó! Đến lượt tôi nói với anh: không ngờ chúng ta lại còn được gặp nhau, và gặp nhau trong cảnh ngộ này. Kỳ lạ thật, phải không anh?

Cường cúi mặt. Nước mắt anh la ứa ra thật, không cầm được nữa.

- Không! Tôi không có ý muốn làm nhục hoặc mỉa mai anh. Nhưng quả thật, tôi không khỏi nhớ lại lần chúng ta gặp nhau ở Điện Biện Phủ. Tôi biết hôm ấy anh không có ý xử ác hoặc làm hại tôi. Và anh đã thành thật khuyên tôi một vài điều nào đó...

Cường ngẩng mặt lên. Bộ mặt anh ta đã như hoàn toàn méo mó. Anh ta muốn gào lên để van xin Di đừng nhắc lại chuyện cũ nữa. Di nhìn cặp mắt rã rượi, đau khổ và tủi nhục của tên tù binh. Anh ngừng lại. Điếu thuốc đã cháy sát hai ngón tay vàng khè. Gương mặt anh chìm sâu trong những suy nghĩ. Rồi anh vẫy mấy chiến sĩ lại:

- Đứng coi người này. Cẩn thận nhé! Tôi đi gặp Chính uỷ, trao đổi ý kiến một chút.

Di đi khuất. Cường lo sợ nhìn theo. Anh ta sẽ làm gì mình đây? Anh ta sẽ tra khảo lấy khẩu cung luôn, hoặc có thể bắn liền? Tù binh hiện nay rất đông, một cái miệng này đâu có còn giá trị gì nhiều cho lắm?

Làm thế nào dể thoát? Làm gì? Làm như thế nào bây giờ hả trời. Số phận sao mà ghê gớm!...

Rất mau. Di đã quay lại. Anh không ngồi xuống tảng đá nữa, mà đứng xoè diêm tiếp tục mồi một điếu thuốc thứ hai. Nét mặt anh rất khó đoán. Vui vẻ, cởi mở, lẽ cố nhiên là không rồi nhưng cũng không giận dữ, không hung ác...

- Anh Cường, nghe đây! Trước ở Điện Biên Phủ tôi có đề nghị anh thả tôi ra. Nhưng anh không dám. Cuối cùng bây giờ anh thấy đấy, cuộc sống đã chứng minh con đường nào là con đường đúng...

Cường lại cúi mặt. Anh ta định nói cái gì đây? Rào đón để rồi sẽ bắt Cường phải làm những điều gì, chịu đựng những gì?

- Nhưng mà thôi, không có nhiều thì giờ để nói với anh đâu, tôi muốn kết thúc cuộc gặp gỡ hôm nay bằng một việc ...

Trái tim Cường như đứng hẳn lại.

- Tôi sẽ thả anh, mặc dầu anh không dám yêu cầu. Anh ngạc nhiên lắm hả? Phải, tôi nhắc lại: tôi sẽ thả anh. Cho anh được tự do, tìm đường trở về Sài Gòn với vợ con anh...

- Ôi ông Di ... . ông Di! Có thật không? Tôi xin... Tôi biết làm gì để bày tỏ ...

- Thôi không phải nói gì hết. Các chiến sĩ của tôi sẽ cho anh một bộ thường phục, cho anh theo dân chúng trở về Sài Gòn. Không có điều kiện gì hết. Chỉ mong anh hãy trung thực. Thấy gì ở đây thì nói lại đúng như thế với gia đình, và nhất là bè bạn anh. Thế thôi. Và này, không đùa đâu, chúng ta sẽ lại gặp nhau ở Sài Gòn đấy nhé!

Tất cả mọi việc đã diễn ra hoàn toàn như một giấc mộng .

Đôi tay Cường run lên đỡ lấy bộ quần áo thường dân và một số lương khô, đồ hộp. Anh ta không nói nổi một lời nào nữa. Nỗi mừng cuống quít đến mê sảng.

