Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

Lửa kinh thành - Nguyễn Quang Hà

Đêm Trường Sơn yên tĩnh. Nghe rất rõ tiếng vượn trong núi xa gọi nhau. Tiếng nước chảy ngoài khe sau nhà róc rách, trong như tiếng đàn vậy. Còn tất cả chìm trong giấc ngủ, kể cả gió cũng không động tĩnh, xạc xào gì. Duy chỉ có Nguyễn Tá Thành là trằn trọc trên sạp nứa, anh quay qua quay về, không tài nào chợp mắt được. Hai mắt cứ mở chong chong trong đêm. Cuộc gặp gỡ giữa Bí thư Thành ủy Lê Tư Minh với cơ quan tham mưu tối nay cứ thao thức mãi trong anh.

Bí thư kể chuyện ra ngoài Hà Nội, gặp Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Nhân nói chuyện Huế, Đại tướng lấy kinh nghiệm của Sài Gòn để tâm sự: “Lúc đầu Sài Gòn lấy vùng ven đánh vào nội đô. Không đánh được thì rút ra Đồng Tháp Mười, lên tận núi Bà Đen, đói khát, lưu lạc. Từ đó mới phải tính đến kế khác, quay lại xây dựng biệt động, từng đội nhỏ đánh sâu từ bên trong. Sài Gòn chia ra sáu cánh, có sáu đội biệt động, mà lúc đầu chỉ có bảy tám người giỏi thành phố biết bắn súng, biết lái xe, biết hóa trang... Khi bắt đầu đánh vào các mục tiêu trong thành phố thì thấy ngay hiệu quả: cả Mỹ lẫn ngụy đều phải bu vào bảo vệ lấy đầu não của nó, bình định rã từng đám, từ đó mới lòi ra cái Đồng Tháp Mười, Củ Chi, Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè. Thế là từ chỗ bí, phải tìm cách sao để có ăn, lại tạo ra được cách đánh mới". Từ thực tế ấy, Đại tướng kết luận: "Muốn lòi ra cái địa bàn thì phải đánh vào chỗ cần thiết nhất, đánh vào đầu, vào dạ dày của nó thì chân tay nó rã rời. Anh chặt một nhát vào chân nó thì thấy chảy máu chảy me, nhưng không can chi cả. Vài ngày sau nó lại lành. Nhưng chỉ dùng một cái kim châm một cái vô tim thì nó chết. Tức là phải đánh vào chỗ hiểm. Chỗ hiểm của địch là đâu? Là thành phố, thị trấn, căn cứ đầu não, kho tàng, sào huyệt của chúng...".

Từ chuyện của người, nhìn vào chuyện cụ thể của mình, Bí thư Lê Minh phân tích:

- Suốt mười ba năm qua, chúng ta đã từng bước thắng chính sách tố Cộng, chính sách dồn dân lập ấp chiến lược. Chúng ta đã thắng chiến tranh đặc biệt và bắt đầu đối mặt với chiến tranh cục bộ của Mỹ. Chúng ta đã thắng các chiến dịch lớn của Mỹ-ngụy: "tìm và diệt" rồi "quét và giữ". Những kinh nghiệm của mười ba năm dồn lại, đã đến lúc chúng ta phải đặt ra vấn đề để suy nghĩ: "Phương thức tấn công như thế nào là tốt nhất, và đánh địch bằng cách nào để giành thắng lợi lớn nhất?" trên cơ sở nhận định tình hình chung, chúng ta đã rút ra được kết luận: chiến tranh đã đến lúc phải chuyển phương hướng tấn công vào thành phố. Đó là một yêu cầu khách quan đồng thời chúng ta cũng có đầy đủ khả năng để thực hiện.
Dừng lại một lát, bí thư lướt nhìn từng khuôn mặt đang tiếp xúc với mình, nói tiếp:

- Tách thành phố Huế khỏi tỉnh Thừa Thiên, chuyển ba huyện: Hương Thủy, Phú Vang, Hương Trà cho thành phố làm thế đứng chân vững vàng cho Huế, ấy chính là ta đã từng bước có kế hoạch đưa chiến tranh vào thành phố rồi đó, trong nội thị và các huyện, ta tổ chức các đội biệt động và dân quân du kích là ta đang chuẩn bị lực lượng cho thành phố chứ còn chi nữa - Bí thư khen - Trận đặc công thành đội với hai mươi hai chiến sĩ trang bị thủ pháo và súng nhẹ san phẳng trung tâm vận tải của địch ở đầu cầu An Cựu do anh Đấu chỉ huy, diệt sáu mươi xe, và tiếp theo là trận đánh vào trung tâm huấn luyện Long Thọ, do anh Một chỉ huy, trận này rất khó đánh vì quân đặc công phải vượt sông, thế mà vẫn đánh và thắng. Đó, ta chẳng đánh áp sát vào thành phố rồi là gì. Qua hai trận này tôi rất tin ở lính thành đội chúng ta.
Cuối cùng bí thư giao nhiệm vụ:

- Đánh ngoại vi rồi. Bây giờ các đồng chí hãy chọn một địa điểm, đánh thẳng vào thành phố, trúng chỗ cần đánh. Đã đánh là phải thắng, quyết gây tiếng vang cho thành phố mình. Được không?

Để trả lời câu hỏi này, Thành đội trưởng Thân Trọng Một giao ngay nhiệm vụ cho cơ quan tham mưu. Nói một cách khác là giao trách nhiệm trực tiếp cho tham mưu trưởng Nguyễn Tá Thành. Không còn cách nào khác Nguyễn Tá Thành phải nhận lời. Lời hứa ấy nóng rực trong trái tim đầy trách nhiệm của Thành, chưa tìm được câu trả lời nên Thành không thể nào chợp mắt được.

Bản đồ thành phố giống như đang trải ra trước mắt Thành. Anh nhìn rõ từng tọa độ căn cứ địch đóng. Sư đoàn 1 đại bản doanh trong đồn Mang Cá, nhưng chúng có cả thảy mười ba chỗ đóng quân; các cơ quan quân đội Mỹ tại Huế có tới mười một địa điểm. Riêng ngụy quân đã có mười lăm căn cứ rồi, mười bốn địa điểm đóng quân của cảnh sát. Nếu kể cả bốn mươi hai cơ quan hành chính ngụy kiểu như Tòa Khâm, viện dân biểu, đài phát thanh, ngân khố, tổng số các địa điểm đóng quân của Mỹ, ngụy là một trăm mười bốn đơn vị.

Nếu tính diện tích Huế, chiều dài từ An Cựu đến Bao Vinh, chiều rộng từ Bao Vinh đến An Hòa, từ Vĩ Dạ đến Long Thọ, Huế rộng chừng hai mươi cây số vuông. Vị chi mỗi cây số vuông có năm điểm địch đóng. Dày đặc như vậy, căn cứ nào sẽ là sào huyệt Thành phải chọn cho trận đánh mang tính quyết định mở màn hữu hiệu này?

Những tính toán mung lung đẩy Nguyễn Tá Thành vào giấc ngủ lúc nào không biết. Khi Thành bừng mở mắt thì những tia nắng đã xuyên lá rừng từng tia sáng dài giống như những tia thủy tinh.
*
*    *

Đã là mệnh lệnh quân sự thì "quân lệnh như sơn", dẫu khó khăn mấy, dẫu phải hy sinh tính mạng cũng phải chấp hành. Nghiệp binh là vậy. Nguyễn Tá Thành cùng hai sĩ quan tham mưu có năng lực nhất tạo thành một tổ trinh sát đặc biệt. Nghiên cứu kỹ trên bản đồ xong, ba người bí mật vào thực địa trong nội thành. Đúng một tháng sau, tham mưu trưởng trình với Ban chỉ huy thành đội một kế hoạch đánh vào khách sạn Hương Giang.

Sĩ quan tham mưu trải bản đồ Huế lên mặt bàn. Ba cái đầu chụm lại trên bản đồ ấy.
Thành đội trưởng hỏi:

- Tại sao các anh lại chọn khách sạn Hương Giang?

Tham mưu trưởng đáp:

- Hiện tại khách sạn Hương Giang nổi tiếng là câu lạc bộ sĩ quan Mỹ và câu lạc bộ sĩ quan ngụy. Cứ tối thứ bảy và cả ngày chủ nhật có chừng ba trăm sĩ quan Mỹ, ngụy tề tựu ở đây ăn nhậu, chơi bời trác táng cho bõ những ngày hành quân gian lao. Diệt câu lạc bộ sĩ quan là đánh vào sào huyệt, vào đầu não của chúng.

- Các anh đã điều nghiên chưa?

- Có một người chú của một chiến sĩ biệt động quận Hữu Ngạn đã nhận lời giúp, ông là người đầu bếp có uy tín của khách sạn. Ông đã vẽ bản đồ toàn bộ khách sạn Hương Giang, chúng tôi đã đi điều nghiên, bản vẽ hoàn toàn tin cậy được.

- Con sông Hương và con sông Lợi Nông bọc kín hai phía của khách sạn, giống như hai con hào vừa rộng vừa sâu, chắc đó sẽ phải là hướng tiềm nhập của chúng ta, các anh đã tính chưa?

- Dạ, tính cả rồi ạ.

- Đơn vị nào sẽ đảm trách nhiệm vụ nặng nề này?

- Hai đại đội đặc công của chúng ta. Đơn vị sẽ chọn những người xuất sắc nhất.

- Phương thức tấn công?

- Tập kích bằng hỏa lực mạnh ạ.

Thành đội trưởng chắp hai tay sau lưng, đi đi lại lại trong phòng, gương mặt gầy và nước da đồng hun của ông như sắt lại. Chiếc sẹo dài bên mang trái giật giật. Đó là hình ảnh ông đang lao tâm khổ tứ nhất. Đôi mắt sắc như không nhìn gì, như cũng đang nhìn đâu xa thăm thẳm. Đến trước mặt Nguyễn Tá Thành, ông dừng lại:

- Được, để tôi đi thực địa lại đã rồi quyết cũng không chậm. Vào được rồi nhưng phải tính hướng ra cho gọn gàng, có vậy mới bảo đảm cái gọi là chiến thắng.

Đêm 25 tháng 5 năm 1967, nhằm đúng tối thứ bảy, bốn mươi tay súng B40 cự phách được tuyển chọn từ hai đại đội đặc công thành đội do Nguyễn Văn Thái - đại đội trưởng dẫn đầu xuất quân, thì Ban chỉ huy thành đội đã xuất quân trước đó hai tiếng đồng hồ để làm những gì cần làm của người chỉ huy đối với trận quyết thắng này.

Anh Hoàng Lanh dẫn đội du kích xã Thủy Vân, nơi có con đường mà đội đặc công sẽ hành quân qua. Qua từng ngõ xóm, chó trong các gia đình nhào ra sủa gâu gâu, liền được các anh chị du kích vất cho một gói đồ ăn. "Tham ăn như chó", đúng thật, thấy thức ăn là đớp cái đã, quên cả việc giữ nhà. Chúng không thể ngờ đó là bả chó, ăn xong cứ thế lăn ra chết, không một tiếng rên rẩm. Khi đại đội đặc công được du kích dẫn đường đi qua, tịnh, không một tiếng chó sủa.

Nguyễn Văn Thái cùng đồng đội đến lò mổ trâu bên bờ sông Lợi Nông đã thấy Ban chỉ huy có mặt đầy đủ ở đó. Nơi bến nước, một sợi dây thừng chắc chắn nối hai bờ sông đã được biệt động quận Hữu Ngạn bí mật căng ra từ bao giờ.

Nguyễn Tá Thành nói rất gọn với Nguyễn Văn Thái:

- Đã đúng giờ xuất phát. Chiến sĩ biệt động đang chờ các anh ở bên kia sông.

Phương tiện qua sông của các chiến sĩ đặc công là những chiếc rổ cỡ lớn bán kính chừng một mét hai, nan đan thưa, bên ngoài được bọc bằng ni lông. Thật nhẹ nhàng và gọn gàng khi hành quân, những "chiếc rổ" ấy khi đặt xuống sông bỗng trở thành những chiếc thuyền thúng. Mỗi thuyền thúng được một người nhẹ nhàng kéo dây qua bờ bên kia. Chiến sĩ biệt động đã ngồi đó chờ họ sẵn sàng.

Nguyễn Văn Thái hỏi:

- Đường tiến quân có vấn đề gì không?

Chiến sĩ đặc công đáp:

- Chúng tôi vừa đi kiểm tra, hoàn toàn an toàn. Anh em đang đứng gác dọc đường chờ các anh.

Đội hình bốn mươi chiến sĩ đặc công giống như một con rắn khổng lồ, trườn từ sông lên đường Nguyễn Công Trứ. Từ Nguyễn Công Trứ rẽ trái vào đường Cô Giang. Từ đường Cô Giang rẽ phải, đó là đường Phạm Ngũ Lão. Đầu đường Phạm Ngũ Lão là đường Lê Lợi. Bên kia đường Lê Lợi là bức tường ngoài cùng của khách sạn Hương Giang.

Biệt động quận Hữu Ngạn hầu như đã làm chủ đoạn mặt đường Lê Lợi từ Tòa Khâm đến đầu Đập Đá.
Cho đến lúc 40 khẩu B40 đã kê lên tường làm bệ bắn thì những ô cửa sổ khách sạn Hương Giang đều sáng trưng. Từ trong ấy, tiếng đàn, tiếng trống, tiếng hát, tiếng cười, tiếng nói lọt ra. Từ trong ấy cuộc vui bất tận của những sĩ quan Mỹ, sĩ quan ngụy đang vùi đầu quên đời, quên lửa đạn. Chúng lấy cuộc vui trác táng vùi lấp nỗi kinh hoàng rình rập từng giây từng phút trên chiến trường. Chúng hoàn toàn không biết, kẻ gây tội ác từng ngày trên làng quê Thừa Thiên đang đứng trước mũi súng của con em họ.

Đầu Đập Đá bên kia, Thân Trọng Một đang ngồi với nhóm hỏa lực, mục tiêu của họ là đồn lính ngụy gác đầu Đập Đá. Thân Trọng Một nhìn giờ, vỗ vai Nguyễn Tá Thành:

- Đúng một phút nữa là giờ G.

Nguyễn Tá Thành cũng đang nhìn chiếc kim giây sáng dạ quang, nhích đi từng tí một. Đúng giờ G quy định, Nguyễn Tá Thành hô:

- Bắn!

Ba quả B40 lao vút trong đêm, đúng mục tiêu đổ sập đồn lính đầu Đập Đá. Đó cũng chính là lệnh phát hỏa của đại đội đặc công bên khách sạn Hương Giang. Nhận được lệnh, cùng một lúc 40 con rồng lửa cùng bay sáng trời, lao thẳng vào câu lạc bộ sĩ quan Mỹ và câu lạc bộ sĩ quan ngụy kề ngay sát đó. Loạt đạn đầu nổ tung, những loạt đạn sau thi nhau bắn vào tòa nhà ba tầng của khách sạn. Những đám lửa thi nhau bùng lên. Từng mảng tường đổ sập, cả câu lạc bộ sĩ quan Mỹ và câu lạc bộ sĩ quan ngụy chìm trong lửa đỏ.
Những tiếng kêu tắt ngấm, không bật thành tiếng.

Cùng lúc lửa đạn giội vào khách sạn Hương Giang, khẩu ĐK 75 bên tổ hỏa lực đầu Đập Đá bắn tới tấp vào đại đội lính Mỹ đóng trên bến Tòa Khâm và mấy cụm cối 80ly, 105ly đặt trên đỉnh núi Ngự Bình, chúng ta rót cả cái từng quả vào những căn cứ địch đã được đánh dấu trên bản đồ.

Bọn ngụy quân ngụy quyền sợ bị đánh úp ở làng, xã đêm đêm chạy lên làng Vĩ Dạ ngủ qua đêm, nghe tiếng súng vỗ mặt, chạy ào ra đường Thuận An, định vọt sang Cồn Hến chạy trốn, không ngờ đã bị các tay súng du kích phục sẵn, bắn ngã gục ngay trên mặt đường.

Tiểu đoàn ngụy đang hành quân dã ngoại ở chợ Mai, nghe tiếng súng trên Huế, hùng hổ xếp đội ngũ tiến về Huế cứu trợ, tiếp ứng. Chúng mới đi được vài trăm mét đã lọt vào ổ phục kích của đội vũ trang an ninh, những tay súng kỳ cựu, mưu trí đã bẻ gãy ý đồ tiếp ứng cho Huế của tiểu đoàn này. Sợ những gì đang đón trước, chúng đành quay lui trong hoảng sợ.

Trận tập kích vào khách sạn Hương Giang rất nhanh gọn, tưởng như thời gian chưa dập bã trầu đã xong. Nguyễn Văn Thái dẫn bộ đội ra đầu Đập Đá đã gặp Trần Phong, đội trưởng đội an ninh vũ trang đang đứng chờ.

Nguyễn Văn Thái hỏi:

- Đường băng qua Đập Đá ra sao?

Trần Phong đáp:

- Đồn lính ngụy đầu cầu bên kia đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Các anh theo tôi.
Trần Phong chạy trước, đại đội đặc công theo Thái chạy sau. Đến Thủy Vân gặp trung đội du kích cầm cáng đứng đợi.

Trung đội trưởng du kích hỏi:

- Thương binh liệt sĩ đâu rồi, để chúng tôi đưa về hậu cứ.

Nguyễn Văn Thái vui vẻ trả lời:

- Cáng thương binh ế rồi. Chúng tôi không một ai làm sao cả.

- Hoan hô các anh! - Bộ đội và du kích ôm chầm lấy nhau trong niềm vui vô hạn.

Ngày 26 tháng 5 năm 1967 là một ngày thành phố Huế náo loạn. Mới tờ mờ sáng cảnh sát đã nhan nhản khắp đường phố, xe nhà binh chạy rần rật, vừa tăng tốc, vừa huýt còi inh ỏi.

Việc đầu tiên là cảnh sát cầm dùi cui, mang súng chặn đoạn đường Lê Lợi từ Tòa Khâm đến đầu Đập Đá phía Vĩ Dạ, không cho dân đi qua khu vực khách sạn Hương Giang. Dân Vĩ Dạ, Chi Lăng muốn qua sông phải đi đò chợ Dinh.

Dân ùn tắc ở hai đầu mũi đường, có cảnh sát đứng ngay trên mặt đường canh gác. Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn về khách sạn Hương Giang. Mới chiều qua khách sạn Hương Giang đang còn là một biệt thự mĩ lệ trên bờ sông Hương. Đoạn sông được coi là đẹp nhất kể từ chỗ sông Hương chảy qua thành phố Huế. Nhưng hôm nay đã là một đống đổ nát, chết chóc kinh hoàng.

Một đứa bé không hiểu vô tình hay hữu ý, nó hỏi viên cảnh sát cầm dùi đứng bên:

- Việt Cộng đánh khách sạn Hương Giang đêm qua hả chú?

Viên cảnh sát quay nhìn chằm chằm đứa trẻ đầy nghi ngờ, đáp giọng đe dọa:

- Muốn vô tù hả? Cút cho khuất mắt tao.

Một đoàn xe cam nhông mười chiếc chở đầy lính từ bên Mang Cá qua, bóp còi gạt bọn cảnh sát gác đường, chạy qua cầu Trường Tiền, rẽ thẳng vào khu vực khách sạn Hương Giang đổ nát. Vừa nhảy xuống xe, chúng đã thực hiện nhiệm vụ của mình, ra sức bới đống gạch ngói đổ nát, lôi trong đó ra những xác chết đã cứng đơ, xếp kề nhau nằm theo một hàng dài, giống như đang sắp hàng theo đội hình.

Chừng tám giờ sáng, máy bay trực thăng từ Phú Bài, từ Đồng Lâm bay về, tới tấp hạ cánh xuống sân khách sạn Hương Giang. Bọn lính bới xác lập tức khiêng các xác chết đưa vào máy bay. Chiếc nào đầy, phành phạch bay đi ngay.

Một nhóm người đứng bên đường nhìn theo những chiếc trực thăng bay về hướng nam, chép miệng:

- Sĩ quan Mỹ, ngụy ở câu lạc bộ chết nhiều quá.

Một người khác nói chen vào:

- Đổ nát nhường kia e chết hết, không còn một mống.

Người cảnh sát cầm dùi cui đi tới:

- Giải tán ngay. Các mệ muốn ăn đạn hả?

Nhóm người không muốn rắc rối với dùi cui, tản ra, nói với nhau:

- Trước dân thì hăm dọa. Gặp Việt Cộng thì co vòi lại. Cái thứ nớ liệu mần được chi.

Một người dân từ chợ Cống chạy lên nói với mấy người cảnh sát:

- Các chú ơi, có cái chi lạ lắm.

- Cái chi? - Viên cảnh sát hỏi lại.

- Cứ tới mà coi.

Ba người cảnh sát theo người đàn bà về đường Nguyễn Công Trứ, phía bên này lò mổ trâu nhìn ra sông.
Những chiếc rổ bọc ni lông nổi lềnh bềnh trên sông Lợi Nông. Nhìn kỹ trên mặt sông còn có cả một sợi dây thừng chăng qua sông đang còn đó.

Viên cảnh sát kéo một chiếc rổ lên bờ. Cả nhóm cảnh sát quây quanh xem xét kỹ càng.

Một cảnh sát thốt lên:

- Việt Cộng sáng tạo quá! Hương Giang nát bấy là phải lắm.

Đi đánh Hương Giang về, mới được hai ngày, chưa kịp hồi sức, thành đội trưởng cho chú liên lạc gọi
Nguyễn Tá Thành lên.

- Báo cáo thủ trưởng, tôi có mặt.

- Có điện của ông Lê Minh khen trận Hương Giang đây, cậu đọc đi rồi giữ lấy, khi nào về đại đội đặc công, đọc cho lính chúng nghe với.

Thành nhận điện:

- Tôi tưởng anh Lê Minh đang ở bên Thành ủy ạ?

- Ông ấy đang ở trên tận Khu ủy. Vừa là bí thư Thành ủy, vừa là phó bí thư Khu ủy, nay ông ấy ở nơi này, mai đã ở nơi kia rồi. Thắc mắc điều ấy làm gì? Thôi, đọc thư đi.

Thành mở thư đọc:

"Gửi anh Một và anh chị em thành đội:
Nghe tin đánh thắng câu lạc bộ sĩ quan Mỹ và ngụy, cả Khu ủy vui mừng.

Bộ đội đặc công của thành đội rất giỏi, rất mưu trí. Địch dày đặc trong Huế như thế mà vào được đã khó, đánh xong, không có thương vong, lại rút ra an toàn, thật không phải chuyện dễ.

Trận đánh vào thành phố lần này là cuộc tập dượt của tất cả mọi binh chủng, đặc công, pháo, dân quân du kích, bộ đội địa phương, biệt động đều đã ra quân. Một cuộc phối hợp ngoạn mục.

Nội thành đã có một số trận đánh của tự vệ thành, như trận đánh vào quán ăn Chi Lăng, trạm biến thế điện Đông Ba, trạm xăng Đông Ba. Các trận đánh nhỏ gây chấn động trong thành phố. Trận đánh khách sạn Hương Giang lần này là quả bom giội trên đầu thằng địch. Cứ gọi là đánh tuyên truyền đi, song đã đánh thật trúng sào huyệt, đầu não của chúng. Sẽ gây ra những biến động chính trị không lường được đâu.
Nhân dân Huế đã nổi dậy từ năm 1963, nhưng không có những cú đấm quân sự nên họ không làm chủ được. Thời Phật tử, sinh viên xuống đường lật đổ Diệm Nhu, lật đổ Ngô Đình Cẩn ở Huế nếu ta có một số trận đánh hỗ trợ tại Huế, chắc chắn sinh viên và phật tử Huế có thể làm được nhiều việc đáng kể khác.
Rất mừng Huế đã tìm ra cách đánh. Nói tìm ra cách đánh là nghiên cứu cả đường đi nước bước, tổ chức đội hình, sử dụng loại vũ khí gì thì vừa chứ không phải chỉ tìm cách nổ súng. Chưa đến lúc đưa cả binh đoàn vào, chỉ dùng từng đội biệt động, ngang với từng trung đội thôi, mà vẫn chiến thắng giòn giã.
Đến bây giờ ta đã có thể kết luận: "Huế đã đánh được thành phố". Chắc chắn đó sẽ là một tiền đề rất khả quan cho sau này.

Chúc sức khỏe và chiến thắng!
Hy vọng ở các đồng chí rất nhiều.

Lê Minh".

Nguyễn Tá Thành đọc xong, đặt thư xuống. Thành đội trưởng hỏi:

- Lê Minh nhận định và đánh giá sắc sảo đấy chứ?

Nguyễn Tá Thành đáp:

- Tôi mang máng nhận ra từ nay mục tiêu của chúng ta sẽ là thành phố.

- Đó là cái chắc. Song đánh thế nào thì còn phải tìm. Tới đây chú sẽ bận rộn lắm. Rồi sẽ vắt chân lên cổ
chạy không kịp đâu. Thời gian rảnh rỗi giữa hai trận đánh, cậu tranh thủ về thăm bà già một chút đi.

- Dạ, có lẽ vậy.

- Cho mình gửi lời hỏi thăm bà già nghe. Chiến tranh, có gia đình nào không tan tác đâu. Cố gắng an ủi để bà già bình tâm trước cuộc đời éo le này. - Ông lấy trong xắc ra một gói nhỏ đưa cho Thành - Khu ủy mới bồi dưỡng cho mình một gói sâm này, mình gửi cậu về biếu bà già.

- Anh cũng đang gầy nhom mà.

- Cậu học ở đâu cái thói khách khí ấy thế?

- Thôi, xin cảm ơn anh.
*
*   *

Nguyễn Tá Thành quê ở Hà Trung, huyện Phú Vang. So với những làng quê bên bờ phá Tam Giang, Hà Trung được coi là trù mật. Song trong vùng, Hà Trung vẫn là một làng nghèo.

Dẫu đã là tham mưu trưởng thành đội, Thành vẫn quần đùi, gùi bạt như mọi lính giải phóng khác. Anh theo đường dây giao liên, từ chiến khu, vượt sông Hai Nhánh, băng qua đất Thủy Phương của huyện Hương Thủy, chừng hai giờ sáng, Thành đã đến sân nhà mình. Một mảnh vườn nho nhỏ trồng lẫn lộn cả cây ăn quả với rau xanh hàng ngày. Vẫn chum nước đặt nơi góc sân, bên trên gác chiếc gáo dừa.

Ngôi nhà tranh ba gian, từ khi cha anh đi tập kết, chỉ mấy lần lợp mái lại chứ không có thay đổi gì. Vậy mà sao nó thân thiết với anh quá! Dọc đường chinh chiến, lúc nào nguôi ngoai anh vẫn nhớ về ngôi nhà tranh này đang nằm trong vùng kiểm soát của địch.

Thành nấn ná, gõ thong thả nhè nhẹ năm cái vào cánh cửa gỗ, đã nghe tiếng mẹ trong nhà:

- Hoài ơi, thằng Thành về. Mau mở cửa cho em đi con.

Chị Hoài vùng dậy, châm ngọn đèn nhỏ đặt bên giường mẹ rồi ra mở cửa cho Thành.

- Chị!

- Cậu vô đi. Mấy ngày nay mẹ nhắc tới cậu hoài.

Thành chạy vào, quỳ bên giường mẹ. Mẹ ngồi dậy, lùa hai tay vén tóc, búi thành một búi gọn gàng sau đầu. Rồi cũng dùng hai bàn tay ấy ôm đầu Thành ủ vào lòng mình. Thành hỏi:

- Mẹ vẫn khỏe chứ ạ?

Bà mẹ không trả lời câu hỏi, bỗng dưng hai hàng nước mắt chảy ra:

- Vợ con bồng bé Tâm về bên ngoại rồi.

Thành gỡ tay mẹ, vào trong buồng, bấm đèn pin vào chiếc giường lạnh lẽo trống vắng bỏ không, nơi vợ con anh vẫn nằm. Thường thường, mỗi khi anh về, Dung - vợ anh không kịp sửa lại đầu tóc, chạy ào ra đón anh. Hôm nay không thấy Dung, anh ngờ ngợ, mẹ liền báo cho anh tin chẳng lành. Thành trở lại bên giường với mẹ:

- Lẽ ra mẹ con Dung phải ở lại trông nom mẹ mới phải.

- Con phải hiểu cho vợ con. Dung ở đây không yên được với bọn chúng. Đêm nào chúng cũng phục kích quanh nhà, chúng nói: "Vợ ở mô, thủ đô ở đó", sớm muộn gì con cũng phải về thăm vợ con mình. Chúng muốn bắt con ngay chính cửa nhà mình để vợ con không còn hy vọng gì ở con nữa. Ngày, chúng thay nhau tán tỉnh. Gái một con trông mòn con mắt, Dung ngày càng xinh ra, nhất cái làng này. Mặt khác, lúc này lính ngụy lấy được vợ Việt Cộng là được thăng chức, tăng lương, được cho đi tuần trăng mật ở Đà Lạt, nên bọn lính ngụy xúm vào vợ con như ruồi. Nó xin mẹ bồng bé Tâm đi: "Con không muốn vì con mà làm liên lụy tới mẹ, tới chị Hoài, tới anh Thành. Khi nào anh Thành về mẹ nói với anh ấy rằng một đời con chỉ có anh ấy là chồng. Mười năm, hai mươi năm con cũng chờ anh ấy".

- Đêm mai con sẽ về bên ngoại tìm mẹ con Dung. Tội Dung quá.

Chị Hoài ngồi bên:

- Mẹ và chị cũng đều thương Dung quá, nhưng không biết làm thế nào. Chứ Dung là đứa dâu thảo hiền lắm em ạ.

- Nếu con đưa được mẹ con nó lên rừng thì đưa luôn lên đi cho mẹ yên tâm.

- Có thêm bé Tâm, mẹ con Dung chỉ tổ làm vướng chân anh em trên ấy. Thời chiến tranh lo thân mình còn
chưa xong mà mẹ.

Những ý nghĩ chợt đến, chị Hoài hỏi:

- Cậu có tin gì về ba với em Phố ngoài Bắc không? Mấy đêm nay mẹ cứ hay mơ thằng Phố về lại Hà Trung thăm mẹ.

- Trời, con quên mất - Thành lục chiếc gùi bạt, lôi ra một lá thư - Con có nhận được thư em Phố gửi vào đã mấy tháng nay. Cứ mong về nhà để đọc cho mẹ nghe. Chuyện mẹ con Dung làm con quên khuấy đi mất.
Mẹ vội cầm thư. Hai bàn tay ấp lá thư lên mặt. Mẹ hít hà lá thư ấy như muốn tìm trong đó một chút hơi hám của đứa con út của mình.

Hình như mẹ đã tìm thấy cái điều mẹ cần tìm nên trên gương mặt mẹ, từng nét như dãn nở ra. Lát sau mẹ đưa bức thư cho Hoài:

- Con đọc cho mẹ nghe, Hoài.

Chị Hoài mở thư đọc:

"Mẹ kính yêu.
Anh chị và cháu Tâm rất nhớ.

Mẹ ơi, ba và con nhớ mẹ hoài, không lúc nào ngồi với nhau mà không nhắc tới làng Hà Trung bên bờ phá Tam Giang quê mình, không lúc nào không nhắc tới mẹ. Ba thì cứ hay thở dài: "Tưởng đi tập kết hai năm rồi trở về, ai biết lâu thế này. Biết thế lúc ấy ba đưa cả mẹ và các anh chị mày cùng đi". Nhiều chú đã lấy vợ ngoài Bắc, nhưng ba thì nhất quyết đợi ngày thống nhất về với mẹ. Hiện tại ba vẫn làm trưởng ty nông nghiệp ngoài Thái Bình.

Còn con bây giờ thì gần mẹ lắm rồi. Học xong trung học phổ thông, nhận giấy gọi đi đại học Bách khoa, nhưng con đến trường ghi tên rồi xin hoãn để đi bộ đội. Không đánh Mỹ bây giờ thì chả còn dịp nào để đánh Mỹ nữa. Còn học, không học khóa này thì học khóa khác, con đã có chân trong trường đại học rồi, sợ gì. Con xin vào Trung đoàn 9. Trung đoàn chúng con đang đánh nhau ở Quảng Trị. Chỉ mấy chục cây số nữa thôi, thế nào cũng có lúc con chạy về thăm mẹ.

Điều duy nhất con mong là lúc nào mẹ cũng thật khỏe để khi được gặp mẹ, mẹ lại cõng con đi chơi khắp hàng xóm như ngày nào.

Còn chị Hoài, chị hãy nghe em, đi lấy chồng đi. ở nhà đã có chị Dung với cháu Tâm rồi. Chị Dung ơi, em Phố chưa gặp chị, nhưng chị là vợ anh Thành nên lúc nào em cũng thương chị như chị Hoài vậy. Cháu Tâm ơi, chú Phố muốn gặp cháu lắm. Lúc gặp, không biết chú cháu mình có nhận ra nhau không nhỉ? Chú cũng giống bố Thành của cháu. Cháu cũng lại giống bố Thành. Thế nào chú cháu mình cũng nhận ra nhau mà. Chú thơm bé Tâm, cháu của chú nhé.

Con rất mong ngày gặp mẹ và anh chị.
Con của mẹ. Em của anh chị.
Phố".


- Thằng Phố nói toàn giọng Bắc. Chả còn tí giọng Hà Trung nào - Mẹ rưng rưng nước mắt, lắc đầu.

- Thì em Phố lớn lên từ nhỏ ngoài ấy mà mẹ.

Thành dàn hòa:

- Thì tình cảm của Phố có xa Hà Trung chút nào đâu mẹ. Vẫn da diết đó thôi.

Thư Phố làm bà mẹ mê mẩn, mãi lúc sau mới như tỉnh ra:

- Lúc ba các con đi tập kết, mẹ phải ở nhà để phụng dưỡng ông bà nội, chứ không mẹ con ta cũng đi theo ba ra ngoài Bắc rồi.

Ký ức cũng như trở lại với chị Hoài:

- Chỉ thương ông bà nội, trong chiến dịch tố Cộng, ông cứng cỏi quá, bị chúng đập chết. Ông chết, bà cũng chết theo luôn. Thế là gia đình ta tan tác mỗi người một phương. May mà Thành không đi lính ngụy. Chứ đi lính ngụy thì cha con, anh em bắn nhau là cái chắc.

Tiếng gà chợt gáy như báo trời sắp sáng. Chị Hoài sửa sang lại hầm bí mật cho Thành. Ăn vội mấy miếng, Thành xuống hầm ngay. Hai mẹ con Hoài xì xào với nhau một lúc, mẹ dặn:

- Con về bên ngoại bé Tâm đi. Báo cho Dung biết đêm nay Thành sẽ về thăm. Chắc nó mừng lắm.

- Con đi ngay đây mẹ.

- Đi mau mau mà về nghe con, lỡ ở nhà có chuyện gì mẹ không trở tay kịp.

Chị Hoài đi, gần trưa đã quay về. Vừa nhìn thấy Hoài, mẹ đã hỏi ngay:

- Gặp Dung rồi chứ con?

- Không gặp mẹ ạ.

- Răng?

- Ở bên ngoại, Dung cũng bị bọn lính ngụy bên ấy quậy như bên Hà Trung. Dung bồng con lên Huế ở với bà dì trên ấy rồi.

Bà mẹ thở dài:

- Thật tội nghiệp. Không gặp vợ con, thằng Thành buồn lắm đây.

Nguyễn Tá Thành vừa ở vùng sâu Hà Trung lên, gặp thành đội trưởng, ông hỏi ngay:

- Sao trông mắt cậu âm u thế? Bà già có chuyện gì rồi à?

Thành đáp:

- Không phải chuyện bà già. Bà gửi lời cảm ơn món quà của anh. Là chuyện của mẹ con Dung.

- Vợ chồng không được gần nhau là rất dễ sinh chuyện.

- Bọn lính ngụy quậy anh ạ. Hết phục kích đến tán tỉnh, Dung không chịu thấu. Để giữ mình, Dung bồng con về bên ngoại, vẫn không yên, Dung bồng con lên Huế tá túc nhà bà dì rồi. Không biết sẽ ra sao. Tôi nghe trong lòng không yên.

- Yên tâm đi. Nó chạy trốn bọn ngụy tức là nó vẫn thủy chung với cậu lắm. Trong chiến tranh, không gia đình nào không có chuyện đâu. Bên nọ cứ nhằm bên kia mà diệt. Không diệt trước mặt được thì diệt sau lưng. Cái chữ ngụy là vậy đó. Ta chẳng gọi chúng bằng một từ ghép là ngụy tặc đó sao. Đã là ngụy tặc thì chẳng còn gì là đạo lý ở đời nữa. Tố Cộng chẳng qua là một chiến dịch công khai diệt cách mạng. Khi đi tập kết, ta có cài lại, bám trụ, nằm vùng trong dân ba trăm đảng viên. Kết cục chúng vừa giết, vừa tống lao của chúng ta mất hai trăm chín mươi tư người. Chỉ còn sáu người, phải vọt lên núi lập chiến khu. Chiến tranh là vậy. Muốn sống chỉ có một con đường là vùng lên, đứng dậy. Gia đình cậu tan tác nằm trong cái tổng thể tan tác chung ấy.

Thành đội trưởng nhón tay rút một điếu thuốc, châm lửa, rít một hơi dài, thong thả nói:

- Mình nói lan man quá phải không. Lâu rồi không có lúc rảnh ngồi tâm sự với nhau mà. Hoàn cảnh cậu không khác gì hoàn cảnh mình thời kháng chiến chống Pháp. Mình nhập ngũ, thoát ly, vợ mình ở nhà cũng bị khống chế kiểu ấy. Một nách hai con, con Hồng với thằng Lạc đấy, như mèo tha con khắp nơi. Cuối cùng phải lấy chồng khác mới yên với chúng. Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng bao giờ. Không tin vào số phận cũng không được Thành ạ. Mỗi đứa chúng mình gắng một chút, góp phần mau giải phóng miền Nam để đoàn tụ gia đình.

- Dạ.

- Mình khuyên cậu, nhưng chính đó cũng là lời động viên chính mình. à, này, tình hình có chuyển rồi đấy, quân khu quyết định cho chuyển hai đại đội đặc công và đại đội pháo binh của thành đội ta lên tiểu đoàn hết. Hai tiểu đoàn đặc công lấy biệt danh là Chị Thừa Một và Chị Thừa Hai. Đang bổ sung quân cho hoàn chỉnh. Vậy là thành đội ta có năm tiểu đoàn cả thảy. Hai tiểu đoàn bộ binh, K4 và K10, hai tiểu đoàn đặc công và một tiểu đoàn pháo.

- Chắc trên đang tính cho thành đội ta những chuyện lớn.

- Để đón thời cơ, cậu phải lo củng cố ba đội biệt động của Thành Nội, quận Tả và quận Hữu. Bên Thường vụ Thành ủy đã cử anh Chính, anh Phan Nam và anh Hoàng Lanh chịu trách nhiệm ba đội biệt động này và xây dựng cơ sở trong thành phố. Với ba huyện Phú Vang, Hương Trà, Hương Thủy, cậu không được thờ ơ với quân ba đội biệt động và các đại đội địa phương huyện. Khi có chuyện gì ở thành phố, đó sẽ trở thành lực lượng quan trọng của chúng ta đó.

- Tôi sẽ phân công từng mảng cho anh em trong cơ quan tham mưu. Mỗi sĩ quan sẽ phải gánh và chịu trách nhiệm một công việc cụ thể.

Thành đội trưởng nhấn mạnh:

- Chuyện cách mạng là phải tính cả sáu mươi vạn dân Thừa Thiên, chứ riêng mấy nghìn tay súng không làm nên cơ nghiệp gì đâu. Phải bám chắc phong trào cách mạng trong quần chúng.

- Dạ, tôi hiểu.

- Muốn lên kế hoạch cho từng bước phát triển, phải nắm thật chắc phong trào quần chúng. Cậu phải quan tâm làm tổng hợp cho mình, khi cần mình sẽ gọi đấy.

- Dạ.

Những việc thành đội trưởng dặn dò đúng là chức năng của tham mưu trưởng. Ông không nhắc thì Thành cũng phải làm. Sự nhắc nhở chi li ấy khiến Thành có một dự cảm sẽ có một cái gì sắp tới. Đúng như Bí thư Lê Minh trong dịp này hay nhắc đi nhắc lại: "Phương hướng tấn công như thế nào là tốt nhất, và đánh địch bằng cách nào để giành thắng lợi lớn nhất". Rõ ràng thành phố đang được đặt lên bàn tính của ông. Chỉ có đánh vào thành phố mới đánh đúng cơ quan đầu não, đánh đúng trung tâm chính trị của địch. Chỉ có đánh vào đó mới phù hợp với yêu cầu của chiến trường lúc này. "Dùng một cái kim châm một cái vô tim thì nó chết". Đó chính là phương châm đánh vào chỗ hiểm.

Trước tình hình đó Nguyễn Tá Thành hết sức lưu tâm tổng hợp những biểu hiện mới, những hiện tượng mới của phong trào quần chúng nội, ngoại thành. Vậy mà phải đến mấy tháng sau thành đội trưởng mới gọi anh lên báo cáo tổng hợp cho ông nghe.

- Có ghi chép cẩn thận đấy chứ? - Ông hỏi.

- Không có thì giờ nên tôi chỉ ghi chép một cách khái quát thôi ạ - Thành đáp.

- Cũng chả có thì giờ nghe kỹ. Rất cần có một cách nhìn thật tổng hợp lúc này.

Tham mưu trưởng Nguyễn Tá Thành khẽ khàng lật từng trang sổ ghi chép của anh, trình bày rành rọt:

- Sau trận ta thắng ở khách sạn Hương Giang, địch co cụm lại, hoảng hốt, lo, đến như khách sạn Hương Giang Việt Cộng còn vào đánh được thì chỗ mô Việt Cộng muốn là tới được. Chúng nói với nhau đầy tâm trạng hoang mang như vậy. Được thế, nông thôn ba huyện ngoại thành vùng dậy đánh bình định.

Trận đầu phải kể là lực lượng K4 do anh Chi chỉ huy đánh vào Dưỡng Mông, tiêu diệt luôn ba đoàn bình định và hai đại đội bảo an. Lúc đó cánh đồng Phú Vang đang vào mùa gặt. Nông dân tay liềm ào lên. Thừa thắng xốc tới, giải phóng luôn một mảng nông thôn từ Dưỡng Mông, Đồng Di, Xuân ổ, Diên Đại, Sư Lỗ, lên tận Vân Thê, Công Lương, Xuân Hòa, Thanh Thủy Chánh. Trước trận này, địa bàn của ta chỉ vẻn vẹn một rẻo gần giáp ranh, vùng sâu chỉ có một vài lõm có hầm bí mật. Vậy mà chỉ đánh một trận trúng đầu não bọn bình định, đã lòi ra một mảng nông thôn liên hoàn Phú Vang, Hương Thủy, tạo địa bàn đứng chân cho thành phố.

Tiếp đó ở phía bắc thành phố, đánh một loạt bình định ở Thanh Lương, Địa Lương, Trúc Lâm... lập tức làm chủ được một mảng lớn Phò Nam, Niêm Phò, Tài Ba, An Xuân, Phước Yên của Phong Điền, Quảng Điền. Bọn địch ở An Đô, Lại Bằng, La Chữ thì lo về An Hòa. Phía bắc đã có chỗ đứng nhìn thẳng vào thành phố.
Hai tiểu đoàn 2, 3 thuộc trung đoàn 3 ngụy có chi đoàn thiết giáp yểm trợ cho bọn bình định ở Phú Thứ, Hương Thủy. Các bà, các chị, các ông già bồng con, bồng cháu nằm ngang giữa ruộng vườn ngăn xe 113 không được chà sát lên hoa màu. Hàng nghìn đồng bào vây chặt đơn vị ngụy đang hành quân, không cho tiến. Chúng phải lùi về trú quân ở quận Phú Thứ. Đêm ấy đội đặc công của thành phố tập kích tiêu diệt một số xe M113 buộc chi đoàn bọc thép này phải quay về. Bọn bình định bỏ cuộc về theo.

Về quân sự thì anh đã biết. Trung đoàn 6 tập kích tiêu diệt gần hết căn cứ trung đoàn 3 ngụy ở Tứ Hạ. Tiểu đoàn 4 và đại đội địa phương Phú Vang tập kích tiêu diệt chi khu Phú Thứ. Lực lượng biệt động quận Hữu Ngạn tập kích các đội Hắc Báo, Phượng Hoàng, quân ở Thủy Phú, Thủy An, Thủy Trường, Thủy Phước. Du kích mật nội thành đánh Gia Hội, An Cựu, Tây Lộc. Đặc biệt một du kích mật làm thợ điện ở căn cứ Phú Bài đã gài mìn phá hủy một kho đạn lớn của Mỹ, đạn nổ vang dội vùng Phú Lương suốt một ngày một đêm.
Thành đội trưởng gật đầu:

- Những trận đánh này có ý nghĩa rất quan trọng cả quân sự lẫn chính trị. Ta đã đưa phong trào du kích vào sau lưng địch và đã chọc cả vào trong thành phố, làm cho cả hậu phương địch mất ổn định. Vậy là từng bước ta đã khẳng định mình có thể "đánh thành phố được".

- Bây giờ tôi mới thấy việc Khu ủy cắt ba huyện cho thành phố là có lý lắm. Nếu không, từng bước một thành phố làm gì có chỗ đứng chân.

- Tôi muốn nghe một chút về nội thành - Thành đội trưởng hỏi.

Nguyễn Tá Thành suy nghĩ một lát rồi nói:

- Ba đội biệt động của ba quận đã thành đội ngũ đáng tin cậy trong đó. Anh Hoàng Lanh, anh Trung Chính, anh Phan Nam đang rất tích cực xây dựng cơ sở cách mạng trong nội thành. Đã hình thành được mỗi khu phố một chi bộ và mỗi đường phố đã có một đội du kích mật. Vì vấn đề bảo mật nên tôi không biết cụ thể từng nhân sự các tổ chức này. Riêng các địa bàn phía nam như Xuân Phú, Diên Thái, Vân Dương, Văn Thê Đập, An Cựu thường xuyên hoạt động áp sát thành phố. Đặc biệt hệ thống giao thông liên lạc từ trong thành phố ra, từ ngoài thành phố vào nội thị đã được tổ chức đường dây nghiêm chỉnh.
Thân Trọng Một tủm tỉm cười:

- Vậy là tất cả đã lặng lẽ dang tay ra đón thời cơ rồi. Không biết chủ trương Khu ủy ra sao đây?

- Phong trào sinh viên trong thành phố cũng rất sôi động anh ạ.

- Đúng là rung động hết cả lên rồi. Thành thử chấm phá đôi nét cơ bản xem nào.

Nguyễn Tá Thành đọc trong bản chép tay của mình:

- Hưởng ứng lời kêu gọi của Đoàn chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, về việc đấu tranh làm thất bại âm mưu Mỹ trong việc tổ chức bầu cử tổng thống và nghị viện. Thanh niên, sinh viên Huế đã có nhiều hình thức vận động đồng bào không đi bỏ phiếu vào ngày 3 tháng 9. Sinh viên thì tổ chức mít tinh, biểu tình phản đối trò hề bầu cử, tố cáo sự can thiệp của Mỹ vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Cảnh sát ngụy tung quân ra đàn áp bằng dùi cui, lựu đạn cay vẫn không đẩy lùi được hàng nghìn sinh viên xuống đường.

Thành đội trưởng vỗ đùi:

- Đây chính là lực lượng của chúng ta trong tương lai. Ai nắm được học sinh, sinh viên, trí thức thì thành phố thuộc về người đó.

Nguyễn Tá Thành hào hứng nói tiếp:

- Hội Phật giáo Huế đã vận động, tổ chức được hơn ba nghìn tín đồ Phật giáo hội thảo tại chùa Từ Đàm, có sinh viên tham gia, vạch mặt sự phản bội của thượng tọa Thích Tâm Châu và phản đối kết quả bầu cử ngày 3 tháng 9 của Mỹ, Thiệu - Kỳ. Nhiều nhà sư tuyên bố sẵn sàng tự thiêu để đấu tranh cho độc lập dân tộc và đạo phép.

Thành đội trưởng vui hẳn lên:

- Đừng quên rằng cho đến tận hôm nay Phật giáo Việt Nam vẫn đi song hành với lịch sử dân tộc. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ có tội với đất nước - Nhìn Nguyễn Tá Thành, thành đội trưởng nói thêm - ở Huế còn một tình hình nữa mà tham mưu trưởng chưa báo cáo, đó là mặt trận Đường Chín đã mở. Lính Đường Chín bị thương tràn về Huế trở thành một đám kiêu binh. Chúng vào chợ Đông Ba thích gì lấy nấy, thích gì ăn nấy, không trả cho dân một đồng. Dân không dám nói gì nhưng căm lắm. Bị o ép, kìm kẹp đủ điều, lòng dân hướng về cách mạng. Thành ạ, tình hình tổng quát mà chúng ta vừa điểm qua rất có lợi cho một thời cơ mới. Mình tin là rồi đây Khu ủy sẽ có những quyết định, và quyết định ấy chắc chắn sẽ hướng vào thành phố.

Những dự liệu của thành đội trưởng không phải chờ lâu. Tháng 10 năm 1967 Khu ủy mở hội nghị tại Động Chuối (một địa chỉ bên thượng nguồn dòng sông Ô Lâu, thuộc huyện Phong Điền, phía bắc Huế giáp với Quảng Trị). Trong hội nghị này, Khu ủy bàn và quyết định kế hoạch đánh Huế.

Ở hội nghị về, Bí thư Thành ủy Lê Minh về thẳng cơ quan thành đội, gặp Ban chỉ huy thành đội, ông nói:

- Trên tình hình những biến động mới ở Huế sau trận đánh vào khách sạn Hương Giang, Khu ủy nhận định, thời cơ đã đến. Đây là một kế hoạch do khu ủy chủ động đề ra theo gợi ý của anh Nguyễn Chí Thanh năm trước là ta phải đánh vào chỗ hiểm của địch. Có đánh vào chỗ hiểm thì mới nhanh chóng giải quyết được chiến cuộc. Thời gian đánh vào Huế Khu ủy chưa quyết định cụ thể, nhưng sẽ vào mùa xuân này hay sau mùa xuân một ít vì thời điểm đó thời tiết tốt, rất thuận lợi cho việc hành quân. Mục đích đánh Huế lần này là nhằm buộc địch co cụm lại, ta sẽ có cơ hội giành lấy đồng bằng, gây cho địch một tổn thất đích đáng ngay tại sào huyệt của chúng, và để cho thanh niên Huế, trí thức Huế thức tỉnh, không thể ngoan ngoãn mãi, nằm im mãi, địch muốn làm gì thì làm.

Nhìn anh em một lượt như để thăm dò thái độ từng người, bí thư nói tiếp:

 - Vấn đề đầu tiên Khu ủy đặt ra là: Thứ nhất, đánh và rút ra ngay trong đêm; thứ hai, hoặc đánh rồi giữ? Và nếu thế thì giữ bao lâu?

Đánh rồi rút ra ngay trong đêm không có gì phải bàn, nhưng đánh rồi giữ và giữ mấy ngày là vấn đề đã khác rồi. Muốn giữ, trước hết phải có lực lượng và đủ vũ khí để đương đầu với xe tăng địch. Song Khu ủy đã quyết: Phải giữ để gây chấn động thực sự. Do đó có ý sẽ đánh và giữ Huế trong một đêm một ngày. Có ý giữ ba ngày, năm ngày. Phá nát nó rồi ra. Tôi được Khu ủy cho nghiên cứu để làm kế hoạch giữ Huế trong năm ngày.

Thành đội trưởng giơ tay xin phát biểu ý kiến. Ông rất thận trọng nói:

- Muốn thắng địch phải biết địch biết ta thì trăm trận trăm thắng. Lực lượng địch ở Huế bây giờ khá dày đặc. Ngoài sư đoàn 1 ngụy do Ngô Quang Trưởng làm sư trưởng, còn có trung đoàn thiết giáp ngụy đóng ở Tam Thai, hai tiểu đoàn dù đóng ở An Hòa, xa hơn, trung đoàn 3 ngụy đóng ở Tứ Hạ, sư kỵ binh bay của Mỹ một phần đang đóng tại căn cứ Đồng Lâm. Một nửa sử thủy quân lục chiến Mỹ đang đóng ở Phú Lộc, Phú Bài. ấy là ta chưa tính tới pháo hạm ngoài khơi, máy bay và bom đạn trên trời. Rồi lực lượng Mỹ, ngụy từ Đường Chín, Đông Hà ép vào, từ Đà Nẵng ép ra. Tôi nói vậy không phải chưa đánh đã chờn, mà ta phải tính.

Bí thư Lê Minh trả lời:

- Tại chỗ, thành đội chúng ta đã có một trung đoàn. Khu sẽ tăng cường thêm cho Huế hai tiểu đoàn, đồng thời giao hẳn đoàn ở Phú Lộc và Trung đoàn 6 ở Phong Quảng cho Huế. Như vậy toàn bộ lực lượng của chúng ta hành quân vào Huế dự kiến là bốn ngàn hai trăm người. Chúng ta không thể quên một lực lượng hai mươi ngàn lính Mỹ, ngụy đang đóng trên đất Thừa Thiên, quả thật đây là điều đáng ngại khi phải đối mặt với chúng trong năm ngày.

Bí thư nói tiếp:

- Từ nay đến khi nổ ra chiến sự, chúng ta đủ thời gian để củng cố và xây dựng lực lượng của mình, sao cho đủ sức đánh và giữ Huế trong năm ngày. Một điều quyết định thắng lợi của chúng ta là phải giữ được bí mật ý đồ chiến thuật đến khi xuất phát, lúc ấy các chiến sĩ ta mới biết chính xác mình làm gì. Bí mật là thắng lợi năm mươi phần trăm rồi. Quyết định của Khu ủy là vậy. Cụ thể ra sao là ở các đồng chí. Các đồng chí bàn đi. Tôi xin nói lại quyết định của hội nghị Khu ủy lần này là Khu ủy rất tin vào Huế chúng ta.
*
*   *

Bây giờ đang là cuối tháng mười. Nếu trận đánh Huế vào mùa xuân, thời gian chỉ còn ba tháng nữa. Một trận đánh lớn như thế, e chuẩn bị phải gấp gáp mới kịp. Tính toán phác qua đôi điều, thành đội trưởng liền mời trưởng ban, phó ban của ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần tới họp.

Phòng họp của Ban tham mưu giữa chiến khu rất tuềnh toàng. Mái lợp lá nón. Bốn phía tường chỉ thưng nửa dưới, còn nửa trên để trống với hàng song rất thưa có thể chui người qua được. Lính ta gọi đó là hội trường dã chiến. Vì nếu cần, có thể vất ngay, làm cái khác. Xung quanh là rừng già. Gió thoáng là mát.
Những thành viên mời họp đã có mặt đầy đủ. Thành đội trưởng vào ngay việc triển khai nghị quyết của Khu ủy:

- Hôm nay tôi phổ biến cho các anh một việc hệ trọng, đó là quyết định của Khu ủy, sau tết Mậu Thân này chúng ta chọc thẳng vào tim địch. Nếu ý đồ này để lộ, chúng ta sẽ bị địch bóp chết từ ngay trong trứng. Vì vậy kế hoạch đánh Huế chỉ được quán triệt trong cán bộ chỉ huy. Còn lính tráng không được phổ biến tinh thần này.

Ông nói tiếp:

- Việc của ban chính trị là động viên quân lính sẵn sàng đón thời cơ. Khi thời cơ đến, quyết tâm giành thắng lợi lớn nhất. Việc của cơ quan hậu cần là lo đủ súng đạn để chiến đấu suốt thời gian giữ Huế, đồng thời phải lo đủ gạo bồi dưỡng cho bộ đội có sức khỏe, luôn mang vác được ba mươi cân trên vai. Tôi nghe ngoài Trung đoàn 6, mỗi tiểu đoàn chỉ còn bảy mươi người khỏe mạnh, số còn lại đang bị sốt rét dày vò. Lính ăn no, ăn ngon, sức của tuổi trẻ được vực dậy sẽ đẩy lùi hết bệnh tật. Còn cơ quan tham mưu cùng ban chỉ huy phải lo thế trận của mình với những mũi tiến quân trong Huế. Hai căn cứ mà chúng ta phải quyết giành thắng lợi là diệt cho được trung đoàn 7 xe bọc thép ở Tam Thai và sư đoàn 1 trong Mang Cá. Nếu không giải quyết xong hai căn cứ này, xe tăng sẽ nghiền nát, còn sư đoàn 1 sống sót sẽ đánh chúng ta từ trong ra, tất cả sẽ rất khó lường.

Cuối buổi họp ông dặn kỹ:

- Các cơ quan về lên kế hạch hành động cụ thể của cơ quan mình rồi báo cáo ngay lên Ban chỉ huy thành đội. Trận đánh này chúng ta không được bàn lùi. Chỉ được bàn tới. Khó khăn đến đâu thì vượt lên đến đấy. Khó khăn nào ban không vượt qua được thì báo cáo lên Ban chỉ huy.
ở cuộc họp ra, thành đội trưởng gặp riêng Nguyễn Tá Thành:

- Lên kế hoạch tác chiến xong, cậu không được quan liêu tin vào mấy cái báo cáo, mà phải nhìn tận mắt, bắt tận tay rồi lên báo cáo cho tôi. Mỗi huyện ngoại thành ngoài đại đội bộ đội địa phương đã có sẵn phải củng cố bổ sung sao đó để mỗi huyện có được hai đại đội biệt động và một đại đội đặc công. Rồi đây, chúng ta sẽ bận bịu trong thành phố. Có những việc huyện sẽ phải tự gánh vác cho mình, không có đủ lực lượng ấy, chúng ta không thể với tay vào thành phố được đâu. Nhớ không?

Thành đáp:

- Dạ, nhớ!

- Điều cần nhớ số một là bất cứ lúc nào cũng không được quan liêu. Cứ tin vào mấy thứ giấy tờ sẽ có lúc mang vạ đấy.

Các sĩ quan tham mưu chụm đầu với nhau suốt nửa tháng trời mới phác họa được một bản đồ tấn công vào Huế trong mùa xuân này. Để trình báo cáo kế hoạch tác chiến với Ban chỉ huy, các sĩ quan phân công nhau về tận các tiểu đoàn lên kế hoạch cụ thể của từng tiểu đoàn một. Phân công tham mưu phó trực ở nhà, Nguyễn Tá Thành bắt đầu lặn lội về từng mũi công tác xem xét cụ thể tình hình.

Thành lo nhất là sức khỏe của lính. "Thực túc binh cường". Trước đây khi địch còn làm chủ nông thôn, ta mới có một vài địa bàn lõm và rẻo đất ven rừng, lại bị càn quét liên miên, bộ đội cũng thiếu ăn liên miên, bữa no bữa đói. Bám vào nương rẫy của đồng bào miền Tây là chính, độn thêm rau rừng, cá suối. Có lúc khổ đến nỗi đồng bào nhường cả rẫy cho bộ đội, dìu dắt vợ con vào mãi sâu, đào củ rừng sống qua ngày. Từ ngày thọc sâu vào đánh thành phố và dẹp từng mảng bình định, nông thôn được mở ra, các tiểu đoàn chia nhỏ từng đại đội về ở hẳn dưới đồng bằng, cơm dân nuôi tại chỗ. Bộ đội anh nào anh nấy phởn phơ hẳn ra.

Nay chuẩn bị cho kế hoạch đánh Huế, cả thành đội và Thành ủy, việc chuyển gạo lên rừng giống như cả một chiến dịch. Chưa bao giờ thấy Thành ủy cấp tài chính cho việc mua gạo hào phóng như lúc này. Xin bao nhiêu bí thư ký "roẹt", cấp liền.

Nghe nói ngoài Hương Trà, không khí mua gạo chuyển lên rừng rất rầm rộ, Nguyễn Tá Thành cùng chú liên lạc ra tận chiến khu Hương Trà, gặp anh Hường Thọ bí thư huyện ủy. Anh Hường Thọ tiếp Thành ngay trong ngôi nhà thùng, vừa là nơi ở, vừa là nơi làm việc của anh.

Nguyễn Tá Thành hỏi ngay:

- Nghe nói Hương Trà chuẩn bị lương thực cho chiến khu khá lắm.

Anh Hường Thọ đáp:

- Tối nay mời anh lên xem đường chuyển gạo ở Cổ Bi của chúng tôi.

Nhìn đồng hồ, đã năm giờ chiều, bí thư mời Thành ăn cơm chiều, rồi cả hai người đi ra cửa rừng xuống núi, thẳng về phía Cổ Bi. Vừa đi, anh Hường Thọ vừa tâm sự:

- Nếu lệnh mua gạo chuyển lên chiến khu như kiểu này cách đây một năm thì chúng tôi chịu. Chỉ riêng địch càn, phục kích liên miên cũng đã không thể đi lọt chứ chưa nói gì tới việc vận động nhân dân mua gạo. Anh có nhớ thời ngụy quyết đánh chúng ta bằng lương thực không? Chúng đột xuất càn, vào từng nhà, bắt đem hũ gạo ra đong. Thấy nhiều, chúng chất vấn: "Trữ gạo cho Việt Cộng hả?". Không nhà nào được trữ gạo ăn quá ba ngày. Năm nay tình thế mở ra, riêng Hương Trà, hai tuyến chuyển gạo lên rừng, mỗi đêm ít thì một trăm thùng, nhiều thì hai trăm thùng.

Trời vừa tối hẳn thì hai người đã xuống đến làng Cổ Bi. Làng Cổ Bi thuộc xã Phong Sơn, giáp giới phía bắc Hương Trà, nằm ngay bên bờ sông Bồ, một trong những con sông lớn của Thừa Thiên.

- Kìa, anh coi.

Đứng trên bờ sông nhìn xuống, ba chiếc đò nhỏ và hàng chục chiếc ghe sát bên, nhân dân vác từng bao cát đựng gạo, người nọ chuyển tay người kia đưa lên đò.

Anh Hường Thọ nói:

- Ngay dưới Cổ Bi là làng Hiền Sỹ. Địch cho đóng đồn ngay đầu làng Hiền Sỹ. Lính đồn Hiền Sỹ thường xuyên lên bến đò Cổ Bi này phục kích, vì từ chiến khu Khe Trái, cán bộ, bộ đội ta hay tới bến đò này để về đồng bằng. Đò đầy gạo rồi kìa. Ta thử lên một chuyến đò xem việc đưa gạo lên chiến khu như thế nào.
Anh Thọ dắt tay anh Thành lên một chiếc đò. Nhờ ánh trăng đêm, chủ đò nhận ngay ra anh Hường Thọ:

- Chào chú. Đêm nay chú ngược chiến khu ạ.

- Anh cho chúng tôi đi nhờ đò được chứ?

- Ai chớ, bí thư thì chúng tôi sẵn lòng.

Thấy bí thư có khách, chủ đò vồn vã, nhưng vẫn dè dặt, dẹp một chỗ ở mũi đò cho hai người ngồi.

Ba con đò chèo tay cùng năm, sáu chiếc ghe tíu tít men bờ ngược sông. Bắt đầu từ đây trở lên không còn có bom đạn, thật là một vùng bình yên.

- Trước đây đoạn sông Bồ gần thượng nguồn này không được yên ả vậy đâu - Anh Hường Thọ nói - Chặng đường chúng ta từ chiến khu về, bo bo địch tuần tiễu suốt ngày đêm. Hễ thấy cái gì nghi nghi bên bờ là xả súng bắn đến nát bấy thì thôi, không những thế chúng còn gọi cả trực thăng lên quần đảo. Trong vòng nửa năm nay chúng co cụm lại rồi. Đến cả cái đồn Hiền Sỹ, ngày cũng không dám hung hăng sục sạo, đêm
thì nằm trong hầm im thin thít sợ bộ đội về tập kích bất ngờ.

Nguyễn Tá Thành hỏi:

- Đã bao giờ địch phát hiện ra một chuyến gạo lên rừng của mình chưa?

Anh Hường Thọ nói:

- Phải nói là thời cuộc khác rồi nên tình thế cũng khác rồi. Địch cho đóng đồn Mõm Xanh chủ yếu để ngăn chặn tuyến đường của ta từ rừng về. Vợ tên đồn trưởng là người Hương Trà. Chúng tôi về gặp vợ hắn nói: "Đồn Mõm Xanh xây lô cốt xi măng, B40 bắn sập cả khách sạn Hương Giang, liệu đồn Mõm Xanh có chịu nổi ba quả B40 không? Chị hãy nói với chồng chị rằng bộ đội giải phóng để lúc nào được yên lúc đó. Chỉ cần chồng chị hiểu việc ai nấy làm. Chúng tôi không đụng tới đồn Mõm Xanh thì chồng chị cũng đừng đụng tới chúng tôi. Chuẩn bị cho quân giải phóng ăn tết, chúng tôi phải chuyển gạo lên cho bộ đội ăn tết. Đừng cản trở chúng tôi đó nghe. Đụng tới chúng tôi thì cứ liệu hồn". Đúng là vợ tên đồn trưởng có nói với chồng thật. Từ đó mình hầu như tự do đi lại trên con đường này. Có bữa anh em mình kéo nhau chuyển gạo lên sớm, lính trong đồn ra nói: "Các ông các bà ơi, có lên thì lên muồn muộn mà khi về thì về sơm sớm cho chúng con nhờ, kẻo trên biết, chuyển chúng con đi nơi khác thì phiền lắm". Ngay cả ở đồn Tứ Hạ, chúng có thấy anh em mình đi, về cũng mặc, không đả động gì cả.

Thành đồng tình:

- Được vậy, đúng là tình thế đã khác.

- Cái cách lộ ra cho bọn địch biết "chuyển gạo lên cho bộ đội ăn tết mừng chiến thắng" thế mà hay. Phía nam Hương Trà, chúng tôi mua gạo tập trung ở Thanh Lương, rồi dân công Hương Thanh chuyển lên giáp ranh. Từ giáp ranh bộ đội ra nhận đưa vào rừng gạo, lợn và cả bò nữa. Đủ cả lương thực, thực phẩm. Nghe nói có ngày cả chợ Đông Ba hết thịt vì nhân dân cả bắc, nam sông Hương đều tập trung cho chiến dịch chuyển gạo lên rừng.

Sông Bồ đoạn gần thượng nguồn hẹp dần. Bỗng ba chiếc đò ngược xôn xao hẳn lên. Mọi người trong đò đứng lên hết trong các khoang, giơ tay vẫy rối rít. Thì ra trong ánh trăng nhìn rất rõ ba con đò khác ngược chiều đang từ chiến khu về, chở đầy bộ đội. Bộ đội, dân công gặp nhau thật hồ hởi:

- Chúng em chào các anh bộ đội!

- Nào, các em, hãy cho địa chỉ đi để khi nào về được Huế, anh sẽ tìm đến tận nơi mà.

- Chúng em chở gạo lên cho các anh ăn no đánh thắng đây. Mừng không? Nếu mừng thì hãy hát lên một
bài cho chị em dân công nghe nào.

Không phải một anh bộ đội hát mà tất cả, không ai bảo ai cùng cất lên: "Giải phóng miền Nam chúng ta cùng cất tiến bước. Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước. Ôi xương tan máu rơi, lòng hận thù ngất trời. Sông núi bao nhiêu năm cắt rời. Đây Cửu Long hùng tráng. Đây Trường Sơn vinh quang. Thúc giục lòng ta xung phong đi giết thù...".

Cả sáu chiếc đò cùng vỗ tay theo nhịp hát. Hát xong, một anh bộ đội, khoanh tay làm loa:

- Nghe nói các em gái Huế hò hay lắm. Em nào hò một bài cho các anh nghe nào.

Nghe đò sau cười khúc khích. Một giọng nữ cất lên trong vắt: "Ơ ơ ơ... Đò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ, đò từ Đập Đá tới ngã ba Sình. Nhịp chèo bóng xế chênh chênh. Nghe câu mái đẩy nặng tình nước non".
Nguyễn Tá Thành giật mình, sao cái giọng hò giống Dung đến thế? Thành đứng lên tìm dáng cô gái hò, nhưng các cô đứng nhốn nhao, lao xao, dù trăng sáng đến thế mà anh cũng không nhận ra. Lòng Thành nôn nao nhớ đến vợ con. Nếu trận này vào Huế, anh sẽ đi tìm Dung trong niềm vui chiến thắng ấy.

Cả sáu chiếc đò lỏng tay lái, nghiêng mái chèo. Đã gần như đứng hẳn lại quấn lấy nhau. Trong ánh trăng những đôi mắt tìm đôi mắt. Những chiếc đò cũng dùng dằng không muốn đi. Mãi rồi mới chia tay được.
Tiếng cô gái như níu những chiếc đò lại:

- Các anh ơi, nhớ nghe. Nếu về đánh Huế, hãy nhớ tìm chúng em đó nghe.

Tiếng chàng trai đáp lại:

- Nhớ rồi. Nhớ sông Bồ lắm các em ơi.

Ba chiếc đò ngược lên vùng chiến khu Khe Trái thì dừng lại. Đò cập bến. Những cô dân công thành thạo bốc gạo lên bờ, khuân vào kho núp sâu trong tán lá rừng. Hết gạo, lập tức ba chiếc đò bị dìm xuống đáy sông.

Anh Hường Thọ nói với anh Thành:

- Dìm đò xuống sông ngày mai tha hồ trực thăng quần đảo cũng không thấy dấu vết gì. Đêm mai họ lại chở bộ đội xuôi dòng anh ạ.

Thành gật gù:

- Đúng là không khí chiến dịch anh Thọ ạ.

- Cả chục năm nay sông Bồ mới có được không khí này đấy. Làm gì mà lòng dân không nao nức.
*
*  *

Sáng hôm sau anh Hường Thọ rủ anh Thành về chiến khu Hương Trà. Anh Thành giữ anh Thọ lại:

- Khe Trái cũng là chiến khu của Trung đoàn 6. Tới đây Trung đoàn 6 sẽ phối hợp với chúng ta đánh Huế! Ta ghé trong đó xem không khí của họ thế nào.

Khe Trái, vùng núi rất có địa thế quân sự, lấn khá sâu vào Trường Sơn. Rừng nguyên thủy ở đây dường như đang còn nguyên dạng, chưa bị bom đạn, chưa bị biến dạng bởi bàn tay con người. Ngoài trời nắng nhưng đi trong rừng, dưới các bóng cây, thỉnh thoảng lắm mới có một tia nắng mặt trời lọt được vào. Đây đó tiếng chim rừng ríu ran. Trong gió mát rượi mùi xanh cây lá.

Đang đi, anh Hường Thọ níu tay áo anh Thành dừng lại, chỉ bên góc rừng. Đó là bãi tập của lính Trung đoàn 6. Hai người với hai chú liên lạc làm như nhóm người đi công tác trên đường dừng chân nghỉ lại. Kỳ thực bí thư huyện ủy Hương Trà và tham mưu trưởng thành đội gặp được một bãi tập thì rất mừng, muốn xem Trung đoàn 6 triển khai quân ra sao.

Cả bốn thầy trò ngồi bên suối đá. Trên bãi tập kia dựng hai bức tường bằng những khúc gỗ và bãi hàng rào dây thép gai. Lính nai nịt gọn gàng, vai mang súng, lưng thắt dây lưng to bản đeo đầy lựu đạn và đạn xung quanh. Họ khéo léo lách mình dưới lớp hàng rào dây thép gai bùng nhùng, rồi bất ngờ leo tường. Leo bằng đủ mọi cách: người nọ lấy vai mình làm thang cho người kia, leo bằng sào và leo cả bằng thang nữa. Họ tập đủ mọi tình huống để khi vào trận không bị ngỡ ngàng.

Tít mãi góc xa là bãi tập vượt sông. Một con suối lớn đã được ngăn lại bằng đá, nhìn rất rõ những dấu vết vừa mới đắp xong. Bộ đội tập bơi tay không, tập bơi có phao. Phao chính là chiếc ba lô của mình được bọc bên ngoài một tấm ni lông. Và cuối cùng là tập bơi vũ trang, nghĩa là bơi có trang bị súng ống.
Không khí cả bãi tập vượt tường và bãi tập bơi đều rất hăng hái, rộn ràng.

Phát hiện ra có người đang xem bộ đội tập, có hai người lính từ bãi tập đi tới chỗ thầy trò Hường Thọ, Tá Thành ngồi. Tránh sự nghi kỵ, anh Hường Thọ xử lý rất nhanh, anh đứng dậy khoan thai bắt tay anh bộ đội và tự giới thiệu:

- Tôi Nguyễn Hường Thọ, bí thư huyện ủy Hương Trà vừa từ trên Khu ủy về tắt qua đây, thấy bộ đội tập chăm chỉ quá, ngồi xem thật hài lòng.

Một anh bộ đội nói:

- Đại đội chúng tôi ở Trung đoàn 6, nghe tên anh Hường Thọ lâu rồi, bây giờ mới được gặp. Tưởng người lạ, ra mời đi, ai ngờ người quen. Doanh trại ở xa không mời các anh vào chơi được, tiếc quá!

Anh Hường Thọ hỏi:

- Chương trình luyện tập thường năm đấy chứ?

- Đây là bài tập đột xuất theo yêu cầu của trung đoàn. Anh em vừa tập vừa xì xào bàn tán chỉ có đánh vào thành phố mới tập leo tường. Anh em còn võ đoán: Chúng ta đang bơi qua sông Hương vào đánh Huế đây. Họ hỏi tôi: "Có phải vậy không thủ trưởng?". Tôi thực lòng đáp: "Tôi cũng không hơn gì các bạn, chỉ biết tập theo lệnh trung đoàn. Còn nếu được đánh vào Huế thì đó là mơ ước của chúng ta chứ gì". Nghe nói được đánh vào Huế, anh em đã vỗ tay rần rần.

Anh Hường Thọ đáp:

- Không sớm thì muộn, thế nào cũng sẽ đến lúc chúng ta đánh vào Huế.

Anh bộ đội hỏi:

- Anh người Hương Trà chắc đã vào Huế nhiều lần. Huế đẹp lắm hả anh?

- Ít nhất Huế cũng là một kinh đô rồi. Các bậc vua chúa bao giờ cũng tìm một vùng đất đắc địa để làm kinh đô cho triều đại mình.

- Anh em chúng tôi mong được vào Huế lắm.

- Trước khi vào Huế, qua Hương Trà, cứ hỏi Nguyễn Hường Thọ. Tôi nhất định đưa các bạn thăm Huế.
Điều kỳ diệu nhất trong chiến tranh là những người lính. Bất kỳ ở đâu, gặp nhau là gần nhau ngay. Có lẽ sợi dây rất dễ bắt dính họ với nhau là mục đích cầm súng. Trước mắt họ là chiến trận và hy vọng chiến thắng. Ngoài ra trong họ, trong cái cá nhân của từng người không có nhu cầu đòi hỏi gì. Vì vậy cuộc gặp gỡ nào cũng có cái gì đó lưu luyến.

Ngày hôm sau anh Hường Thọ và anh Tá Thành mới về đến chiến khu Hương Trà. Vừa đặt chân tới ngôi nhà thùng của mình, như chợt nhớ ra, anh Hường Thọ vui rối rít:

- Tôi phải khoe anh cái này, rất đặc biệt.

- Nếu đặc biệt thì cho tôi xem với.

Anh Thọ dẫn anh Thành tụt dốc. Đến gần ngôi nhà từ trong đó vọng ra tiếng xành xạch, anh Thọ hỏi:

- Có nhận ra tiếng gì không?

- Ở chiến khu cũng có máy may à?

- Chiếc máy may của bà Thân mua cho con gái là o Mão để làm nghề sinh sống, nhưng biết chiến khu cần, bà không ngần ngừ, trao cho chiến khu ngay.

Hai người đã đứng trước máy may, Nguyễn Tá Thành nhận ngay ra sản phẩm của máy may đang bày ra trước mắt anh, đó là lá cờ của Mặt trận Liên minh Dân chủ. Ngôi sao vàng giữa nền đỏ. Hai bên nền đỏ là nền xanh da trời. Anh Thọ giới thiệu:

- Chị Lê Thị Cam, thường vụ huyện ủy Hương Trà, thợ may duy nhất của lá cờ này.

Thành bắt tay chị Cam. Chào khách xong chị Cam lại cắm cúi vào công việc của mình.

Khi ra đến ngoài cửa anh Thọ mới cho biết:

- Lá cờ này rộng tới chín mươi mét vuông. Ngoài Bắc chỉ gửi vải đỏ, vải vàng vào. Vải xanh phải mua thêm ở Huế. May xong chúng tôi sẽ làm lễ trao cờ cho Trung đoàn 6. Trung đoàn 6 sẽ chịu trách nhiệm treo chính lá cờ này lên đỉnh kỳ đài Ngọ Môn.

- Cứ nghĩ tới việc nhìn lá cờ Mặt trận Liên minh Dân chủ này treo lên đỉnh kỳ đài Huế lòng đã thấy rạo rực lên rồi. - Nguyễn Tá Thành nói.

- Đó sẽ là một trong những ngày vui nhất ở Huế của chúng ta, anh Thành ạ.

Từ chiến khu Hương Trà, Nguyễn Tá Thành cùng chú liên lạc theo đường giao liên ven rừng về thẳng làng Thanh Thủy Chánh của huyện Hương Thủy. Đúng lúc cả làng Thanh Thủy Chánh cùng kéo nhau ra dỡ hàng rào ấp chiến lược, chất làm ba đống, đốt lửa cháy đùng đùng.

Người đội trưởng du kích lồng lá cờ của Mặt trận Giải phóng vào cán, cắm ngay trước đống lửa đang cháy. Bà con dân làng đứng quanh đó rất đông. Anh nói:

- Làng Thanh Thuỷ Chánh chúng ta được giải phóng rồi. Hàng rào ấp chiến lược đã kìm kẹp dân làng ta cả chục năm giờ đốt nó để khẳng định rằng không bao giờ chúng ta chịu quay về dưới ách kìm kẹp ấy nữa. Để giữ làng quê giải phóng của mình, tôi kêu gọi tất cả thanh niên làng hãy vào du kích, tự vệ, hãy cầm súng, hễ giặc đến thì chúng ta đánh. Bà con có đồng ý không?

Cả làng vỗ tay hưởng ứng.

Một chiếc bàn, một chiếc ghế được khiêng ra. Cô du kích mặc bộ đồ đen, đầu đội mũ tai bèo. Lưng đeo thắt lưng to bản, lủng lẳng mấy quả lựu đạn, vai khoác súng AK, dáng trông rất khỏe mạnh. Cô ngồi trên ghế, trước bàn, dõng dạc:

- Thanh niên làng Thanh Thủy Chánh, những ai xin vào du kích giữ làng cho tôi ghi tên.