Về tới Sài Gòn mà anh ta vẫn chưa thực tin mình còn sống. Và chỉ hai tháng sau, không thể nào tưởng tượng được nổi - câu nói cuối cùng của Di, mà Cường đã quên bẵng đi rồi, nay không ngờ đã trở thành sự thật. Quân cách mạng thắng như chẻ tre và đã áp sát tới Sài Gòn.

Sài Gòn đã hoàn toàn sụp đổ. Gia đình các sĩ quan, binh lính và những người thân Mỹ giày xéo lên nhau để ra sân bay và bến cảng.

Cường cuống cuồng đưa vợ con tới Toà đại sứ Mỹ. May sao lại gặp một sĩ quan CIA quen biết. Tên này kéo được Thanh Tuyền và hai đứa nhóc vào qua hàng rào lính thuỷ đánh bộ. Cường bị gạt ở lại. Anh ta tự an ủi: sẽ đi chuyến sau. Nhưng nào ngờ đó là chuyến trực thăng bi thảm cuối cùng.

Anh ta kẹt ở lại. Ngay hôm sau toàn thành phố được giải phóng.

Như một người rồ, anh ta đi lang thang, cười cười, khóc lóc trên các đường phố đang đỏ rực màu cờ. Một mình anh ta trơ trọi giữa căn nhà nay đã trở thành hoang phế, như một hồn ma ai oán giữa một nhà mồ. Cũng may, nhà bên là một gia đình trí thức, có mấy cô con gái đang là sinh viên, và họ đều là Phật tử. Với lòng từ thiện, thi thoảng họ bảo nhau chạy sang khuyên giải hoặc nấu cơm, nấu cháo cho người hàng xóm đau khổ.

Và buổi sáng 1 tháng 5, khi lại lang thang như ma ám, đi lên các đường phố, anh ta đã bắt gặp một trong những đơn vị của quân giải phóng diễu hành. Anh ta đã gặp lại Di chăng. Người chỉ huy đơn vị ấy cũng nhỏ nhắn, cũng có cặp mắt thông minh và nụ cười như hơi chế giễu... Có lẽ đúng là Di? ôi kỳ lạ! Nếu vậy thật kỳ lạ biết bao! Một lần nữa, kỳ lạ thật, anh ta đã gặp lại Di lần thứ ba, cứ y như một điều gì đã được định sẵn một cách hoàn toàn chính xác, bởi một bộ máy vô hình huyền bí, màu nhiệm nào đó. Đây có phải sự kết thúc của một cuộc đuổi bắt nhau ghê gớm tới tận cùng trái đất? Hay là sự ngã ngũ bi thảm của sự thách đố về việc lựa chọn một lẽ sống

Cường quay trở về, tái nhợt như một xác chết. Anh ta run rẩy mở cửa, vào nhà, mở các hốc tủ. Anh ta tiếc không còn giấu lại được một khẩu súng sáu nào. Ngồi rũ xuống một lúc, anh ta lại đứng dậy, lần mò vào bếp. Một gói thuốc bả chuột. Đây rồi! Thanh Tuyền mua từ lâu vẫn vứt xó ở đây...

Anh ta ngửa cổ lên, bàn tay run bắn mở gói giấy ra.

Lúc đó, dưới cầu thang gác, hai cô nữ sinh đang mau mắn bước lên. Họ nhớ tới bữa ăn trưa của ông hàng xóm khốn khổ. Vừa ló đầu vào nhà, hai cô đã nghe thấy rầm một tiếng, rồi một bóng người ngã gục. Hai cô rụng rời cả chân tay. Cô lớn tuổi hơn sớm hiểu ra chuyện gì. Cô lao ra ngoài nhà, thét lên: - Có người chết! Có người bị ngộ độc!"

Và xe cấp cứu đã rú còi inh ỏi tức tốc lao tới.

Trong bệnh viện, anh ta nằm thiêm thiếp, bên tai mơ hồ vọng lại mãi những câu hát nào đó. như từ một thế giới hết sức xa xăm và không hề có thực: "Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm... " và “Em Giắc ơi, hãy ngủ đi, nghỉ đi ... ".
1976

HẾT