Từng thanh niên đến ghi tên mình.

Một thanh niên vừa ghi tên xong, quay ra gặp Nguyễn Tá Thành, Thành giữ lại hỏi:

- Tại sao anh ghi tên vào du kích?

Người thanh niên đáp:

- Lớn lên bị giặc hăm dọa, dụ dỗ, đe nẹt đủ điều, em chán lắm rồi. Bây giờ em chỉ muốn hòa bình thôi. Mẹ em thường bảo: "Hòa bình, hết bom đạn ăn cháo cũng cam". Em mong hòa bình, em vào du kích để chiến
đấu cho hòa bình.

- Em không sợ địch quay lại đàn áp à?

- Địch quay lại thì du kích chúng em đánh. Em chỉ lo các anh không đủ súng đạn phát cho chúng em thôi.
Hai tiểu đội du kích Thanh Thủy Chánh được ra đời ngay trong đêm đốt rào ấp chiến lược. Dưới ánh trăng khuya, trước sân đình, đội du kích được tập hợp, họ được dạy ném lựu đạn, bò toài và bắn súng ngay trong đêm ấy. Phụ nữ và thiếu niên đứng xem rất đông. Nguyễn Tá Thành hòa trong đám đông ấy. Anh nghĩ phong trào xây dựng lực lượng vũ trang huyện bắt đầu từ khí thế này đây. Không lâu nữa họ sẽ thoát ly. Điều quan trọng là đội du kích còn lại trong làng phải sống sao cho hợp pháp. Khi cần xuất hiện thì xuất hiện, còn phải giấu mình trong nhân dân, nếu không, rất dễ bị đàn áp. Nguy hiểm nhất là bọn điệp ngầm cài trong dân. Cứ nhìn khí thế đêm nay cũng đã thấy dân Thanh Thủy Chánh là dân cách mạng toàn tòng. Hương Thủy làm công tác vận động quần chúng tham gia cách mạng vậy là rất giỏi.

Khuya, Nguyễn Tá Thành về nhà cơ sở ở Lang Xá Bàu, gặp ngay anh Hoàng Lanh, thường vụ Thành ủy, phụ trách phong trào nội thành phía nam sông Hương. Theo sau anh là mấy chục thanh niên nam nữ từ trong thành phố ra. Thành chưa kịp hỏi, anh Hoàng Lanh đã bảo:

- Những thanh niên có điều kiện, tôi đưa ra ngoại ô, huấn luyện cả quân sự, cả chính trị, với tinh thần sẵn sàng đón thời cơ giải phóng Huế.

Thành hỏi:

- Còn những cơ sở không đưa ra ngoài học tập được thì sao?

- Từng khu phố đã có tổ đảng bí mật trong đó. Họ sẽ huấn luyện truyền tai nhau. Riêng đối với các cơ sở nòng cốt, nhất là cơ sở trí thức, chúng mình phải đến tận nơi, làm việc cụ thể, tỉ mỉ với họ.

- Liệu có đủ lực lượng cho thời cơ không?

- Chúng mình đang tính đây. Rất may dân Huế với dân ngoại thành có quan hệ họ hàng với nhau rất chặt. Đợt này chúng mình sẽ đưa cơ sở từ ngoài vào thành phố. Có người vào để làm ăn với họ hàng. Có người vào làm thuê, học việc, làm con sen, con ở, cũng có cả cơ sở cạo trọc đầu giả vào chùa đi tu. Nói tóm lại, sau đó bất kỳ ngóc ngách nào trong thành phố cũng có cơ sở của ta tại chỗ hoặc từ ngoài ném vào.
Anh Hoàng Lanh thuộc thế hệ kháng chiến chống Pháp, rất có uy tín trong quần chúng, lớp ông già của Thành, được cài lại, là số ít người còn sống qua chiến dịch tố Cộng của Mỹ - Thiệu. Thành lớn lên trong kháng chiến chống Mỹ, coi anh Hoàng Lanh là bậc đàn anh. Anh Lanh cũng rất thương Thành, coi là bạn vong niên. Hai người lâu không gặp nhau, hết chuyện gần đến chuyện xa, chuyện chung đến chuyện riêng.

Anh Hoàng Lanh hỏi:

- Lâu nay bà già vẫn khỏe đấy chứ?

Nguyễn Tá Thành đáp:

- Dạ khỏe. Chỉ có vợ em bị bọn lính ngụy o ép quá, về bên ngoại cũng không yên, phải lên Huế ở với bà dì...

- Làm gì với bà dì trên Huế?

- Vợ em ngoài ruộng đồng, có nghề chằm nón. Nghe lên Huế cũng chằm nón sống và nuôi con anh ạ. Nếu tình hình thuận lợi, anh cho em gặp vợ em với.

Anh Lanh vui vẻ:

- Các xã ngoại thành áp chặt vào thành phố, tạo nên một đường dây liên hoàn kỳ diệu. Chúng mình vào thành phố như đi chợ ấy mà. Biết đâu Dung sẽ trở thành một cơ sở trong đó của mình. Để mai, mình sẽ đưa mẹ con Dung ra cho Thành gặp.

- Nếu được thế thì tốt quá !

- Mẹ con Dung ở chỗ nào vậy?

- Ở nhà bà dì em, 80 Phan Chu Trinh.

- Ngay gần chợ An Cựu. Mình sẽ tổ chức cho Dung về Tam Tây rồi ra Lang Xá Bàu. Được chứ?

Gần sáng, đề phòng mọi bất trắc, dù ở vùng du kích, vẫn thuộc vùng kiểm soát của địch, Nguyễn Tá Thành không chủ quan, anh vẫn xuống hầm bí mật đàng hoàng.

Nằm trong hầm Thành miên man nhớ tới Dung, nhớ tới một thời con nít học ở trường làng. Làng chỉ có hai lớp thôi, lớp bốn và lớp năm. Thành học lớp bốn. Dung học lớp năm. Bữa đi chơi lang thang, Thành bắt gặp một bọn con trai xin kẹo, Dung không cho, hai tay giữ chặt lấy túi. Bọn con trai xông vào cướp. Thành lao vào đánh bọn con trai tan tác, Thành đưa Dung về nhà. Dung bảo: Mẹ em vừa cho em tiền mua xong, chưa kịp ăn, giờ em chia cho anh một nửa. Thành cười, không nhận. Từ đó hai đứa chơi với nhau rất thân. Đi học cũng đi với nhau. Kể cả đi lấy rau heo Dung cũng đòi đi với Thành. Thành lấy xong phần của mình bao giờ cũng lấy giúp Dung đầy rổ. Đến lúc tập kết, hai ông già lại cùng ra đi. Dung và Thành càng thân nhau. Và rồi đến tuổi trưởng thành, Thành đòi mẹ đi hỏi và cưới Dung cho mình.

Tín hiệu trên hầm cắt ngang dòng suy nghĩ của Thành. Anh mở nắp hầm trèo lên, vào nhà đã thấy cả mẹ con Dung và anh Hoàng Lanh ở đấy.

Anh Lanh bảo:

- Vợ chồng Thành cứ vào buồng mà nói chuyện cho tự nhiên. Anh sẽ cảnh giác ngoài này cho. Nếu có động tĩnh gì anh sẽ báo.

Vừa khép cửa buồng, Dung đã lao tới dang hai tay ôm chặt cha con Thành đang bồng nhau. Hai tay Dung rờ đầu tóc, rờ tai rờ mặt anh như một người mù lâu ngày gặp lại người thân:

- Em nhớ anh quá!

Bé Tâm thêm vào:

- Đêm nào mẹ cũng kể chuyện ba cho con nghe rồi mẹ khóc, khẽ gọi tên ba đó ba ạ...

Thành quàng tay vít đầu Dung vào ngực mình:

- Anh cũng rất nhớ em. Vừa rồi anh có về nhà. Chỉ có chị Hoài với mẹ, không thấy em đâu, anh nghi quá, lo quá. Lúc mẹ bảo em bị bọn lính ngụy quậy quá, về tránh bên ngoại rồi. Anh chạy vào buồng, bấm đèn pin soi, chiếc giường vắng teo. Em biết không, đến tận lúc ấy lòng anh buồn ngổn ngang. Những lần trước, nghe anh về, em bỏ con chạy ra với anh ngay. Anh vào, bé Tâm đang ngủ, không biết gì. Thế là anh ôm cả hai mẹ con vào lòng mình như hôm nay - Thành cúi xuống hỏi con - Bé Tâm có nhớ ba không?

- Con nhớ ba nhất nhà... Lúc con đói, con thèm được ba mua quà cho ăn. Lúc con buồn ngủ, con mong có ba bồng con vào giường, ru con ngủ. Vậy mà ba đi hoài. Bao giờ ba về hả ba?

- Ngày mai hòa bình ba về ở luôn với Tâm. Được không?

- Ba ở luôn với mẹ với bà, với o Hoài nữa chớ.

- Nhất định rồi.

Dung kể:

- Có mấy tên lính ngụy hắn kể hắn giàu lắm. Nếu em đồng ý lấy hắn, hắn sẽ đưa em lên Huế, làm chủ cả một quầy hàng đồng hồ trên đường Trần Hưng Đạo trước cổng chợ Đông Ba. Hắn bảo đó là quầy hàng cha mẹ hắn làm của hồi môn cho con dâu. "Em không phải làm gì hết, em là một bà hoàng của anh. Chứ em làm vợ của một tên Việt Cộng, không chết nay cũng chết mai. Góa bụa nuôi con thì khổ lắm". Em nhổ nước bọt trước mặt hắn, hắn vẫn cười hề hề: "Trông em giận dữ càng đẹp gấp mười lần". Hắn càng nói, em càng ghét, càng nhớ anh vô ngần.

Thành thủ thỉ:

- Gia đình ta mỗi người một cảnh khổ. Ba với em Phố thì biền biệt xa nhà. Mẹ không góa bụa mà như góa bụa. Chị Hoài bao nhiêu thanh niên tới cầu hôn, chị không gật đầu ai chỉ một lòng nuôi dưỡng mẹ. Em thì bị dằn vặt đủ điều, bọn lính ngụy lăm le bứt em ra khỏi anh. Bé Tâm thì thèm bố. Còn anh lúc nào cũng nhớ nhà, nhớ mẹ con em.

- Trong lúc đó công việc ngập đầu ngập cổ anh.

- Em chạy vạy trên thành phố có đủ sống không?

- Em chằm nón và mua một tủ nhỏ bán vặt mấy mặt hàng cho chị em phụ nữ, hai mẹ con cũng đủ sống.
Em định đưa mẹ lên thành phố sống với em được không anh?

- Chắc chị Hoài không chịu.

- Em mong đất nước bình yên để em về chăm sóc mẹ thay cho chị Hoài. Chị Hoài đã hy sinh cả đời mình
cho cả gia đình.

Thành càng ôm chặt Dung trong vòng tay mình:

- Anh cứ muốn được mãi mãi ôm em như thế này.

Dung gật đầu:

- Em cũng vậy.

Vừa lúc đó có tiếng gõ vào cửa buồng. Trong tích tắc, anh Hoàng Lanh đẩy cửa buồng ra:

- Thành ơi, du kích báo có một trung đội lính ngụy súng ống đầy đủ đang đến trước cửa Lang Xá Bàu. Em phải xuống hầm ngay.

Thành buông tay, rời vợ:

- Hãy thông cảm cho anh.

Thành chạy ra hầm, chủ nhà đã mở cửa đợi anh. Thành xuống hầm. Lập tức cửa hầm được đậy lại.

Bọn ngụy về Lang Xá Bàu, mai phục suốt hai đêm một ngày để bắt cán bộ. Nhưng vô hiệu, chúng đành kéo nhau về quận.

Thành lên hầm, anh Hoàng Lanh nói:

- Chiến tranh có chừa ai đâu. Gia đình tan hoang, hạnh phúc tan tác, có dịp anh sẽ lại đưa Dung về em.
Thành cảm kích:

- Gặp Dung vậy cũng tốt lắm rồi anh ạ. Vợ chồng đã nói được với nhau những điều cần thiết.

Tối ấy Thành theo đường dây lên rừng.

Anh vừa chân ướt chân ráo đến cơ quan, chưa kịp tắm táp, rửa ráy thì cơ yếu đem đến cho anh một bức điện đánh từ Quảng Điền lên.

Nguyễn Tá Thành đọc ngay:

"Ban an ninh huyện Quảng Điền cử một tổ mặc trang phục quân giải phóng mang thư, cả cờ và súng vào gặp bọn quận Quảng Điền để kêu gọi chúng đừng đàn áp nhân dân. Quận trưởng đi vắng, quận phó không dám tiếp, điện báo lên tỉnh. Tên tỉnh trưởng Phan Văn Khoa lại mời lên tỉnh tiếp với điều kiện là chỉ đi tay không. Các đồng chí ta không chịu, chỉ để súng lại và cứ mang cờ giải phóng vào thành phố.

Phan Văn Khoa mời đoàn vào phòng khách. Hai bên nói chuyện và tranh luận. Tổ an ninh Quảng Điền vẫn chỉ một mực yêu cầu quân đội Sài Gòn không được đàn áp nhân dân. Vì nhân dân không có tội gì cả, đã nghèo khổ và cùng cực lắm rồi. Hai bên không ai chịu ai. Nhưng Khoa vẫn để anh em ở lại một đêm, rồi Khoa cho xe đưa về lại Quảng Điền".

Đọc xong, Nguyễn Tá Thành cầm thẳng bức điện lên thành đội trưởng và đọc cho ông nghe.

- Tâm lý địch đã mềm đến thế là cùng - Thành đội trưởng nói - Thời cơ đúng là đã chín muồi để chúng ta đánh vào Huế - Cậu đã xem xét các đơn vị của thành đội chúng ta tập tành ra sao chưa?

- Tôi mới đi Hương Thủy, Hương Trà về. Cơ quan tham mưu đã phân công đồng chí tham mưu phó trực tiếp lo việc luyện tập của các tiểu đoàn. Chúng tôi thường xuyên liên lạc bằng điện thoại với nhau. Đồng chí tham mưu phó báo cáo các đơn vị đã bắt tay vào mùa luyện tập mới.

- Luyện tập bài bản nhưng chưa thể công bố cho lính biết mục tiêu tới đây của chúng ta đâu nhé.

- Không khí chung của các huyện là sẵn sàng đón thời cơ thôi ạ.

- Đúng. Lộ bí mật thì sẽ ra cám đấy.

Thừa Thiên Huế đang ráo riết triển khai kế hoạch tác chiến tấn công vào Huế năm ngày như đã dự định, vào tháng 12 năm 1967, đùng một cái Trung ương gọi một trong ba thường vụ Khu ủy ra nhận chỉ thị mới. Anh Lê Chưởng đi. Không ngờ đây là chỉ thị "TấN CÔNG NổI DậY ở HUế HợP ĐồNG VớI TOàN MIềN NAM". Thời gian được thông báo là "trong dịp tết". Như vậy không phải đánh vào Huế năm ngày nữa mà đánh dài ngày. Một khái niệm mới cho khu ủy Trị Thiên và Thành ủy Huế là: "ĐáNH GIảI PHóNG LUÔN HUế, LậP CHíNH QUYềN Và KHÔNG RúT RA NữA". Tấn công nổi dậy kiểu này không chỉ Huế giải phóng mà cả Sài Gòn và các nơi khác đều giải phóng.

Một tháng sau anh Lê Chưởng vào Thường vụ Khu ủy được Trung ương tăng cường thêm hai người. Ngoài Trần Văn Quang, Lê Chưởng, Lê Minh, còn thêm Lê Tự Nhiên và Nam Long (nguyên Tư lệnh Quân khu Bốn vào làm tư lệnh phó). Thường vụ Khu ủy họp tại Động Chuối xem xét lại kế hoạch cũ để điều chỉnh, xây dựng cả tư tưởng, tổ chức, lực lượng, vấn đề các hướng đánh và chọn mục tiêu cho kế hoạch "tấn công và nổi dậy" mới.

Trong hội nghị này Thường vụ Khu ủy bàn cãi rất căng thẳng. Trước kia chỉ là một trận, giữ Huế trong mấy ngày, nay là ở lại luôn. Trước kia chỉ riêng Huế, nay là chiến dịch toàn miền Nam, toàn khu. Vấn đề phải xem xét trước hết là, đây là chiến dịch mở cho địa phương, hay chỉ là chiến dịch phối hợp? Kết luận là: Huế là chiến trường phối hợp cho cả miền Nam, mà chủ yếu là hai mặt trận Đường Chín và Sài Gòn.

Anh Lê Chưởng nhắc lại yêu cầu tấn công nổi dậy này ta phải tiêu diệt phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ làm cho Mỹ không thể thực hiện được chiến tranh cục bộ ở miền Nam. Trên cơ sở đó đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, ở miền Nam chúng phải xuống thang, thay đổi chiến lược.

Không ai trong hội nghị dám bàn cãi gì về mục tiêu ấy, nhưng về hiện thực chiến trường, đồng chí Lê Minh
có ý kiến:

- Muốn đánh giải phóng, lập chính quyền cách mạng ở Huế không rút ra nữa, chúng ta phải có lực lượng. Do đường vận chuyển từ Bắc vào khó khăn, Thừa Thiên Huế đã vận động nhân dân tự túc mua gạo tại chỗ. Cứ như lương thực hiện tại ăn cho tới khi xuất quân là hết sạch. Về tương quan lực lượng, hiện tại ở Thừa Thiên Huế, lực lượng địch lớn hơn ta năm, sáu lần, tính trên đầu súng. Đấy là chưa tính Mỹ còn sư 3 thủy quân lục chiến ở Huế, sư đoàn 5 ở Bình Định, sư kỵ binh bay ở Chu Lai, mà bộ phận tiền phương của nó đang ở Phú Bài, Đồng Lâm.

Đồng chí Trần Văn Quang nói:

- Ngoài Đoàn 4, Đoàn 5, Đoàn 6 ở Thừa Thiên Huế, Trung ương tăng cường thêm cho mặt trận Huế Trung đoàn 9 nữa. Đồng thời chúng ta không thể không tính lực lượng tại chỗ của Thừa Thiên với sáu mươi vạn người dân của vùng đất có truyền thống cách mạng này.

Đồng chí Lê Tư Minh rất sát với tình hình, nên đề xuất được bổ sung:

- Nếu chỉ giữ năm, ba ngày sau đó rút ra luôn như kế hoạch cũ thì khỏi phải bàn, như tình hình hiện tại là được rồi. Còn nếu ở lại Huế như kế hoạch tấn công nổi dậy, bộ chỉ huy quân khu phải có thêm trong tay một sư tăng cường với ba trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo 105, chứ pháo 130 ly thì đi không nổi đâu. Điều nữa cần phải nói đến là trong tình hình trang bị hiện tại, mỗi người lính của Huế mới có trong tay một cơ số đạn. Ra giữa trận mà người lính hết đạn thì khó bảo vệ được tính mạng mình chứ chưa nói gì tới bảo vệ chính quyền cách mạng mới thành lập. Nên đạn cũng phải tính trước. Trong dự bị, chiến dịch này phải xin thêm năm trăm tấn đạn, nhất là đạn trợ chiến.

Những đề nghị của đồng chí Tư Minh, Thường vụ Khu ủy cho là chí phải. Ngay sau hội nghị Bí thư Khu ủy Trần Văn Quang điện ra ngoài Trung ương "xin một F tăng cường có 3E bộ binh mạnh, 1E pháo 105ly, 1D phòng không 37 ly, năm trăm tấn đạn, đại bộ phận là đạn pháo và một nghìn tấn gạo". Trung ương điện trả lời: "Các anh cứ làm. Trung ương sẽ cho quân dự bị vào bằng cách mở Đường Chín".

Ngay từ lúc duyệt kế hoạch "tấn công nổi dậy", tình hình bổ sung vũ khí đã trở thành cấp thiết.

Mặt trận phía nam Huế xin thêm bốn khẩu B41 để bổ sung cho tiểu đoàn Chị Thừa Một đánh mục tiêu trung đoàn 7 thiết giáp ở Tam Thai. Bộ chỉ huy không quyết được vì trong kho tàng không còn gì. Lê Minh, Lê Chưởng cả Trần Văn Quang, ba anh ngồi nghiên cứu tìm cách bớt mục tiêu để dồn vũ khí sang cho tiểu đoàn Chị Thừa Một. Bàn mới thấy lòi ra mấy mục tiêu quan trọng nữa ở Thừa Thiên: các quận lỵ Phú Vang, Hương Trà, Hương Thủy...

Anh Lê Chưởng nói:

- Hay là cắt bớt mục tiêu trung đoàn 7 xe tăng, dồn sức thêm cho khách sạn Thuận Hóa, một khách sạn Mỹ.

Anh Lê Minh gạt đi:

- Không được. Ta đánh đòn quân sự hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy, trung đoàn 7 là trung đoàn xe tăng M41, pháo tự hành và xe 113 lội nước, để lại thì nó lập tức chia cắt đội hình ta ngay. Ta bị chia cắt thì tình hình sẽ như thế nào? ở Huế có ba mươi hai cây cầu thì hai mươi cây cầu ta đều phải đi qua rồi. ở mỗi cầu như vậy nó chỉ cần chốt một xe thì lập tức đẩy ta vào thế chia cắt ngay. Thiết giáp là xương sống của chúng, ta phải đánh gãy cái xương sống đó thì quần chúng mới nổi dậy được.

- Chỉ còn một cách là điều bớt của Đoàn 7 Quảng Trị vào, thế thôi.

- Đoàn 7 cũng đang quá thiếu vũ khí.

Cuối cùng Bí thư Lê Minh phải đặt bút ký điều bốn khẩu B41 của Đoàn 7 cho Chị Thừa Một để tập trung hỏa lực dứt điểm cái trung đoàn xe bọc thép ở Tam Thai, Huế.

Thời gian mỗi ngày một gấp rút, các anh Đặng Kinh, Lê Chưởng, Nam Long, Lê Minh đều đi về đơn vị hết để triển khai nghị quyết mới của Khu ủy.

Anh Lê Minh về Thừa Thiên.

Từ Thành ủy, anh qua thành đội, gặp Ban chỉ huy, anh phổ biến ngay kế hoạch tấn công chia làm ba đợt rõ ràng:

Đợt 1: Đánh quận lỵ Phú Lộc, cắt đường giao thông. Ngăn quân tiếp viện của địch từ Đà Nẵng ra.

Đợt 2: Toàn bộ nổ súng đồng loạt vào đầu não và các đơn vị chủ chốt của địch theo các mục tiêu đã thống nhất với Thành đội, khống chế trung đoàn 3 của địch ở Tứ Hạ và đơn vị cảnh sát dã chiến Sài Gòn về tăng cường đang đóng ở tiểu khu Thừa Thiên.

Lập chính quyền toàn tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế. Từ đó thành lập liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình thành phố Huế.

Đợt 3: Chỉnh đốn đội hình để đánh phản kích.

Nhiệm vụ của các huyện ngoại thành như sau:

Huyện Hương Thủy: Chiếm các thôn An Cựu Đông, An Cựu Tây, Dương Phẩm, Thanh Thủy Thượng, Giạ Lê để cắt đường chi viện của địch nếu ta không chiếm giữ được Phú Bài.

Huyện Phú Vang: Chiếm xã Hương Phú (tức vùng Vĩ Dạ), Cồn Trâu, Ba Bến, qua Vân Dương giáp lai An Cựu của Hương Thủy. Đánh chiếm lập công sự để chặn đường địch từ cửa Thuận An lên.

Huyện Hương Trà: Chiếm xã Hương Thạnh, dọc đường số 1 từ An Hòa ra Tứ Hạ, ngăn địch từ Đồng Lâm, Tứ Hạ tấn công vào. Hương Trà sẽ cùng quân đội chiếm Bao Vinh (quận lỵ Hương Trà) ngăn chặn đường thủy của địch từ cửa Thuận An vào sông Hương tiếp tế cho nội thành.

Phổ biến xong, không có ai hỏi gì thêm, không có ai bàn gì thêm, anh Lê Minh nói tiếp:

- Không còn phải là tấn công vào chiếm Huế như chúng ta đã bàn nữa, mà là tấn công, nổi dậy, phối hợp với nhau trong toàn miền Nam. Chúng ta phải hiểu đây là cuộc "tổng công kích - tổng khởi nghĩa", phải chiếm Huế, xây dựng chính quyền, đó là một việc nặng nề.

Phổ biến xong, anh Lê Minh có ý đi kiểm tra tình hình cụ thể của các địa phương. Đầu tiên anh muốn về Hương Trà. Thành đội trưởng cử Nguyễn Tá Thành cùng đi luôn:

- Nguyễn Tá Thành, tham mưu trưởng thành đội cũng đã đảo mấy vòng qua các huyện ngoại thành rồi. Anh cho Thành cùng đi để nắm thêm tình hình giúp cho thành đội chỉ huy kịp thời.

Nguyễn Tá Thành theo anh Lê Minh ra Hương Trà. Vì đã có hẹn trước, nên cùng một lúc gặp ở đây cả ba người: Anh Hường Thọ, anh Trung Chính và anh Phan Nam.

Vừa gặp nhau, anh Nguyễn Trung Chính kéo ngay Nguyễn Tá Thành ra một góc:

- Mình đang từ khu một Hương Thủy, được điều ngay ra Quảng Điền, phụ trách thành phố và Quảng Điền. Ra đây, mình gặp ngay thằng Phố, em Thành đấy.

Thành mừng rỡ:

- Thằng Phố đâu rồi anh?

- Nó ở trinh sát Trung đoàn 9, được cử về đây nghiên cứu lối đưa quân đánh vào Mang Cá.

- Có ăn thua gì không?

- Đợt đầu đi, về lắc đầu: "Gay lắm, lớ ngớ bên ngoài ăn đạn như chơi". Mình yêu cầu Phan Nam cho một tổ
biệt động trong nội thành giúp đỡ. Trong tổ này có Ngô Yên Thi. Thi đã giúp cho Phố trinh sát thành công. Nó phát hiện ra một con đập giữa Bao Vinh và An Hòa, và một cây dừa mọc trên đỉnh mặt thành Mang Cá đâm rễ xuống sát mặt đất, thành cái thang tự nhiên. Phố nói: "Không có cái đập, cả trăm con người lội nước ùm ùm để tiếp cận Mang Cá, lộ là cái chắc". Anh em biệt động thành của mình thật giỏi. Phố mừng lắm. Nó trở về đơn vị rồi.

- Từ ngày Phố theo ba tôi đi tập kết, từ đó anh em xa nhau. Tôi nhớ nó quá.

- Yên tâm, chuyến này chắc gặp nhau trong thành phố Huế rồi.

- Tôi hy vọng vậy.

Trong nhà có tiếng gọi: "Anh Chính đâu, vào họp đi thôi", cuộc chuyện tay đôi mới chấm dứt.

Anh Lê Minh lặng lẽ ngồi nghe, không hề ghi chép một dòng về tình hình chuẩn bị đón thời cơ của Hương Trà, đặc biệt là của quận Tả và quận Nội Thành.

Anh Phan Nam quả quyết:

- Nếu không nói là mạo hiểm, chúng tôi có thể đưa anh Lê Minh vào nằm trong Huế đúng một ngày.

Anh Hường Thọ gạt đi:

- Bốc vừa thôi Phan Nam.

Phan Nam nói:

- Kế hoạch" ném" người từ bên ngoài vào thành phố rất quan trọng. Rải khắp trong thành phố, chỗ nào cũng có cơ sở của mình. Từ bà con lao động đến các chị bán hàng ngoài chợ Đông Ba, từ trí thức là bác sĩ, giáo sư, cho tới nhà sư trong chùa, tất cả đều đã bắt tay với ta, sẵn sàng chờ cách mạng trở về.

Anh Lê Minh hỏi:

- Việc đưa vũ khí, đạn dược từ ngoài vào ra sao rồi, có khó khăn lắm không?

Anh Nguyễn Trung Chính đáp:

- Thuyền có hai đáy, tủ có hai ngăn là điều phổ biến trong cơ sở - Về chuyên chở vũ khí, anh Chính kể, trường hợp đặc biệt là chị Chề - Chị Chề quê ở thôn Mỹ Xá (Quảng An), chồng đi tập kết, chị ở nhà làm ruộng, nuôi con và trở thành một cơ sở cách mạng rất tốt. Biết chị vừa làm ruộng, vừa buôn bán ra vào thành phố đã thành lệ, chúng tôi giao nhiệm vụ cho chị đưa thư từ, móc nối với các cơ sở bên trong, đồng thời chị còn giới thiệu một số cơ sở mới cho cách mạng. Đầu năm 1967, địch càn quét, con trai chị phải bỏ học. Chúng tôi liền gợi ý cho chị xin vào thành phố với lý do tìm chỗ học hành cho con. Một cách nhập vào thành phố rất hợp pháp. Địch không hay biết gì. Vào thành phố, chị trở thành cơ sở để nắm tình hình bên trong, thỉnh thoảng về quê để mua lúa gạo vào bán như người buôn chuyến, nhằm cung cấp tin tức, thư từ và nhận nhiệm vụ mới. Việc chuyên chở vũ khí vào thành phố được đặt ra. Sau khi hội ý với nhau, chúng tôi quyết định đặt vấn đề với chị: "Bây giờ nhu cầu tự vệ của anh em trong thành phố rất cao, cần phải tăng cường vũ khí. Chị thấy cách gì thiệt hay để đưa vũ khí vào trong được?". Chị Chề nhẩm nghĩ một lát rồi ngước lên nhìn vào thẳng mắt tôi: "Các anh thiệt tin tôi làm được việc ni không mà hỏi?". Tôi cười, coi đó là câu trả lời của mình. Thấy vậy, chị Chề khẳng định: "Được thì cũng được, nhưng không phải dễ". Rồi chị cùng ngồi tính với chúng tôi cách nào thật êm. Phương án cuối cùng được thông qua: dùng lúa giấu vũ khí. Vào thời gian này địch rất thích đưa lúa gạo vào thành phố. Chị Chề sẽ đóng vai đi buôn chuyến từ nông thôn vào. Lúa ở vùng giải phóng, theo chủ chương của ta là không đưa vào thành phố, nhưng do yêu cầu của nhiệm vụ, chị Chề được mua mười bao lúa chở lên, nhét vũ khí và thuốc nổ vào trong bao, chất lên một chiếc thuyền nan, đi giữa ban ngày trên con sông nhỏ trước làng Mỹ Xá. Từ khi chị rời bến, chúng tôi hồi hộp theo dõi bằng tuyến thông tin riêng. Mặc dù phương án đề ra đã khá chặt nhưng lo vẫn cứ lo, không làm sao thanh thản được. Thuyền nan của chị Chề vượt qua trạm kiểm soát của địch. Đến bến ca nô chợ Tài Ba, mười bao lúa được xếp vào chiếc ca nô thứ nhất, chị Chề đi chiếc ca nô sau. Làm như vậy để tính đến phương án xấu là địch có thể kiểm soát số lúa và tìm ra vũ khí thì chị Chề cũng tìm cách thoát được. Chị Chề đều quen chủ hai chiếc ca nô, đã giao hẹn trước với họ sẽ lấy thóc ở bến Tượng. Đến bến Tượng, chị Chề để các bao lúa lên xe ba gác chở đến một cơ sở của anh Phan Nam. Dọc đường đi hôm ấy chị Chề không bị kiểm soát lần nào. Thế là xong một chuyến đi an toàn tuyệt đối. Chúng tôi đón chị Chề vào một buổi sáng, chị mỉm cười nói nhẹ nhàng: "Xong rồi các anh ạ, nhẹ cả người".

Anh Tư Minh hỏi:

- Khối lượng đạn vũ khí đưa vào thành phố khá không?

- Chừng hai trăm khẩu K54 và một tấn thuốc nổ. Nhưng anh yên tâm đi, "vỏ quýt dày có móng tay nhọn".
Có được nhân dân là xong tất cả! Nhân dân đầy sáng tạo thực tế để giúp ta anh à.

- Tình hình trí thức trong Huế có gì phải bàn không?

Anh Phan Nam đáp:

- Trí thức Huế nẫu lòng như Trần Cao Vân thời nào cũng có. Tôi chỉ kể anh nghe trường hợp ông Lê Hữu Trí. Ông Trí vốn là giáo chức. Từ thời kháng chiến chống Pháp ông đã là một trong những cơ sở trung kiên của cách mạng. Năm 1954 ông Trí còn là một người hoạt động kinh tài cho Thành ủy. Do yêu cầu trong kháng chiến chống Mỹ, ông Trí mở xưởng gỗ. Cơ ngơi này đã từng nuôi giấu cán bộ, nơi chiêu tập, tổ chức lực lượng, nơi hội họp bàn bạc công việc và là nơi thiết kế những căn hầm bí mật tinh xảo, đảm bảo an toàn cho nhiều cán bộ được nuôi giấu trong nhà ông và trong nhà những trí thức ở Huế. Những cái giá sách có chỗ cho người đứng nấp, đằng sau những chiếc rương hai đáy trong buồng ngủ, tủ gương có ngăn đủ chỗ cho một cán bộ nằm, những chiếc đò hai đáy chở cán bộ hoặc vũ khí, tài liệu xuôi ngược trên sông, những chiếc đi văng trang nhã trong các phòng khách sang trọng cũng hai đáy, và cả trần nhà cũng thiết kế được “nửa chìm nửa nổi” cho người cán bộ vừa ẩn nấp vừa có thể quan sát được kẻ địch đang lùng sục vây bắt mình. Những đồ dùng ấy toàn cung cấp cho các gia đình trí thức trong Huế cả đấy. Ông Trí có con trai đầu là Lê Hữu Dũng. Ông đã nhắn con trai về nghỉ tết sớm có việc nhà. Thực chất ông muốn Dũng có dịp tiếp xúc với cách mạng. Dũng liền được chọn đưa lên hậu cứ để huấn luyện chuẩn bị làm hoa tiêu vào Huế.

Nhân nói chuyện Lê Hữu Dũng, anh Trung Chính đề nghị ngay:

- Mời anh Lê Minh lên lớp huấn luyện của chúng tôi tổ chức bên sông Tả Trạch, đất thuộc địa phận của anh Hường Thọ quản lý đấy ạ.

Anh Lê Minh nhận lời ngay.

Lớp huấn luyện đã học xong những phần cơ bản. Họ đang tiếp tục học quân sự ngoài trời. Không xa bãi tập của thanh niên nội thành, vạt đằm bên kia suối là bãi tập của bộ đội đặc công. Lính đặc công đang tập tiềm nhập mục tiêu luồn qua bãi thép gai bùng nhùng. Người bò trước dùng những nạng gỗ cao chừng 50 phân nhẹ nhàng chống lớp dây thép gai sát mặt đất nâng từng sợi thép gai. Chống xong anh bắt đầu bò. Người sau bò nối tiếp theo người bò trước. Cứ thế cả tiểu đội mũi nhọn băng người qua hàng rào bùng nhùng hai chục mét, bất chợt ào lên ném bộc phá vào lỗ châu mai.

Anh Hường Thọ giải thích:

- Để các em trong thành phố học bên cạnh lính đặc công, giống như một thứ men kích thích các em vậy, anh ạ. Mà kích thích thật, ngày nào các em cũng muốn ra hiện trường, vừa học, vừa xem lính đặc công tập.

Các em trong thành phố ra đang học bài tay không bắt giặc và dùng gậy đánh giáp lá cà. Những đường gậy khua khá thành thạo, tiến thoái hợp lý. Dĩ nhiên vào thực tế sẽ còn phải điêu luyện hơn nữa. Song bước đầu, sau mỗi đường gậy ngoạn mục đã thấy mặt anh nào anh nấy rạng rỡ hẳn lên.

Anh Hường Thọ cho tạm nghỉ. Anh giới thiệu:

- Đồng chí Lê Minh Bí thư Thành ủy, người đứng đầu thành phố đến thăm chúng ta.

Những người chiến sĩ cách mạng từng trải, hiện đang giữ chức vụ cao thường là niềm ngưỡng mộ trong giới trẻ. Gặp được người đứng đầu thành phố với họ là điều rất bất ngờ. Mọi người nhìn anh Lê Minh với vẻ đầy kính phục.

Anh Lê Minh hỏi:

- Học thì các em đã học rồi. Có ai muốn hỏi gì thêm không?

Anh Phan Nam nhắc:

- Mạnh dạn lên các em, gặp bí thư trong chiến trận thật không dễ dàng gì đâu.

Một thanh niên giơ tay:

- Bọn cảnh sát bắt ba em tù ở Thừa Phủ, đánh cho gẫy chân mới thả về, mấy ngày sau bắt mẹ em tù thế, sắp chết, lôi trên xe xuống quẳng vào nhà. Em hận chúng lắm. Làm sao mà hòa hợp được?

Anh Lê Minh chậm rãi nói:

- Những người đứng trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, không phải ai cũng theo Mỹ cả. Có kẻ là Việt gian bám đít đế quốc thật. Loại phản dân bán nước này thì phải diệt. Còn những người bị bắt phải làm cũng có kẻ lầm lỗi thì phải khoan hồng theo chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Anh rút một trang giấy trong túi ra nói tiếp:

- Đây là Điều 12 trong Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng có ghi rõ ràng. Tôi xin đọc để các em nghe:

Nghiêm trị những tên ác ôn ngoan cố làm tay sai cho đế quốc Mỹ giết hại đồng bào, phản lại Tổ quốc.
Tạo điều kiện cho binh lính, sĩ quan ngụy quân và nhân viên công chức ngụy quyền trở về với chính nghĩa cùng nhân dân chống Mỹ, cứu nước, xây dựng nước nhà. Những người, những nhóm hoặc những đơn vị thuộc ngụy quân, ngụy quyền lập công chống Mỹ, cứu nước thì được khen thưởng và trọng dụng. Ai đồng tình và ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước hoặc không thi hành mệnh lệnh của đế quốc Mỹ và tay sai thì được ghi công. Ai tình nguyện gia nhập lực lượng vũ trang giải phóng để chống Mỹ, cứu nước thì đều được hoan nghênh và đối xử bình đẳng. Ai thật thà hối cải thì được khoan hồng. Ai lập công chuộc tội thì tùy thành tích mà được khen thưởng thích đáng. Sĩ quan và binh lính ngụy quân bị bắt làm tù binh thì được đối xử nhân đạo và được hưởng chính sách khoan hồng".

Anh Lê Minh trao trang giấy nói về chính sách của mặt trận đối với ngụy quân, ngụy quyền cho chàng thanh niên vừa đặt câu hỏi rồi nói tiếp:

- Hận thù mà không minh bạch sẽ mù quáng em ạ. Em cứ theo chính sách đây của Mặt trận là hợp lòng dân nhất. Đã hợp lòng dân thì mình nói gì dân cũng nghe. Chúc các em sẽ là mũi nhọn của cuộc tấn công vào Huế khi thời cơ đến.

Tất cả vỗ tay hoan nghênh. Anh Lê Tư Minh nhờ anh Phan Nam gọi Lê Hữu Dũng cho anh gặp riêng.

Anh Tư Minh hỏi Dũng:

- Sinh viên các em nghĩ gì về cách mạng?

Dũng đáp rất tự nhiên:

- Sinh viên ở Huế và Sài Gòn chúng em vừa xuống đường tẩy chay kết quả bầu cử ngày 3 tháng 9 của Thiệu - Kỳ. Ngay trước nhà tổng hợp, sinh viên kẻ khẩu hiệu "Mỹ cút về nước", "Việt Nam của người Việt Nam". Em tin là nếu đánh Huế, sinh viên sẽ lên chiến khu rất đông.

- Nghe nói em mới ở Sài Gòn ra?

- Ba em gọi về có việc nhà. Không ngờ lại được lên chiến khu và đứng ngay vào hàng ngũ cách mạng.

- Em đã biết mình được phân công việc gì chưa?

- Cách mạng giao cho chúng em bất cứ việc gì em cũng sẵn sàng làm. Nếu được làm hoa tiêu dẫn bộ đội vào thành Huế là em thích nhất. Như vậy mới được chính thức tham gia cuộc chiến này.

- Đang học đại học phải bỏ dở, em có thấy tiếc lắm không?

- Đánh Huế chỉ có một lần. Làm thanh niên thời buổi này mà để lỡ cơ hội này thì tiếc lắm. Hòa bình em đi học tiếp cũng không muộn kia mà.

Chuyến đi Hương Trà lần này anh Lê Minh thấy đầy hứng thú. Đêm nằm với Nguyễn Tá Thành, anh tâm sự:

- Có thể nói mình khá yên tâm về sự chuẩn bị của anh em trong nội thành. Chắc chắn có sự hỗ trợ của quân sự, nhân dân Huế sẽ nổi dậy thành một lực lượng hùng hậu. Tá Thành có thấy vậy không?

Nguyễn Tá Thành không giấu giếm:

- Đánh giữ Huế năm ngày thì tôi rất tin. Nhưng chiếm luôn Huế rồi lập chính quyền luôn thì tôi thấy rất lo.

- Cậu đang lo điều gì?

- Thế của địch đúng là đang xuống nhưng lực của nó còn mạnh lắm. Liệu ta giữ Huế có nổi không? Hiện tôi làm tham mưu trưởng thành đội Huế, nên tôi nắm rất chắc tình hình địch. So tương quan lực lượng quân số ta với địch là rất mỏng. Địch đông gấp bốn, năm lần ta. Song điều tôi đang lo nhất là mỗi chiến sĩ bộ binh của thành đội bây giờ chỉ có một cơ số đạn, ba mươi viên, đánh xong, rút ra ngay, vậy là đủ. Nhưng giai đoạn ba, ta đánh phản kích để giữ Huế, liệu điều này ta làm có nổi không?

Anh Lê Minh trả lời ngập ngừng:

- Trung ương nói sẽ viện trợ. Nhưng quả thật tôi chưa biết Trung ương sẽ viện trợ bằng cách nào.

- Nếu lính thành đội hết đạn, chắc chắn tôi sẽ gọi anh đấy. Vào trận đánh mà không đủ đạn dự trữ, tôi e phiêu lưu lắm.

Lê Minh không trả lời, đôi mắt đăm chiêu như nhìn vào một cõi xa xăm nào.
*
*   *

Anh Lê Minh lên lại Khu ủy. Nguyễn Tá Thành trở lại thành đội. Vừa gặp, thành đội trưởng đã hỏi:

- Đi với bí thư có vỡ vạc ra được điều gì mới mẻ có lợi cho chúng ta không?

Nguyễn Tá Thành đáp:

- Nói chung cả quân lính, cả lực lượng chính trị và sự tổ chức trong nội thành không khí đón thời cơ thật náo nức. Điều quan trọng là tôi đã mạnh dạn, không tránh né khi hỏi Bí thư Lê Minh điều mà Ban chỉ huy thành đội chúng ta đang rất băn khoăn lâu nay là liệu có đủ đạn để giải phóng Huế và giữ Huế không?

- Anh Lê Minh trả lời sao?

- Ông bảo Trung ương nói sẽ viện trợ. Nhưng câu nói tỏ ra không quả quyết nên ông nói thêm: Nhưng quả thật cũng chưa biết Trung ương viện trợ bằng cách nào.

Thành đội trưởng cứng rắn nhưng lần này ông tỏ ra rụt rè. Tính của ông vốn thẳng băng ruột ngựa, lâu lắm mới lại thấy ông thận trọng như thế:

- Chúng ta là người lính phải biết chấp hành mệnh lệnh. Mệnh lệnh là mệnh lệnh. Đến lúc nào đó chúng ta sẽ có cách. Từ đây đến tết còn đúng một tháng trời. Thành ở nhà trực cơ quan tham mưu nghe. Có tình hình gì cứ ghi lại. Có biến động gì, chúng ta sẽ tính cho kịp thời. Sai một li là xương máu đấy.

Nhật ký trực của Nguyễn Tá Thành ghi rất rõ ràng từng ngày.

Ngày 1 tháng 1 năm 1968. Thành ủy báo cho biết: Lực lượng cách mạng trong sinh viên lúc này đã lớn mạnh. Ban cán sự sinh viên, học sinh bí mật đã được thành lập, trong đó có các đồng chí Lê Phước Thúy, Trần Văn Hòa, Ngô Yên Thi. Nhiều cơ sở cách mạng trong sinh viên, học sinh như Ngô Nam Trinh, Nguyễn Thành Nhân... gồm hàng trăm người đã được đưa lên chiến khu huấn luyện.

Ngày 5 tháng 1 năm 1968. Tiểu đoàn Chị Thừa Một đã tập kích đánh vào trung đoàn 7 xe bọc thép ở Tam Thai thành công lớn, đã diệt 18 xe trong tổng số 24 xe của trung đoàn này.

Ngày 10 tháng 1 năm 1968. Thành ủy thông báo, để trực tiếp phục vụ, lãnh đạo cuộc tấn công vào Huế, Bộ chỉ huy đã chuyển xuống địa đạo tại Hương Trà, do công binh khu mới hoàn thành. Thành ủy và Ban an ninh khu cũng cùng ở trong địa đạo này.

Ngày 11 tháng 1 năm 1968. Quanh Huế, Mỹ cho thả bom ở các bến đò. Chúng đang thăm dò lực lượng ta.
Ngày 12 tháng 1 năm 1968. Địch cho tiểu đoàn 5 dù đổ quân ở mạn trước rừng Hương Trà, càn quét ngoài cửa rừng tới Mõm Xanh rồi rút quân ngay trong ngày.

Ngày 13 tháng 1 năm 1968. Không biết có thông tin gì, địch đổ quân xuống bìa rừng Hương Thủy, phát hiện ra một kho gạo và một kho đạn của ta, chúng đặt mìn phá tan hoang hết, về tung tin trên đài phát thanh Huế rằng liên quân Việt Mỹ đã phát hiện ra âm mưu một cuộc tấn công của Việt Cộng và đã bóp chết từ trong trứng.

Ngày 14 tháng 1 năm 1968. Đoàn 4 Phú Lộc đã thực hiện kế hoạch nghi binh, đánh sập hoàn toàn quận lỵ Phú Lộc tại Cầu Hai, làm chủ hoàn toàn tuyến đường số 1 từ Hải Vân ra đến Cầu Hai. Địch hết sức lúng túng quyết chiếm lại Cầu Hai và đoạn đường số 1 đã bị mất.

Ngày 15 tháng 1 năm 1968. Toàn chiến khu có lệnh án binh bất động. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Nếu địch có đưa quân lên càn quét cũng không được chống trả. Một tiểu đoàn an ninh đã rải quân suốt dọc bìa rừng để giữ an toàn cho chiến khu. Có lệnh bộ đội sẽ được ăn tết trước, kỷ niệm 180 năm Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà đánh tan toàn bộ quân Mãn Thanh, giành lại thống nhất đất nước.

Ngày 17 tháng 1 năm 1968. Ta có kế hoạch đánh tập kích vào căn cứ Tứ Hạ, cây số 17 từ Huế ra Phong Điền nhưng bị lộ. Ta đã lập tức chuyển sang phương án hai, bắn cối dữ dội vào căn cứ Tứ Hạ. Nhiều đám cháy lớn. Kết quả trận đánh chưa thông báo.

Ngày 20 tháng 1 năm 1968. Tiếp tục phát động phong trào toàn dân tham gia diệt Mỹ ở các xã Mỹ Thủy, Phong An, Phong Sơn, Phong Nguyên, đêm đêm du kích quấy rối các căn cứ Mỹ. Điều động trung đội du kích diệt Mỹ của A Lưới về đường 12. Trung đội du kích Hương Thủy bám Phú Bài tạo một vành đai diệt Mỹ.

Ngày 25 tháng 1 năm 1968. Địch vẫn không hay biết gì về kế hoạch tấn công vào Huế. Trong thành phố,
vợ con binh lính ngụy vẫn đi chợ sắm tết đông đúc, chuẩn bị một cái tết ngừng bắn đoàn tụ gia đình.

Ngày 29 tháng 1 năm 1968 (tức ngày 29 tết Đinh Mùi). Tin từ một đội viên đội biệt động trong thành ra: Trong không khí đi sắm tết, một chiếc xe Lambro do ông Đồng, chủ xe, đường Ngô Đức Kế, lên Kim Long, đến "kho", đúng ra là "trạm trung chuyển" vũ khí nằm trên bãi tha ma ngay sau lưng nhà anh Toàn. Vũ khí được nhanh chóng, bí mật đưa lên xe, ngụy trang rất khéo léo, ông Đồng cho xe chạy một mạch về nhà chị Thôi ở Tây Lộc, ngay gần cửa Chánh Tây. Chị Thôi có kế hoạch bàn giao cho tổ biệt động khi cần thiết. Xe ông Đồng trở về Ngô Đức Kế an toàn.

Ngày 30 tháng 1 năm 1968 (30 tết). Không khí tết tưng bừng ở Huế. Từng tốp lính về ăn tết, dắt vợ con đi trên đường phố Huế. Không có một dấu vết hoài nghi nào. Phan Văn Khoa tỉnh trưởng hợp các ngành lại, nói: "Có tin Việt Cộng đã đặt tên lửa xung quanh Huế. Liệu chúng có khả năng đánh vào dịp tết không?". Ngô Quang Trưởng, chuẩn tướng, sư đoàn 1 ngụy bình thản trả lời: "Việt Cộng có đánh vào, nhưng lập tức phải rút ra ngay thôi. Vì Việt Cộng gùi cõng, đi bộ. Còn quân đội Hoa Kỳ cơ giới hóa cao độ bằng "thần sấm", "con ma" và B.52 trợ ứng. Việt Cộng ở lại thì làm sao mà chịu nổi".

Ngày 27 tháng 1 năm 1968 (tức ngày 27 tháng Chạp năm Đinh Mùi). Sắp Tết rồi, không khí như đang tươi non ra, Phan Tấn Thọ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc công Chị Thừa Một đang cho lính tập vượt tường cao trên mười mét thì Nguyễn Tá Thành đến gặp anh:

- Thành đội trưởng cử tôi tới trao một nhiệm vụ mới và đặc biệt cho anh.

Phan Tấn Thọ dẫn Nguyễn Tá Thành vào lán dã chiến một mái nằm ngay bên bờ suối. Phan Tấn Thọ nói:

- Tôi xin nghe đây!

- Thành đội trưởng lệnh cho tiểu đoàn Chị Thừa Một đặc công chuẩn bị đánh trung đoàn thiết giáp 7 ở Tam Thai.

Thọ ngớ người:

- Chúng tôi mới đánh trung đoàn này ngày 5 tháng 1, mới cách đây hơn hai chục ngày. Việc gì mà phải đánh gấp thế?

- Tôi cũng có hỏi thành đội trưởng đúng câu hỏi của anh: Sao đánh gấp thế? Ông đáp: Đây là lệnh trên cho nên mình cũng không rõ. Nhưng hình như lần này mình đoán là đánh bọn thiết giáp để hỗ trợ cho đồng bào Huế nổi dậy. Nếu không diệt bọn thiết giáp này chúng sẽ thẳng đường nhựa chà nát đồng bào nổi dậy tới đây như đã chà nát đồng bào Huế nổi dậy vây quanh đài phát thanh Huế năm 1963 cùng Phật tử đòi quyền bình đẳng được treo cờ Phật trong ngày lễ giống như bên Thiên Chúa Giáo vậy. Thiết giáp không kể gì đã chà nát 13 người vô tội.

- Tôi đã có được nghe kể vụ giết người rùng rợn này.

- Điều thứ hai ông bảo: Chị Thừa Một đã đánh một lần rồi, nên không phải chuẩn bị gì cho lâu.

Phan Tấn Thọ hỏi:

- Điều nghiên xong thì bao giờ đánh?

Tá Thành đáp:

- Điều nghiên về ông sẽ quyết, và sẽ đánh ngay.

Chị Thừa Một là đơn vị duy nhất được ăn tết sớm hơn cả để làm nhiệm vụ. Ăn tết xong, đêm ấy Phan Tấn Thọ cùng tiểu đoàn phó và toàn ban chỉ huy một đại đội về điều nghiên Tam Thai. Đến mười giờ đêm, trước lúc tiếp cận hàng rào, Phan Tấn Thọ phân công mũi của anh sẽ là mũi chủ yếu tấn công, khi nổ súng phải chiếm được vị trí đỉnh Tam Thai. Mũi thứ hai phải đánh tan khu vực dưới chân núi.

Đã khuya lắm, đã qua lần bị tấn công đầu tháng nên địch tăng cường bố phòng chặt chẽ hơn, kỹ lưỡng hơn, vì vậy mà việc điều nghiên mất khá nhiều thì giờ. Về đến núi Ngự Bình ngồi nghỉ, Phan Tấn Thọ với các sĩ quan của mình cùng nhìn về thành phố thân yêu. Các anh nhận ra rất rõ nơi có những ngọn đèn tập trung tỏa sáng cả một vùng bên sông Hương là khách sạn Hương Giang, đó là nơi các anh đã tiêu diệt địch cách đây nửa năm, nơi có cột ăng-ten nhấp nháy tắt tắt đỏ đỏ là cơ sở đài phát thanh Hoa Kỳ suốt ngày nói xấu Cộng sản trên cánh đồng An Cựu kia, các anh chưa được lệnh động tới. Cả thành phố như đang thiêm thiếp ngủ. Có cái gì đó nôn nao trong lòng mỗi người.

Về đến nhà, báo cáo việc điều nghiên, thành đội trưởng ra lệnh quyết định sẽ đánh trung đoàn bọc thép vào đêm 31 tháng 1 tức đêm mồng 1 tết Mậu Thân. Tiểu đoàn Chị Thừa Một triển khai ngay. Theo kế hoạch, tiểu đoàn sẽ xuất quân chiều 30 tết, về trú quân ở Dương Hòa một đêm để đêm sau tiếp cận Huế bảo đảm đúng kế hoạch hơn. Không ngờ đoàn quân vừa ra khỏi cửa rừng năm trăm mét, bỗng có hai chiếc máy bay OV10 của trinh sát hải quân Mỹ từ ngoài biển Đông lao vào, giống như chúng đang phục sẵn chỉ chờ, đội lính Chị Thừa Một ra khỏi rừng là vồ ngay.

Gặp máy bay trinh sát, đoàn quân như chững lại. Hai chiếc máy bay bẻ ngoặt một vòng, ném mấy quả lựu đạn khói màu đỏ ngay sau lưng đoàn quân. Vậy là lộ rồi. Pháo từ tàu ngoài khơi, cứ thấy khói đỏ chỉ điểm bay lên là bắn vào tới tấp. Phan Tấn Thọ hô to:

- Các đồng chí chạy theo tôi. Pháo hạm đội bắn đấy.

Thọ không chạy lui, không chạy tới, anh dẫn bốn đại đội rẽ ngang. Đại đội 5 chạy theo anh Tuyên. Từ đó, pháo bắn suốt đêm, đến bốn giờ sáng mới ngừng bắn. Kiểm điểm sơ bộ thấy đồng chí chính trị viên trưởng bị thương nặng. Chính trị viên phó hy sinh. Tập hợp lại đội ngũ, kế hoạch về Dương Hòa bị vỡ. Phan Tấn Thọ dẫn quân về đến dốc Công Sự đã sáu giờ sáng ngày mồng 1 tết.

Nghe tin Chị Thừa Một bị pháo trùm đầu, tham mưu trưởng vội về ngay. Anh cùng nhóm sĩ quan chạy ngay vào rừng tìm đại đội 5. Họ đang ở cách dốc Công Sự chừng ba giờ đồng hồ. Mười người hy sinh, anh em đang lấy vải mưa cá nhân bọc từng người đem chôn. Không khí buồn nản không thể tả được. Anh em lặng lẽ nhìn nhau, không ai muốn nói với ai một lời. Mãi trưa mới hội quân đủ về dốc Công Sự.

Nguyễn Tá Thành điện cho thành đội trưởng:

- Trong không khí này muốn ra quân đúng giờ, không thể thiếu anh.
Thành đội trưởng có mặt ngay và lập tức quân lực bổ sung vũ khí đầy đủ. Trên khuôn mặt dạn dày chinh chiến của thành đội trưởng không hề lộ ra một sự thất vọng nào. Đúng ba giờ chiều đứng trước toàn tiểu đoàn, ông nói:

- Về thiệt hại, tôi xin chia buồn với tiểu đoàn đặc công Một. Song tôi xin báo để các đồng chí mừng, đêm nay toàn miền Nam chúng ta vào chiến dịch tấn công nổi dậy. Đêm nay Huế sẽ được giải phóng. Tiểu đoàn Chị Thừa Một đánh Tam Thai. Tiếng súng tấn công của các đồng chí sẽ là súng lệnh tấn công vào toàn thành phố.

Sắc mặt lính thay đổi hẳn. Từ ảm đạm chuyển ngay sang hào sảng.

Anh Tuyên thành đội phó về chỉ huy trận Tam Thai đứng dậy nói:

- Đây là dịp chúng ta trả thù cho các đồng chí vừa hy sinh.

Thành đội trưởng nói tiếp:

- Trung đoàn 6 và một nửa Trung đoàn 9 sẽ đánh phía bắc sông Hương. Một nửa Trung đoàn 9 và Đoàn 5 chúng ta sẽ đánh cánh nam sông Hương. Nếu không diệt được trung đoàn thiết giáp 7 ở Tam Thai và sư đoàn 1 ở Mang Cá, sau này ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên bằng giá nào Chị Thừa Một cũng phải tiêu diệt cho bằng được trung đoàn này. Các đồng chí đồng ý không?

- Đồng ý! Đồng ý! - Tiếng cả tiểu đoàn vang lên...

Thành đội trưởng hào hứng hẳn lên:

- Ở mặt trận Huế, đồng chí Lê Minh làm chỉ huy trưởng. Các anh Lê Chưởng, Nam Long, Đặng Kinh ở trong Ban chỉ huy. Mặt trận Huế chia làm hai cánh: cánh Bắc do anh Thu làm chỉ huy trưởng. Cánh Nam do tôi, Thân Trọng Một làm chỉ huy trưởng. Các đồng chí, vì thành phố Huế thân yêu của chúng ta, các đồng chí hãy tiến lên.

Cùng lúc tiểu đoàn Chị Thừa Một lên đường, tất cả các đơn vị tham gia chiến dịch tấn công nổi dậy vào Huế cũng làm lễ xuất quân và cùng thông báo đánh vào Huế.

Ngoài địa phận Hương Trà, Trung đoàn 6 tập hợp dưới tán lá rừng. Trước đoàn quân, anh Hường Thọ, bí thư huyện Hương Trà, hai tay nâng chiếc ba lô căng đầy trao cho anh Dương Quang Đấu, trung đoàn trưởng Trung đoàn 6, giọng anh rất trang nghiêm:

- Thưa các đồng chí, ngày 30 tháng 1 năm 1968, mặt trận Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Huế đã được thành lập, do giáo sư Lê Văn Hảo làm chủ tịch. Mặt trận ấy sẽ tập hợp tất cả những người dân yêu nước Huế dưới ngọn cờ này để chống Mỹ, cứu nước. Trong ba lô tôi trao cho Trung đoàn 6 đây là lá cờ của mặt trận Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Huế. Tôi trân trọng trao cho các anh, đêm nay toàn quân sẽ tiến về giải phóng thành Huế, các anh sẽ treo cờ Liên minh này lên đỉnh kỳ đài Ngọ Môn. Đó sẽ là một ngày hết sức trọng đại đối với chúng ta.

Dương Quang Đấu nhận lá cờ, trao cho tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2:

- Trung đoàn giao cho tiểu đoàn 2 làm nhiệm vụ thiêng liêng này.

Trong tiếng vỗ tay dạt dào như tiếng cánh đại bàng đập gió, anh Dương Quang Đấu ra lệnh:

- Trung đoàn 6 lên đường giải phóng Huế. Các đồng chí, tiến lên!

Đoàn người như sóng, ào lên.

Góc rừng dù sôi động đến thế nào cũng chỉ biết một góc rừng sôi động mà thôi. Chỉ có Bộ chỉ huy đóng trên đỉnh núi Kim Phụng, dẫu chỉ cách Huế năm cây số, qua tất cả những làn sóng điện báo cáo giờ phút từng đơn vị làm lễ ra quân và đã xuất quân là cảm thấy hết cả chấn động sục sôi trên khắp cánh rừng Thừa Thiên phía đông Trường Sơn này. Giống như một dàn hợp xướng, khi chiếc đũa điều khiển vung lên thì tất cả âm thanh cùng lên tiếng trong một bản hòa tấu hùng tráng.

Giá có một chiếc máy quay phim đứng tít mãi trên trời cao quay được toàn cảnh của cuộc ra quân cùng tiến về đồng bằng mà biết bao năm đã mơ ước mong chờ thì vui biết bao. Khi trời mờ tối, tất cả mũi tiến quân cùng một lúc tiến ra bìa rừng, và tất cả nhằm hướng thành phố Huế mà đi tới.

Đêm mồng 1 tết, trời tối đen, gió lạnh. Thỉnh thoảng lại lất phất mấy hạt mưa. Đêm thật yên tĩnh. Ngoài xa xa có tiếng súng địch bắn đì đạch, vu vơ. Sau tiếng nổ côi cút lạnh lẽo ấy lại là một vùng trời êm ắng khác thường. Mỗi người hầu như đều thở phào cùng chung ý nghĩ: "Thế là kế hoạch giữ bí mật đã thành công có thể gọi là mỹ mãn".

12 giờ đêm mồng 1 tết âm lịch, hầu hết lực lượng quân sự cánh bắc sông Hương đã ém sẵn gần ngã ba sông Kẻ Vạn, cách cửa Chánh Tây chừng bốn trăm mét. Thành phố Huế đang chìm trong sương mù. Rõ ràng không có một dấu hiệu gì chứng tỏ Mỹ, ngụy nắm được cuộc tấn công lớn sắp giáng xuống đầu chúng.
Thành đội trưởng và Nguyễn Tá Thành ngồi trên đỉnh núi Ngự Bình. Thành đội trưởng xem đồng hồ hỏi:

- Đồng hồ mình 2 giờ 30 phút, cậu xem đồng hồ cậu có đúng vậy không?

Thành bấm đèn pin ánh sáng chỉ bằng nửa hạt gạo, soi vào đồng hồ:

- Dạ đúng 2 giờ 30 phút. Giờ G rồi đấy, sao không thấy Mang Cá và Tam Thai phát hỏa? Điện ở trên về đã dặn rằng: 6 giờ là giờ G của toàn quốc cùng phát hỏa, chứ đừng nghĩ rằng cơ yếu điện sai.

Đồng hồ nhích lên đúng 2 giờ 33 phút ngày mồng 2 tết Mậu Thân, bất ngờ đạn ĐKB như những con rồng lửa tới tấp giội vào căn cứ Phú Bài. Ngay tiếp sau đó lửa ở Mang Cá và Tam Thai bùng lên. Lửa Phú Bài, Tam Thai và Mang Cá là mệnh lệnh tiến công. Tiểu đoàn 815 của Trung đoàn 9 từ chùa Từ Đàm chạy qua cầu Nam Giao gặp bọn lính ở đây đang còn ngáp ngủ, lập tức chúng bị tóm.

Bên cửa Chánh Tây giao cho Toàn và Hiếu. Toàn, một thanh niên trong nội thành là con một cán bộ quân đội, anh tham gia biệt động thành. Hiếu, một trung đội trưởng đặc công Đoàn 6 được bí mật phái vào nội thành với Toàn bảo đảm mở cửa Chánh Tây với bất kỳ giá nào để mở đường cho lực lượng bên ngoài vào thành. Toàn thạo đường, Hiếu mới vào nội thành chiều 29 tết, anh được giấu trong một gia đình cơ sở, tối mồng 1 hai người mang bộc phá, ém sẵn ngay bên chốt gác lính ngụy trước cổng Chánh Tây. Thấy pháo bắn Phú Bài và lửa Mang Cá bùng lên, Toàn và Hiếu ném bộc phá, ba tên lính ngụy chết người vắt lên đám dây thép gai. Còn Tùng đã nằm sẵn trong cống Thủy Quan, anh cắt dây thép gai mở đường.

Như vậy cùng một lúc, quân cánh bắc đánh Mang Cá, quân ém ở bên sông Kẻ Vạn ào tiến vào nội thành qua cửa Chánh Tây, cửa Hữu, cống Thủy Quan.

Phía nam, bộ đội tiến qua cầu Nam Giao, cầu Kho Rèn, cầu Bến Ngự.

Khi bộc phá tới tấp ném vào trung tâm Tam Thai, chiếm được đỉnh núi, dưới chân núi cuộc chiến đấu đang quyết liệt, trực thăng bay tới tấp vào Tam Thai hỗ trợ cho bọn lính còn đang sống sót. Ba chiếc M113 được cứu trợ đã từ trong hầm vọt ra, chạy thục mạng về phía thành phố. Một quả B40 mai phục lao tới, cả chiếc M113 bùng cháy thành một đám lửa lớn sáng rực cả một vùng.
Thành đội trưởng bảo Nguyễn Tá Thành, giọng ông vội vàng, hình như linh tính đã báo cho ông một điều gì.

- Cậu xuống hỗ trợ cho ban chỉ huy K4 đi.

Từ Ngự Bình, Thành cùng cậu liên lạc chạy tắt qua nghĩa trang Thủy Trường, thẳng đường về cầu Kho Rèn. Đúng lúc chiếc xe bọc thép chốt đầu cầu bên kia, không biết có phải chiếc M113 từ Tam Thai chạy về không, nó đang nhả đạn quyết liệt. Những chiến sĩ chạy hàng đầu đã ngã ngay trước đầu cầu Kho Rèn phía bên này.

Tiểu đoàn 4 bị chặn lại ngay đầu cầu. Nếu không diệt được chiếc xe bọc thép bên kia, quân ta không thể có con đường nào vượt lên trong lúc này. Thành gặp tiểu đoàn phó Võ Văn Đề, hạ lệnh:

- Cho một tổ trinh sát, bơi qua sông An Cựu, đánh bất ngờ vào phía sau chiếc bọc thép này.

Lập tức một tổ trinh sát ngược sông một trăm mét, bơi qua, bám vách tường nhà bên phố Phan Đình Phùng, tiếp cận phía sau xe bọc thép. Chúng nhăm nhăm lo nhả đạn trước mặt, tưởng phía sau an toàn. Ba quả bộc phá ném tới, xích xe tăng đứt. Bọn lính ngụy trong xe hốt hoảng mở nắp xe chạy vào hướng trung tâm thành phố. Một loạt đạn AK bắn đuổi theo. Cả ba tên ngã gục ngay trên đường Lý Thường Kiệt.

Tiểu đoàn 4 từ bên kia ào qua cầu, phát triển thẳng đường Lý Thường Kiệt. Trước mắt các anh là một con đường chưa hề quen biết, gặp một người đàn ông đi trên đường, anh Đề hỏi ngay:

- Anh cho tôi hỏi đường ra bưu điện, ngân khố lối nào?

Người đàn ông đáp:

- Ngân khố, đài phát thanh ở đầu đường Lý Thường Kiệt này.

Trả lời xong ông già đi ngay. Đề chia tiểu đoàn làm ba mũi tấn công. Một phát triển lên phía trước, một rẽ lên phía trường Bách Nghệ, một rẽ phải tìm về Nha cảnh sát thành phố Huế trên đường Duy Tân.

Lúc ấy K10 sau khi lạc đường đã tiến được vào thành phố. Họ gặp K4 và Nguyễn Tá Thành trên đường Nguyễn Huệ. Thành tìm ngay tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 10:

- Trong khu tam giác này hiện có tiểu đoàn 815 của Trung đoàn 9 và tiểu đoàn 4 đây, hai tiểu đoàn tung
hoành trong khu tam giác này. Tôi vừa được thông tin một tiểu đoàn của trung đoàn 3 ngụy đang dã ngoại, đóng ở Đông Di, Phú Vang. Nếu ta không diệt được tiểu đoàn này, ngày mai chúng ập vào phía đông nam thành phố, chúng ta sẽ gặp khó khăn. Vậy Tiểu đoàn 10 hãy hành quân gấp về Đông Di.

Cùng K4, K10 tổ chức xong các mũi tấn công, Nguyễn Tá Thành mới có chút thư thả. Cho đến lúc này anh mới ngước mắt nhìn lên bầu trời Huế, Cả một khung trời Huế đêm mồng 1 tết tối đen, tưởng có thể cắt ra từng miếng. Vậy mà bây giờ sáng bừng như ánh bình minh. Những đường đạn bay đan chéo dọc ngang đầy
trời, giống như đêm hội bắn pháo hoa.

Bốn phía tiếng đạn nổ nối tiếp nhau như đốt pháo, không có một khoảng thời gian bị đứt.

Một chiếc xe Jep đi tuần tiễu từ phía nha cảnh sát lao tới. Mấy anh bộ đội mũ tai bèo ngăn lại. Xe dừng, nhận ra lính giải phóng trước mắt mình, mấy tên cảnh sát giơ tay lắp bắp:

- Chúng tôi không biết các ông đã vào trong thành phố. Xin các ông đừng giết chúng tôi. Nếu các ông cần gì, chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ.
*
*   *

Nguyễn Tá Thành theo tiểu đoàn 4 phát triển về phía sông Hương đánh chiếm bưu điện, ngân khố, đài phát thanh một cách hết sức dễ dàng. Chỉ sau mấy loạt súng bắn quyết liệt, chúng đã bỏ chạy. Thành đã hiểu ra, chỉ có những tên lính phải ở lại trực chiến mấy ngày tết mới ở lại, còn đa số đã về gia đình sum họp với vợ con. Vì vậy sức đề kháng yếu ớt. Anh chợt hiểu, đánh vào Huế và nổi dậy toàn miền Nam khi cả hai bên đã tuyên bố ngưng chiến là một đòn hiểm hóc, bất ngờ. Binh thư chẳng đã nói quân sự tha hồ nói dối đó sao.

Bọn tù binh bị bắt đang đứng lốc nhốc trước sân nhà bưu điện vẻ mặt hớt hơ hớt hải, cứ như những gì chúng đang thấy trước mắt là không có thật, chỉ là giấc mơ thôi.

Thành dặn anh Đề:

- Nhanh chóng đưa tù binh lại phía sau cho đỡ vướng chân.

Lúc này trời đã mờ mờ sáng, lất phất có mấy hạt mưa, vẫn rét đậm. Thành tạm biệt tiểu đoàn 4 để trở về chùa Từ Đàm, nơi sở chỉ huy thành đội sẽ đóng ở đó.

Đường vắng, chỗ nào cũng thấy bộ đội giải phóng và tù binh. Qua cầu Bến Ngự, nơi đầu cầu anh Bảy Khiêm và anh em chiến sĩ an ninh đứng rất đông. Thấy Thành, anh Bảy Khiêm nói luôn:

- Chúng tôi tới chùa Từ Đàm đã thấy Hải Thanh đứng đón ở đấy để đưa vào thành phố. Có Hải Thanh làm
hoa tiêu, anh em hoàn toàn yên tâm. Vì lo nhất là vào thành phố, đường sá như thiên la địa võng. Không ngờ Hải Thanh vừa dẫn anh em tới đây, bọn cảnh sát bên kia cầu bất ngờ nổ súng. Hải Thanh ngã ngay xuống từ loạt đạn đầu.

Nguyễn Tá Thành hỏi:

- Anh Hải Thanh đâu rồi?

- Đang còn đây.

Anh Bảy Khiêm dẫn Thành tới chỗ anh em đang xúm xít, Hải Thanh đang nằm đó, đắp trên mình một chiếc chiếu, mắt nhắm, thản nhiên như người đang ngủ.

Anh Bảy Khiêm nói với các chiến sĩ:

- Giao Hải Thanh cho anh em phía sau rồi ai vào việc nấy đi.

Giải quyết liệt sĩ xong, anh Bảy Khiêm kéo anh Nguyễn Tá Thành qua bên chợ Bến Ngự. Những người lao động quét chợ, canh giữ hàng hóa qua đêm và đa số những người không nhà không cửa, lấy lều chợ làm nơi trú ngụ đang ngồi nhìn ngơ ngác. Người đi trên đường Nguyễn Hoàng trước chợ (nay là đường Phan Bội Châu) không nhiều. Các nhà xung quanh hé cửa nhìn ra.

Anh Bảy Khiêm là phó ban an ninh Khu ủy, hiện đang phụ trách công tác an ninh trong cuộc tấn công vào Huế ở phía nam sông Hương này. Anh đứng lên mấy bậc thềm cao nói to với đồng bào:

- Bộ đội giải phóng được lệnh về Huế đánh đuổi quân Mỹ và bè lũ tay sai gian ác để giải phóng cho đồng bào. Yêu cầu đồng bào giúp đỡ, bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho quân giải phóng hoàn thành nhiệm vụ.

Tiếp đó anh đi phân phát cho mọi người bản cương lĩnh của Mặt trận Giải phóng và Mười điều kỷ luật của quân đội. Anh nói:

- Quân đội giải phóng không được đụng tới một cây kim, sợi chỉ của người dân. Nếu dân thấy ai không tôn trọng Mười điều kỷ luật xin báo ngay cho chúng tôi, người đó nhất định phải ra tòa án binh.
Nghe xong, không ai đáp lời, cả dãy phố nhà nào nhà nấy quay vào, đóng chặt cửa lại.

Nguyễn Tá Thành hỏi một người đi đường:

- Anh có biết tại sao người ta không muốn tiếp xúc với quân giải phóng vậy không? Nhà nào nhà nấy đóng chặt cửa vào như vậy là thế nào?

Người đi đường đáp:

- Chúng tôi đã biết các ông là người thế nào mà tiếp xúc.

Anh Thành quay sang anh Bảy Khiêm:

- Dân chưa tin chúng ta, anh ạ.

Anh Bảy Khiêm đáp:

- Từ giờ phút này dân sẽ nhìn qua khe cửa để xem xét từng hành động, từng lời ăn tiếng nói của chúng ta
như thế nào. Nếu thấy chúng ta đúng là người tốt thì họ sẽ niềm nở đón tiếp, nếu không sẽ đóng cửa mãi mãi. Đó cũng một tính cách Huế đấy.

Anh Bảy Khiêm vẫy một người lính an ninh tới, dặn:

- Nhớ, nhắc anh em đừng có một động thái nào để dân mất lòng. Chưa tiếp xúc được với dân, các anh chia nhau vào các công sở, lục soát, thấy có giấy tờ nào đóng dấu TUYệT MậT thì thu gom hết cả lại về sở chỉ huy cho tôi, rồi chúng ta sẽ đưa hết lên chiến khu. Sẽ có lúc chúng ta dùng tới.

Trời tạnh, không mưa, nhưng lạnh. Mặt trời đã lên cao. Chợt anh Bảy Khiêm đứng hướng về phía Bắc Hương, chỉ tay:

- Ôi, anh Thành nhìn kìa!

Thành ngước nhìn lên và lập tức cảm giác rưng rưng khi nhìn thấy lá cờ Mặt trận Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình, giữa là ngôi sao vàng trong nền đỏ, hai bên cờ là màu xanh hòa bình treo trên đỉnh kỳ đài Huế.

Lính tiểu đoàn 815 thuộc Trung đoàn 9, chiếm xong nhà chính phủ trung phần bên sông Hương, nhìn thấy lá cờ, các anh chạy ào ra sân, reo lên:

- A! Huế giải phóng rồi, anh em ơi.

- Ôi! Huế giải phóng rồi!

Tiếng súng rầm rộ đêm qua đã im. Chỉ còn lẹt đẹt đây đó, chỗ này chỗ kia rồi tắt hẳn.

Cùng lúc Nguyễn Tá Thành nhìn lá cờ đầy xúc động thì bên kia sông Hương, đứng ở đường phố Chi Lăng cũng có một người nhìn lá cờ thấy mũi mình cay xè muốn khóc, đó là Nguyễn Tá Phố, người em ruột của anh.

Sau khi tổ Phố đi trinh sát đồn Mang Cá về, bất ngờ ban chỉ huy tiểu đoàn gọi anh lên.
Phố hỏi:

- Có điều gì trục trặc hả thủ trưởng?

Tiểu đoàn trưởng nói:

- Trong nội thành có người ra gặp ban chỉ huy xin Phố sang hoạt động cùng lực lượng chính trị nội thành phát động quần chúng nổi dậy.

- Ai sang xin anh vậy?

- Họ đưa thư của anh Nguyễn Trung Chính và Phan Nam qua.

- Ý thủ trưởng thế nào ạ?

- Lực lượng ta đông. Trong thành rất mỏng, trinh sát cần nhưng cũng có người thay thế. Trong ấy họ yêu cầu tha thiết quá, không nỡ từ chối. Ban chỉ huy đã hội ý, trả lời đồng ý với thành phố rồi. Cậu chuẩn bị ngay để lên đường cho kịp.

- Nhưng...

- Không nhưng gì cả. Ban chỉ huy thấy rằng cậu về thành phố sẽ có điều kiện dễ dàng về thăm bà già. Nguyện vọng ấy là chính đáng. Chúng mình ủng hộ cậu.

Tổ chính trị của Phố gồm ba người theo một mũi của Trung đoàn 6, do Lê Hữu Dũng làm hoa tiêu. Khi biệt động nội thành mở cửa, Hữu, Dũng đưa cánh quân này men theo bờ đường thành, đánh ra phía Ngọ Môn, chiếm vùng xung quanh kỳ đài Ngọ Môn xong, đơn vị ra cửa Thượng Tứ, băng về phía chợ Đông Ba. ở đấy một nhóm biệt động thành đã phối hợp cùng các anh mau chóng diệt xong đồn cảnh sát Đông Ba. Thừa thắng xông lên, vượt cầu Gia Hội, sang Chi Lăng.

Đồn cảnh sát Gia Hội chưa bị diệt. Đạn súng máy trong ấy bắn ra dữ dội. Tường xây kiên cố thế kia, đạn AK không thể làm gì nổi. Lực lượng chính trị nội thành dạt cả sang nấp ở những ngả đường khác.

Mũi trưởng đơn vị Đoàn 9, gọi:

- Chiến sĩ B40 đâu?

Ba chiến sĩ vai vác ba khẩu B40 tới, đứng trước mặt anh:

- Có chúng tôi!

- Các anh diệt ngay đồn cảnh sát Gia Hội cho tôi!

Ba chiến sĩ nép vào nhà hai bên đường phố, tiếp cận gần hơn. Chọn góc ngắm thuận lợi nhất. Chỉ trong nháy mắt, hầu như cùng một lúc ba quả tên lửa bay vút vút tới. Đồn cảnh sát Gia Hội chìm nghỉm trong một khối lửa lớn, nhìn rất rõ những mảnh gạch ngói bay tung tóe sang bốn xung quanh. Tiếng trung liên bị chìm trong biển lửa ấy. Những chiến sĩ đội chính trị nội thành ôm choàng các chiến sĩ giải phóng.

- Rất cảm ơn! Chúng tôi bị chúng kìm chân từ nãy đến giờ.

- May quá, chúng tôi đang nghẹt thở thì được hỏa lực của các anh chi viện.

Bỗng một anh kêu toáng lên:

- Các bạn ơi, cờ, cờ.

Tất cả cùng quay nhìn lá cờ ba màu vàng, đỏ và xanh phấp phới bay.

Hầu như tất cả cùng thốt lên một tiếng:

- Hoan hô Huế giải phóng!

Nguyễn Tá Phố cũng đang ngây người ngắm lá cờ, có người nắm tay anh:

- Phải Phố không?

Phố cũng reo lên:

- Anh Trung Chính. Em về với các anh đây.

- Mình có viết thư xin mà.

- Có. Trung đoàn cho em đi ngay. Em đang ngóng tìm cách để bắt mối với các anh.

Nguyễn Trung Chính chợt gọi lớn:

- Phan Nam, Phố về với chúng ta rồi nè.

Phan Nam lao tới, ôm chầm lấy Phố.

Phố giới thiệu hai người bạn cùng tổ. Đến lúc ấy Phan Nam mới ngớ người:

- Cả Trọng, Cước nữa hả? Tuyệt quá!

Trọng nói:

- Anh Phan Nam đưa chúng tôi lên chiến khu cách đây hai năm rồi.

Một đám các cháu cả trai lẫn gái tíu tít chạy trên đường phố. Trung Chính ngăn chúng lại:

- Súng đạn đầy đường, các cháu biết không à?
Một đứa trả lời:

- Bộ đội về giải phóng Huế, chúng cháu đi xem.

Đang nói bỗng đứa bé nhận ra Trọng. Nó đứng trước mặt anh:

- Em chào thầy!

Trọng cũng đã nhận ra đứa nhỏ:

- Hoành, em vẫn nhớ thầy kia à?

Hoành lao vụt đi. Một lát sau Hoành kéo một người đàn ông đến trước mặt Trọng. Nó nói ríu rít:

- Thưa ba, đây là thầy Trọng, thầy dạy Việt Văn của con. Thầy bỏ Huế đã ra đi đúng hai năm nay. Bỗng dưng vắng thầy, chúng con đã đoán trúng: Thầy lên chiến khu theo cách mạng.

Cha Hoành nhìn Trọng rồi nhìn chúng tôi, khuôn mặt ông tràn ngập xúc động. Hai mắt như rớm lệ, ông lắc đầu, rồi lắp bắp thốt lên:

- Cha! Vậy mà chúng nói bậy về các anh các chị hung. Chúng nói lên xanh cực khổ, ốm đau, người chẳng thành người. Ba Việt Cộng đu một cành đu đủ không gãy. Đói khổ quá nên người nào cũng mọc thêm một cái đuôi dài. Không ngờ gặp các anh ai cũng bảnh ri. Thầy Trọng ơi, khi nào rảnh thầy ghé thăm gia đình tôi nghe. Cháu Hoành nhắc thầy hoài.

Trọng hỏi:

- Ở Huế, anh làm công việc gì ạ?

Cha Hoành đáp:

- Tôi làm ở bưu điện ngay trước cửa Đông Ba. Tên tôi là Hoàng. Các anh cứ gọi Hoàng cho thân mật, được không ạ?

Anh Phan Nam chộp ngay lấy cơ hội:

- Chúng tôi có việc cần đến anh đây, anh Hoàng ạ. Anh cứ đến trước bưu điện Thành Nội đi, lát nữa chúng tôi sẽ vào sau.

Anh Phan Nam quay sang Trọng:

- Công việc trước mắt sắp tới sẽ ngập đầu đấy. Nhà Trọng gần đây, Trọng tạt về thăm bà già một lát, rồi chúng mình sẽ gặp nhau ở trường Gia Hội nhé! Anh em đã chọn nơi đó làm nơi giao dịch của chính quyền mới rồi.

Trọng đáp "dạ" xong lập tức kéo Phố cùng anh về nhà trên đường Tô Hiến Thành để thăm mẹ anh. Cha Trọng bị Pháp giết thời chín năm, mẹ anh không tái giá, ở lại, hai mẹ con nuôi nhau.

Cổng mở, Trọng kéo Phố vào nhà. Phía giữa nhà vẫn là bàn thờ Phật, với một bức ảnh Thích Ca, hai cây nến cháy leo lét. Bình mai vàng trên bàn thờ đang tươi rói, rực vàng. Nhìn quanh không thấy ai, Trọng không nén nổi, gọi to:

- Mạ! Mạ!

Nhà vẫn vắng. Trọng chạy thẳng xuống bếp. Mẹ kia rồi. Mẹ đang đun bếp nấu gì đó. Trọng chạy tới bên:

- Mạ! Mạ! Con đây! Thằng Trọng của mạ đây.

Bà mẹ vội đứng dậy, sững sờ. Trọng ôm chặt lấy mẹ. Bà mẹ không hết bàng hoàng cũng ôm chặt lấy anh, không nói lời nào, hai hàng nước mắt của mẹ thi nhau tuôn chảy. Hai tay mẹ rờ rờ mái tóc Trọng. Mẹ nắm hai vai, hai tay anh, ngó xuống đôi dép lốp dưới bàn chân Trọng, mãi mới thốt lên được:

- Trời Phật, Trọng. Có thiệt con đó không? Có thiệt con không? Nghe nói chúng đã giết con rồi.

- Con đây. Mạ. Con đây. Không, chúng không giết nổi con đâu. Con về với mạ đây nè.

Mẹ vẫn giàn giụa nước mắt.

Nguyễn Tá Phố rưng rưng đứng ngắm cảnh Trọng gặp mẹ, lòng anh xốn xang nhớ tới người mẹ của mình trên đất Hà Trung, đã hơn chục năm nay chưa được gặp. Anh nghĩ, khi gặp mẹ sẽ rất ngỡ ngàng. Mẹ cũng sẽ sờ tóc anh, nắm vai nắm tay anh, rồi giàn giụa nước mắt, cũng thốt lên: "Trời Phật, Phố! Có thiệt đó không Phố?".

Khi Trọng dắt mẹ lên nhà trên, Phố nói nhỏ với Trọng:

- Anh thật là hạnh phúc! Về đến Huế, gặp mẹ ngay, chỉ sau hai năm xa cách. Em xa mẹ em hơn chục năm rồi. Không biết liệu chuyến này, em có gặp mẹ em không?

Trọng đáp:

- Cầu mong Phố cũng sẽ gặp lại mẹ như mình. Dẫu sao mẹ Phố cũng còn chị Hoài, vợ chồng anh Thành và cháu Tâm. Chứ mình đi xa, mẹ heo hút cô đơn, một mình một nhà, một mình một bếp. Chắc mẹ khóc nhiều nên trông mẹ mau già quá.

Lê Hữu Dũng từ ngoài chạy vào:

- Chào mạ. Mạ gặp anh Trọng, vui không?

- Thằng Dũng đấy à? Về thăm ông bà chưa?

- Con đang mắc việc à. Cho chúng con mượn tạm anh Trọng đã mạ nghe - Dũng quay sang Trọng - Anh Trung Chính nói anh Trọng và anh Phố phải tới ngay. Rải rải sẽ về thăm mạ lại.

Nghe chuyện các con, mẹ hỏi Trọng:

- Con về với mạ được bao lâu Trọng?

Trọng đáp:

- Lần này bộ đội mình về giải phóng Huế rồi. Con sẽ ở lại luôn với mạ.

- Ừ, nếu vậy các con đi mô thì đi. à, này Trọng, mạ hỏi con việc này.

- Dạ, mạ cứ hỏi.

- Mạ thấy bọn bộ đội giải phóng về đông quá, nên từ sáng mạ đã mở toang cổng. Đứa mô vô thì vô. Chúng về đông vậy, chắc ăn uống thất thường, mạ định nấu cơm cho chúng ăn được không con?
Trọng ôm vai mẹ:

- Lúc này ai làm được gì cho cách mạng thì cứ làm. Mạ nấu cơm cho các anh bộ đội là tốt lắm rồi, nhà ta sẽ đông khách đó mạ.

- Vậy là mạ thỏa lòng rồi. Các con đi mô thì cứ đi. Mà này, khi mô rảnh rảnh, các con về thăm mạ với nghe. Mạ nhớ lắm đó.

Ba anh em chạy vụt ra ngoài đường.

Anh Chính và anh Phan Nam đang đợi họ ở trường Gia Hội. Vừa thấy Phố và Trọng tới, anh Nguyễn Trung Chính nói ngay:
- Bên phía bắc sông Hương, ta đánh vào Mang Cá, Tây Lộc, đánh vào bọn thám báo. Nói chung hầu hết các căn cứ địch đều bị ta đánh tơi tả, chúng đang co cụm lại, không dám nống ra ngoài, nằm im nghe ngóng và đợi chi viện. Trước cuộc tấn công của toàn miền Nam, chúng đang bị động, chưa có phương sách chống trả, chưa thể chi viện cho nhau. Đây là dịp tốt nhất vận động phong trào quần chúng nổi dậy làm chủ thành phố của mình. Các đội công tác chính trị của chúng ta phải bắt tay vào ngay công việc là vừa.

Anh Phan Nam nói:

- Một trong những đầu mối hoạt động mạnh trong thành phố là chỗ anh Trần Thân Mỹ, ở bên đường Lê Huân. Anh Mỹ dạy ở trường Bồ Đề. Lê Hữu Dũng đây là học trò của thầy Mỹ. Dũng biết nhà anh Mỹ chứ?

- Dạ, biết ạ - Dũng đáp.

- Vậy Dũng đưa anh Trọng, anh Phố qua bên đó. Còn anh Cước ở lại đây với chúng tôi.

Dũng dẫn Phố và Trọng đi ngay.

Đêm hôm qua mồng 1 tết, lợi dụng không khí ngày tết bà con đi thăm viếng nhau, tổ nội thành của Trần Thân Mỹ họp tại nhà cụ Nguyễn Đóa. Anh Loan thành ủy viên đã đợi các anh ở đấy. Nghe báo cáo không khí chuẩn bị đón thời cơ trong nội thành xong, anh Loan dặn: "Phải tỉnh táo, nắm chặt lực lượng trong nội thành và phải tự bảo vệ mình thật tốt, triển khai, kịp thời phối hợp có hiệu quả với cuộc nổi dậy của nhân dân toàn quốc". Nói xong, anh giao cho mỗi người một băng tay nửa xanh nửa đỏ, nhắc ám hiệu để liên lạc, để nhận ra người mình, rồi tất cả chia tay.

Sáng nay Trần Thân Mỹ đang dọn dẹp, hì hục cất giấu máy in rônêô và những truyền đơn chưa phân phát hết, đúng lúc ấy Dũng đưa Trọng và Phố tới. Trần Thân Mỹ lao ra, ôm lấy Trọng và Dũng:

- Mình biết thế nào các cậu cũng về mà.

Dũng khoe thầy một cách hồn nhiên:

- Em dẫn một mũi vào cửa Hữu, băng qua Ngọ Môn, Thượng Tứ, ra đường Trần Hưng Đạo, vào vùng chợ Đông Ba, rồi sang luôn bên Chi Lăng và giờ đã về đây với thầy. Thầy thấy em có xứng đáng là học trò của thầy không ạ?

- Giỏi quá! - Trần nhân Mỹ khen, quay qua Trọng, Mỹ hỏi - Trọng đã gặp lại bà già chưa? Thỉnh thoảng chúng mình có tới thăm cụ. Lần nào cụ cũng hỏi thăm Trọng hoài.

Dũng giới thiệu Phố với thầy. Hai người bắt tay nhau. Phố hỏi ngay:

- Chúng ta sẽ bắt đầu thế nào để quần chúng nổi dậy đây anh Mỹ?

Trần Thân Mỹ:

- Phải gọi loa tuyên truyền chính sách của mặt trận, báo cho đồng bào biết Huế đã được giải phóng, kêu gọi đồng bào nổi dậy.

- Anh đã có chuẩn bị sẵn các phương tiện để tuyên truyền rồi chứ?

Anh Mỹ đáp:

- Hệ thống phát thanh cho học sinh trong trường Bồ Đề tốt lắm. Ta vào trong đó mượn đi.

- Đi qua Thượng Tứ, em thấy một dãy dài xe Jep của Mỹ vất lổng chổng. Chắc chúng quăng xe để thoát thân. Ta ra đó, thế nào cũng kiếm được một cái để đi. - Lê Hữu Dũng nói:

Bốn anh em ra Thượng Tứ, đúng là một dãy xe Jep lổng chổng. Đã lâu lắm hôm nay mới có dịp thong thả để nhìn Ngọ Môn. Ngọ Môn đẹp, hoành tráng làm Phố giật mình. Đêm qua tiến quân qua đây, chỉ lo tìm đường xung phong lên phía trước, vả lại lúc đó trời đang tối bưng, không thấy gì. Nhìn Ngọ Môn bây giờ sao đẹp thế. Phố bỗng lo, những công trình được dân tôn vinh, gọi là Lầu Ngũ Phụng, năm con rồng bay này mà bị bom đạn phá hủy thì tiếc lắm.

Tiếng xe nổ cắt dứt dòng suy nghĩ của Phố. Dũng mở được máy nổ của một chiếc xe Jep. Ba anh em mừng quá. Trần Thân Mỹ gọi:

- Có xe rồi, ta đi thôi Phố ơi. Huế giải phóng, tha hồ mà ngắm các đền đài cung điện cố đô.

Bốn anh em lên vừa một xe. Chiếc xe Jep xịt khói lao đi trong nội thành.

Đến trường Bồ Đề, lấy bộ máy phát thanh ra thì mới biết máy không thể làm việc được, vì không có điện. Cả thành phố mất điện từ đêm qua tới giờ. Alô! Alô mãi, bất lực, bốn anh em nhìn nhau.

Trần Thân Mỹ hỏi Trọng:

- Hình như trước Trọng sinh hoạt ở ty thanh niên thể dục thể thao, bên đó có loa chạy pin, phải không?

Trọng gật đầu:

- Thời mình sinh hoạt, bên đó có hàng chục chiếc loa chạy pin.

Xe Jep Dũng chở phóng thẳng tới ty thanh niên thể dục thể thao. Nhiệm sở vắng ngoét, chỉ có người bảo vệ và ông gác kho có mặt.
Trọng xuống xe, gặp người quen. Bác bảo vệ cầm tay Trọng:

- Tưởng không còn gặp lại anh nữa. Anh lên chiến khu, đội bóng đá thành phố mất một trung phong kiên cường, mất một cây làm bàn.

- Tôi trở lại Huế rồi đây bác. Hiện tại chúng tôi đang cần một thứ, nhờ bác giúp.

- Giúp được gì, chúng tôi sẵn sàng.

- Chúng tôi cần mấy chiếc loa pin cầm tay để làm công tác tuyên truyền.

Bác bảo vệ gọi bác coi kho tới. Bác coi kho lắc đầu nguây nguẩy:

- Đây là tài sản của ty. Nếu tôi để mất, tôi phải bỏ tiền đền.

Nguyễn Tá Phố tới bên chỉ vào băng xanh đỏ, biểu tượng màu cờ giải phóng các anh đeo trên cánh tay:

- Chúng tôi là quân giải phóng về giải phóng thành phố Huế. Chúng tôi hiểu tâm trạng trách nhiệm của bác, chúng tôi viết giấy mượn, có ký tá đàng hoàng thì bác cho mượn chứ.

Bác giữ kho đáp:

- Mong các anh thông cảm cho nghề coi kho của tôi. Nếu các anh làm giấy mượn, tôi xin cho các anh mượn ngay. Mà mượn nhớ trả đó nghe. Nếu không sau này không có cái để giữ trật tự ngoài sân bãi đâu.

- Bác yên tâm, chúng tôi sẽ không để bác phải phiền với cơ quan.

Có loa trong tay, xe Jep phóng trên đường phố, vừa đi vừa gọi loa:

"Đồng bào chú ý, đồng bào chú ý! Chúng tôi là quân giải phóng về giải phóng cho đồng bào thoát khỏi cuộc đời nô lệ, đem đến cho đồng bào cuộc đời của người dân một nước độc lập, thực hiện công bằng, dân chủ, văn minh trên đất nước này, sao cho mỗi người dân đều có cơm no áo ấm, con cái đều được học hành. Từ nay đồng bào sẽ không còn bị ai áp bức, đe dọa nữa".

Nhân dân hai bên đường hé cửa nhìn chiếc xe Jep, mới hôm qua đang còn là của địch, hôm nay đã là của quân giải phóng.

Xe đi dọc đường Đinh Tiên Hoàng, rẽ vào đường Mai Thúc Loan, mấy anh giải phóng thấy xe lạ, đứng ra giữa đường ngăn xe lại. Cả bốn người trên
xe đều giơ cánh tay có đeo băng màu cờ giải phóng lên: "Chúng tôi đi tuyên truyền Huế giải phóng đây".

Các anh bộ đội dãn ra, nhường đường:

- Xin chào các đồng chí đội công tác nội thành.

Trước cửa Đông Ba bộ đội rất đông, rải đầy trên đường Nguyễn Thành, họ ra sức đào chiến hào dọc đường.

Xe Jep đậu ngay trước nhà bưu điện Thành Nội. Thấy người quen, anh Hoàng chạy ra:

- Tôi có thể làm gì để giúp các anh đây?

Anh Trọng nhảy xuống:

- Chúng tôi mượn nhà bưu điện làm trung tâm tuyên truyền trong Thành Nội, anh mở toang cửa giúp chúng tôi đón khách. Sau nữa anh giúp chúng tôi làm một cái chòi phát thanh.

Cửa nhà bưu điện được mở toang. Mất điện nên mọi hoạt động tác nghiệp trong nhà bưu điện đều ngừng lại hết. Anh Hoàng vác thang ra, cùng Phố, Trọng, Dũng và Mỹ leo lên cột điện dựng trên đó một chòi phát thanh.

Tiếng loa từ chòi phát thanh vang lên:

"Huế của chúng ta đã được giải phóng rồi. Tuy thất bại nặng nề, đế quốc Mỹ còn rất ngoan cố. Nhân dân miền Nam Việt Nam, bất kỳ thuộc tầng lớp nào, ngay cả một số người trong ngụy quân, ngụy quyền đều đã nhận rõ bộ mặt thật của đế quốc Mỹ và tay sai, muốn góp sức mình vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Trong lịch sử dân tộc ta, chưa bao giờ khí thế cách mạng sôi nổi như những ngày này. Toàn dân đã đứng dậy, đoàn kết, đứng xung quanh Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Mặt trận Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình.
Nhân dân ta đang ở thế thắng, thế chủ động, thế tiến công, đế quốc Mỹ và tay sai ngày càng bị động, lúng túng và thất bại.
Cuộc tổng tấn công từ đêm qua đến giờ phút này tại Huế đã nói rõ điều đó.
Để giành thắng lợi, đồng bào Huế hãy giúp đỡ, ủng hộ bộ đội giải phóng hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng này tại thành phố Huế thân yêu của chúng ta".


Tiêu đề: Re: Lửa kinh thành
Gửi bởi: hoacuc trong 03 Tháng Tư, 2009, 09:27:13 PM

Phố đứng lên chòi phát thanh. Anh nói giọng Huế pha giọng Bắc một cách nhuần nhuyễn, ngọt ngào, nên từng lời trong giọng anh đầy âm sắc, trên mình anh lại mặc bộ quần áo bộ đội giải phóng, đầu đội mũ tai bèo. Những người Huế đi trên đường xúm quanh chân cột chòi phát thanh ngước nhìn anh đầy khâm phục.

Hết bài phát thanh, Phố xuống thang. Người đứng nghe quây tròn lấy anh. Một cô gái xinh xắn, dịu dàng rất Huế, nói với anh giọng ấm mà thánh
thót:

- Giọng anh đọc phát thanh thật mê hồn.

Mọi người xung quanh anh cười đồng tình. Phố gật đầu, mỉm cười:

- Chào em! Chào bà con!

Cuối ngày 1 tháng 2 năm 1968, tức là ngày mồng 2 tết Mậu Thân, từ các hướng, đúng năm giờ chiều, Ban chỉ huy thành đội đã có mặt đầy đủ ở chùa Từ Đàm. Thành đội trưởng tổ chức một cuộc giao ban đột xuất. Các đồng chí chỉ huy phụ trách các mũi tấn công báo cáo những việc mình đã làm được và chưa làm được.
Thành đội trưởng tóm tắt thông báo:

- Toàn miền Nam đã điểm hỏa đúng giờ G của Trung ương quy định. Trong một ngày một đêm vừa qua tại Huế, có thể nói chúng ta đã làm chủ hoàn toàn thành phố này. Phía bắc sông Hương còn ba điểm chưa dứt điểm. Đó là sân bay Tây Lộc. Ta đốt cháy hơn chục máy bay trong sân bay, nhưng những đồn lính xung quanh ta diệt chưa gọn. Mang Cá, ta mới giải quyết được một nửa thì trời sáng. Ta đã không đánh giá hết lực lượng địch ở đây và đơn vị Hắc Báo trong khu vực nội thành, chúng đã cụm lại. Bên bờ phía Nam cũng còn ba điểm chính, trong đêm nay và ngày mai sẽ phải dứt điểm: Đó là đồn quân cụ phía bên kia cầu An Cựu, ty thẩm vấn trên đường Lê Quý Đôn và khu vực quận 3 của địch. Ai phụ trách mũi nào trở về đơn vị tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tác chiến xong, chúng ta sẽ hỗ trợ quần chúng nổi dậy.

Thành đội trưởng vừa nói xong thì nghe tiếng máy bay rít trên đầu, sau đó là tiếng bom nổ rung đất. Tất cả Ban chỉ huy cùng chạy ra bên sân chùa Từ Đàm hướng về phía bom nổ. Một cột khói dựng lên phía Thượng Tứ.

Thành đội trưởng:

- Cẩn thận, chúng đã bắt đầu phản công chúng ta rồi đấy.

Đêm ấy Nguyễn Tá Thành ở lại Từ Đàm. Đêm Huế yên lặng tưởng như không có trận quyết chiến vừa xảy ra trong một ngày vừa qua. Anh mở ra-đi-ô, xem phía địch nói gì về cuộc tấn công này.

Trần Thân Mỹ trong nhà chạy ra:

- Giọng Phố có sức truyền cảm đặc biệt. Người nghe cảm thụ nhân gấp bốn, năm lần. Hèn chi mới gặp nhau mà anh Trung Chính và anh Phan Nam đã nhất định xin Trung đoàn 9 bằng được cho Phố về đội công tác chính trị nội thành.

Mọi người dãn ra, cô gái xinh đẹp ở lại:

- Khi anh chưa đọc bài phát thanh, mọi nhà đóng cửa. Anh đọc xong, tất cả các cánh cửa mở toang ra kia.

Trần Thân Mỹ đến bên:

- Giới thiệu với Phố, đây là Đoan Trinh đang học đại học trong Sài Gòn, về Huế ăn tết, cũng tham gia ngay vào đội công tác chính trị của chúng mình đó.

Phố hỏi:

- Em, Đoan Trinh, em đang làm gì ở đây?

Đoan Trinh đáp:

- Các anh phân công việc gì thì em làm việc nấy ạ.

Có tiếng Trọng gọi ở nhà bên, trên đường Nguyễn Thành, sát ngay bên tường thành: "Đoan Trinh ơi, các chị tìm Đoan Trinh này". Phố và Mỹ theo Đoan Trinh về chỗ gọi. Các mẹ, các chị nổi bếp lửa xung quanh sân. Những nồi cơm đã được đặt lên.
Một mẹ hỏi:

- Có cơm cho các anh bộ đội. Nhưng thức ăn thì sao đây Đoan Trinh? Cả bát đĩa nữa? Anh em đang đào chiến hào đông, ngần này chén bát ít quá.

Đoan Trinh đáp thật vui vẻ:

- Để em sẽ vào từng nhà vận động bà con là được ngay mà. Các gia đình không đóng chặt cửa nữa rồi, tất cả cổng cửa đã mở, như lòng dân Huế mình đón chờ giải phóng vậy.

Nói xong Đoan Trinh chạy vụt đi. Cô thoăn thoắt vào mấy ngôi nhà cửa để mở dọc phố. Trần Thân Mỹ nói với Nguyễn Tá Phố:

- Đoan Trinh tổ chức bếp ăn này đó. Hết đi kiếm người, mượn đồ, xin gạo, bây giờ lại đi xin thức ăn. Đúng là một cô gái đảm đang - Thấy mắt Phố theo dõi từng bước đi của Đoan Trinh, anh Mỹ cười - Phố cảm người con gái đó rồi hả. Không giấu nổi con mắt của mình đâu.
Phố thú nhận:

- Bây giờ em mới hiểu ra câu ca dao "học trò trong Quảng ra thi, gặp cô gái Huế bước đi không đành" là thế nào. Dịu dàng mà đoan trang. Cởi mở mà kín đáo. Em thấy Đoan Trinh, giống như một phát hiện vậy.

- Nàng khen chàng giọng mê hồn. Còn chàng thì xoắn tít lấy nàng, giống như là một phát hiện. Đẹp đôi đấy. Biết đâu trong cuộc sóng gió tổng tấn công này chẳng nảy ra một mối tình.

- Em không dám nghĩ như anh. Nhưng nếu nói là có cảm tình thì đúng là em có cảm tình. Những cô gái Huế mềm yếu, thường được so với sự nhẹ nhàng, bay bổng của tà áo dài, bỗng cột tóc thề, xắn quần, thắt dây lưng quanh eo, có đeo cả mấy trái lựu đạn và xông vào khói lửa nữa, anh thấy có lạ không?

Anh Trọng cười tủm tỉm:

- Hy vọng mọi sự đều tốt lành. Nào, ta về bên bưu điện bàn tiếp công việc đi.

Về bên bưu điện, ngồi với nhau. Anh Trần Thân Mỹ nói luôn:

- Coi như bộ đội đã giải phóng thành phố rồi. Phát động quần chúng nổi dậy là việc của chúng ta. Để góp phần làm cho quần chúng nổi dậy, chúng ta đã hình thành nhóm làm công tác tuyên truyền đây. Mình xung phong làm nhóm trưởng. Chúng ta sẽ thay nhau đi lấy tin, biên tập tin và phát thanh.

Anh Trọng có ý kiến:

- Công việc nói vậy chứ rất nhiều. Đề nghị anh Mỹ, Dũng tìm thêm, bổ sung người mới gánh vác nổi công việc này.

Đài AFP đưa tin: "Sau một đêm đánh nhau, Việt Cộng đã chiếm chín mươi phần trăm nhân dân thành phố Huế. Ngay từ sáng hôm sau, bộ máy hoạt động chính quyền và cổ động chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã bắt tay vào việc. Rõ ràng họ có một tổ chức mạnh mẽ trong thành phố này, vì thế họ có thể huy động rất nhiều người tự nguyện làm việc cho họ”.

Trong đêm, Thành rà sóng, bỗng anh nghe: "Tại hữu ngạn sông Hương"..., nghe tin đúng chỗ họ nói tới trận địa của đơn vị mình, Thành áp ra-đi-ô vào tai, nín thở nghe: "Một cánh quân khác của địch phối hợp với thành đội Huế đã làm chủ khu tam giác phía nam sông Hương một cách dễ dàng. Địch (tức quân giải phóng) tràn ngập các khu dân chúng và bao vây cô lập các cứ điểm quân sự của ta (quân ngụy). Tuy nhiên địch đã thành công khi chiếm được tất cả các cơ quan hành chính trong đó có cả tòa hành chính tỉnh Thừa Thiên, khu đại học, ngân khố, đài phát thanh...".

Thành thở phào "Bọn địch lấy thông tin nhanh. Không biết có phải chúng chế biến từ những tin tức của đài Giải phóng và đài Hà Nội hay không? Chúng la hoảng lên thế này, cũng đủ làm cho Mỹ và ngụy rụng rời".

Đêm trước Nguyễn Tá Thành bận rộn với công việc của Chị Thừa Một, quên cả chương trình giao thừa. Thành thử giờ cố tìm sóng đài Hà Nội, xem có nghe lại được gì không. Rất may đài Hà Nội đang phát lại lời chúc tết của Bác Hồ trong đêm giao thừa. Thành nín thở nghe bốn câu thơ chúc tết của Bác:
"Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta"


Thành thốt lên với chính mình: "Đúng lời Bác là lời tiên tri" - Anh tự nói với lòng mình: - "Đêm giao thừa nghe thơ chúc tết của Bác không thú vị bằng nghe thơ Bác đêm nay. Vì trong đêm giao thừa Bác mới chỉ là dự báo. Còn bây giờ dự báo ấy đã trở thành hiện thực trên chiến trường".Tiếng ra-đi-ô cứ thủ thỉ bên tai. Mệt quá Thành thiếp đi. Bỗng tiếng súng làm anh thức dậy. Thành đội trưởng đến bên anh lúc nào. Nguyễn Tá Thành ngồi bật dậy. Thành đội trưởng tươi cười:

- Thằng K4 đánh vào đồn quân cụ rồi. Nghe tiếng súng, Thành dự đoán xem nào.

Thành lắng tai nghe, nói:

- Tiếng AK áp đảo quá, chìm hẳn tiếng AR15. Đó, B40 phát hỏa rồi. Lại một hỏa điểm địch bị diệt. K4 thắng rồi anh ạ.

Bỗng hai người ôm lấy nhau trong xúc động.

Thành đội trưởng tâm sự:

- Muốn giải phóng Huế, theo mình có hai căn cứ phải dứt điểm. Phía bắc là Mang Cá và phía nam là trung đoàn thiết giáp ở Tam Thai. Phan Tấn Thọ
đã làm gọn cái Tam Thai rồi. Lợi dụng lúc máy bay đến bắn phá yểm trợ, ba chiếc xe bọc thép chạy vào trong thành phố. Một cái bị bắn cháy ở đầu cầu An Cựu, một cái K4 diệt ở đầu cầu Kho Rèn, một cái bị bắn cháy trên đường Duy Tân. Mang Cá không dứt điểm là gay. Dứt khoát từ mai chúng sẽ đổ quân xuống Mang Cá, củng cố lại thật chắc cứ điểm này. Từ nay khó lòng mà ta có thể san bằng được nó. Vì cái cơ bản là yếu tố bất ngờ đã mất rồi. Rồi cậu xem, chúng sẽ từ Mang Cá đánh ra, có sự hỗ trợ từ bên ngoài, tình hình nội thành không dễ dàng đâu.
Chuyện riêng bỗng chuyển sang bàn về những phương án tác chiến từ lúc nào. Nguyễn Tá Thành bàn thêm:

- ở phía nam sông Hương, có hai địa chỉ chúng ta không được quên, không được lướt qua, đó là nhà lao Thừa Phủ và nhà thờ Phú Cam. Bọn thiên chúa giáo cực đoan, phản động đã chạy hết về đấy. Chắc chắn chúng sẽ tổ chức thành một ổ đề kháng mạnh. Không thể không thận trọng, và sẽ không dễ dàng với chúng đâu.

Thành đội trưởng nói:

- Trước mắt cứ bao vây, nắm tình hình cho chặt. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Nắm cho chắc các biến động, sẽ có phương án tấn công dứt điểm. Bọn cực đoan thiên chúa giáo sẽ dựa vào quyền tự do tôn giáo để gây khó khăn cho chúng ta đấy. Ta làm sai chúng sẽ la ó lên liền. Bằng không chúng sẽ dựng chuyện để vu khống chúng ta. Tôi giao cho cậu việc này. Cậu phải hết sức thận trọng. Đừng để tai tiếng, sẽ dễ bị lợi dụng đấy.

- Dạ. Tôi sẽ cho trinh sát kỹ.

- Còn việc này nữa. Về Huế rồi, phải tranh thủ gặp mẹ con Dung, an ủi chúng. Thấy bộ đội về Huế, chúng mong ngóng cậu lắm đấy.

- Dạ. Cảm ơn anh!

- Thôi, chợp mắt một lát đi. Ngày mai công việc tiếp tục bù óc lên đấy.

Ngay sáng hôm sau K4 đã về ban chỉ huy báo cáo trực tiếp đánh đồn quân cụ thắng lợi.
Nguyễn Tá Thành hỏi:

- Giải quyết tù binh thế nào?

- Chúng tôi đã đưa về phía sau.

- Tình hình chiến lợi phẩm đánh đồn quân cụ. Tôi muốn hỏi về súng đạn thu được của địch?

- Toàn súng bộ binh. Súng thì nhiều nhưng đạn thì ít lắm ạ. Địa phương Hương Thủy lên xin cho lực lượng vũ trang mới thành lập. Chiến lợi phẩm ở đồn quân cụ, chúng tôi đã chuyển hết cho Hương Thủy rồi ạ.
Nguyễn Tá Thành dặn:

- Cuộc chiến còn kéo dài, phải chú ý đến súng đạn của mình một cách hết sức thận trọng.

- Báo cáo anh, mỗi người lính chúng tôi chỉ được trang bị một cơ số đạn, đánh hai đêm một ngày gần hết rồi ạ. Đề nghị thành đội xin Trung ương chi
viện.

Dẫu điều này Nguyễn Tá Thành đã biết, song anh vẫn giật mình.

- Nghe tôi dặn đây. Khi chưa có đạn chi viện, phải hết sức tiết kiệm đạn. Không được bắn vung vãi. Tôi biết có người lính vào giải phóng được Huế, sung sướng quá, giơ súng lên trời bắn hàng loạt. Hãy nhớ là hết đạn, tức là chúng ta kiệt sức chiến đấu đấy!
Người của K4 đi rồi. Nguyễn Tá Thành cho gọi liên lạc lên:

- Các anh cho chuyển ngay thư này về cho K10. Nói K10 tiết kiệm đạn. Diệt xong tiểu đoàn ngụy ở Đồng Di thì hãy lên ngay Huế, góp phần làm chủ Huế hoàn toàn, giúp quần chúng nổi dậy, và lên phương án chuẩn bị đánh phản kích.

Chú liên lạc vụt đi thì thành đội trưởng tới.
Anh phải báo cáo ngay một điều bức thiết:

- K4 nói hai đêm một ngày bắn gần hết cơ số đạn được trang bị rồi ạ.

Thành đội trưởng chưa tìm được câu trả lời, mặt ông lạnh như tiền, đi đi lại lại, giống như những trường hợp tác chiến chưa tìm được đường thoát. Mãi sau, ông đứng lại, đến bên Thành:

- Bảo anh em tích cực dùng súng địch đánh địch.

Tiếng súng phía Tây Lộc bên cánh bắc vọng về. Súng bắn dữ dội. Nhờ có tiếng súng ấy thành đội trưởng và tham mưu trưởng mới dứt được ý nghĩ hết sức nặng nề về súng đạn.

Thành đội trưởng nói:

- Không biết thằng Trung đoàn 6 hay thằng Trung đoàn 9 đánh nốt dứt điểm phía sân bay Tây Lộc đây. Đang đà này đánh tiêu diệt không khó. Mình vẫn lo cái Mang Cá hơn.

Tiếng máy bay cắt ngang cắt dọc trên nền trời. Trên cao là F105. Dưới thấp là trực thăng. Sợ súng bộ binh nên trực thăng không dám bay thấp.
Chín giờ sáng, tin các nơi vừa báo về tới tấp:

- Ta chiếm thêm được ty cảnh sát và nhà máy đèn. Như vậy là dọc đường Lê Lợi và dọc đường Phan Đình Phùng bên bờ nam sông Hương từ ga đến Đập Đá, chợ An Cựu ta đã làm chủ hoàn toàn. Sáu cầu: An Cựu, Kho Rèn, Phú Cam, Bến Ngự, Nam Giao và cầu Ga suốt dọc sông An Cựu đã bị ta chiếm hết.

- Phía nội thành, ta chiếm thêm khu xóm mới Tây Lộc. Trận tập kích bằng hỏa lực mạnh vào sân bay Tây Lộc, 40 trực thăng bốc cháy.

- Một tiểu đoàn của trung đoàn 3 ngụy từ Tứ Hạ đã tung lên phía tây, chiếm Bổn Trì, Bổn Phổ.

- Địch dùng trực thăng đổ ba tiểu đoàn cho Mang Cá, một tiểu đoàn cho sân bay Tây Lộc.

Nghe xong, thành đội trưởng phán ngay:

- Vậy là nó củng cố lại cái Mang Cá rồi. Rồi cậu xem, bắt đầu từ ngày mai, ngày mốt, khi có viện binh, chúng sẽ đánh từ Mang Cá ra. Các nơi đang còn lúng túng, nên chúng mới chỉ điều được quân trong địa bàn Trị Thiên thôi.
Tá Thành nói:

 - Theo tôi, tới đây đánh phải phản kích sẽ căng thẳng lắm đấy.
Thành đội trưởng quyết:

- Tôi với cậu ta thị sát vùng bờ nam sông Hương xem có gì cần thì điều chỉnh cho anh em.

Thành đội trưởng cùng tham mưu trưởng xuôi đường Nam Giao (đường Điện Biên bây giờ) qua cầu Nam Giao đến nhà chính phủ trung phần. Ba chiến sĩ an ninh đang dẫn một toán tù binh toàn là lính Mỹ, có đến 50 tên bị ta chộp gáy.

- Nhìn bọn tù binh Mỹ đã quá, Thành ạ.

- Đúng là một trận đánh vào sào huyệt.

Hai người vào nhà chính phủ trung phần, gặp ngay anh Bảy Khiêm đang tíu tít công việc trong đó. Thấy Thân Trọng Một và Thành, anh Bảy Khiêm khoe ngay:

- Nhờ có quần chúng nhân dân chỉ, chúng tôi đã bắt được Nguyễn Văn Đài đại diện cho chính phủ Bắc Trung Nguyên Trung Phần từng làm tỉnh trưởng Đắc Lắc và Gia Lai, Kon Tum. Ngay sáng nay đã bắt được hàng loạt tên đầu sỏ phản động như Hồ Thúc Tứ ủy viên trung ương Quốc dân đảng, Bảo Lộc phó tỉnh trưởng Thừa Thiên, Trần Điền ủy viên trung ương đảng Đại Việt và nhiều tên Việt gian gian ác khác. Đặc biệt là CIA của Mỹ đưa vào miền Nam Việt Nam. Có tên mới được điều về Huế chưa đầy một tháng.

Anh Bảy Khiêm nói tiếp:

- Điều đáng chú ý là ở chỗ này, tất cả bọn CIA đều có bình phong che chắn. ấy là trên danh chính ngôn thuận trong giấy tờ hành chính chúng đều núp dưới một danh nghĩa hiền lành, kiểu như chúng là một chuyên viên văn hóa, một chuyên gia nông nghiệp, một nhà dân tộc học say mê với vùng Đông Nam Á này. Chúng đến nước Việt Nam chỉ với mục đích cao thượng là góp phần khai hóa cho đất nước này, mang phồn vinh hoặc làm giàu để mưu cầu một đời sống cao rộng cho Việt Nam, chứ bàn tay chúng có dính máu đâu nào. Trong khi đó bọn Việt gian tay sai thì ngụy trang dưới nghề nghiệp ghi trong thẻ bọc nhựa: Thương nhân, thợ cắt tóc, thợ mộc, thợ máy... để che giấu nghề tình báo gián điệp của chúng.
Nguyễn Tá Thành thè lưỡi:

- Thì ra chúng cũng thông minh chuẩn bị cho cả phương án nguy biến như trận tấn công này của
chúng ta.

Thành đội trưởng cười hể hả:

- Cho mình nhìn mặt bọn ấy một chút.

Anh Bảy Khiêm xuýt xoa:

- Chà, không đến sớm. Bắt được bọn nào, mình cho anh em dẫn lên rừng cả rồi. Bảo họ bằng mọi cách đưa ngay ra miền Bắc. Đó là những tài liệu sống ta rút ra từ cái lưỡi của chúng.

Đang nói chuyện thì trinh sát dẫn ba người nước ngoài vào. Anh Bảy Khiêm sửa lại bàn ghế mời họ ngồi.

Anh Bảy Khiêm hỏi:

- Xin cho biết quý danh?

Một trong ba người đáp:

- Tôi là Lefar, hai người bạn tôi đây là Duval và Oxarango.

Anh Bảy Khiêm vui vẻ bắt tay họ:

- Các ông đã từng sống ở Huế và hiện đang dạy văn hóa ở trường trung học Thiên Hựu phải không?

- Dạ, phải. Ông biết chúng tôi?

- Chúng tôi có nghe nhân dân kể chuyện nhiều về các ông.

- Vậy chúng tôi có tội gì mà các ông bắt?

- Xin lỗi, anh em chúng tôi không biết, đã bắt nhầm. Các ông không đánh chúng tôi thì chúng tôi cùng không giữ các ông làm gì. Chúng tôi chỉ trừng trị bọn Mỹ xâm lược và bọn tay sai đắc lực nguy hiểm của chúng thôi.

Anh Bảy Khiêm ngoảnh ra ngoài gọi:

- Anh em trinh sát đâu?

Anh lính dẫn ba người nước ngoài này vào khi nãy chạy tới. Anh Bảy Khiêm hỏi:

- Mình có giữ gì của các ông này không?

- Dạ, có.

Anh lính lấy trong xắc ra một máy ảnh, 60 ngàn đồng tiền ngụy. Anh Bảy Khiêm nhận và đưa cho ba người khách:

- Có phải những thứ này của các ông không?

- Dạ, phải.

- Còn gì nữa không?

- Dạ hết, đủ rồi.

Anh Bảy Khiêm đứng dậy bắt tay họ:

- Xin lỗi nghe. Các ông về. Chúc các ông sức khỏe!

Ba người nước ngoài nét mặt rạng rỡ bước ra.

Nguyễn Tá Thành hỏi:

- Sao anh biết họ kỹ thế?

- Nghề nghiệp của bọn này mà. Phải biết ai là bạn, ai là thù để tranh thủ được những người đồng tình với mình.

- Anh lấy ở đâu những tài liệu ấy?

- Nhân dân cung cấp cho cả - Anh Bảy Khiêm chỉ ra dãy phố trước mặt - Ngày qua tôi với anh đến đây, nhân dân chạy vào nhà đóng kín cửa. Hôm
nay hiểu chúng ta là ai, họ đã mở hết cửa đón chúng ta đấy.

Ngoài cổng, có một ông già nhìn trước nhìn sau không thấy gì nguy hiểm liền chạy tọt vào trong phòng ba người đang ngồi:

- Ông Bảy, ông Bảy.

Anh Bảy Khiêm đứng dậy, bá vai mời ông già ngồi, rót nước mời ông uống.

- Tôi có việc muốn gặp riêng ông Bảy.

Anh Bảy Khiêm chân tình:

- Đây là anh em tôi cả. Toàn người tin cậy. Có gì ông cứ nói.

Ông già vẫn rụt rè ngó hai người khách kia. Chợt ông vui hẳn lên:

- Có phải ông Thân Trọng Một không?

Thành đội trưởng đứng dậy.

- Dạ, tôi đây.

- Tôi nhận ra ngay mà. Cái sẹo kia với gương mặt kia làm sao chúng tôi quên được. Ông Một không biết chúng tôi nhưng nhân dân Huế, ai mà không biết tiếng Thân Trọng Một.

- Rất cảm ơn ông và bà con Huế.

- Có cả ông Một nữa thì tốt quá. Tôi muốn nói với các ông rằng Trần Đình Thưởng, tỉnh phó tỉnh Thừa Thiên ấy, hiện đang ở nhà hắn. Đây là một tên Việt gian khét tiếng, không thể không trừng trị. Để lọt lưới hắn thì nguy hiểm lắm.

- Nhà hắn ở đâu?

- Ngay số 3 Nguyễn Hoàng (hiện là nhà Văn hóa phường Vinh Ninh, đường Phan Bội Châu).

Anh Bảy Khiêm liền điều một tổ trinh sát đến ngay số 3 Nguyễn Hoàng. Các anh nghiên cứu kỹ đường ra, đường vào, không để cho Trần Đình Thưởng có điều kiện trốn thoát. Thận trọng, một lính trinh sát đứng trước cửa nhà, dùng loa gọi vào:

- Chúng tôi là quân giải phóng về giải phóng cho Huế đây. Chúng tôi biết, hiện thời, ông Trần Đình Thưởng, tỉnh phó tỉnh Thừa Thiên đang ở trong nhà. Chiểu theo chính sách nhân đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, chúng tôi yêu cầu ông Trần Đình Thưởng hãy ra đầu thú ngay để hưởng chính sách nhân đạo của mặt trận.

Người trong nhà Thưởng trả lời:

- Ông Thưởng không có nhà.

Ông già nói với anh Bảy:

- Thưởng đánh bạc suốt hai đêm giao thừa và đêm mồng 1. Thưởng đang còn trong nhà chưa đi đâu cả.

Loa của người trinh sát lại gọi vào:

- Chúng tôi biết ông Thưởng đang có trong nhà. Mấy đêm nay ông đánh bạc.

- Chúng tôi nói rồi, ông Thưởng đi vắng.

- Nếu quả thật ông Thưởng đi vắng thì hãy cho chúng tôi vào kiểm tra.

- Muốn kiểm tra cứ vào.

Bọn ngoan cố bao giờ cũng nguy hiểm. Anh lính trinh sát vừa vào cửa thì lựu đạn ở tầng trên quăng xuống và đạn bắn xối xả. May anh đã đề phòng nên tránh kịp.

Loa bên ngoài lại gọi vào:

- Ông Thưởng đang có trong nhà. Nếu đầu thú sẽ được hưởng chính sách khoan hồng. Nếu ngoan cố, chống lại, buộc lòng chúng tôi phải nổ súng.
Trả lời tiếng loa ấy, là súng trên tầng hai bắn xuống quyết liệt. Không còn cách nào khác, tổ trinh sát được lệnh bắn trả. Người lính trinh sát luồn lách, lợi dụng cơ hội tốt nhất, quăng liền một lúc ba quả lựu đạn lên tầng trên. Tiếng súng im bặt.

Ba anh trinh sát an ninh nhảy lên tầng hai. Trần Đình Thưởng và hai tên lính cận vệ đè nhau chết trong gầm giường. Các anh xuống nói với gia đình Thưởng:

- Ông Thưởng ngoan cố chống trả, bắn quân giải phóng, đã bị tiêu diệt. Chúng tôi cho phép gia đình tổ chức lễ tang cho ông ấy.

Vợ con Trần Đình Thưởng lúc ấy mới òa khóc. Nhưng những giọt nước mắt đã muộn màng.

Chia tay anh Bảy Khiêm, thành đội trưởng và tham mưu trưởng đi thị sát dọc đường Lê Lợi. Nhà tỉnh trưởng Phan Văn Khoa, tòa tỉnh trưởng, ngân khố... cả một dãy đường phố Lê Lợi, đâu cũng toàn bộ đội ta.

Trên đường phố, một chiếc xe Jep vừa đi vừa kêu gọi đồng bào giúp đỡ bộ đội và tuyên truyền chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng:

"Kẻ thù nguy hại nhất của nhân dân ta hiện nay là đế quốc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai bán nước. Nhiệm vụ và mục tiêu trước mắt của chúng ta là: Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ ngụy quyền tay sai, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc và dân chủ rộng rãi.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam sẵn sàng đón mời các lực lượng và cá nhân chống Mỹ và yêu nước hãy nhập mặt trận để cùng nhau gánh vác nghĩa vụ chung. Lực lượng nào vì lẽ này hay lẽ khác, không tham gia mặt trận thì mặt trận đề nghị thực hiện liên hiệp hành động để chống kẻ thù chung là bọn xâm lược Mỹ và tay sai của chúng".

Cánh cửa nhà hai bên đường phố mở toang. Người ra đường khá đông. Nhà nào cũng treo cờ. Đủ các loại cờ: Cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, cờ phật, cờ đuôi nheo, cả cờ ngũ hành dành riêng cho ngày lễ, ngày hội. Các ngả đường đều rực lên sắc cờ.

Thành đội trưởng nói:

- Cứ nhìn màu cờ cũng đủ biết nhân dân sẽ nổi dậy mạnh mẽ.

- Khát khao giải phóng, cũng như thời kháng chiến chín năm khát khao độc lập tự do đã thành tiềm thức của dân Huế. Đụng tới đầu múi khát vọng
ấy là bật dậy.

Hai người vào đài phát thanh của ngụy ngay bên đầu cầu Trường Tiền. Trừ bộ đội gác cổng, trong nhà cơ quan không một bóng người. Một lá cờ giải phóng cỡ lớn cắm ngay trên cột trước sảnh nhà.

Máy bay trực thăng vẫn bay rợp trời, nhưng chúng không hề nổ súng. Lính ta sẵn sàng bắn trả nhưng chúng bay cao quá. Bọn trực thăng nhìn thấy hết cờ rực rỡ trên khắp đường phố. Có lẽ nhiệm vụ của chiếc OV10 bay tít trên cao là xem xét và theo dõi.

Đứng trong phòng phát thanh của đài phát thanh, Nguyễn Tá Thành nói với thành đội trưởng:

- Chiếm đài phát thanh mà không chuẩn bị người để làm việc, tôi e cuộc tấn công nổi dậy không có ý chiếm hẳn, không có ý giải phóng hẳn, giải phóng lâu dài anh ạ.

- Mình cũng nghĩ như vậy. Hay các ông ở trên sợ ảnh hưởng tới khí thế của lính, nên không nói tới phương án rút lui? Tấn công, giải phóng mà thiếu đạn là cả một vấn đề.

Hai anh ra tới cổng thì gặp tiểu đoàn phó tiểu đoàn 815 của Trung đoàn 9 đi tìm. Gặp thành đội trưởng, anh ấy vui lắm, cứ ríu rít.

- Không ngờ đánh vào thành phố thế chúng ta như thế chẻ tre. Phòng ngự của chúng thật mỏng. Không kể các căn cứ chủ chốt cắm trại, lính các đồn bỏ về nhà ăn tết hết. Ta đánh đâu được đấy! Chúng tôi vượt qua cầu Nam Giao, bọn lính không biết gì, đang ngáp lên ngáp xuống ngái ngủ. Tiểu đoàn liền chia ba cánh. Một cánh chiếm ngay nhà chính phủ trung phần. Một cánh phát triển lên phía ga Huế, đồn Bò Ghè, một cánh đánh vào tòa tỉnh trưởng. Không đầy ba giờ đồng hồ, làm chủ trận địa hoàn toàn.

Thành đội trưởng hỏi:

- Có việc gì cần phối hợp mà các anh đi tìm chúng tôi?

- Đoàn 9 với Đoàn 5 cùng đánh khu tam giác phía nam sông Hương là vui rồi. Nhân ngày chiến thắng, anh Đát tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 815 chúng tôi có mở một bữa tiệc rượu ăn mừng chiến thắng. Anh Đát cho tôi đi mời các anh. Lên Từ Đàm thì nói về nhà chính phủ trung phần. Đến nhà chính phủ nói các anh xuống đây. Gặp các anh là may lắm. Mời thành đội trưởng và tham mưu trưởng thành đội về liên hoan mừng chiến thắng với anh em tiểu đoàn 815 chúng tôi.

Nguyễn Tá Thành hỏi:

- Các anh tổ chức liên hoan ở chỗ nào?

Tiểu đoàn phó 815 đáp:

- Dạ, ở ngay trong trường Đồng Khánh ạ.

- Ta đi chứ anh? - Thành nói với anh Một.

Anh Một gật đầu:

- Họ đã mời thì cứ tới xem thế nào.

Tiểu đoàn phó vui vẻ:

- Các anh nhận lời cho là quý hóa quá rồi. Từ sáng tới giờ anh Đát cho anh em hậu cần đi kiếm quanh Huế, đủ nhậu. Có cả thịt chó nữa ạ.
Anh Đát ra tận cổng đón thành đội trưởng. Anh dẫn ngay thủ trưởng đến phòng tiệc:

- Chỉ còn thiếu mình anh. Tôi đã cho mời tất cả cán bộ tiểu đoàn từ trung đội trưởng trở lên đã có mặt hết. Ăn mừng giải phóng Huế, thật là xứng đáng, phải không anh? Không ngờ lại có được cả Nguyễn Tá Thành nữa càng vui. Giải phóng Huế, một kỷ niệm không thể nào quên anh ạ.
Thân Trọng Một không nói gì. Mặt ông lầm lầm rất khó hiểu, không biết ông bằng lòng hay không bằng lòng, chỉ thấy cái gậy cầm tay của ông chống mạnh xuống đất và những bước đi nặng nề. Ông không đi vào cửa chính giữa phòng mà đi vào cửa hông từ dưới đi lên.

Hội trường của trường Đồng Khánh rộng, chứa được dăm trăm học sinh. Bàn học sinh từ các lớp được chuyển tới sắp xếp thành một hàng bàn rộng từ đầu hồi bên kia đến đầu hồi bên này. Khăn trải bàn trắng tinh. Trên mặt bàn la liệt thức ăn được bày trên đĩa lớn. Đủ loại. Thịt lợn cắt phay, thịt gà bóp, thịt vịt chặt từng miếng lớn, và cả thịt chó dậy mùi thơm phức. Xanh xà lách. Đỏ ớt và cà chua. Trắng hành. Một bàn trên cùng đầy rượu Napoleon. Có lẽ các anh vớ ở đâu một hầm rượu. Tất cả thực đơn bày sẵn, chỉ còn chờ khách.

Các sĩ quan tiểu đoàn 815 đứng dạt sang hai bên tường rất lễ phép. Chỉ chờ được lệnh là ngồi vào bàn.

Thân Trọng Một dừng lại bên bàn rượu. Ông đưa mắt quay một vòng nhìn tất cả. Các sĩ quan lâu nay mới nghe chuyện ông đã yêu mến rồi. Bây giờ ông đang ở trước những cặp mắt thán phục ấy. Thân Trọng Một không nói không rằng. Ông bỗng giơ cao cây gậy trong tay, đập vỡ ngang những chai rượu ngoại kêu "choang, choang!". Chai vỡ, mảnh văng xuống đất loảng xoảng. Đập xong đến chai cuối cùng, giọng ông như quát:

- Các anh không biết rằng, chỉ một quả bom, một quả đại bác rơi vào đây, liệu chúng ta có còn sức chiến đấu nữa hay không? Chết những sĩ quan là như rắn mất đầu. Ma quỷ nào xui các anh mở ra những cuộc tiệc tùng này?

Các sĩ quan đứng xung quanh, mặt mày đang hồng hào, bỗng trắng bệch. Họ bỗng nhận ra những điều sơ hở. Tiểu đoàn trưởng Đát đứng bên ông run lên. Run không phải vì sợ, mà vì nhận ra trách nhiệm của mình.

Thân Trọng Một hét lên:

- Giải tán hết. Người nào về đơn vị người nấy. Cuộc chiến đấu tiếp theo những bữa tiệc tùng của các anh ở đó.

Tất cả mọi người tản ra hết. Thân Trọng Một không nói thêm một lời, chống gậy đi thẳng ra cổng. Tiểu đoàn trưởng Đát đứng đó nhìn theo cảm thấy lạnh xương sống, rùng mình.

Trên đường về chùa Từ Đàm nơi đóng chỉ huy sở thành đội, đến ngang chợ Bến Ngự, Thân Trọng Một quay lại nói với Nguyễn Tá Thành:

- Ngày hôm nay còn đang yên ả. Bên bờ sông An Cựu này là đường Phan Đình Phùng. Cậu chạy về bà dì thăm mẹ con Dung một cái đi, mẹ con nó chờ mỏi cả mắt rồi đó.

Thành đội trưởng nhắc, Nguyễn Tá Thành chợt nhớ đến vợ. Không phải hai ngày nay ở Huế anh không nhớ tới Dung. Nhưng công việc ngập đầu, toàn việc chết người. Anh là một trong những người cầm quân, nắm trong tay số mệnh của họ, không nỡ bỏ họ đi. Được lệnh, anh cùng chú liên lạc, bứt ra, rẽ trái theo đường Phan Đình Phùng đi về phía chợ An Cựu. Đến đúng cổng nhà có cây hoa hòe, anh đẩy cổng bước vào. Nhà sao trống vắng quá? Anh gọi:

- Dì ơi dì!

Bà dì từ sau nhà đi lên:

- Thành đó hở con?

Thành hỏi:

- Dì có khỏe không?

- Ơn Trời Phật, dì vẫn sống qua ngày được. Mẹ con con Dung chờ con suốt ngày hôm qua. Hôm nay, mẹ con nó bồng bế nhau về quê rồi. Nó gửi lại cho con cái thư đây nè.

Bà dì lấy trong áo ngực ra lá thư đưa cho Thành. Thành mở ra đọc ngay.

"Thành yêu quý của mẹ con em!
Hai mẹ con em mong anh vô cùng. Bé Tâm cứ nhắc hoài: "Sao ba chưa về hả mẹ? Con thấy bộ đội giải phóng về đầy đường rồi". Biết công việc của anh nên chẳng thể trách. Bất cứ lúc nào em cũng không muốn làm vướng chân anh. Nhất là trong thời chiến tranh này.
Bom đạn thế này mà không ở bên mẹ để trông nom mẹ, đã vậy lại vắng anh, em không thể đang tâm. Em hiểu em phải thay anh trong lúc này. Cho nên nghe yên yên tiếng súng phía Phú Vang, em tranh thủ bồng con về với mẹ.
Em biết, sớm muộn gì anh cũng về thăm mẹ con em. Thời buổi chiến tranh, không lúc nào quên nhau là tốt rồi.
Em về.
Mong gặp lại anh ở Hà Trung.
Nhớ anh nhiều.
Em Dung, vợ anh".


Bức thư làm Thành rạo rực cả người. Vừa thương vợ, vừa nhớ con.
Bà dì nói:
- Nó về với mẹ mày lúc này là phải con ạ. Có được con vợ hiếu thảo, thủy chung như thế còn đòi gì nữa. ở đây với dì, không ngày nào mẹ con nó không nhắc tới con, thật là tội nghiệp.

Trạm thông tin của Phố trong nhà bưu điện trước cửa Đông Ba được nâng cấp thành cơ quan ủy ban khởi nghĩa quận 1. Khách ra và vào rất đông. ủy ban được cử thêm người. Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường về, cũng được điều động tăng cường cho quận Nội Thành.
Những cuộc họp được tổ chức liên miên. Hết bàn về tuyên truyền, lại bàn về kêu gọi binh lính ngụy ra đầu thú, quay trở về với cách mạng. Hết bàn về mít tinh tổ chức đồng bào nổi dậy, lại bàn về thành lập chính quyền cách mạng trong thành phố.

Anh Nguyễn Trung Chính về thăm ủy ban khởi nghĩa quận 1, Nguyễn Đắc Xuân thành thật hỏi:

- Cán bộ của lực lượng nổi dậy làm gì ở đây ?

Xuân và Tường đã từng hoạt động trong phong trào thành phố. Tường hoạt động trong phong trào sinh viên. Xuân có mặt trong đủ mọi hoạt động phong trào sinh viên Huế. Từ đoàn sinh viên quyết tử đến đoàn học sinh ứng chiến, từ đoàn công chức xung kích cho tới binh lính Sài Gòn về nghỉ phép tại Huế lập nên chiến đoàn Nguyễn Đại Thức thì Xuân cũng có mặt. Anh là người hành động cho nên lúc nào cũng sôi nổi.
Biết Nguyễn Đắc Xuân rất rõ, anh Chính bảo:

- Mấy năm tranh đấu ở Huế cậu làm gì thì bây giờ hãy cứ làm như thế.

Xuân nói:

- Hồi ấy còn sinh viên sẵn cái máu tự phát, chúng tôi thấy việc chướng tai gai mắt thì chống lại. Mà đã làm thì có cái trúng cái trật. Sau những ngày lên xanh, đã hiểu được phần nào công việc, nhưng tấn công nổi dậy, nói đúng ra là chưa thật rõ.

Anh Chính bảo:

- Cái gì thấy trúng thì cứ làm. Cái gì có lợi cho dân, cho cách mạng thì làm mấy cũng được. Làm được càng nhiều càng tốt.

Nguyễn Tá Phố thích cái tính thẳng thắn, cương trực của Nguyễn Đắc Xuân nên gần Xuân hơn:

- Trong lúc anh đang suy nghĩ sẽ làm gì thì anh đi tuyên truyền cương lĩnh của Mặt trận với em đi.

Thấy chàng giải phóng vui vẻ, nhanh nhẹn, chân tình, Xuân đồng ý ngay. Hai anh em nhảy lên xe Jep, cho xe qua cửa Đông Ba, ngược Hàng Bè ra đường Trần Hưng Đạo, qua chợ Đông Ba vào cửa Thượng Tứ, vừa đi vừa phát loa:

"Những người, những nhóm hoặc đơn vị ly khai ngụy quân, nếu tình nguyện gia nhập lực lượng võ trang giải phóng để chống Mỹ, cứu nước thì đều được hoan nghênh và đối xử bình đẳng.
Những người trong ngụy quân và ngụy quyền các cấp đã phạm tội ác với nhân dân, nhưng thật thà hối cải thì được khoan hồng. Ai lập công chuộc tội thì tùy thành tích mà được khen thưởng thích đáng.
Sĩ quan và binh lính ngụy quân bị bắt làm tù binh thì được đối xử nhân đạo và được hưởng chính sách khoan hồng".


Hai bên đường phố rực cờ. Giống như bên bờ nam sông Hương, đủ loại cờ. Đồng bào đã hạ cờ ba que của ngụy để treo cờ Giải phóng. Nhà nào chưa sắm kịp cờ Giải phóng thì treo cờ Phật, cờ ngũ hành, cờ đuôi nheo. Dân ào ra đường phố rất đông. Xe Jep của Phố chạy ngoằn ngoèo, tránh phải, tránh trái rất điệu nghệ.

Xuân hỏi:

- Chú mày tập lái xe từ bao giờ mà tay lái thành thạo thế?

- Lê Hữu Dũng mới dạy em có hai ngày một đêm. Suốt đêm qua em tập ở sân kỳ đài trước Ngọ Môn.

- Khá. Thời buổi kỹ thuật thuộc về thế hệ các chú rồi đó.

Phố nhìn Xuân:

- Còn em thì thích cái tính thẳng thắn không che đậy của anh. Bọn trẻ đứng trước mấy ông lãnh đạo cứ thụt thụt, thò thò, còn anh, em thấy cứ
thẳng băng, nghĩ sao nói vậy.

Xuân cười:

- Cái hèn của bọn thanh niên Huế là đứa nào cũng tôn sùng một tí máu phong kiến trong máu mình cho nên nhiều lúc sống không thật lòng. Còn anh, đi làm cách mạng chỉ để kiếm bốn chữ: công bằng và dân chủ. Cách mạng mà không công bằng, dân chủ thì ta về ở với ngụy chứ làm gì chịu ăn đói, mặc rách, suốt ngày len lỏi trong chốn rừng sâu ấy làm gì.

- Em phục tư cách ấy của các anh lắm.

- Tốt. Phục tức là biết mà hướng tới. Tau cũng rất tin ở lớp chú mày. Dám gạt hết mọi thứ để xông vào nơi mũi tên hòn đạn. Mà này, Phố, tau nghe mấy đứa nói Đoan Trinh mê em lắm mà. Phải không?

- Cũng chưa đến mức độ ấy.

- Mới phải lòng nhau chứ gì?

- Chữ ấy thì đúng anh ạ.

- Tau ủng hộ. Bởi vì tau đã yêu rồi. Nàng ấy tên là Kim Bội. Đến nỗi trên rừng, mỗi bữa đến chỗ nàng về, tau nhìn mỗi chiếc lá rừng đều là mắt của Kim Bội cả. Chú mi với Đoan Trinh xứng đôi, vừa lứa lắm. Đã yêu thì cứ đến với nhau đi. Tau rất đồng tình với hai chữ hiện tại: Tiếng sét ái tình. Đúng là tiếng sét thật. Rụng rời cả trái tim.

Câu chuyện hai anh em đang dở dang phải dừng lại vì xe của Phố đã đậu ngay trước đám đông quần chúng Huế đến dự cuộc mít tinh đầu tiên trong Thành Nội, ước chừng khoảng năm trăm người. Lễ đài thật giản đơn, chỉ có mấy cái bàn kê cao. Song ai cũng cảm thấy thiêng liêng, vì họ đang được sống tự do và trên đầu họ là ngọn cờ của Mặt trận Giải phóng phấp phới bay.

Anh Phan Nam đứng trên lễ đài nói:

- Thưa đồng bào. Bây chừ cách mạng đã về với đồng bào đây. Về giữa ban ngày, giữa nội thành của chúng ta không cần lén lút.
Chỉ vậy thôi mà trên khóe mắt cả năm trăm người hầu như ai cũng rưng rưng. Đang bị kìm kẹp, bỗng tự do òa đến. Cầm lòng sao được.

Có một giọng ai đó đứng dưới, hỏi:

- Bây giờ chúng tôi cần làm gì cho cách mạng đây?

Tiếng vỗ tay hoan hô câu nói mang tính đại biểu ấy. Anh Phan Nam đáp:

- Nhân dân ta có một câu nói rất hay: quân với dân như cá với nước. Quân như cá, dân như nước. Không có nước thì cá không sống nổi. Bộ đội cách mạng từ chiến khu về đây rất cần sự giúp đỡ của đồng bào, từ ăn uống tới hầm hố để chiến đấu. Bà con thấy mình làm gì tốt cho bộ đội thì cứ làm.
Anh Phan Nam nói tiếp:

- Chúng ta đã lật đổ chính quyền ngụy rồi. Để thật sự làm chủ cuộc sống tự do của mình, đề nghị đồng bào đề cử và bầu lên một chính quyền của nhân dân để cùng dân sát cánh bên bộ đội chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.

Tiếng vỗ tay đồng tình vang lên.

Kết quả cuộc bầu cử tự do, nhân dân quận 1 Huế đã lựa chọn được cho chính quyền quận mình được ba người: Anh Nguyễn Hữu Vấn là giáo sư âm nhạc Huế làm chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng và hai ủy viên ủy ban.

Ba người lên trước lễ đài ra mắt quần chúng. Anh Nguyễn Hữu Vấn nói:

- Bà con đã tín nhiệm chúng tôi. Vì độc lập, tự do, cơm no áo ấm của bà con, chúng tôi sẽ hết lòng. Trước mắt chúng ta phải ủng hộ giúp đỡ bộ đội về giải phóng Huế và ổn định đời sống trong quận chúng ta. Nếu nhân dân trong quận 1 có thắc mắc gì, cứ lên thẳng quận, bà con được hoàn toàn thực hiện quyền dân chủ của mình.

Góp vui cho ngày ra mắt của chính quyền quận 1, đoàn văn công giải phóng Trị Thiên lên biểu diễn giúp vui cho ngày thành lập chính quyền mới.
Đoàn văn công không áo quần lòe loẹt mà tất cả đều mặc đồng phục áo quần bộ đội giải phóng. Nhưng tất cả các gương mặt đều tươi trẻ. Nhân dân tò mò nhìn ngó đoàn văn công khác thường trong quan niệm của họ. Ai cũng chăm chú xem họ làm gì.

Tiết mục đầu tiên là ngâm thơ bài: "Người cầm súng" của Thanh Huyền. Cô gái nghiêng mũ tai bèo, xốc súng đeo trên vai, cười rất tươi:

"Nếu ai hỏi vì sao tôi cầm súng
Tôi trả lời một lẽ giản đơn thôi
Vì thù chung phải trả, nợ máu phải
đòi..."

Tiếng vỗ tay vang lên. Không ngờ cô gái mặc bộ đồ quân phục kia đúng giọng ngâm thơ ngọt ngào của Huế, và đặc biệt nói được tâm trạng vùng lên của người Huế trong mùa xuân Mậu Thân này.
Tiếp đó là điệu hò mái nhì. Cô gái trên sân khấu như đang thong thả đẩy mái chèo trên sông Hương.

"Thuyền từ Đông Ba, thuyền qua Đập Đá
Băng về Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sình
Thuyền đi mang chiến công anh
Chiến công càng đẹp càng xanh tre làng
Bến đò xưa vẫn đêm đưa ngày đón
Cô gái Nong, Truồi đang chằm nón bài thơ
Câu thương, câu nhớ, câu đợi, câu chờ
Hẹn ngày giải phóng nón bài thơ em trao chàng"


Người xem bỡ ngỡ, ngỡ ngàng không ngờ các cô gái lạ kia lại hò mái nhì đúng giọng hò của Huế hay đến thế. Tiếng vỗ tay bật vang lên. Một bà già cảm động nói:

 - Lâu lắm rồi mới lại được nghe hò mái nhì xứ Huế mình. Mà lại do chính đoàn văn công giải phóng hát. Rõ ràng quân giải phóng về giải phóng Huế là người của mình rồi.

Từ dưới sân khấu, mọi người liên tiếp ném tiền lên sân khấu tặng cho người mới hò mái nhì. Đó là cái lệ đi nghe hát từ xưa: quăng tiền "thưởng" ca sĩ hát hay mà đến bây giờ Huế đang còn giữ phong tục ấy.

Một bà già ra phía đằng sau sân khấu tìm ca sĩ hò mái nhì. Bà ôm lấy cô ca sĩ:

- Có phải mẹ con sinh con ra trên phá Tam Giang không mà con hát hay vậy hả con? - Nói rồi bà cứ ôm cô ca sĩ mà khóc.
Ngoài sân khấu tiếp tục diễn ca cảnh "Lá cờ".

Nội dung ca cảnh này kể về một bà mẹ Huế mù lòa sống trong lòng địch. Bà cất giữ một lá cờ giải phóng bằng cách may nó vào trong áo. Nhiều năm trải qua, hết lính ngụy khủng bố, đến lính Mỹ càn quét, qua bao vất vả, gian lao, có lúc tưởng như địch đã sắp phát hiện ra, vậy mà bà mẹ mù lòa đã tìm đủ mọi cách để giữ lá cờ nguyên vẹn. Khi quân giải phóng về bà đã trao nó cho quân giải phóng với lời nhắn nhủ:

- Lá cờ này là niềm tin của mẹ, là hy vọng của mẹ. Sống trong lòng địch nhiều lúc mẹ không biết có giữ nổi nó không. Nay các con về, mẹ gửi niềm tin, hy vọng của mẹ cho các con, các con hãy giữ nó cho mẹ.

Bà con xem dưới sân khấu đều kéo vạt áo lau nước mắt.

Nguyễn Tá Phố đang xem ca cảnh này, thì bỗng có ai đứng phía sau kéo tay anh. Phố ngoảnh lại, người kéo tay Phố không phải là ai khác đó là Đoan Trinh. Phố theo Đoan Trinh ra ngoài, hai người đứng bên gốc cây.

Đoan Trinh hỏi:

- Eo ơi, con trai xem kịch mà cũng khóc kia à?

Phố nói:

- Hình ảnh của người mẹ mù lòa trên sân khấu chính là mẹ của anh đấy. Khi cha anh dẫn anh ra Bắc tập kết, ông trao cho bà lá cờ Tổ quốc, hẹn rằng cứ giữ lòng, hai năm sau ông sẽ về. Mẹ giữ lá cờ trong áo như vậy. Có điều mẹ ngóng trông cha hơn chục năm nay mới đỏ mắt chứ chưa mù.

- Anh về Huế đã gặp lại mẹ chưa?

- Chưa. Mẹ ở tít mãi thôn Hà Trung dưới Phú Vang kia. Anh mong gặp mẹ lắm mà chưa gặp.

- Bữa nào anh đưa em về thăm mẹ với nghe. Bây giờ bà mẹ giấu cờ cũng là mẹ em rồi.

Phố để yên bàn tay cho Trinh cầm. Anh lấy bàn tay kia của mình nắm lấy cổ tay Đoan Trinh:

- Tại sao em có cảm tình với anh, Trinh?

Trinh kề miệng nói sát tai Phố. Phố cảm thấy rõ hơi nóng từ miệng Trinh đang phả vào má anh:

- Vì thanh niên bây giờ mang bộ đồ giải phóng là niềm ngưỡng mộ của chúng em và vì giọng phát thanh mê hồn của anh đã hút hồn em rồi. Người có giọng trong vang và ấm nhất thiết phải là một người đàn ông dũng cảm, trung thực. Anh dám bỏ miền Bắc, cầm súng vào chiến trường, chẳng là một người đàn ông dũng cảm, trung thực đó sao? Còn anh, sao lần gặp nào đôi mắt anh cũng đắm đuối nhìn em vậy?

- Vì em đẹp. Nét đẹp dịu dàng của một cô gái Huế. Một cô gái Huế thời đại: mang lựu đạn trên lưng. Em đẹp và can đảm thế làm sao anh không đắm đuối được?

Bỗng dưng Đoan Trinh ôm choàng lấy anh, ôm thật chặt trong vòng tay mình:

- Em không thể dối lòng mình được nữa rồi Phố ạ. Em yêu anh.

Phố cũng ôm chặt lấy Đoan Trinh. Cơ thể nóng rực của hai người truyền qua nhau. Chợt Phố nói:

- Anh bỗng thấy sợ, Đoan Trinh ạ.

Trinh hỏi:

- Anh sợ gì ?

- Anh sợ nếu trong cuộc chiến này chẳng may anh chết thì anh vĩnh viễn mất em.

- Đừng nói gở anh.

- Ừ, anh sẽ sống. Nhưng nếu sống mà không có em, mất em, anh sẽ không hiểu mình sẽ lang thang lưu lạc như thế nào.

- Không. Chúng mình sẽ luôn ở bên nhau. Mà nếu lỡ ra em có cụt chân, cụt tay anh có bỏ em đi với người khác không?

- Không! Không! Anh sẽ nuôi em, sẽ chăm sóc em suốt đời. Sẽ ở bên em mãi mãi.

Cuộc vui trong bãi mít tinh đã tan. Mọi người ùa ra. Lúc ấy Nguyễn Tá Phố với Đoan Trinh mới rời tay nhau ra. Mấy người trong ủy ban khởi nghĩa đã ngồi lên xe Jep của Phố. Đoan Trinh nói:

- Anh phải ra đưa các anh ấy về đi.

Phố ôm lấy đầu Trinh hôn lên môi cô:

- Mai lại gặp em yêu nhé.

Đêm ấy về, Phố ngủ chung với Đắc Xuân một hầm. Phố nằm đó, hai mắt chong chong, không thể nào chợp mắt được. Phố cứ trở mình hết bên này đến bên kia. Đắc Xuân ôm lấy Phố hỏi:

- Tối nay gặp Đoan Trinh phải không?

Phố không từ chối:

- Dạ.

- Vậy là dũng cảm. Hai đứa đã nói gì với nhau chưa?

- Chúng em đã nói được một lời quan trọng nhất trong đời: "Anh yêu em" và "Em yêu anh".

- Hèn chi trằn trọc mãi không ngủ được là phải.

- Cũng giống như anh khi nhìn vào ngọn lá rừng nào cũng thấy mắt Kim Bội, cứ hễ chợp mắt, là lại mở bừng mắt ra.

- Yêu là vậy đấy.

- Đoan Trinh còn nói với em là hôm nào ngừng bom đạn, phải đưa Đoan Trinh về Hà Trung thăm mẹ em, và hôm ấy hai đứa sẽ công khai cho mẹ biết là chúng em yêu nhau.

- Ôi! Chắc bà già em sẽ vui lắm.

- Em cũng nghĩ như vậy - Chợt Phố nói thành lời - Đoan Trinh ơi! Nhất định anh sẽ đưa em về thăm mẹ.

Đắc Xuân và Phố lên khỏi hầm vào trong nhà thì pháo từ Mang Cá bắn ra tới tấp. Một quả trúng ngay miệng hầm hai người nằm ngủ với nhau đêm qua.

Xuân cười, bảo Phố:

- Mạng hai anh em mình lớn lắm Phố ạ. Nếu không, hai đứa đã bị vùi trong căn hầm đó rồi.

Trong ngày hôm ấy địch mở năm mũi tấn công. Hai mũi ngoại thành và ba mũi trong Thành Nội.

Một tiểu đoàn của trung đoàn 3 ngụy chiếm Bổn Phủ, Bổn Trì ngày hôm trước, từ đó băng qua Kim Long, băng qua cầu Bạch Hổ tấn công vào đường Trần Hưng Đạo. Một tiểu đoàn từ Tứ Hạ tấn công vào An Hòa.

Trong Thành Nội, quân địch xuất phát từ Mang Cá, chia thành ba mũi tấn công ra ba cửa An Hòa, Chánh Tây, Cửa Hữu. Chúng thừa biết đây là ba cửa thành nối với chiến khu.

Quân ta phục kích ở Phu Văn Lâu, An Hòa và dọc đường Tây Lộc, Yết Kiêu đánh tan tác cả năm mũi tấn công của quân địch. Chúng chưa hết hồn về trận tấn công đêm mồng 1, lại gặp thế trận phục kích quyết liệt có trong dự án, nên chúng hốt hoảng tháo lui, súng đạn, xác chết vất bỏ bừa bãi.
Khi tiếng súng trận đã lắng xuống, Chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng quận 2 Trần Thăng ngồi trên xe Jep đi dọc phố Chi Lăng gọi loa:

"Đồng bào quận 2 chú ý. Thay mặt ủy ban, tôi xin thông báo cho đồng bào biết. Sáng nay Mỹ, ngụy tấn công vào thành phố năm mũi đã bị quân giải phóng đánh thiệt hại nặng. Chúng đã phải rút lui. Xong âm mưu chiếm thành phố Huế chưa hết. Chúng tôi kêu gọi đồng bào giúp bộ đội hai việc thiết thực. Một là lo cơm nước cho bộ đội đầy đủ để có sức đánh giặc. Hai là mọi người đều chú ý đào hầm hố tránh đạn cho gia đình mình và giúp bộ đội đào chiến hào, để quân địch có kéo vào thành phố như ngày hôm nay sẽ bị đánh tơi tả, giữ gìn sự ổn định trong thành phố chúng mình".

Nghe theo lời kêu gọi của chính quyền, các mẹ, các chị xung phong vào đội nấu cơm cho bộ đội. Nhà nào có gì mang tới nấy. Một đòn bánh tét, một khúc chả đòn ăn tết đang còn. Nhà có gạo đem gạo. Nhà có rau đem rau. Ông Thông nghèo nhưng cũng ủng hộ quán cơm giải phóng mười tám nghìn đồng. Bếp nổi lửa. Các mẹ, các chị bắt tay vào việc như họ hàng vào ngày giỗ tổ. Ai cũng hào hứng, phấn khởi làm hết sức mình.
Thanh niên đường Tô Hiến Thành gọi nhau:

- Anh em ơi, đi đào chiến hào giúp bộ đội đi.

- Mỗi mét chiến hào là một chiếc huyệt chôn thây bọn xâm lược và bọn Việt gian.

Thanh niên kéo nhau ra đầy đường. Bộ đội tới hướng dẫn thanh niên đào những đường hào theo thế trận.

Xẻng cuốc trong tay những thanh niên khỏe mạnh, nhiệt tình, chẳng mấy chốc những đường chiến hào ngoằn nghèo trên đường phố hình thành và mỗi lúc một sâu dần.

Cùng với việc đào hào như cả một công trường lớn, khắp các khu phố, ngụy quân ngụy quyền xếp hàng có trật tự, lần lượt lên khai bản khai tự thú với chính quyền.

Tại ủy ban khởi nghĩa quận 1, quận Nội Thành, trước cửa Đông Ba, lính ngụy đến tập trung cả trăm người. Ngay phía sau bàn khai báo, cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng được treo như một khẩu hiệu lớn:

"Những người trong ngụy quyền, ngụy quân các cấp đã phạm tội ác với nhân dân, nhưng thật thà hối cải thì được khoan hồng. Ai lập công chuộc tội thì tùy thành tích mà được khen thưởng thích đáng".

Đứng trước cả trăm ngụy quân, chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng quận 1 rất dõng dạc nói chuyện với mọi người:

- Trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, mặt trận rất hiểu, ngoài một số rất ít cam tâm làm tay sai đắc lực cho Mỹ, ngụy, trở thành những tên Việt gian bán nước, còn tất cả các anh em vì miếng cơm manh áo, vì vợ đìu con díu, cả vì ngộ nhận nữa, không vì lý do này thì lý do kia bắt buộc phải cầm súng đứng vào hàng ngũ địch. Mặt trận Dân tộc Giải phóng hiểu rất rõ hoàn cảnh ấy. Thì việc tự thú khai báo này là lúc các anh bộc lộ hết tâm trạng mình. Kể cả những người có tội, thì đây là dịp thuận lợi nhất để hối cải. Ai thành thật hối cải sẽ được mặt trận cho hưởng chính sách khoan hồng.

Tiếp sau lời anh Nguyễn Hữu Vấn là anh Nguyễn Đắc Xuân. Giọng anh Xuân rất hùng hồn:

- Thưa các bạn, tôi đã từng sống chung một thời với các bạn, tôi biết. Tôi có một người bạn hiền lành làm thơ tình mộng mị, không may bị bắt làm lính ngụy rồi trở thành những tên lấy việc giết dân làm nghệ thuật sống của mình. Có bạn thanh niên phóng túng luôn luôn tìm đến cái mới, ước mơ về cái đẹp, mong có dịp theo cách mạng để trở thành người chiến sĩ kiên cường. Anh mua sắm tư trang để lên đường, không ngờ trên đường từ Đông Hà vào Huế bị trúng đạn của du kích Phong Điền. Anh chết, được một đơn vị ngụy quân truy điệu như một chiến sĩ có thành tích chống Cộng. Nói tóm lại trong xã hội vong quốc nô, ta không còn được là ta nữa. ở Huế, trong lòng địch quá khứ hiện tại đã thế, rồi tương lai cũng không khác được. Do đó món quà ta tặng cho nhau hôm nay đầy ý nghĩa là tạo cho nhau một cơ hội trở về với dân tộc, tham gia cách mạng để giải phóng quê hương mình.

Đắc Xuân dừng lại một lát, nói tiếp:

- Cho đến tết Mậu Thân này đã ba lần tôi được chứng kiến những sĩ quan binh lính của quân đội Sài Gòn đầu hàng đầu thú. Lần thứ nhất vào năm 1963 sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, những binh lính sĩ quan phục vụ dưới trướng gia đình Ngô ra trình diện với lực lượng sinh viên tranh đấu (đa số là sinh viên Phật tử). Lần thứ hai vào mùa hè 1966 lúc phong trào ly khai với chính phủ Thiệu - Kỳ, những binh lính sĩ quan (đủ binh chủng) của quân đội Sài Gòn về Huế nghỉ phép xin ra trình diện với lực lượng sinh viên tranh đấu và hình thành nên chiến đoàn Nguyễn Đại Thức, chống lại quân đội dưới tay Thiệu - Kỳ. Đến tết Mậu Thân này là lần thứ ba. Lần này quân đội ra trình diện với lực lượng cách mạng thành phố để trở về với chính dân tộc mình. Hình thức không dị biệt mấy. Nhưng tính chất hoàn toàn khác nhau. Rất mong các bạn không để lỡ dịp này.
Anh em binh lính ngụy ngồi nghe vỗ tay hoan hô. Một lính ngụy giơ tay xin lên nói:

- Thưa quý vị và các bạn. Anh Nguyễn Đắc Xuân đã là người của cách mạng, nhưng hôm nay anh nói là nói hộ lòng chúng tôi. Vào những ngày đầu tiên cách mạng về giải phóng Huế này, tôi đã đi trên các đường Tôn Thất Thiệp, Trần Quốc Toản, Ông Ích Khiêm, Cột Cờ, Mai Thúc Loan, Nguyễn Thành, đâu cũng thấy ngổn ngang súng ống, áo quần, giấy tờ, xe cộ nhà binh, nhất là xe honda, có chiếc còn đang nổ máy. Nhìn khung cảnh ấy, tôi đã nhận ra số mạng của mình. Lúc này đây, được sự khoan hồng của Mặt trận, tôi xin làm giấy khai hết rồi về với gia đình, vợ con.

Ba bàn tự khai đầu thú xếp ngang nhau. Phố lấy giấy bút đưa cho người lính ngụy vừa phát biểu. Anh viết xong, cầm nộp cho ông Chủ tịch Nguyễn
Hữu Vấn.

Nguyễn Hữu Vấn nói:

- Chúng tôi xin nhận lời khai của anh. Việc tự thú của anh đã xong, mời anh về nhà sống với vợ con. Nếu có gì thắc mắc, cứ lên văn phòng quận 1, chúng tôi hứa sẽ giải quyết đến nơi đến chốn.

Sau người thứ nhất, cứ lần lượt ba người lên ba bàn tự khai. Khai xong nộp giấy, được tự do trở về.
Lính ngụy tự khai về chừng một phần ba. Một người lính ngụy trao giấy cho Chủ tịch Nguyễn Hữu Vấn xong, anh hỏi:

- Thưa ông chủ tịch, tôi có một đề đạt được không ạ?

Chủ tịch quận 1 trả lời:

- Xin anh cứ trình bày, chúng tôi nghe đây.

Anh lính ngụy mạnh dạn hẳn lên:

- Tôi còn trẻ, chưa vướng víu vợ con. Tôi xin được gia nhập quân đội giải phóng, được không ạ?

- Rất tốt. Xin anh đề nguyện vọng ấy vào ngay tờ khai của mình.

- Dạ, tôi ghi đầy đủ rồi ạ.

- Vậy tôi, chủ tịch xác nhận và chấp nhận nguyện vọng của anh. Chủ tịch ký. Ngày mai mời anh có mặt tại ủy ban quận để chúng tôi đưa anh tới đơn
vị quân giải phóng mà anh mong muốn.

- Đa tạ ông.

Chủ tịch Nguyễn Hữu Vấn giơ tờ khai có đề đạt nguyện vọng lên trước mặt, nói với mọi người:

- Ai có nguyện vọng gì cứ ghi đề đạt của mình vào ngay trong giấy khai. Tôi xin bảo đảm nguyện vọng của các anh sẽ được chấp nhận thỏa đáng.

Lần lượt mọi người lên khai. Nguyễn Tá Phố đứng phát giấy cho họ, anh quan sát từng nét mặt thấy không ai tỏ ra đăm chiêu, mọi người rất hồ hởi, nhất là khi chủ tịch quận phán cho một câu ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa: "Việc khai của anh đã xong, mời anh về với gia đình, vợ con".
Phố nói với người bạn đứng cạnh:

- Thiếu tiếng trống nữa sẽ thành ra ngày hội.

Phố ngước nhìn ngọn cờ nửa xanh nửa đỏ tung bay, đây là lần đầu tiên anh thấy lá cờ giống như một bàn tay đang vẫy gọi. Phố cứ đứng thế ngây người nhìn, vui với phát hiện của mình.
*
*   *

Trong ngôi nhà chỉ huy thành đội ở chùa Từ Đàm rất yên tĩnh.

Nguyễn Tá Thành vừa đi thị sát mặt trận về, thành đội trưởng hỏi ngay:

- Có tình hình gì mới không?

Thành đáp ngay:

- Không ngờ ban cán sự sinh viên mật của Ngô Yên Thi, Trần Văn Hòa, Lê Phước Thúy mới được thành lập tháng 10 năm 1967, vậy mà bây giờ họ hoạt động rất hiệu quả. Ban cán sự tập hợp sinh viên, học sinh cho ra đời tổ chức đội công tác thanh niên Huế, giống y như thanh niên xung phong tình nguyện của ngoài Bắc vậy. Với khẩu hiệu "Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên", đội viên đội công tác thanh niên đội mũ tai bèo, đeo băng xanh đỏ trên cánh tay. Chỗ nào có việc là có họ. Họ làm sống lại cả thành phố. Đúng là tuổi trẻ đang chờ đợi trong không khí mới, được huy động đúng chỗ.

- Cậu thử nói đôi việc cụ thể xem nào.

- Hậu quả của bom đạn mấy ngày nay là thương bệnh binh của quân đội và nhân dân, họ đi vận động các bác sĩ, xin thuốc, thành lập trạm cấp cứu nhân đạo. Rồi chính họ đến từng nhà dân chuyển thương binh tới cho bác sĩ chạy chữa. Còn bộ đội ta, bận chiến đấu chưa đưa đến phẫu tiền phương được thì họ chuyển giúp chúng ta lên trạm phẫu Nam Giao. ở đâu có băng xanh đỏ trên cánh tay là ở đó có tiếng cười, có nhiệt tình, hăng hái. Anh coi, đấy chính là thê đội hai của quân đội chúng ta.

Chuyển sang công việc chính của thành đội, thành đội trưởng hỏi:

- Cái ty tư vấn với quận lỵ quận 3 sao rồi?

Thành đáp:

- K10 đang vây chặt. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Nghe chừng trong ấy chúng núng lắm rồi. Có lẽ chúng sẽ phòng thủ chặt.

Thành đội trưởng nói:

- Tuy chưa có viện binh từ bên ngoài. Nhưng hôm nay chúng đã huy động mấy tiểu đoàn tấn công bên Thành Nội năm mũi. Dĩ nhiên năm mũi đã bị bẻ gãy.

- Cho nên tôi mới tính, nếu để lâu, lỡ tình thế bên ngoài có lợi, chúng sẽ đánh từ trong ra, ta sẽ lúng túng. Chi bằng xin phép anh tối nay cho K10 dọn sạch hai cứ điểm ấy đi.

- Phương thức tấn công?

- Bên trong chúng núng tức là hoang mang cực độ, chỉ huy không bảo nổi lính nữa. Lính thì bao giờ cũng tính toán giữa sự sống và cái chết. Bọn lính không có lý tưởng thì bao giờ cũng sợ chết. Tối nay ta sẽ bước đầu gọi loa binh vận. Nếu binh vận được thì nhất, đỡ tốn đạn, lại cứu được nhiều mạng sống. Bần cùng ta phải dùng hỏa lực mạnh để tấn công dứt điểm.

- Báo cho dưới ấy biết phương án tác chiến.

- Tôi đã bàn tất cả nội dung ấy với ban chỉ huy tiểu đoàn 10 rồi. Anh em đã cầm chắc cái thắng trong tay chỉ còn đợi lệnh thành đội trưởng.

- Nhớ hợp đồng hai bên cùng nổ súng một lúc.

- Rõ.

Giữa lúc ấy có điện của tiểu đoàn 815, xin mời sĩ quan tham mưu xuống cùng ban chỉ huy tiểu đoàn bàn phối hợp giải phóng nhà lao Thừa Phủ.
Thành đội trưởng quyết định ngay:

- Báo cho K10 giờ nổ súng, rồi cậu xuống bàn ngay với K815 đi.

- Dạ.

Cho liên lạc chuyển chỉ thị tác chiến đến K10, Nguyễn Tá Thành xuống ngay Ban chỉ huy tiểu đoàn 815 đang đóng ở trường Đồng Khánh. Anh Đát đang đợi anh ở đấy. Ngồi vào bàn, Nguyễn Tá Thành nói:

- Bên an ninh chỗ anh Bảy Khiêm, đứng về phía nghiệp vụ, họ nắm chặt. Hai chúng ta thử lên anh Bảy Khiêm xem có sáng sủa gì hơn không.
Nghe phải, anh Đát đứng dậy. Hai anh chưa kịp uống nước liền đi ngay. Anh Bảy Khiêm đang trực tại nhà chính phủ trung phần. Anh Đát vào chuyện:

- Đến nay chưa giải phóng được lao Thừa Phủ, biết bên anh rất quan tâm việc này, chúng tôi xuống bàn với để cùng lên kế hoạch.
Anh Bảy Khiêm tỏ ra nắm rất chắc:

- Trong lao Thừa Phủ có hai nghìn ba trăm tù nhân. Đa số là cán bộ của chúng ta và quần chúng cách mạng. Ngoài ra còn có lưu manh trộm cắp, cướp của giết người của xã hội Mỹ ngụy miền Nam. Trong kế hoạch tấn công Huế có phương án giải phóng nhà lao. Có thể nói đó là lực lượng nòng cốt của cách mạng mà kẻ địch đang cầm tù. Trong thời gian nắm tình hình, phân loại, ta đã tổ chức được ban cán sự mật trong nhà lao gồm có anh Trình, anh Trực và một số cốt cán khác. Kế hoạch của chúng tôi sẽ là ngoài đánh vào, trong đánh ra, phối hợp phá ngục. Chắc chắn địch sẽ chống trả quyết liệt vì địch chọn lính cho nhà lao toàn là bọn cực đoan, ác ôn cả. Nguy hiểm nhất là chúng đã đặt mìn clâymo khắp nơi, khắp chốn trong nhà lao. Sợ nhất là khi bị đẩy vào thế bí, chúng chỉ cần bấm máy điểm hỏa là hơn hai nghìn người trong đó sẽ bị thủ tiêu hoàn toàn.
Nguyễn Tá Thành bàn vào:

- Các anh đã tính đến phương án trong khí thế ta đánh vào Huế, địch tan rã hết, số còn lại đang trong tình trạng hết sức hoang mang dao động chưa?

Anh Bảy Khiêm tán thành:

- Đúng. Chúng tôi, bên an ninh cũng đã có bàn phương án đó. Trước lẽ sống chết, bọn lính đi đánh thuê bao giờ cũng nghĩ tới mạng sống cả. Đấy là một yếu điểm của địch và là thế mạnh của ta.

Anh Đát đồng tình:

- Thế nghĩa là ta sẽ làm công tác địch vận?

- Địch đã bắt đầu có kế hoạch phản công. ở đâu có thể chậm được chứ lao Thừa Phủ càng không nên chần chừ. Ta quyết định giải quyết dứt điểm trong đêm nay đi.

Anh Đát hỏi:

- Nếu binh vận không thành công thì ta tính sao ?

Anh Bảy Khiêm nói:

- Sau binh vận chúng sẽ hoang mang thêm. Tôi nghĩ rằng lúc ấy trong nhà lao sẽ có biến cố. Nếu nhận được tín hiệu trả lời từ bên trong, anh em nổi dậy, lúc ấy đòn quân sự bên ngoài sẽ mang tính quyết định.

Góc trường trung học Đồng Khánh gần kề góc lao Thừa Phủ. Chỉ cách mấy chục mét, rất gần. Kế hoạch binh vận được thực hiện ngay trong đêm. Vào lúc tám giờ tối, loa bắc trên tầng hai của trường, chĩa thẳng sang bên nhà lao, bắt đầu gọi:

"Hỡi anh em binh lính trong nhà lao Thừa Phủ. Chúng tôi là quân giải phóng Trị Thiên về giải phóng thành phố Huế thân yêu của chúng ta đây. Ta chiếm quận lỵ Phú Lộc, cắt đường giao thông từ Đà Nẵng ra, bắn thiệt hại nặng sân bay Phú Bài. ở Huế hầu hết các cứ điểm đã bị san bằng. Duy nhất chỉ còn một nhà lao Thừa Phủ đang còn trong tay các anh".

Loa dừng lại xem bên lao Thừa Phủ có động tĩnh gì không. Lẽ ra loa như thế này, đạn bên đó sẽ bắn sang như mưa. Ngược lại tất cả đang im phắc. Năm khẩu AK đã lên đạn sẵn sàng bảo vệ loa phát thanh đã chĩa hết nòng về phía nhà lao, sẽ sẵn sàng dập tắt ngay bất cứ hỏa lực nào khi chúng nhả đạn.

Loa phát tiếp:

"Nhà lao Thừa Phủ làm sao so được với khách sạn Hương Giang, làm sao so được với sân bay Phú Lộc, sân bay Phú Bài. Hỏa lực của chúng tôi thừa sức san bằng nhà lao này. Nhưng phải nói rằng chúng tôi nghĩ tới mạng sống của anh em binh lính và tù nhân. Mặt trận sẵn sàng mở lượng khoan hồng với bất cứ ai dù đã có tội lỗi, nay hối cải trở về với lẽ phải, trở về với dân tộc. Các anh hãy mở cổng nhà lao để anh em chúng ta gặp nhau, và các anh sẽ được trở về với vợ con, gia đình ngay tức khắc. Mặt trận kêu gọi các anh hãy mau chóng nhận ra con đường trở về với dân tộc".

Bên nhà lao vẫn không trả lời, nhưng nghe rất rõ các tù nhân đang kêu gọi binh lính hãy đoàn kết lại, mở cửa nhà lao cứu giúp đồng bào mình. Bọn lính, giám thị trong nhà lao cũng không đàn áp.

Anh Bảy Khiêm nói:

- Tác động tâm lý thế là được rồi. Hãy chờ đợi, nhất định sẽ có biến.

Đúng nửa đêm, một người lính ngụy trong nhà lao trốn ra đầu hàng. Anh ta nói:

- Từ lao ra bên ngoài có một con đường hầm bí mật. Tôi mới ra bằng con đường ấy đây. Tôi sẽ dẫn các anh vào.
Nguyễn Tá Thành hỏi:

- Tình hình anh em binh lính trong lao thế nào?

Người lính ngụy đáp:

- Mọi người đều hoảng hốt từ mấy ngày nay rồi. Ai cũng muốn trở về với cách mạng. Thấy nhà lao không được cứu viện, anh em binh lính trong ấy bảo nhau: "Rõ ràng tình thế khác rồi". Nhưng bọn chỉ huy trong nhà lao nhất nhất không đồng tình. Chúng sợ bọn chỉ huy cấp trên.

Anh Đát cử trinh sát theo người lính ngụy chui vào con đường hầm, kiểm tra tình hình cụ thể. Quả nhiên có một đường vào bí mật. Bộ đội ta đã mật tập vào trong nhà lao, đánh úp ngay bọn chỉ huy, rồi từ đó, phá cửa các phòng giam cho tù nhân ào ra. Đêm ấy ta giải phóng nhà lao một cách nhẹ nhàng không tốn mấy viên đạn. Điều quan trọng là không hề đổ máu mà giải phóng được cho cán bộ cốt cán và quần chúng cách mạng của mình.
Cán bộ cốt cán của ta trong nhà lao có chừng năm trăm người. Vừa ra khỏi nhà lao, các anh òa ra gặp cán bộ, bộ đội ta đang đứng đón ở bên ngoài.
Anh Bảy Khiêm cười nói:

- Các anh bình yên cả chứ?

Thế là người hai bên lao vào, ôm chầm lấy nhau, khóc. Một anh trong tù ra nói:

- Được giải phóng khỏi nhà tù rồi, các anh hãy phát súng ngay cho chúng tôi để chúng tôi đứng vào đội ngũ.

Lập tức năm trăm khẩu súng được đưa tới trao cho từng người.

- Các anh cứ nhận súng đi, ngày mai các đơn vị sẽ tới đón các anh về từng đơn vị. Xin nói trước là không có thì giờ đâu. Các anh sẽ chiến đấu ngay tức khắc đó. Bao nhiêu việc đang chờ chúng ta kia.

Đang trong cảnh vui phá ngục, thì pháo ầm ầm nổ ở Tứ Hạ, Phú Bài, Mang Cá vọng tới. Những vùng sáng rực lên trời giống như lời chào của chiến dịch gởi tới những người vừa từ địa ngục trần gian trở về.


Đoan Trinh đến tìm Phố đã khuya lắm.

- Em đi đâu về khuya thế? Quần áo, chân tay lạnh hết cả rồi - Phố hỏi.
Trinh thì thầm:

- Đội công tác thanh niên Huế chúng em đi đến từng nhà, vận động bà con cứ làm việc bình thường. Ai trồng rau, cứ ra đồng trồng rau. Ai có quán bún cứ mở bán bún. Ai đi chợ, cứ đi chợ. Miễn là ở mỗi chỗ làm đều có một hố tránh bom đạn cá nhân. Bà con đồng ý hết. Cuộc đời này bao nhiêu vụ việc cần trao đi, đổi lại hàng ngày. Không thể để nó ngưng trệ anh ạ.

- Đội công tác thanh niên Huế làm một việc tốt quá. Người nào cũng cứ ngồi ru rú ở nhà thì còn gì là một thành phố giải phóng nữa - Phố kéo tay Đoan Trinh ngồi xuống bên anh - Còn em, công việc ngày mai bù đầu, bây giờ em nằm đây với anh ngủ đi một giấc lấy sức khỏe. Ngày mai bao nhiêu công việc đang chờ em đấy.

Trinh đáp:

- Không. Con gái Huế kín đáo, e lệ, nhưng không dối trá. Em đến với anh táo bạo, khác với lẽ thường của con gái Huế rồi đó. Em đã làm đúng lòng em. Tuy nhiên, em không thể dấm dúi, giấu cha mẹ. Anh cũng là chàng trai rất đàng hoàng. Em muốn đêm nay còn yên tĩnh, hai đứa mình về ra mắt ba mẹ em ngoài Hương Trà để ông bà mừng.

Phố ngần ngừ:

- Nhưng anh đã có cuộc hẹn ngày mai với anh Trần Thân Mỹ và anh Lê Thúy.

- Quan trọng hơn việc của anh và em à?

- Không biết chuyện gì, nhưng anh đã nhận lời. Anh không muốn thất tín.

- Thì sáng mai anh về sớm.

- ừ, thôi đi.

Phố vùng dậy. Chỉ một lát sau hai người đã băng qua Thành Nội, ra cửa Đông Ba, tắt Hương Sơn, ra Hương Trà. Đêm yên tĩnh. Tiếng pháo ta bắn vào Phú Bài, Nam Giao, Tứ Hạ, Mang Cá, phía địch nằm im không trả lời.

Đi trên cánh đồng Hương Trà, Phố khen:

- Em giỏi đường thật đấy. Anh theo ba đi tập kết lúc mới mười tuổi, không biết về làng Hà Trung có bị lạc không. Còn đường từ Huế về anh mù tịt.

- Cho nên chưa dám nghĩ tới đường về, nhất là trong lúc đang súng đạn quyết liệt này?

- Quả thật nhiều lúc anh lo sẽ về thế nào đây.

- Việc ấy cứ để em, em sẽ đưa anh về tận Hà Trung thăm mẹ.

- Thế thì tuyệt.

Đoan Trinh dẫn Phố về đến nhà nhưng cả ba mẹ Đoan Trinh đều đi vắng cả. Hỏi thì mấy đứa em trả lời: Ba mẹ nói đi công tác. Không có đầu múi nào để tìm, hai người đành ngồi nhà chờ. Mãi gà gáy canh hai ông bà mới về. Thấy Phố, mẹ Đoan Trinh nhanh nhảu hỏi ngay:

- Phải Phố không?

Phố đáp:

- Chào hai bác, cháu Phố đây ạ.

Bà mẹ vui vẻ:

- Đoan Trinh đã nói với hai bác tất cả rồi. Thời buổi bây giờ thanh niên được tự do yêu đương. Tuy nhiên cả hai phải chọn cho mình một con người đàng hoàng.

Đoan Trinh đệm vào:

- Anh Phố là người đàng hoàng lắm. Hôm nay con đưa anh ấy về ra mắt ba mẹ đây.

Ba Đoan Trinh trong ánh đèn, nhìn Phố rất kỹ, đoạn hỏi:

- Có đúng ba cháu là Nguyễn Tá Thôn không?

- Dạ, đúng ạ.

- Hèn chi, nom giống quá. Vậy ba cháu là bạn của bác trong kháng chiến chín năm. Ba cháu đi tập kết, còn bác tổ chức yêu cầu ở lại. Thế cũng đủ để bác yên tâm cho phép hai đứa gần gũi để tìm hiểu nhau rồi. Từ nay Phố đã được coi là con cháu trong nhà, không phải e dè gì nữa.

Được đà Đoan Trinh hỏi:

- Hai chúng con về khi đêm. Ba mẹ đi đâu, gần sáng mới về vậy?

Ba Đoan Trinh vui vẻ:

- Nghe Phú Tài, Phú An, Phú Thiện, Phú Hòa, Phú Hội bên Phú Vang, quần chúng nhân dân đã nổi dậy vây đồn giặc đòi chồng con về, Hương Trà mình nóng cả ruột. Lại nghe ngoài Phong Bình, Phong Chương ngoài Phong Điền nhân dân tập hợp, tổ chức xuống đường, bị trực thăng ngăn chặn, bắn dữ dội phải giải tán. Hương Trà mình học Phú Vang. Đêm nay ba mẹ và các cốt cán đi vận động từng gia đình có con em đi lính, ngày mai tập hợp đòi con em trở về nhà. Ngày mai hai con ở nhà, cùng dân Hương Trà nổi dậy nghe.

Phố ngồi ngây, lúng túng đang định nói thì Đoan Trinh hiểu ngay, cô giữ Phố lại:

- Việc của anh Mỹ, anh Thúy quan trọng bằng việc anh ra mắt ba mẹ em à? Ra mắt chỉ một lần, còn công việc thì cả ngàn việc. Ngày ra mắt là ngày
Hương Trà nổi dậy, thật ý nghĩa - Đoan Trinh không đợi Phố trả lời, cô nói ngay với ba mẹ - Ngày mai hai chúng con ở nhà xuống đường với dân Hương Trà ba mẹ à.

Hôm sau, mới sáng mờ mờ, dân Hương Trà đã tập trung xung quanh đồn Phủ Thờ mấy trăm người. Mọi người đều đồng thanh hô lớn:

- Các con ơi, Huế giải phóng rồi, các con hãy trở về với gia đình nuôi cha mẹ. Cha mẹ già rồi, không trông chờ ở các con thì trông chờ ở ai.
Các chị phụ nữ giọng trong hơn:

- Anh ơi, lính trong thành phố Huế đã trở về với vợ con họ hết rồi, anh còn đóng trong đồn làm gì nữa?

Ông dắt theo bà, vợ dắt theo con, hết người này đến người kia thay nhau gọi tên chồng, tên con. Bọn chỉ huy trong đồn mang theo súng ra bắn dọa để đàn áp. Vì chúng hiểu đụng tới cha mẹ vợ con lính sẽ có biến.

Mặc cho súng nổ, đồng bào cứ xông lên, vây chặt cổng đồn Phủ Thờ. Cuối cùng bọn lính phải rút vào đồn cố thủ.

 Dẫu không kéo được chồng con về, nhưng bọn lính hống hách lâu nay bắt đầu phải im tiếng, rút vào thu giấu trong đồn cũng đủ làm cho khí thế quần chúng vùng dậy. Ngay trong buổi sáng hôm đó dân ba xã Hương Bình, Hương Thanh, Hương Thái đã đứng lên làm chủ hoàn toàn làng xóm mình. Thanh niên, sinh viên, học sinh trong các xã này gặp các cán bộ ủy ban khởi nghĩa xin gia nhập quân giải phóng rất đông.

Các bàn cho ngụy quân, ngụy quyền ra khai báo tự thú được lập nên ở khắp thôn làng.

Một người lính ra tự thú tâm sự:

- Tôi sống ở miền Nam yên ổn, chỉ vì Việt Cộng xâm lược miền Nam nên tôi mới đi lính để chống lại, chứ tôi có thích gì súng đạn.

Lúc người lính này nói có Phố đứng bên, anh giật mình tự nhủ: "Đúng là giọng điệu của bọn phản động".

Anh liền hỏi người lính:

- Anh có đi học đấy chứ?

- Dạ, có.

- Học hết lớp mấy rồi?

- Tôi mới học đệ ngũ thì nghỉ học vì gia đình không có điều kiện.

Phố hỏi:

- Anh có học lịch sử đoạn nói về vua Quang Trung lên ngôi Hoàng Đế ở Phú Xuân rồi đem quân ra Hà Nội đánh quân Thanh đấy chứ?

- Dạ, có.

- Vậy khi vua Quang Trung đưa quân Phú Xuân ra Bắc diệt hai mươi vạn quân nhà Thanh thì phải chăng vua Quang Trung xâm lược miền Bắc?
Người lính cúi đầu. Hình như anh ta đã nhận ra sự hớ hênh của mình. Biết vậy, Phố bỏ qua. Đoan Trinh đứng bên chỉ cho người lính thấy chiến hữu của hắn khai báo xong, nhận giấy về, cô nói:

- Liệu các anh bắt được Việt Cộng, anh có thả tự do cho họ về với gia đình như thế kia không?

Người lính im lặng. Đoan Trinh nói tiếp:

- Đó là chính sách khoan hồng nhân đạo của Mặt trận. Ai lầm đường, ai đã có sai trái, nhưng thấy được lỗi của mình đều được Mặt trận khoan hồng.
Từ không khí giải phóng náo nhiệt, trở về nhà, Đoan Trinh hỏi Phố:

- Anh thấy ngày anh ra mắt cha mẹ vợ có nhiều kỷ niệm không?

- Sau này chúng mình có con, anh sẽ lấy tên Hương Trà đặt cho con để nhớ ngày hôm nay em nhé.

Đoan Trinh gật đầu:

- Không tiếc một chuyến lỡ hẹn với anh Mỹ, anh Thúy đấy chứ?

Trong lúc Trần Thân Mỹ và Lê Thúy ngóng Phố về, bỗng trên đường Bồ Đề có tiếng súng AR15. Dân chạy nhốn nháo, hét toáng lên:

- Bọn phản động trong ty chiêu hồi ở đường Hùng Vương bắn vào dân đi đến trụ sở quận 1.

Trần Thân Mỹ nhảy ngay lên xe Jep phóng về phía có tiếng súng. Vì từ chỗ tiếng súng nổ đến trụ sở quận 1 không xa, chỉ chừng hai trăm mét. Ngang đường, Trần Thân Mỹ gặp một người bạn làm công nhân trong nhà in Đức Sinh ngay gần ty chiêu hồi. Anh ấy cho biết: Ngay từ buổi đầu tiên bộ đội ta đánh qua đây, bọn chiêu hồi rất hoảng sợ. Chúng vội vàng đi hạ biển, cuốn cờ nằm im, rất sợ sự trừng phạt của bộ đội. Còn bộ đội thấy cái cơ quan không có bót canh gác, xung quanh không thấy rào kẽm gai, tưởng đó chỉ là cơ quan hành chính bình thường nên đánh lướt qua. Sau những giờ kinh hồn chúng họp nhau bàn chuyện đối phó. Có tên muốn ra hàng, có tên muốn giả dạng thường dân để đào tẩu, có tên hung hăng muốn lập phòng tuyến chống cự chờ quân Mỹ đến cứu. Chúng cãi nhau rất dữ. Có lúc căng thẳng muốn thanh toán lẫn nhau. Đúng lúc ấy chúng nhận được điện của Ngô Quang Trưởng từ trong Mang Cá đánh điện ra lừa dối rằng: "Anh em hãy bình tĩnh. Liên quân Việt Mỹ đang tổ chức phản công. Trong lúc chờ đợi, anh em hãy tổ chức phá rối". Bọn hiếu chiến trong đám quân rối loạn ấy muốn thể hiện lòng trung thành với chủ, đã nổ súng bắn lại đồng bào.

Trần Thân Mỹ và Lê Thúy đã báo cáo lại tình hình bọn tội phạm trong ty chiêu hồi. Anh Nguyễn Hữu Vấn tập trung đội công tác thanh niên Huế của quận 1 lại, nói:

- Huế của chúng ta đã được giải phóng. Quần chúng các quận và các huyện xung quanh đang sục sôi nổi dậy. Tuy nhiên có một số ác ôn chưa chịu
mở mắt nhìn sự thực. Một trong số đó là bọn phản bội, chiêu hồi trong ty chiêu hồi, đường Hùng Vương. Chúng đã không chịu bỏ giáo quy hàng mà
còn hùng hổ tiếp tục bắn vào nhân dân. Tôi biết bộ đội tiểu đoàn 2 Trung đoàn 9 đã lên kế hoạch tiêu diệt chúng. Nhưng mặt trận muốn giao việc này để thử thách đội công tác thanh niên quận 1 chúng ta. Vậy các đồng chí nghĩ sao?

Cả trăm cánh tay đội công tác thanh niên quận I giơ lên như một quyết tâm:

- Xin mặt trận cho chúng tôi thử sức.

Dẫu đội mới chỉ được tập luyện động tác lắp đạn vào súng, ngắm bắn, nhưng tất cả đều xung phong ra trận.

Ty chiêu hồi là nơi tập hợp những tên Việt gian tay sai. Mỗi đứa ở ty này được phát một cặp bà ba đen cho ra vẻ quần chúng, một đôi dép lốp làm phách, Mỹ, ngụy tổ chức đưa chúng đi nói chuyện rêu rao, bêu riếu Cộng sản ở khắp các thôn xóm, trường học, hội đoàn do quần chúng lập ra.
Phía trước ty chiêu hồi giáp đường Hùng Vương, bên kia đường là trại gái, phía sau giáp đường Đặng Dung và trường Bồ Đề, phía tây có một vạt tranh rộng, phía đông giáp đường Âm Hồn. Cơ sở sơ sài, cũ kỹ này gồm một cái nhà ngói rộng như cái đình, làm từ thời Tự Đức. Hai bên ngôi nhà chính có khoảng sân rộng. Phía bên kia sân là hai ngôi nhà quét vôi vàng ợt. Đặc biệt tại phía đông nam Hùng Vương - Âm Hồn nổi lên một cái chòi cao đúc bê tông cốt sắt. Bên ngoài nhìn vào lầm tưởng là cái trạm biến thế. Kỳ thực đó là một cái lô cốt. Đồng bào đi đến trụ sở quận 1 bị đạn từ cái lô cốt này bắn ra đây.

Trước tết, trong ty chiêu hồi có trên một trăm tên, chia ra làm nhiều toán. Ngày 30 tết, một số về quê ăn tết. Sáng mồng 2, thấy bộ đội ta, một số giả dạng thường dân biến đi. Hiện còn lại không quá một trung đội.

Đầu tiên đội công tác đặt một cái loa lên máng xối trường Bồ Đề phát một đoạn băng cát xét thu tin tức từ đài nước ngoài diễn tả chiến sự tại Huế:
"Sáng mồng 2 tết tại phía tả ngạn sông Hương, Việt Cộng trà trộn vào nhiều khu phố và kiểm soát được Đại Nội, chợ Đông Ba, cửa Thượng Tứ, cửa Chánh Tây, cửa An Hòa".

"Trong ba ngày, chúng ta chỉ tiến được mười lăm mét. Ba ngàn hai trăm lính Mỹ và Nam Việt Nam bị mệt nhoài đang có những tiến bộ rất chậm chạp chống lại quân Cộng sản đang cố thủ trong thành phố Huế"."Cuộc tấn công của Việt Cộng vào các tỉnh, thành phố, thị trấn của Việt Nam Cộng hòa đang đồng loạt diễn ra. Nghe tướng Uy-lơ báo cáo, tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã vô cùng kinh ngạc. Đây là một biến cố bất ngờ và nghiêm trọng. Tòa bạch ốc và ngũ giác đài chưa biết đối phó ra sao".


Tiếng loa phát thanh vừa dừng lại, lập tức có mấy tên áo đen từ trong ty chiêu hồi vọt qua mấy bức tường thấp phía tây ra hàng. Bọn ngoan cố trong lô cốt bắn theo định quật ngã chiến hữu của mình và bắn cả vào cái loa trên máng xối trường Bồ Đề.

Đội công tác bắt luôn mấy hàng binh. Chúng khai tình hình bên trong đang rối loạn. Nhưng tên Võ Đại Cảm, Hoàng Dinh cầm đầu rất ngoan cố. Lập tức tiếng loa lại vang lên, kêu đích danh Võ Đại Cảm và Hoàng Dinh, kể lại thời đã từng hoạt động trong phong trào thanh niên Huế trước 1965. Sợ lộ tung tích, bọn chiêu hồi bên trong điên tiết tập trung hết các cỡ súng quay ra bắn như đổ đạn về cái loa.

Nghe tiếng súng từ trong bắn ra dữ dội, anh em bất ngờ, vì nghĩ rằng bọn chiêu hồi chuyên môn làm cái việc đặt điều làm gì mà nhiều súng đạn lắm vậy. Bà con xung quanh lo lắng hỏi:

- Các anh có ai làm sao không?

Để thể hiện sức mạnh áp đảo của mình, bốn mươi đội viên, bốn mươi cây súng tập trung bắn trả, vừa bắn, anh em vừa la ó, vừa khua thùng thiếc gây nên một âm thanh rùng rợn.

Bọn chiêu hồi sợ anh em xung phong, chúng ném lựu đạn ra hòng bịt cửa. Khói đạn bốc lên mù mịt cả cái sào huyệt rộng gần ba sào đất này.
Tan khói đen, chợt từ ngôi nhà bên phía tây bốc lên một làn khói đỏ như ráng chiều. Có tiếng hô to:

- Cẩn thận, pháo hiệu gọi máy bay đến đấy.

Nhưng không có máy bay nào tới. Lê Thúy dẫn một tiểu đội có các tay súng cừ khôi nhất bò đến bãi tranh, leo lên bức tường thấp tiếp cận ngôi nhà phía tây vừa có khói đỏ bay lên. Qua khe hở, nhìn vào, bọn chiêu hồi đã chạy lên ngôi nhà trung tâm, bỏ lại đồ đạc bừa bãi và một tên mặc bà ba đen mình đầy máu me nằm chùm hum bên khẩu trung liên. Ba anh em liền giật cửa nhảy vào. Thúy ngồi lại băng bó cho tên áo đen bị thương. Còn hai người vượt qua sân phía trước, bất thần ném một quả thủ pháo qua khung cửa sổ đã bị đạn vỡ toác hoác của ngôi nhà trung tâm.

Thủ pháo nổ rầm. Bên trong ngôi nhà có tiếng la:

- Việt Cộng! Việt Cộng!

Trong màn khói, nghe tiếng bàn ghế đổ, tiếng chân chạy. Anh em liền kê AK lên cửa số quét mấy băng liền vào cái không gian nhốn nháo ấy. Thúy dẫn một tổ tiến sát bờ tường lô cốt giơ súng bắt khẩu trung liên phải câm họng.

Tiếng súng im, thanh niên từ bên ngoài hoan hô, chạy ùa vào.

Trong nhà trung tâm, mấy tên chiêu hồi mặt mày đen đủi nằm nép bên đống đồ đạc lổng chổng những cờ quạt, ấm chén, bàn ghế gãy. Có mấy tên cùng đường vùng dậy cầm báng súng, khua lung tung, liền bị Thuận võ sĩ chấn cho mỗi thằng mỗi cái, ngã quỵ hết.

Đến lúc này dân chúng chạy ào ào vào khu nhà ty chiêu hồi. Một cảnh tượng lạ lùng bày ra trước mắt mọi người: bên cạnh mấy dãy giường ngủ là quần áo lính, súng đạn bày la liệt như hàng trong kho quân cụ vừa tuồn qua.

Ai đó thốt lên:

- Thì ra chúng không chỉ được trang bị cho ba tấc lưỡi đi nói láo mà còn được trang bị đầy đủ súng ống. Đúng là một lũ quạ đen trá hình.
Một thanh niên lục dãy rương kêu lên:

-Anh em ơi, tụi chiêu hồi này có cả thuốc Sa-lem, rượu whiski và cả các loại hình lõa thể nữa.

Anh em chạy tới. Một người nói:

- Thì vì mấy thứ vật chất tầm thường này mà tham sinh úy tử phản bội cách mạng, nhận làm Việt gian bán nước, có gì lạ đâu.

Đội công tác thanh niên quận 1 đã ra quân trận đầu và chiến thắng giòn giã như thế.

Cùng lúc với tiếng súng của thanh niên quận 1, đánh vào ty chiêu hồi, máy bay trực thăng từng đàn bay từ phía Thuận An lên bảo vệ cho ba chiếc tàu chiến chở hàng tiếp tế cho bọn Mỹ ở Huế đang ngược sông.

Chúng đi nghênh ngang, hùng hổ, tưởng không thể gặp một trở ngại nào, thì bất thình lình B40, AK mai phục bên Bãi Dâu bờ sông Hương nổ súng quyết liệt, chiếc tàu chiến đi đầu đang tăng tốc độ, bỗng khựng lại, bốc cháy. Súng AK hất bọn trực thăng lên cao. Hai chiếc tàu chiến đi sau vội vàng quay đầu chạy.

Người chiến sĩ B40 đứng trong hào mai phục nhìn theo, tiếc rẻ:

- Đúng là mình chưa có kinh nghiệm đánh tàu chiến. Phải có hai tổ mai phục phía trước và phía sau nữa. Để khi chúng thụt lui thì gặp hỏa lực đón lõng phía sau. Chúng thoát lên được phía trước thì có hỏa lực đón đầu.

Người đồng đội đứng bên vẻ đắc chí:

- Bọn địch ở Huế đã cạn súng đạn, lương thực. Chỉ còn duy nhất lối tiếp tế đường sông, chúng ta sẽ còn nhiều cơ hội đối mặt với tàu chiến, lo gì.
Chiếc tàu chiến dưới sông bỗng phụt lên một đụn khói nhỏ rồi từ từ chìm nghỉm.

Cả bầu trời sông Hương bỗng tĩnh lặng. Người lính gọi sự tĩnh lặng này là phút bình yên giữa hai trận đánh.

Phố và Đoan Trinh từ Hương Trà trở về đến ủy ban khởi nghĩa bên cổng thành Đông Ba đúng lúc không khí chiến thắng tưng bừng đang in đậm trên từng khuôn mặt đội viên đội công tác thanh niên Huế.

Trần Thân Mỹ vỗ vai Phố, tiếc rẻ:

-   Giá Phố ở nhà, đã được tham gia trận đánh vào ty chiêu hồi.
Đoan Trinh khoe:

-   Chúng em được tham gia cuộc nổi dậy vây dồn phủ thờ đòi chồng con của nhân dân Hương Trà.

Phố thừa nhận:

-   Cũng có cả hai việc ấy nên em lỡ hẹn với hai anh.

Lê Thúy cười vui:

-   Ra mắt cha mẹ vợ, coi như đính hôn rồi. Bây giờ hai đứa ôm nhau để ra mắt anh em, bạn bè đi chứ.

Đoan Trinh lắc đầu:

-   Ứ! Con gái Huế chứ có phải gái Tây đâu mà bày ra trước mắt mọi người.

-   Vậy là có rồi mà giấu phải không? Kìa nhìn hai má Đoan Trinh đỏ bừng lên thú tội kìa.

Cả đám bạn xung quanh cười ồ.

-   Chúc mừng hai bạn.

-   Thời chiến tranh này có gió và trăng của quê hương chứng giám cho là được rồi.

Phố lái ngay sang chuyện khác:

-   Anh Trần Thân Mỹ, anh Lê Thúy, hai anh có hẹn với em việc gì thì bây giờ ta làm đi.

Đoan Trinh cầm tay Trần Thân Mỹ kéo đi.

-   Bây giờ trưa rồi. Bụng các anh xẹp lép cả rồi kìa. Mời các anh ra quán cơm tự giác của em ăn trưa đã rồi đi đâu thì đi.

Khi Trần Thân Mỹ, Phố, Lê Thúy kéo tới thì quán cơm đã khá đông người. Quán cơm tự giác do đoan trinh tổ chức trong một khu nhà vườn trên đường Nguyễn Thành, cách không xa bờ thành cổng đông ba là bao. Hàng ngày Đoan Trinh dẫn đầu một tổ chị em đi vào từng gia đình, vận động, ai có gì góp nấy cho quán cơm tự giác! Những người được đoan trinh mời đến làm đầu bếp, toàn là các chị nấu ăn có tiếng trong cấc gia đình trí thức tại huế.

Quán ăn nổi lẩu hầu như suốt ngày đêm. Để bất cứ lúc nào “khách” vãng lai mà chủ yếu toàn là bộ đội và thanh niên Huế, ai có nhu cầu là được thỏa mãn ngay tức khắc. ít nhất mỗi suất ăn cũng có ba món: canh, xào, thịt kho hoặc cá. Có khi nửa đêm, bộ đội đi đánh pháo vào mang cá trở về, vào quán, vẫn có canh nóng cơm dẻo ngay.

Bàn Trần Thân Mỹ có bốn người. bàn kê ngay bên gốc mít. Sau ghế ngồi là bốn hố bom tránh đạn cá nhân. Nhìn hầm hố đầy vườn đủ thấy không khí thời chiến.

Cơm dọn ra, có cá bống kho tộ, canh mướp đắng nấu thịt và một đĩa vả chua.
Mỹ hỏi:

-   Thời chiến mà chu tất quá?

-   Dân Huế mình có gì cho bộ đội nấy mà – Một chị dọn cởm đi tới, trả lời.

-   Mỗi ngày quán tự giác mình phục vụ bao nhiêu suất cơm hả chị?

-   Như ngày hôm qua, cả ngày cà đêm có tới trên ba trăm vị khách cả thảy.

Trần Thân Mỹ gật đầu:

-   Quả thật tấn công kiểu này mà không có nổi dậy, chỉ riêng không có dân Huế nuôi bộ đội hết ngày này qua ngày khác, thì không thể có hiệu quả như mình mong muốn.

Lê Thúy vừa ăn vừa gật gù:

-   Ngon quá. Đúng khẩu vị huế! Còn những quán cơm tự giác thế này, bộ đội còn đánh lâu dài được.

-   Anh khỏi phải lo – Đoan Trinh tiếp thêm cơm, nói – em đã đi một vòng cánh bắc sông hương, huyện nào, khu phố nào cũng đều có quán cơm tự giác, quán cơm xã hội chủ nghĩa cả.

Lê Thúy ngước nhìn Đoan Trinh:

-   Mẹ nghèo mới biết con thảo. càng vào cuộc, càng thấy dân huế mình đúng là dân cách mạng.

Vừa ăn xong, Trần Thân Mỹ và Lê Thúy kéo Nguyễn Tá Phố đi ngay. Phố hỏi:

-   Mình đi đâu bây giờ anh Mỹ?

-   Không có gì quan trọng đâu – Mỹ đáp – anh muốn cho em gặp một số bạn anh ở Huế, toàn dân trí thức cả để em hiểu thêm dân Huế của mình là thế nào, để sau này trong công tác dân vận, em sẽ thuận lợi hơn.

-   Được thế thì tốt quá.

Mỹ và Thúy dẫn Phố tới nhà một người bạn gái của hai anh. Chị tên là Hòa. Ba người vào nhà hòa đang lúc hòa cùng mẹ lịch kịch khiêng mấy cây chuối to tướng chất lên bộ ngựa gỗ kê giữa nhà làm hầm tránh phi pháo. Thấy Mỹ, Hòa nhìn Mỹ có vẻ lạ lùng lắm. có lẽ Hòa không bằng lòng với bộ đồ lính nhàu nát và không được sạch sẽ tinh tươm Mỹ đang mặc trên người. Mỹ chưa kịp chào, Hòa đã chạy ra đưa mười ngón tay sơn véc ni hồng đã nhợt nhạt víu vào túi băng đạn AK Mỹ đang trước ngực. hòa nói giọng như có nước mắt:

-   Anh đi chiến đấu cho ai mà thân thể anh ra ri, anh Mỹ?

-   Mỹ xâm lược nước mình, mình phải đấu tranh đánh đuổi chúng đi để cho Tổ quốc được độc lập, nhân dân được tự do – Mỹ đáp – Hòa cũng hỏi vậy nữa sao?

-   Anh thay đổi nhiều quá, may thôi tôi không nhận ra – Hòa chép miệng có vẻ thương hại-ghét thật, mới có một năm rưỡi.
Mỹ cầm khẩu AK báng gấp, nước thép còn bóng nhoáng giơ lên, nói nửa đùa nửa thật:

-   Trước khia làm sinh viên cầm súng cácbin đi biểu tình. Mỹ rượt cho chạy té re. bây giờ là việt cộng cầm súng AK đuổi Mỹ, Mỹ thua chạy té re. có phải như vậy là khác không Hòa?

Hòa có vẻ không bằng lòng với cách hòa giải của Mỹ. cô gạt mấy cây chuối trên bộ ngựa, lấy chỗ cho khách ngồi. Rồi loay hoay pha nước trà, dọn mứt gừng tết mời khách. Hòa có nhắc về cuộc sinh viên phật tử xuống đường năm 1960, sau đó cô phải trốn vào Sài Gòn một thời gian, tham gia phong trào đấu tranh đòi Hòa Bình với sinh viên trong đó. Đầu năm 1967 cô về lại Huế học tiếp cho xong cái bằng y khoa bác sĩ.

   Ra khỏi nhà Hòa, Mỹ hỏi Phố:

-   Em thấy đấu tranh tư tưởng có phức tạp không?

-   Thằng Mỹ rất giỏi tung hỏa mù vào các chiêu bài, làm người ta lẫn lộn giữa đen và trắng, giữa trái và phải, nguy hiểm thật. hôm nay nhờ hai anh giỏi luận bác, đã kéo về cho cách mạng mình thêm một người nhiệt tình

 Lê Thúy nói:

-   Đến như tầng lớp trí thức là những người hiểu biết, đọc nhiều, nghe nhiều mà còn lẫn lộn như vậy, huống hồ người dân dân trí thấp. phố cứ lăn lộn cùng các anh em sẽ thấy rất nhiều thú vị.

Giữa những chuyện mung lung, dắt dây chằng chéo ấy, phố bỗng nhớ tới người mẹ đang ngóng chờ anh từng ngày trên quê hương hà trung, nhớ tới chị Hoài, anh thành của mình vô cùng. Phố liền nói:

-   Em có việc muốn nhờ các anh, không biết có được không?

-   Em cứ nói, giúp được gì các anh sẵn lòng – Lê Thúy vẻ nhiệt tình – chắc là lại nhớ mẹ rồi phải không?

Phố không chối, anh nói thật:

-   Lúc hai anh nói chuyện với chị Hòa, em ngồi ngắm bà mẹ của chị ấy. có nhiều nét bà rất giống mẹ em. Từ lúc ấy em thấy nhớ mẹ em cồn cào – giọng phố chùng hẳn xuống – Anh ruột em là Nguyễn Tá Thành, hiện là tham mưu trưởng thành đội Huế. Em muốn nhờ hai anh cách nào đó chuyển giúp em một lá thư cho anh Thành. Bắt được tin nhau lúc này cũng đã quý lắm rồi. anh ấy sẽ tìm cách để hai anh em về Hà Trung thăm mẹ em.
Anh Mỹ chép miệng:

-   Giá em được phân công đánh phía nam sông Hương chắc gặp anh Thành em dễ dàng hơn.

-   Được, Phố cứ viết thư đi – Lê Thúy nhận lời – Thế nào cũng có đường dây qua sông, bọn anh sẽ giúp em việc này.

-   Tấn công vào Huế và thăm mẹ đối với em là hai mục tiêu không hơn không kém nhau chút nào đâu anh ạ.
Trần Thân Mỹ đùa:

-   Vậy là cậu có lãi rồi. Đoan Trinh là một mục tiêu không hẹn mà đã tới rồi đó nghe.
Phố tủm tỉm cười.

-   Mình đi đâu bây giờ nữa Mỹ? – Thúy hỏi.

-   Ta đến thăm ông già Nguyễn Thiết đi – Mỹ đáp – thiết đi xa, giống như chúng ta thay Thiết về thăm ông già mình.

Cả ba leo lên thượng thành, đi một đoạn xa rồi rẽ xuống phía chợ Xép. Đến đầu chợ Xép thì gặp Nguyễn Đắc Xuân nhập bọn cùng vào nhà Nguyễn Thiết.

Họ thấy trong nhà có một người đàn ông đầu húi cua, nước da sạm nắng, mặc veston đen, bên trong có sơ mi, cổ thắt càvạt nghiêm chỉnh đang ngồi uống nước trà với mấy người lớn tuổi. Trông cái veston nhàu sau lưng, không hợp với cái đầu húi cua. đắc Xuân hoài nghi, anh nhìn thẳng người ấy, đột ngột hỏi ngay:

- Anh là sĩ quan nguỵ về nghỉ tết hả?

Người đàn ông không giấu được ngạc nhiên vì sự phát hiện rất nhanh của người mới vào, đáp:

- Vâng. Tôi vừa đi trình diện về.

Đắc Xuân gật đầu:

- Thế tốt rồi.

- Nhưng ... Thưa anh... - Người đàn ông hạ giọng như muốn nói thêm điều gì.

Cha Nguyễn Thiết, với tư cách là người vừa quen, vừa là người lớn tuổi nhất giải thích thêm câu nói nửa chừng của người đàn ông mặc veston:

- Nó trình diện rồi. Nhưng không khai báo là lính, mà khai là công chức ty Thuỷ nông.

- Sao vậy? - Đắc Xuân hỏi.

- Vì em sợ các ông biết em là sĩ quan - Người đàn ông cúi đầu từ tốn nói - Nếu là sĩ quan em sẽ bị đem bắn bỏ giữa ngày tết thì tội nghiệp cho vợ con em
lắm.

Hỏi kỹ mới biết người ấy tên là Nguyễn Văn Lân, đại uý bộ binh, đơn vị đóng ở Đông Hà, vừa được nghỉ về Huế ăn tết. Lân là bà con bên ngoại Nguyễn Thiết.
Lúc chưa bị động viên, Lân đã từng theo Thiết đấu tranh, làm nhiệm vụ bảo vệ cho Thiết.

Trò chuyện thân tình một lúc, Nguyễn Văn Lân tỏ ra ăn năn, trách Đắc Xuân:

- Hồi ấy các anh có tuydô theo giải phóng, sao mấy anh bỏ em, không cho em đi theo? Để bây giờ em đâm ra là người có tội chống đối cách mạng.

Đắc Xuân cười xuề xoà:

- Lân biết thế là tốt rồi. Con người ta hơn nhau ở chỗ nhận ra đường đi của mình. Bây giờ Lân đã nhân ra, còn kịp chán, chưa muộn.

- Nhưng em đã cầm súng cho Mỹ rồi, liệu giải phóng có còn tin em nữa không?

- Tin hay không là tuỳ hành động cụ thể của mình đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc chứ.

- Thế thì em có thể làm được gì?

Xuân hỏi:

_ Lân còn nhớ chiến đoàn Nguyễn Đại Thức không?

- Vâng, nhớ lắm - Giọng Lân reo lên như đã bắt gặp cái điều mình muốn gặp - Nguyễn Đại Thức, một sĩ quan nguỵ đã ám sát hụt tên tướng Huỳnh Văn Cao và đã bị bắn chết ngay trong Mang Cá. Binh lính quân đội Sài Gòn về nghỉ phép ở Huế ly khai Thiệu - Kỳ đã họp lại lập nên chiến đoàn mang tên Nguyễn Đại
Thức để tỏ rõ ý chí chống đối của mình mà.

- Đúng rồi. Rõ ràng Lân không quên.

- Lúc ấy em mới là thiếu uý, chính em chỉ huy một tiểu đội của binh đoàn Nguyễn Đại Thức. Em đi với anh Ngô Kha vào giữ đèo Hải Vân. Nếu không theo anh Ngô Kha đã bị tụi dù của Thiệu - Kỳ bắn bỏ mạng dưới chân đèo rồi.

Gặp nhau xa lạ bây giờ bỗng thên tình. Cái sợi dây mỏng manh bị lãng quên, bây gờ bỗng có tác dụng nối lại họ với nhau.

Thấy Lân quên đi nỗi lo lắng ban đầu, đắc Xuân đã níu sợi dây lại cho họ gần nhau hơn:

- Khi ấy Lân chỉ huy một tiểu đội ly khai. Tại sao bây giờ Lân không tập họp anh em sai đường lạc lối, xây dựng một tiểu đoàn lấy tên là “Đoàn Nghĩa Binh” và Lân làm tiểu đoàn trưởng luôn?

- Công việc cụ thể của đoàn Nghĩa Binh là gì hả anh?

- Làm tất cả những gì có lợi cho dân tộc, cho cách mạng là được. Ví như kêu gọi anh em nguỵ quân ra trình diện. Những tên nào ngoan cố, cố tình chống lại nhân dân, chống lại cách mạng thì báo cho chính quyền biết để chính quyền có biện pháp ứng xử hợp lý nhất. Rồi huấn luyện cho thanh niên Huế sử dụng súng AR15, lựu đạn US chẳng hạn... CHỉ sợ thiếu nhiệt tình chứ công việc thì không thiếu.

- Em chỉ yêu cầu các anh một việc thôi.

- Lân cứ nói. Cái gì làm được, chúng mình sẵn sàng.

- Lân thành thật.

- Em chỉ yêu cầu các anh bảo lãnh cho em, được không?

Đắc Xuân reo lên:

- Ồ, cái đó thì được. Để mình giới thiệu với Lân, mình Nguyễn Đắc Xuân, Lân đã nhận ra rồi, còn đây Trần Thân Mỹ, Lê Thuý và Nguyễn Tá Phổ, Phố là lính giải phóng jin trăm phần trăm thứ thiệt. Nếu ai hỏi cứ bảo chúng mình giới thiệu. Gặp khó khăn gì cứ tìm chúng mình là xong ngay. Được chứ?

- Dạ được. Em sẽ bắt đầu lập đoàn Nghĩa Binh ngay từ baya giờ.

Bốn người bắt tay Lân thay cho lời kết.

Đoàn Nghĩa Binh ở Huế ra đời trong tết Mậu Thân abứt đầu như thế.

Ra đến cổng, Phố khen:

- Anh Xuân có cách vận động quần chúng hay thật đấy.

- Vì bọn anh đã có cái gốc gác quen nhau rồi nên vào chuyện dễ dàng hơn.

Lê Thuý bàn thêm:

- Đoàn Nghĩa Binh quân đội coi như đã xong. Theo mình, ở Huế còn một lực lượng đáng kể nữa, nếu ta tổ chức được giống như đoàn Nghĩa Binh thì rất tốt, đó là lực lượng cảnh sát Huế.

Ý kiến của Lê Thuý rất xác đáng, được mấy anh em ủng hộ ngay. Bốn người đứng quây tròn ngay đầu đường bàn tán sôi nổi. Đẻe có phong trào, phải có nhân tố tốt. Ai sẽ là người đứng đầu Nghĩa Binh cảnh sát? Tính đi tính lại mãi, điểm mặt những cảnh sát quen biết, Trần Thân Mỹ đề xuất Hoàng Thành Công. Lý lẽ của anh rất rõ ràng, khúc triết:

- Trong khu vực nội thành này, Hoàng Thành Công là người có cấp bậc cảnh sát cao nhất. Thời tranh đấu, mỗi lần địch sắp đàn áp sinh viên, Công thường báo trước cho anh em vài giờ để chuẩn bị. Mấy lần chính Hoàng Thành Công phải chỉ huy lực lượng đàn áp hoặc giải tán các cuộc hội thảo, mít tinh thì Công chỉ làm cho có lệ và rút về. Cũng có lần tìnhd thế kẹt quá, Công đến gặp lãnh đạo sinh viên trước, đề nghị sinh viên “tạm thời rút lui” cho Công “hoàn thành nhiệm vụ”, rồi sau đó sẽ tập trung trở lại.

Trần Thân Mỹ nhấn mạnh:

- Ân nghĩa ấy, trong hoàn cảnh này, mình tin là Hoàng Thành Công không từ chối đâu.

Quyết xong, bốn anh em tới nhà Hoàng Thành Công. Công ở trong một ngôi nhà cổ thấp lè tè. Trong nhà thiếu ánh sáng, cột trụ choán hết diện tích nhà. Song không khí trong nhà không có vẻ nặng nề như những gia đình có con em là sĩ quan uý, tá của quân đội Sài Gòn. Công đang đào đất giữa nhà làm hầm trú ẩn tranh phi pháo.

Thấy người quen, Công rời cuốc, xoa xoa hai tay, chạy ra, vẻ rất sốt sắng:

- Lệnh của anh Xuân, anh Mỹ, tôi đang bắt tay làm hầm đây. Tới đột ngột vaỵa, có việc gì không?

Trần Thân Mỹ vào chuyện ngay:

- Có một việc cần bàn với anh, không biết anh có vui lòng chấp nhận không?

Hoàng Thành Công tỏ vẻ lo lắng:

- Không biết chuyện lành hay dữ đây?

Mỹ nửa đùa nửa thật:

- Chúng tôi thấy nó lành thôi. Nhưng nếu anh thấy nó dữ thì cố gắng làm sao cho nó lành.

Công nhìn mọi người như dò ý:

- Thiệt không? Nghe anh Mỹ nói tôi lo quá!

Giọng Mỹ đằm thắm, trấn an:

- Đầu năm nói chơi với anh cho vui, chớ chuyện chỉ có thế này thôi. Anh em binh lính Sài Gòn ở Huế đã thành lập đoàn Nghĩa Binh rồi, anh em cảnh sát Huế cũng muốn họp lại thành một tổ chức để tham gia cách mạng, cùng nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Họ muốn mời anh làm người phụ trách chung. Không biết ý kiến của anh như thế nào?

Công tỏ vẻ lo lắng, giọng van xin:

- Tôi rất hân hạnh được sự tín nhiệm ấy, nhưng hoàn cảnh tôi quá khó khăn, mong các anh thông cảm và tìm giùm người khác thay cho.
Trần Thân Mỹ  vỗ vai Hoàng Thành Công:

- Tôi biết, chuyện này với anh có khó khăn gì đâu. Nhớ mùa hè xuống đường năm 1966, không có anh thông tin trước, không có anh bàn kế hoach hoãn binh, không có anh móc nối với phong trào mà cứ để bọn cảnh sát làm tới, sinh viên chúng tôi không ra cám thì cũng ra bã. Lúc ấy đối mặt với chính quyền Sài Gòn, khó vậy anh còn làm được, huống gì baya giờ Huế đã về tay chúng ta, anh chối từ chẳng qua anh không muốn hưởng ứng phong trào cách mạng đang đến với Huế thôi.

Hoàng Thành Công giọng năm nỉ:

- Nói thế tội tôi anh Mỹ ơi. Tôi ở vào cái thế kẹt. Một là bà mẹ tôi quá yếu. Tôi mà đi tham gia với các anh thì ở nhà không có ai săn sóc bà. Hơn nữa trong sổ đen của chính phủ Thiệu - Kỳ đã ghi gia đình tôi có nhiều người đang ở miền Bắc. Nhỡ ra các anh lại đi, chúng tôi không biết nương tựa vào ai.

Lê Thuý thuyết phục:

- Anh tưởng mỗi chúng tôi không có hoàn cảnh gia đình sao? Anh Mỹ đây cả một đống con dại. Cùng cảnh cả, nỡ lòng nào chúng ta bỏ nhau. Bà già anh cũng giống như mẹ chúng tôi. Chúng ta cùng có trách nhiệm chăm sóc cụ. Những người thân của anh ngoài Bắc biết anh tuy làm cảnh sát, nhưng lòng vẫn hướng về cách mạng thì họ càng vui chứ sao. Chúng tôi nghĩ đây là một dịp tốt để thể hiện lòng dạ chúng ta với dân với nước, anh Công ạ.

Hoàng Thành Công vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Lát sau anh trả lời thận trọng.

- Các anh ngồi uống nước đi. Cho phép tôi hỏi qua ý kiến mẹ tôi một chút, kẻo bà phiền lòng.

Công vào nhà trong. Bốn anh em ngồi uống nước chờ. Một lúc sau Công ra, nét mặt cởi mở.

- Tôi cũng liều các anh ạ. Vô lẽ các anh đã có ý mà tôi không nhận lời thì còn mặt mũi nào mà gặp lại các anh. Chỉ xin các anh một điều kiện: Khi nào mẹ tôi cần phải có mặt tôi bên cạnh thì xin các anh cho tôi được làm theo ý bà.

Nguyễn Đắc Xuân khen:

- Hoàng Thành Công đúng là người con trái Huế hiếu thảo.
*****

Chỉ huy cuộc tấn công nổi dậy ở Huế có hai tiền phương. Một tiền phương thường trực đóng ở núi Kim Phụng. Một tiền phương dã chiến, bám sát cuộc tấn công nổi dậy đóng ngay tại gần cửa Chánh Tây. đêm thứ ba, Ban chỉ huy dã ngoại vừa họp xong, giải tán. Một quả bom vô tình ném trúng hầm chỉ huy. Cả nhà, cả hầm tan hoang. May Ban chỉ huy không ai làm sao.

Để nắm chắc diễn biến chiến sự, Bí thư - Chỉ huy trưởng Lê Minh lập ngay một ban nghiên cứu chiến trường đóng tại làng An Ninh Thượng và Hậu Thôn. Đại điểm được ổn định, vừa bắt tay vào hoạt động thì một tiểu đoàn Mỹ ở Tứ Hạ tấn công lên chiếm Bổn Trì, kề ngay nách bên An Ninh Thượng. Bí thư - Chỉ huy trưởng Lê Minh lập tức dùng ngay tiểu đoàn dự bị đánh vỗ mặt tiểu đoàn Mỹ ở Bổn Trì suốt một buổi chiều. Cuối cùng Mỹ phải co lại về căn cứ Tứ Hạ.

Sáng mồng 6 tháng 2 năm 1968, chỉ huy trưởng báo cho các thành viên Ban chỉ huy biết ngay tối ấy phải có mặt ở Hậu Thôn để họp đánh giá tình hình, thì cùng lúc mờ mờ sáng ấy pháo ở Tứ Hạ và Mang Cá bắn lung tung avò thành phố Huế, bất kể chỗ đó là khu vực dân sinh hay khu vực dân sự. Tiếng pháo vừa dứt thì trên trời đầy máy bay. Tầm thấp là trực thăng. Trên đỉnh trực thăng là máy bay trinh sát OV10. Cao hơn nữa là máy bay ném bom F105. Bom trút xuống tơi bời ở An Cựu, Vĩ Dạ, cửa Chánh Tây. Mỗi lần F105 xé gió lao xuống, khi ngóc đầu lên là khói bom đen ngòm dựng thành cột, kèm theo một tiếng nổ rung mặt đất.

Bom ngừng, Mỹ, nguỵ mở ngay bốn cuộc tấn công vào Huế: Một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến theo đường số 1 đổ bộ vào ngay trước Toà Khâm.

Mũi thứ hai là một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ từ Ái Tử, theo đường phá Tam Giang lên cửa Thuận An, đánh thốc lên, cũng đổ quân trước Toà Khâm. Trên đường về haụa cứ, một tiểu đội quân giải phóng đang dẫn năm mươi tên Mỹ, bị lính thuỷ quân lực chiến cướp lại. Không tương xứng lực lượng, tiểu đội dẫn giải tù binh phải bỏ của chạy lấy người.

Mũi thứ ba là hai tiểu đoàn lính nguỵ theo đường liên xã từ Quảng Điền đánh thẳng vào phía Bao Vinh, qua Cửa Hậu, chi viện quân cho đồn Mang Cá. Cho đến lúc này ngoài sư đoàn 1 nguỵ đóng tại Mang Cá, Thành Nội Huế đã được bổ sung tới năm tiểu đoàn.
Mũi thứ tư, năm chiếc tàu chiến có trực thăng yểm hộ hùng hổ từ Thuận An, ngược sông Hương định lên Huế, nhưng bị hoả lực phục kích hai bờ sông Hương, phía Bắc ở Bãi Dâu, phía Nam ở Cồn Hến, bắn dữ dội, bốn chiếc tàu chiến cháy tại chỗ, chiếc đi sau cùng chạy thoát được về Thuận An.

Có lẽ đây là ngày đầu tiên sau khi tổng tấn công bom đạn dữ dội nhất. Hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến ở trước Toà Khâm, triển khai theo đường Lê Lợi, chiếm lại đài phát thanh Huế, chiếm bưu điện, ngân khố. Bộ đội ta ngăn lại ở toà tỉnh trưởng. Mặt đối mặt, súng đạn nổ tơi bời.

Nội thành Huế được tăng thêm quân số, lập tức chúng mở cùng một lúc ba mũi tiến quân đánh ra Thượng Tứ, cửa Hữu, cửa Chánh Tây. Cả ba đường tiến quân của chúng đã bị quân giải phóng chặn đứng lại, chiều tối, chúng phải rút vào Mang Cá.

Hãng AFP đưa tin: “Kể từ ngày 31 tháng 1 năm 1968 khi bắt đầu cuộc tấn công Huế, mọi việc tiếp tế đều chỉ tiến hành bằng tàu chạy trên sông Hương. Trong các trận đánh hàng nghìn quân nhân đã bị giết. Quân Mỹ và quân chính phủ phải chôn những người chết của họ bất cứ noi nào và lúc nào có thể được. Còn lính dù Việt Nam thì chôn xác chết ngay trên trận địa”.

Hãng Roitơ thốt lên: “Trận đánh thật đáng sợ, không có trận tuyến, đâu cũng có những tay du kích, những quả rốckét nổ qua bụi rậm giết chết liền mấy người một lúc.

Sau năm ngày đánh nhau ác liệt, giành giật từng nhà, quân Cộng sản vẫn chiếm hơn nửa thành phố Huế và quân chính phủ tiến dần từng bước vất vả. Cho đến nay không có dấu hiệu nào tỏ ra là họ có ý định rút lui”.

Khi nào ngừng tiếng súng là cả hai bên đều ra sức đào công sự chuẩn bị cho cuộc tấn công mới. Ngày mồng 6 tháng 2 là một ngày bom đạn ngút trời.

Đêm, Ban chỉ huy chiến dịch tấn công - nổi dậy vẫn họp đúng như đã hẹn tại Haụa Thôn. Ở cánh Nam, anh Phùng Van không ra họp được. Chỉ huy cánh Bắc tương đối đầy đủ: Lê Minh, Nam Long, Trần Anh Liên, anh Văn...

Các đồng chí chỉ huy ngồi lắng nghe ban nghiên cứu chiến trường báo cáo: Thành phố Huế, cho đến ngày hôm nay chúng ta đã làm chủ hoàn toàn. Ngoại trừ đồn Mang Cá của sư đoàn 1 và vài ổ đề kháng lẻ tẻ không đáng kể. Ta đã bắt hàng ngàn tù binh cả Mỹ, nguỵ quân, nguỵ quyền đưa lên rừng. Quần chúng đã nổi dậy làm chủ cả ba quận nội thành và ba huyện ngoại thành. Các uỷ ban phường được thành lập. Tình hình chính trị lên rất cao.

Về phía ta có hai điều đáng quan tâm. Một là thương binh bên cánh Bắc đã lên tới con số năm trăm người. đã chuyển một số lên rừng. Số đông còn lại đang anừm tại các trạm phẫu tiền phương. Chiến sự những ngày tới sẽ rất ác liệt, cần phải chuyển lên hậu cứ trên rừng. Hai là tất cả các hướng đều báo cáo về bộ chỉ huy cùng một việc: đạn đã hết. Riêng trung đoàn 6 thì thiếu nặng. Súng trường mỗi khẩu chỉ còn từ mười hai đến mười lăm viên. Súng máy còn trên một tảưm viên. Đạn trợ chiến còn rất thấp, không được nửa cơ số.

Chỉ huy trưởng Lê Minh tỏ ra rất lo lắng, ông nhìn một lượt các thành viên Ban chỉ huy như để thăm dò thái độ từng người, rồi chậm rãi nói:

- Cho đến ngày hôm nay tình hình trong chiến trường miền Nam đã lắng xuống, kể cả Sài Gòn và mặt trận phía Bắc Quảng Trị. Thằng Mỹ được rảnh tay ở phía Nam và khu Năm nhất định sẽ triển khai ra Huế. Như ngày hôm nay, thuỷ quân lục chiến Mỹ đã nhảy vào Toà Khâm, một tiểu đoàn kỵ binh bay đã xuống Phú Bài. Thuỷ quân lục chiến từ Bình Định cũng đã chiếm Phú Lộc. Huế chúng ta đang ở một tình thế hết sức khó khăn.

Dừng lại giây lát, ông nói tiếp:

- Nếu xét về nhiệm vụ tiêu hao tiêu diệt phần lớn quân đội và phương tiện chiến tranh của Mỹ - nguỵ, phát động quần chúng nổi dậy thành lập chính quyền cách mạng trong thành phố, gây ảnh hưởng chính trị lớn, Huế chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tôi đã điện xin Trung ương cho chúng ta rút khỏi thành phố, Trung ương đã trả lời: Huế đã trở thành chiến trường quyết định. Chúng ta chỉ còn một nhiệm vụ là chấp hành mệnh lệnh của cấp trên.

Anh Nam Long có ý kiến:

- Mệnh lệnh thì chúng ta phải thi hành. Song trước mắt quân đội của chúng ta có hai cái khó. Một là về súng đạn, chúng ta đang thiếu trầm trọng. Không có đạn thì đông mấy, sức lực chúng ta cũng yếu hẳn đi. Hai là về quân số, tuy có được bổ sung lực lượng từ hai nguồn: Cốt cán được giải phóng từ trong nhà tù ra, và thanh niên, sinh viên nội ngoại thành đều hăng hái nhập ngũ. Tuy vậy, số lính mới này sẵn tinh thần, nhưng chưa được rèn luyện, sức chiến đầu đang còn non yếu, chưa thể đảm nhiệm được một trọng trách mà chúng ta được giao.

Ý kiến của Chỉ huy trưởng Lê MInh và Nam Long được hội nghị nhất trí. Ban chỉ huy điện ngay cho Trung ương: “Chúng tôi hết đạn”. Dưới ký tên: Bảy – Tín – Minh tức là Trần Văn Quang, Lê Chưởng, Lê Tư Minh. Trung ương trả lời ngay: “Cấp trên sẽ chi viện đủ cho các anh để hoàn thành nhiệm vụ”. Ký tên: Văn – Dũng - Thảo, tức Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng – Song Hào.

Tiếp đó một điện khác của Bộ Tổng tham mưu do Đại tướng Văn Tiến Dũng ký: “Đã cho hai trung đoàn bộ binh một trung đoàn trợ chiến và đường dây 559 sẽ tiếp tế các loại đạn dược khí tài xuống. Các huyện ngoại thành đốt lửa lên, yêu cầu có 3 cụm lửa làm tín hiệu để máy bay thả vũ khí xuống. Yêu cầu làm tín hiệu ở Mang Cá để ném bom”.

Được ý kiện tiếp sức của Trung ương, hội nghị vui mừng hẳn lên.

Vấn đề còn lại sau cuộc họp này làm cả Bộ chỉ huy mặt trận đau đầu là cái Mang Cá. Ông Trần Văn Quang ngồi lại với ông Lê Minh để cùng nhìn lại đồn Mang Cá cho rõ ràng.

Ông Lê Minh nói:

- Dự kiến phương án ban đầu đến bây giờ càng rõ. Phía Nam sông Hương không diệt được trung đoàn 7 thiết giáp, nó sẽ chia cắt, làm cỏ bộ đội mình. Thành đội Huế đã hoàn thành nhiệm vụ này. Còn cái Mang Cá, nếu không diệt được nó, sẽ trở thành hai gọng kìm khi địch phản kích, từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào.

Ông Trần Văn Quang tỏ vẻ quyết tâm:

- Việc này để tôi tính.

Ông Trần Văn Quang là vị tướng kiên quyết, nói và làm đi đôi với nhau. Ông về ngay trung đoàn 6 và trung đoàn 9 cùng bàn bạc với hai bên chỉ huy trung đoàn, chính ông đứng ra tổ chức lại lực lượng, cả bộ binh, đặc công và công binh. Tập trung lực lượng đánh vào Mang Cá bằng cường tập bộc phá và súng cối.

Trận đánh kéo dài suốt 3 giờ đồng hồ, từ chín giờ tối đến mười hai giờ đêm, không có kết quả, ta thương vong nhiều.

Về gặp lại Lê Minh, Tướng Trần Văn Quang nhận định:

- Địch đã có đủ thời gian củng cố Mang Cá thành một ổ đề kháng lớn và ta đã mất một yếu tố hết sức quan trọng, quyết định năm mươi phần trăm thắng lợi, đó là sự bất ngờ.

Ông Lê Minh hỏi:

- Liệu còn thời cơ nào khác nữa không?

- Hết rồi - Ông Trần Văn Quang đáp.

- Cánh Bắc rồi sẽ rất vất vả với cái Mang Cá này. Phải hết sức cảnh giác với nó.

- Tôi mong đường 9 và 559 thực hiện được lời hứa của Trung ương, có lực lượng chúng ta mới tính được chuyện. Còn trước mắt là khó khăn đấy.
*******

Tại sở chỉ huy thành đội Huế đóng ở Từ Đàm, bên ngoài nhìn vào rất nghiêm mật, có lính gác trước cổng, bên trong lúc nào cũng sôi sụ nhưng phương án tác chiến.

Thành đội trưởng hỏi tham mưu trưởng:

- Hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ đổ vào Toà Khâm có điều gì đáng lo ngại không?

Tham mưu trưởng đáp:

- Tôi nghĩ không chỉ có hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến đâu, cuộc tấn công của toàn miền đã lắng xuống. Ngoài Quảng Trị quân đội ta đã rút ra ngoài thành phố về củng cố nông thôn rồi, địch sẽ rảnh tay ở các miền xung yếu, chúng sẽ đổ quân vào Huế. Lúc ấy mới thật
khó khăn anh ạ.


Hết

Không có nhận xét nào: