Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

Sài Gòn sụp đổ - Pauk Dreyfrus

LỜI GIỚI THIỆU

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại quân ta tiến vào Sài Gòn giữa lúc trong thành phố này có tới một trăm hai mươi nhăm nhà báo nước ngoài thuộc mười ba nước, trong đó có nhà báo Pháp Paul Dreyfrus.

Trong thời gian tại Sài Gòn, Paul Dreyfrus đã cần mẫn ghi nhật ký, hầu như đêm nào cũng cặrn cụi ghi chép lại những sự việc xảy ra trong ngày kể từ khi Hiệp định Paris 1973 về Việt Nam được ký kết. Sau khi trở về Pháp, ông đã dựa trên những tư liệu sẵn có, viết cuốn sách nhan đề “… Et Saigon tomba" (... Và Sài Gòn sụp đổ) do Nhà xuất bản Arthaud ở Pháp xuất bản ngay trong Quý 3 năm 1975, được coi là một trong những cuốn sách sớm nhất ra mắt người đọc ở Pháp về những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn.

Đọc cuốn sách của Paul Dreyfrus, mọi người nhận thấy ngay, nhà báo này - vốn là một người lính trong đạo quân xâm lược của thực dân Pháp - không có thiện cảm với chủ nghĩa cộng sản nhưng cũng không ưa gì chế độ Nguyễn Văn Thiệu tay sai của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Trên những trang viết, xuất phát từ lập trường, quan điểm của bản thân, tác giả cố làm ra vẻ khách quan, không thiên vị bên nào. Nhưng trên thực tế, do tác giả sống ngay trong sào huyệt của Mỹ và chế độ tay sai, không được tới thăm các căn cứ địa cách mạng, các khu giải phóng và nhất là rất ít được tiếp xúc với các cán bộ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam nên tầm nhìn bị hạn chê, nhận thực bị thu hẹp, đồng thời còn có một số nhận định lệch lạc.

Dù sao, cuốn sách này cũng ghi lại được nhiều chi tiết cụ thể về "sự sụp đổ” của chế độ thân Mỹ tại miền Nam Việt Nam, đúng với nhan đề cuốn sách. Mặt thác cuốn sách cũng nêu lên nhiều khó khăn, rối ren khi quân ta vào tiếp quản Sài Gòn. Những vấn đề này đã được giải quyết tốt đẹp dưới sự mẫn cán của chế độ mới, được các tầng lớp nhân dân ủng hộ.

Nhân dịp kỷ niệm ba mươi lăm giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam (1975 - 2005) Nhà xuất bản Công an nhân dân giới thiệu cùng bạn đọc cuốn ..."Et Sai gon tomba” dưới nhan đề tiếng Việt: "Sài Gòn sụp đổ với sự chứng kiến của một nhà báo phương Tây, do nhà báo Lê Kim dịch sang tiếng Việt. Những quan điểm cùng với nhiều phán đoán của Paul Dreufrus chỉ mang tính chất chủ quan mà ngày nay tất cả mọi người đều thấy rõ là không hoàn toàn chính xác vẫn được giữ nguyên để bạn đọc thấy rõ tâm trạng người viết, đồng thời càng làm nổi bật những thành tựu mà dân dân ta đạt được, hiển hiện qua thắng lợi mùa xuân 1975 và công cuộc xây dựng đất nước trên thực tế hiện nay.


PHẦN MỘT
BẮT ĐẦU CUỘC CHIẾN TRANH THỨ BA Ở ĐÔNG DƯƠNG
27 tháng 1 năm 1973

1
TRONG KHI HIỆP ĐỊNH PARIS VỪA ĐƯỢC KÝ KẾT

27 tháng 1 năm 1973

Ngừng bắn... Đúng là có ngừng bắn. Nhưng chiến tranh đã tiếp tục cho tới phút cuối cùng. Trong khi tôi đang viết những dòng chữ này tại Sài Gòn, lúc chập tối, vẫn nghe thấy những tiếng nổ rền từ phía xa vọng lại. Đó là những chiếc B.52 đang ném bom rải thảm khủng khiếp. Đó là pháo binh quân đội Sài Gòn đang bắn cho hết những cơ số đạn. Đó là dàn nhạc rốc-két của cộng sản đang chơi bản hoà tấu cuối cùng. Đối với hàng triệu người dân trên dải đất bị tàn phá này, đây vẫn còn là một đêm đầy hãi sợ trong cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ hai mươi.

Nếu như cuộc chiến tranh này hoàn toàn chấm dứt đúng giờ giấc ghi lòng Hiệp định Paris thì sẽ là ngày mai, thứ Bẩy, vào lúc 8 giờ theo giờ Sài Gòn, từ 1 giờ, theo giờ Paris.

Khi đó, trời đã sáng bạch ở Sài Gòn. Những tiếng chuông nhà thờ sẽ reo vang mừng đón hoà bình đã chờ đợi từ hai mươi nhăm năm nay, nhưng liệu lúc đó những tiếng súng có im không? Chưa ai dám khẳng định, nhất là những người đã chứng kiến cảnh tượng trong ngày thứ Sáu. Lực lượng cộng sản đã tận dụng khoảng thời gian trước giờ quy định ngừng bắn để mở những cuộc tiến công ác liệt có lợi cho họ. Điều bất ngờ không phải là trận tiến công vì mọi người đã từng chờ đợi. Cái bất ngờ chính là quy mô trận đánh. Vào khoảng quá nửa đêm, khi những điện cấp báo đầu tiên gửi về tổng hành minh quân đội Sài Gòn, các sĩ quan tham mưu phụ trách việc ghim những ký hiệu màu sắc khác nhau trên tấm bản đồ lớn, lúc đầu cứ tưởng rằng đây chỉ là một loạt những cuộc đụng độ tiêu hao. Nhưng, cùng với thời gian, những báo cáo tới tấp gửi về ngày càng nhiều từ tất cả bốn quân khu thì không ai còn nghi ngờ gì nữa, quân đội Bắc Việt và Việt Cộng đang bắt đầu mở một cuộc tiến công lớn1 (Tác giả chỉ ngồi tại Sài Gòn nên chỉ nhìn được từ một phía. Thật ra những tài liệu mật thu được từ Bộ tổng tham mưu nguỵ sau này quân ta giải phóng miền Nam Việt Nam đã tố cáo trên giấy trắng mực đen chính quyền Sài Gòn trước khi ký Hiệp định Paris 1973 đã soạn thảo kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ, tiến công đánh chiếm những vùng "da beo" nhằm thanh toán các vùng giải phóng nằm sâu trong vùng lãnh thổ do Sài Gòn kiểm soát (N.D)).

Đến cuối buổi sáng, mọi người trong cơ quan tham mưu bàn tán với nhau là đã xảy ra gần hai trăm trận tiến công khác nhau. Nhiều hơn cả trận tiến công của cộng sản hồi Tết Mậu Thân năm 1968. Cũng nhiều hơn cả trận tiến công lớn hồi tháng 3 năm 1972. Những trận tiến công của cả hai phía trước giờ quy định ngừng bắn của Hiệp định Paris 1973 đạt kỷ lục tuyệt đối trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Một kỷ lục đáng buồn của một cuộc chiến tranh mơ hồ.

Bị tiến công khắp mọi nơi trong cùng một lúc, các đồn bốt quân đội Sài Gòn đã lập tức phản ứng, những khẩu trọng liên khạc đạn loạn xạ trong bóng tối. Phải cầu cứu cá pháo binh yểm trợ. Nhưng các khẩu pháo cũng không làm được gì hơn ngoài việc bắn vu vơ, mặc dù nhiều pháo sáng bay lơ lửng dưới cánh dù. Mãi tới khi rạng đông, xe bọc thép mới bắt đầu xuất phát. Sau đó là vũ điệu ầm ỳ của những chiếc máy bay lên thẳng hạng nặng. Và rồi lại xuất hiện những máy bay ném bom - khu trục, bay sát mặt đất, trên các ruộng lúa, rống lên như mèo kêu. Cuối cùng là những chiếc máy bay B.52 khổng lồ, cất cánh từ đảo Guam và từ căn cứ không quân Utapao, Thái Lan, phun ra những vệt khói trắng trên nền trời xanh lơ.

Cảnh tượng này kéo dài suốt ngày. Một kiểu chuẩn bị ngừng bắn đặc biệt, khác thường.

Buổi tối hôm đó, một phi công Mỹ đi làm nhiệm vụ trở về kể lại rằng: "Bộ đội cộng sản có mặt khắp mọi nơi. Có thể nói, y như những đàn kiến từ trong tổ chui ra”.

Họ từ trên núi kéo xuống, từ trong rừng kéo ra, từ đồng ruộng hoặc từ những xóm làng trước đó vẫn hoàn toàn thanh bình kéo tới để làm gì? Phải chăng, họ muốn đáp ứng mệnh lệnh của những cấp trên, tràn ngập trong vài giờ tất cả miền Nam Việt Nam?

Chắc chắn là không. Họ chỉ muốn chiếm lĩnh trước giờ ngừng bắn, tất cả những gì có thể chiếm được, để kiểm soát được những gì có thể bảo đảm an ninh cho vùng giải phóng của họ, để tiêu diệt những gì có thể huỷ hoại được.

Sau một ngày chiến đấu ác liệt, khi thống kê các trận tiến công của đối phương, có thể dễ dàng phân loại được năm hình thức như sau:

1. Bắn phá các căn cứ quân sự của Mỹ và quân đội Sài Gòn bằng các loạt rốc-két 122 của Liên Xô, 107 của Trung Quốc, và các khẩu cối 82, pháo không giật 75.

2. Chiếm lĩnh trước giờ ngừng bắn những khu vực đảm bảo an ninh cho chính quyền cộng sản.

3. Chiếm lĩnh các khu dân cư do các lực lượng yếu kém của Sài Gòn như quân địa phương, dân vệ kiểm soát.

4. Bao vây những khu dân cư có các lực lượng thiện chiến và trang bị tốt hơn của chế độ Sài Gòn bảo vệ.

5. Chặt đứt các trục lộ giao thông khiến cho các đoàn xe cơ giới của Sài Gòn không vận chuyển được.

Một mục tiêu cuối cùng chứng minh cho tính chất ác liệt của những cuộc tiến công này xảy ra tại khu vực chung quanh Tây Ninh, cách Sài Gòn 90 kilômét về phía Tây Bắc. Thành phố này được coi như một toà thánh Vatican của đạo Cao Đài, là nơi lực lượng cộng sản có ý định đặt thủ đô của Chính phủ cách mạng lâm thời. Đó cũng là địa điểm đã từng được đặt, ít nhất cũng trong một khoảng thời gian, trụ sở Chính phủ lâm thời cách mạng miền Nam Việt Nam, trong đó có một nhân vật rất được quen biết, nhất là ở Pháp. Đó là bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

Từ ngày hôm nay, những thành viên của Chính phủ này phải có mặt tại Sài Gòn. Một số đáp máy bay từ Hà Nội vào. Số khác đáp máy bay từ Paris tới. Số còn lại sẽ do máy bay lên thẳng của Mỹ, sơn các ký hiệu được quy định (những sọc trắng kẻ dọc trên thân máy bay) lên tận bưng biền đón về đây.

Tất cả những nhân vật này đều hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất ở cửa ngõ thành phố Sài Gòn, một căn cứ không quân phòng thủ vững chắc trong đó vẫn còn trụ sở Bộ tham mưu Mỹ ở Nam Việt Nam.

Hôm nay, người ta cũng đang đón đợi chiếc máy bay của Phó tổng thống Mỹ Spiro Agnew.

Cuối cùng, những thành viên đầu tiên của Uỷ ban quốc tế giám sát ngừng bắn cũng sẽ tới. Uỷ ban này gồm 1.160 thành viên thuộc bốn nước: Canada, Hungari, Indonexia, Ba Lan.

Tuy nhiên, các sự kiện thiết yếu trong ngày hôm nay không diễn ra tại sân bay Tân Sơn Nhất mà là trên chiến trường, trong các thành phố và làng xóm trên những đường cái và đường mòn ở Nam Việt Nam. Chỉ vài giờ nữa số phận của cuộc ngừng bắn và tương lai của hoà bình sẽ được định đoạt.

2
CUỘC NGỪNG BẮN KÉO DÀI... MỘT PHÚT

28 tháng 1 năm 1973

Tám giờ sáng. Khi những tiếng chuông nhà thờ trong thành phố Sài Gòn reo vang báo tin thời điểm ngừng bắn thì tại khu phố mà chúng tôi có mặt không ai nghe thấy vì bị chìm dưới những tiếng nổ của đạn pháo.
Có vẻ như cuộc ngừng bắn chỉ kéo dài được khoảng chừng... một phút, lừ 8 giờ đến 8 giờ 1 phút. Đó là khoảng thời gian Tổng thống Thiệu lệnh cho quân đội ngừng nổ súng để chứng minh Hiệp định Paris vừa ký kết bắt đầu có hiệu lực! Nhưng ngay cả cái phút im lặng ngắn ngủi đó cũng không được tôn trọng triệt để. Ở khắp mọi nơi, những cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục. Tại nhiều địa điểm, cường độ trận đánh còn tăng hơn trước.

Từ cuối tháng 12 năm 1972, chúng tôi đã viết: “Cuộc ngừng bắn đánh dấu khởi đầu một cuộc chiến tranh mới,"… Mọi người cho là chúng tôi bi quan. Nhưng ngày hôm nay sự việc đã trở thành hiển nhiên, cuộc chiến tranh thứ ba ở Việt Nam đang mở màn.

Nếu ai còn nghi ngờ điều này, xin đọc lại bài diễn văn mà Tổng thống Thiệu vừa đọc sáng Chủ Nhật. Ông ta đã nói, không có một quy lắc chính trị nào, một quy tắc quân sự nào, có thể có được đối với cộng sản. Nếu cộng sản có mặt tại những khu vực mà chính quyền (Sài Gòn) kiểm soát thì phải bắn hạ.

Đó thật sự là một lời tuyên bố chiến tranh rất rõ ràng.

Tiến quân dưới nòng pháo

Có tới mấy chục nhà báo quốc tế chúng tôi đã nhìn thấy cuộc chiến tranh này diễn ra suốt ngày. Một số được nhìn thấy trong khoảng cách rất gần.

Vào lúc đầu buổi sáng, chúng tôi vẫn còn nghĩ rằng đây chỉ là những cuộc đụng độ nhỏ vi phạm ngừng bắn. Nhưng khi thấy xuất hiện cả xe bọc thép, pháo binh, không quân, thì còn ai có thể nói rằng đây không phải là một cuộc chiến tranh?

Chính pháo binh của Sài Gòn đã dẫn đường cho chúng tôi Không cần có bản đồ hoặc thám báo. Chỉ cần tiến dưới nòng pháo. Cũng không nhất thiết phải đi quá xa chung quanh thủ phủ Sài Gòn. Chỉ mười phút ôtô là tới được chiến trường. Dù có chọn đường đi hướng đi, đều vu vơ. Vì trên tất cả các nẻo đường chung quanh Sài Gòn đều có đụng độ Chúng tôi nói rõ: tất cả các ngả đường đều có đụng độ.

Chúng tôi bắt đầu tiến theo quốc lộ 13, con đường dẫn thẳng tới An Lộc, nơi đang đánh nhau từ tháng 3, năm trước.

Mới chưa đến 9 giờ rưỡi chúng tôi đã phải dừng lại vì đường bị tắc nghẽn bởi các xe cộ dân sự và quân sự tại Phú Cường, cách Sài Gòn ba mươi nhăm kilômét về phía Bắc.

Một cuộc giao tranh đang diễn ra lại ấp Tân Bình Hiệp sát gần tới mức từ đây chúng tôi có thể nhìn thấy những mái nhà trong xóm dưới những cây dừa. Việt cộng tới ấp này từ đêm trước. Họ đã cắt đứt đường cái và đang bảo vệ căn cứ chiếm lĩnh bắn các trọng liên và súng phóng rốc-két chống tăng B40 do Trung Quốc chế tạo. Quân đội Sài Gòn phải yêu cầu tăng viện. Nhiều đại đội bộ binh, có xe chiến đấu bọc thép và pháo trợ lực. Những loạt đạn khô khốc phóng đi từ các vũ khí tự động đáp lại pháo bắn giã giò, chậm chạp và đinh tai nhức óc.

Một đám dân tị nạn chạy về phía chúng tôi. Đàn ông, đàn bà mang theo hành trang vội vã. Những trẻ nhỏ giương cặp mắt ngơ ngác, ngồi trên những chiếc xe bò do những con trâu trắng kéo đi.

Một thanh niên bị thương vào háng, kêu la ầm ỹ. Một người mẹ bế một đứa con nhỏ, lê bước nặng nề, có vẻ như sắp ngã gục. Khi người đàn bà này tới gần chỗ chúng tôi đứng chúng tôi nhìn thấy máu chảy từ vai xuống ròng ròng...

Cờ trên đầu súng

Ở bên kia đường là những dân vệ của chế độ Sài Gòn trong những bộ đồng phục màu đen. Một số chỉ vào khoảng mười sáu tuổi. Các nòng súng trường và súng máy đều cắm cờ, cứ như Chủ Nhật này là một ngày lễ hội. Khi đi ngang qua đám dân vệ, những người chạy nạn buông lời chửi rủa:

- Chúng mày là đồ ăn hại, không bảo vệ được thôn ấp, chạy như chuột. Thế mà bây giờ lại còn trang hoàng cờ xí!

Dân làng phản ứng là đúng. Vì, hình như Việt cộng chỉ có khoảng một trung đội. Vậy mà có tới hàng mấy trăm binh lính được trang bị đầy đủ khí tài của Mỹ vẫn không đánh bật được một dúm cộng sản chỉ trang bị vũ khí nhẹ, nhả đạn dè sẻn, ra khỏi các hầm hố.

Cuối buổi sáng, chúng tôi lại được chứng kiến một cảnh tượng như vậy tại một địa điểm cách Sài Gòn bốn mươi nhăm kilômét về phía Tây Bắc, trên đường đi Tây Ninh. Đó là quốc lộ 1 nổi tiếng dẫn tới biên giới Campuchia, bị cắt ngang ở gần Trảng Bàng.

Tại khu vực này, cuộc chiến diễn ra ác liệt hơn. Sài Gòn phải huy động máy bay tới nhả bom bắn phá suất từ 8 giờ 5 phút đến 8 giờ 25 phút, tức là sau thời điểm ngừng bắn. Những chiếc máy bay chiến đấu phản lực F.5 và máy bay cánh quạt Skyraider đã tới tiến công một đơn vị Việt cộng kéo tới đây từ đêm trước, đang bám trụ hai bên đường cái.

Một cột khói đen bốc lên trên vòm trời không mây. Những xe tăng M.48 chiếm lĩnh vị trí trên đường nền nhựa đã bị mặt trời nóng bỏng làm chảy nhão nay lại bị bánh xích xe tăng cày xới. Thỉnh thoảng những khẩu pháo nòng dài trên xe bọc thép lại khạc ra một lưỡi lửa màu da cam rồi mọi người nhìn thấy một quả đạn pháo phát nổ phía sau rặng cây chuối màu xanh nhạt. Không khí khét lẹt mùi thuốc đạn.

Việt cộng giáng trả bằng cối 57 và bằng cả tiểu liên AK 47.

Trên những cánh đồng, những người nông dân vẫn thản nhiên cầm bình lưới có nòi hoa sen, lưới những dòng nước nhỏ chảy vọi theo hình cầu vồng lên những cây rau cải.

Một đám đàn bà, trẻ nhỏ ngồi dưới bóng cây hoa đại chờ kết thúc cuộc chiến. Họ chạy khỏi làng từ lúc rạng đông. Liệu khi quay lại, họ còn nhìn thấy tài sản nữa không? Và biết bao giờ họ được quay trở về?

Tất cả những con đường chung quanh Sài Gòn đều bị cắt đứt

Một nhà báo đi tới chỗ chúng tôi trên một chiếc xe tô Mỹ cho thuê, rất đẹp. Anh ta mặc một bộ đồ mới ủi, thắt một chiếc cà vạt đỏm dáng, khoác thêm bên ngoài bộ quần áo thời trang một chiếc áo nịt chống đạn mới toanh. Trên đầu anh đội một chiếc mũ sắt Mỹ.

Một xe ô tô cứu thương vừa từ mặt trận trở về, chở nặng những binh lính Sài Gòn bị thương. Một người đã bị chết trên đường vận chuyển. Anh ta còn rất trẻ. Trên gương mặt thanh niên vẫn còn lại một nụ cười. Có lẽ anh đã chết không kịp đau đớn.

Một đại tá chế độ Sài Gòn đi ngang qua. Chúng tôi hói:

- Có bao nhiêu Việt cộng ở trong kia?

Ông ta đáp lại bằng tiếng Anh:

- May be a platoon (có lẽ có một trung đội).

Vậy mà, để tiến đánh một trung đội này, đã phải huy động chiến xa loại nặng, xe gắn trọng liên và cả máy bay mà vẫn chưa đạt được mục đích.

Hơn nữa từ đây đến Tây Ninh, hình như đường cái còn bị cắt đứt hàng chục quãng. Không phải con đường bị cản trở bởi các chướng ngại vật như thân cây, các hố hào, các rào kẽm gai, mà là bị chặn đứng bởi các nhóm nhỏ Việt cộng phục kích ven đường, núp trong những hố cá nhân nguỵ trang bằng cành lá.

Từ sáng hôm nay, cảnh tượng này xuất hiện trên tất cả những con đường chung quanh Sài Gòn, đi tới Mỹ Tho ở phía Nam, tới Vũng Tàu ở phía Tây. Từ trung tâm thành phố Sài Gòn, chỉ đi được khoảng hai mươi, ba mươi kilômét là bị chặn đánh.

Chính quyền Nam Việt Nam sẽ làm gì? Họ có thể để mặc cho đối phương ngăn chặn, cấm đi lại trên tất cả các lục lộ giao thông nội địa ở chung quanh đô thành chăng? Cũng như là, các thành phố quan trọng ở miền Nam Việt Nam đều chịu chung số phận như vậy? Ít nhất, điều này cũng đã được phản ánh trong các bức điện từ các địa phương gửi về Sài Gòn.

- Với tình trạng như thế này, không một chính phủ nào trên thế giới có thể chấp nhận được.

Một viên tướng từ mặt trận quay trở lại Sài Gòn khi bị chúng tôi hỏi, đã trả lời như vậy. Các nhà báo hỏi tiếp:

- Vậy thì, vẫn còn chiến tranh à?

- Các ông muốn nó sẽ diễn biến khác đi như thế nào?

- Các ông chưa dốc hết sức mình.

- Rồi các ông xem. Chỉ mười lăm ngày nữa, chúng tôi sẽ thắng cuộc.

Nhưng, những đơn vị cuối cùng của Mỹ đã rút khỏi lãnh thổ Nam Việt Nam. Hạm đội 7 của Mỹ đã chấm dứt các hoạt động chiến đấu. Cộng sản biết rõ điều đó. Thời cơ chẳng phải đã đến với họ rồi chăng? Bất cứ người chỉ huy cách mạng nào lại chẳng chớp lấy thời cơ này? Nếu đúng thật tướng Thiệu là bù nhìn, như những người cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định, thì đây chính là lúc chứng minh, hoặc không bao giờ còn cơ hội nào nữa. Nhưng bù nhìn Thiệu cũng không có ý định để mặc đối phương làm gì thì làm. Mọi người lại hỏi:

- Vậy thì nội dung ngừng bắn là thế này ư?

Ồ? Vâng! Hiệp định ký lại Paris trên những tờ giấy rời chỉ thể hiện ở những chữ ký của những người anh em thù địch. Văn bản này cho phép Mỹ rút chân ra khỏi Nam Việt Nam.

Ngừng bắn ư?

Ở đây, ở Nam Việt Nam, tôi không biết có ngừng bắn.

3
UỶ BAN QUỐC TẾ GIÁM SÁT LÀM NHIỆM VỤ

29 tháng 1 năm 1973

Sáng hôm qua, Uỷ ban quốc tế giám sát ngừng bắn đã họp phiên đầu tiên ở Sài Gòn trong khung cảnh thiểu não: Từ phía xa xa tiếng đạn pháo vẫn nổ rền không ngớt. Không phải pháo nhỏ. Toàn cỡ 105, 155... Một lần nữa, pháo lại bắn suốt đêm chung quanh thành phố Sài Gòn bị ngột ngạt vì oi bức và xao xuyến vì hoang mang lo lắng. Bản hoà tấu đơn điệu này vẫn kéo dài mãi, trong lúc các thành viên có trách nhiệm giám sát việc thực hiện ngừng bắn theo Hiệp định Pari, gặp nhau lần đầu tiên.

Mười giờ sáng, Bộ tham mưu quân đội Nam Việt Nam công bố bản thông báo hằng ngày. Không phải để báo tin các hoạt động chiến sự đang giảm bớt. Ngược lại, 335 trận chiến đấu đã xảy ra, trong đó có một số là những trận chiến đấu thật sự, trong ngày thứ Bẩy. Tuy nhiên, ngày hôm trước kỷ lục còn cao hơn. Có tới 426 trận chiến đấu. Đến ngày thứ Hai, mọi người có thể sẽ nghĩ rằng cường độ giao tranh sẽ tiếp diễn, phụ thuộc vào ý chí quyết liệt của cả hai phía, không ai chịu nhường ai.

Vậy mà, tờ Sao và Vạch của quân đội Mỹ vừa phát hành cách đây mấy tiếng đồng hồ vẫn còn in trên trang nhất dòng chữ đậm nét to tướng It's all over (Mọi chuyện đã kết thúc). Quả là một nhận định kỳ quái!

Đại diện bốn nước ngồi chung quanh một chiếc bàn

Chào đón các thành viên Uỷ ban quốc tế chỉ có một nhóm nhà báo, khoảng một chục nữ nhân viên phục vụ dáng vẻ tò mò và vài đứa trẻ con ăn mặc bẩn thỉu.

Địa điểm đón tiếp thật thảm hại. Đó là một trại lính cũ của Pháp từ thời xưa, có những dãy nhà quét vôi màu vàng trên một bãi đất trọc, trụi cỏ, trồng cây, gần Câu lạc bộ thể thao. Khu vực này từ thời thuộc Pháp đã được gọi là “Trại lính lắm hồ ao".

Một viên cảnh sát đã mở những cánh cổng màu xanh dẫn vào khu nhà lớn nhất, cũng là ngôi nhà ít thảm hại nhất. Trong một gian phòng rộng hình chữ nhật trơ trụi, ngửi thấy mùi mốc, đã bố trí sẵn một chiếc bàn. Mặt bàn được phủ vội vã một tấm khăn có lẽ là khăn trải bàn mầu trắng từ thời chiến tranh thuộc địa của tướng Galliéni. Trên bàn có đặt vài chiếc cốc thuỷ tinh cọ rửa qua loa và bốn chai đựng nước uống, hứng từ vòi nước máy.

Ngồi chung quanh bàn là hai chục người đàn ông, gương mặt lộ rõ vẻ mệt nhọc. Bởi vì, tất cả đều vừa mới trải qua một chuyến đi dài để tới chiếc bàn không sang trọng này. Một số đã không chợp mắt từ hai đêm nay.

Phần lớn các thành viên đều trang phục mùa hè, màu sám hoặc xanh lơ, thắt cra-vát trên cổ áo sơ mi trắng theo đúng quy cách.

Nếu mọi người nhận ra ngay các thành viên quốc tịch Indonexia thì lại rất khó phân biệt những người Canada, Hungari và Ba Lan. Có hai sĩ quan Hungari mặc quân phục với những chiếc mũ mềm ka ki có lưỡi trai che mắt rất kỳ cục. Có hai người Canada, cũng là hai sĩ quan, mặc quần cộc màu xanh đậm, áo sơ mi xanh nhạt cộc tay. Ngồi sát gần chỗ tôi là một đại tá Ba Lan quân phục chải chuối, đeo đầy huân chương. Đây là người tôi có dịp trò chuyện, trước khi khai mạc cuộc họp.

Đến từ ba lục địa và thuộc những nước có chế độ chính trị khác nhau, song những thành viên này đều cùng chung mục đích: cố góp phần vào việc lập lại một nền hoà bình thật sự ở Nam Việt Nam.

Không làm gì cả.

Cuộc họp đầu tiên này kéo dài một giờ.

Buổi trưa, các nhà báo chúng tôi đến trụ sở của người Canada, đón đợi trưởng đoàn là ông Michel Gauvin, 53 tuổi, đã từng giữ chức đại sứ tại Hi Lạp, nay tới đây cùng với phó đoàn là thiếu tướng Mac Alpine.

Nhà ngoại giao này nói:

- Chúng tôi đã thảo luận về khả năng cử các phái đoàn giám sát tới bẩy bộ tư lệnh địa phương ở Nam Việt Nam. Nhưng trong lúc này chưa thực hiện được vì những lý do mà các ông đã biết. Lý do thứ nhất là các hoạt động chiến sự vẫn tiếp diễn. Uỷ ban quốc tế giám sát dĩ nhiên chỉ có thể hoạt động được nếu có ngừng bắn thật sự và có những đường ranh giới rõ ràng giữa các lực lượng đối địch.

Chúng tôi hỏi lại đại sứ:

- Nếu những cuộc chiến đấu cứ tiếp tục, các ngài sẽ làm gì?

Ông trả lời bằng tiếng Pháp:

- Chúng tôi không thể làm gì được.

Ông Michel Gauvin vừa mới tới Sài Gòn hồi hai giờ rưỡi sáng hôm nay. Nhưng ông biết rõ xứ sở này vì đã ở đây từ năm 1955. Dù chỉ mới trở lại đây một khoảnh khắc ngắn, qua giọng nói của ông chúng tôi được biết ông không nuôi ảo vọng gì về tương lai của Uỷ ban giám sát trong sứ mệnh kéo dài sáu mươi ngày. Ít nhất cũng là những ảo vọng trong tương lai gần.

Đại sứ tiếp tục nói:

- Chúng tôi chỉ có thể thực thi nhiệm vụ trong chừng mực hiệp định ngừng bắn được cả hai bên tôn trọng.

Một nhà báo Mỹ vụt hỏi ông:

- Có một cuộc chiến đấu bùng nổ ngay ở bên kia phố, thì các ngài sẽ làm gì?

Ông đáp lại bằng tiếng Anh, thẳng thừng như quất một ngọn roi:

- Nothing! (Không làm gì cả!)

Sự cố ở sân bay

Lý do thứ hai khiến cho Uỷ ban quốc tế giám sát ngừng bắn không thể nào bắt tay làm việc nhanh chóng như đã định là một bộ phận đoàn đại biểu Ba Lan chưa tới kịp Sài Gòn. Bộ phận này bị chậm trễ vì Hà Nội thiếu máy bay. Bởi vì tuyến đường bay duy nhất từ Hà Nội vào Sài Gòn chỉ có thể thực hiện trên một phương tiện duy nhất là bay qua Lào, một nước trung lập, nếu không nói là có xu hướng trung lập. Từ Hà Nội, mỗi tuần chỉ có một chuyến bay của hãng Aeroflot của Nga bay đi Viếng Chăn. Mọi người hình như quên mất chi tiết này.

Lý do thứ ba, quan trọng vô cùng, đang kìm hãm công việc của Uỷ ban quốc tế giám sát. Uỷ ban quân sự bốn bên do Hiệp định Paris chỉ định vẫn chưa bắt đầu thực hiện nhiệm vụ. Phía Nam Việt Nam, Bắc Việt Nam và Mỹ đã có thể sẵn sàng công việc vì đã có mặt tại những toà nhà lớn có điều hoà không khí, trong căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, tất cả các cổng ra vào đều canh gác kỹ. Nhưng các cấp tướng và sĩ quan cấp cao Việt cộng vẫn chưa có mặt. Người ta giải thích:

- Thật ra, họ đang ngồi trên một chiếc máy bay quân sự của Nam Việt Nam. Chiếc máy bay này đã hạ cánh, đậu gần nhà ga, nhưng họ không chịu xuống.

Lý do? Các nhà chức trách Nam Việt Nam đã đưa máy bay đón phái đoàn Việt cộng từ Băng Cốc. Phái đoàn này đã từ Paris tới thủ đô Thái Lan trên một chiếc máy bay của hãng hàng không Pháp Air France. Nhưng khi tới Sài Gòn, các nhân viên cảnh sát và hải quan yêu cầu họ làm các thủ tục nhập cảnh như những người nước ngoài. Và các sĩ quan Việt cộng đã đáp lại, không phải không có lý:

- Nước Việt Nam là một, không thể chia cắt được. Nguyên tắc này đã được công bố rõ trong Hiệp định Paris vừa ký kết. Đó cũng là điều Hiệp định Genève 1954 đã ghi nhận. Hôm nay là ngày chúng tôi trở về đất nước của chúng tôi. Đây là nhà của chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết không chịu để đối xử như những người nước ngoài…

Những sĩ quan Việt cộng này vẫn sẽ còn ngồi trong khoang máy bay nếu như đến giờ ăn trưa chính quyền Sài Gòn không nhượng bộ bằng cách tạo ra một cái cớ để đỡ mất thể diện, theo kiểu châu Á.

Và đến bây giờ?

Cuối cùng, các tiểu ban đã có thể bắt tay vào việc.

Tiểu ban quân sự bốn bên có nhiệm vụ làm cho các lực lượng quân sự Bắc Việt, Nam Việt và Việt cộng1 (Trong cuốn sách này, Paul Dreyfus dùng từ "Việt cộng" để chỉ những thành viên thuộc Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) “đóng ở nguyên các vị trí” (theo điều 3 chương A Hiệp định Paris) và cấm ngặt "các hoạt động thù địch, khủng bố, đàn áp" (điều 3, chương C).

Về phần uỷ ban quốc tế giám sát, các thành viên sẽ đi khắp lãnh thổ Nam Việt Nam để thừa nhận hoặc ghi nhận những vi phạm hiệp định đã ký kết tại phố Kleber Paris.

Nhưng, để làm việc này, trước hết phải có ngừng bắn. Mà, lúc này, súng lại bắn gấp đôi.
Cuộc chiến tranh giữa Mỹ và cộng sản Việt Nam đã kết thúc. Nước Mỹ thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng cuộc chiến tranh Việt - Việt đang ác liệt. Nhìn về phía chân trời lúc này, chỉ thấy máu và nước mắt.

4
SPIRO AGNEW ĐẾN SÀI GÒN TRONG CẢNH TRÀN NGẬP RỐI REN

30 tháng 1 năm 1973

May mà Spiro Agnew không quay lại phía sau khi bước xuống máy bay. Nếu không, có lẽ ông đã nhìn thấy ông bạn Thiệu có những thứ không muốn phô diễn. Đó là hai chiếc máy bay vận tải của Mỹ vừa hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất trước chiếc chuyên cơ của Spiro Agnew ít lâu.

Đúng là, khi cửa chiếc máy bay Boeing 707 màu xanh và trắng, số hiệu 88961, sơn cờ nhiều ngôi sao ở phía đuôi, vừa mở rộng để Phó tổng thống Mỹ Spiro Agnew bước xuống sân bay, ông Agnew đã không ngoái cổ nhìn chung quanh.

Phó tổng thống Mỹ mặc một bộ đồ màu xám sẫm, thắt cravat đen có điểm hạt đậu trắng, mái tóc muối tiêu chải mượt, nét mặt nghiêm nghị. Ngài bước thẳng đến chỗ đại sứ Ellsworth Bunker đứng ở đầu hàng một nhóm nhỏ các quan chức dân sự và quân sự đang đón đợi. Vừa bắt tay xong, ngài Phó tổng thống leo ngay lên chiếc xe hơi thân dài màu đen đi thẳng tới trụ sở ngoại giao có nhiều cây xanh.

Spiro Agnew không nhìn thấy gì hết. Ông không nhìn những lính cảnh vệ người Việt bó chặt trong những chiếc áo nịt chống đạn đứng ở thềm nhà ga hàng không, không nhìn những khẩu súng tự động sẵn sàng nhả đạn, bố trí trên nóc nhà, không nhìn những chiếc xe tô có gắn trọng liên, nguy trang, túc trực quanh sân bay, những chiếc xe tăng trong lực lượng dự bị, những chiếc máy bay lên thẳng làm nhiệm vụ bảo vệ, những cảnh sát khoác áo dân sự mang theo máy bộ đàm nhỏ xíu trong người.

Dù cho có nhìn thấy những thứ đó, có lẽ ông cũng nghĩ rằng đó là những biện pháp nhằm bảo vệ ông, nhân vật thứ hai của nước Mỹ, được Tổng thống Nixon cử đi tới thủ đô bẩy nước Đông Nam Á nhằm động viên tinh thần các đồng minh của Mỹ.

Thật ra, chỉ có một phần lực lượng bố trí này là nhằm vào việc bảo vệ Spiro Agnew. Căn cứ Tân Sơn Nhất sở dĩ đặt trong tình trạng chiến tranh còn do nhiều lý do khác nữa.

Chúng tôi không chịu ra khỏi đây

Tân Sơn Nhất, sân bay dân sự và quân sự, chiếm một diện tích lớn như một thành phố loại trung bình của nước Pháp, là một căn cứ luôn luôn được phòng thủ vững chắc. Đây là một vị trí có tầm quan trọng chiến lược quá lớn tới mức không thể bỏ mặc cho đặc công Việt cộng được trang bị vũ khí phóng rốc két tầm xa mười một kilômét tự do bắn phá.

Ngay cả khi đã có hiệp định ngừng bắn, Tân Sơn Nhất vẫn còn là một pháo đài ghê gớm tua tủa vũ khí như con nhím. Sáng hôm qua, chúng tôi chỉ có thể vào được đây do được phép ngồi trong một chiếc xe quân sự của Mỹ có một thiếu tá quân phục chỉnh tề mở đường tiên vào sân bay. Tại sao phải áp dụng những biện pháp đề phòng này? Trên thực tế hiện nay sân bay đang có những phái đoàn cộng sản thành viên của các tiểu ban quân sự đình chiến. Vậy mà, mới hôm qua, một sự cố nghiêm trọng đã đẩy một trong các phái đoàn này vào tình trạng đối lập với các nhà chức trách Sài Gòn.

Câu chuyện như sau:

Khoảng một trăm sĩ quan Bắc Việt vừa tới căn cứ không quân Tân Sơn Nhất trên hai chiếc máy bay vận tải hai động cơ C130 Hercules của lực lượng không quân vận tải Hoa Kỳ. Các nhà chức trách Sài Gòn lại có ý định buộc các đại biểu này phải tiến hành các thủ tục nhập cảnh như đã áp dụng đối với những người nước ngoài. Ngày hôm trước, phái đoàn Việt cộng đã không chịu theo các thủ tục do cảnh sát và nhân viên hải quan yêu cầu. Hôm nay, đến lượt các sĩ quan Bắc Việt cũng không chịu làm thu tục, với các lý do tương tự. Họ nói:

- Sự thống nhất của nước Việt Nam đã được công nhận ngay từ Hiệp định Genève 1954, và tuần trước lại được Hiệp định Paris 1973 tái khẳng định ngay trong điều một của văn bản. Chúng tôi không thể bị đối xử như những người nước ngoài. Chúng tôi từ chối tuân theo các thủ tục do chính quyền Sài Gòn tự tạo ra nhằm làm chậm trễ công việc của các tiểu ban trong Uỷ ban giám sát. Chúng tôi sẽ không ra khỏi đây chừng nào vấn đề này chưa được giải quyết. Chúng tôi cứ ngồi ở ngay trong khoang máy bay này.

Những người vô hình

Họ đã ngồi trên máy bay hết giờ này sang giờ khác. Kể lại trong một hàng chữ thì rất ngắn. Nhưng thực tế thì rất dài. Cũng cần biết thêm, trong chiếc máy bay vận tải quân sự Hercules của Mỹ không có đầy đủ tiện nghi vì loại này chỉ dùng để chở hàng hoặc thả dù. Thời tiết rất nóng. Máy bay lại đỗ trên đường băng xi măng bị hun nóng như lò bánh mì.

Những lính canh của quân đội Sài Gòn đội mũ sắt được bố trí vây quanh máy bay.

Còn những lính Mỹ, vừa mới hôm qua còn là kẻ địch thì thỉnh thoảng lại mang bánh mì kẹp thịt, nước chanh giải khát... tới mời các sĩ quan tự nguyện ngồi lì trên máy bay.

Trong khi đó chính quyền Sài Gòn vẫn cứng đầu cứng cổ. Họ tuyên bố:

- Hôm qua, chúng tôi đã tìm được một giải pháp đối với Việt cộng. Dù sao đó cũng là những người Nam Việt Nam. Nhưng, đối với những phái viên của Bắc Việt, không có vấn đề nhân nhượng nào cả.

Đại sứ Hoa Kỳ phải ra tay can thiệp, nói:

- Phó tổng thống Agnew đang tới thăm các ngài. Nhất định, các ngài phải tìm ra giải pháp. Nếu sự cố này không được giải quyết trong thời gian Phó tổng thống qua thăm, có thể sẽ dẫn đến hậu quả xấu nhất.

Như vậy là, chỉ ba mươi nhăm phút sau khi chiếc Boeing màu trắng và xanh chở ngài Spiro Agnew hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, chính quyền Sài Gòn đã tìm được giải pháp. Các đại biểu Bắc Việt bước ra khỏi máy bay, mệt mỏi vì đã ngồi trong khoang nóng bỏng tới hai mươi giờ. Nhưng họ đã thắng.

Nhưng rồi họ đi đâu? Không ai biết. Một trong số bạn đồng nghiệp của tôi vừa đi một mình vào cổng sân bay căn cứ không quân Tân Sơn Nhất đã bị lính canh của quân đội Sài Gòn tịch thu hết giấy tờ. Một người khác, vừa lái xe tới gần rào cản, đã bị một loạt đạn bắn vỡ lốp xe.

Không nhà báo nào được liếp xúc với các thành viên phái đoàn Bắc Việt và Việt cộng. Cũng không biết họ ở đâu Trong lúc này, họ đang là những người vô hình.

Từ nay đến cuối tuần

Nếu có được một hi vọng hoà bình, thì đó là nhờ vào những người trong các tiểu ban quân sự kiểm soát ngừng bắn, gồm ba nghìn ba trăm sĩ quan lập hợp trong Uỷ ban quân sự bốn bên: Mỹ, Nam Việt, Bắc Việt, Việt cộng và khoảng vài chục sĩ quan trong tiểu ban quân sự liền hợp Nam Việt và Việt cộng. Chúng tôi được biết, những thành viên này đã họp bàn, nhưng nội dung các cuộc thảo luận vẫn được giữ rất bí mật như những cuộc bầu một giáo chủ.

Trong khi đó, những cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục diễn ra ác liệt từ nơi này đến nơi khác trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Không ai nhìn thấy những cuộc giao tranh này sẽ có thể ngừng một cách đột ngột như thế nào.

Việt cộng và Bắc Việt không có ý định rút khỏi những vị trí đã chiếm lĩnh trước thời điểm Hiệp định Paris trở thành có hiệu lực trên lý thuyết.

Còn quân đội Sài Gòn thì quyết định giải toả bằng mọi giá các trục lộ giao thông chung quanh các thành phố lớn, nhất là chung quanh Sài Gòn. Họ đã thực hiện việc này không cần tiết kiệm các phương tiện: Xe tăng, pháo, máy bay. Có Chúa Trời mới biết được, các tuyến đường được mở bằng giá nào.

Khi tiếng sấm của những cuộc chiến đấu giảm đôi chút, người ta lại nghe thấy:

- Các bên đối địch tố cáo lẫn nhau vi phạm hiệp định ngừng bắn, một cuộc ngừng bắn không hề có.

- Tiếng nói không trọng lượng của Uỷ ban quốc tế kiểm soát kẻ chứng kiến một cách bất lực sự nổi dậy của chiến tranh.

- Tiếng kêu cứu của những người dân chạy nạn ở hai bên đường.

- Tiếng kêu xé lòng của dân thường bị thương.

5
CÁC TIỂU BAN KIỂM SOÁT BỊ NGỪNG TRỆ

31 tháng 1 năm 1973

- Chúng tôi sẵn sàng đi khắp đất nước ngay lập tức.

Đó là lời ông Bogdan Wasilevski, nguyên đại sứ Ba Lan tại Hà Nội, hiện đang giữ chức trưởng đoàn Ba Lan trong Uỷ ban bốn nước (Ba Lan, Canada, Hungari, Indonexia) kiểm soát ngừng bắn tại Việt Nam, nói với tôi hôm qua.

1160 thành viên của ông đã sẵn sàng. Nhưng đã bốn ngày sau thời điểm quy định đình chỉ các hoạt động chiến sự, bộ máy này vẫn đình trệ, nằm tại Sài Gòn. Các trận đánh vẫn tiếp tục. Về phần các tiểu ban quân sự cũng chưa hoạt động được. Các nhà chức trách Sài Gòn ngăn không cho các nhà báo đến gần họ. Các thành viên Việt cộng và Bắc Việt vẫn bị cách biệt trong sân bay Tân Sơn Nhất.

Tình trạng này khiến cho báo chí quốc tế phải lên tiếng phản kháng chính quyền Sài Gòn. Kết quả là một con số không. Tổng thống Thiệu, các bộ trưởng, các tướng lĩnh bỏ mặc. Hôm trước, họ đã tuyên bố là những thành viên Bắc Việt tới sau sẽ phải thực hiện các thủ tục hải quan và nhập cảnh như khách nước ngoài. Điều này có thể dẫn đến những sự cố mới.

Tuy nhiên, một vài dấu hiệu, dù mỏng manh cũng đang làm mọi người nghĩ rằng tình hình có thể tiến triển. Từ ngày hôm qua, người ta ghi nhận các trận đánh đã giảm bớt và thừa nhận không xảy ra một hoạt động quân sự nào với quy mô lớn. Mọi người lại được đi lại trên tất cả các trục lộ giao thông lớn chung quanh Sài Gòn. Những tuyến giao thông chính yếu đã được giải toả như các nhà chức trách Sài Gòn mong đợi. Tiếng súng lớn đã lùi xa. Mặt khác, cũng có nhiều hoạt động gây sức ép với chính quyền Sài Gòn thúc đẩy họ phải giảm bới căng thẳng hơn nữa đối với những người cộng sản đối thoại. Chính Phó tổng thống Mỹ Agnew đã thúc bách Thiệu làm việc này. Những sức ép khác đến từ các con đường ngoại giao.

Nhiều nhà quan sát cho rằng đến cuối tuần sẽ có một bước ngoặt trong chiến tranh Việt Nam.
Cuộc chiến sẽ chuyển sang những hình thức khác khi nào đình chỉ chiến sự.

Chắc hẳn, chính vì lẽ đó mà tướng Dương Văn Minh thường được gọi là "Minh lớn", một nhân vật khôn ngoan, có thể được coi là người đối lập duy nhất trong phe đối lập với Thiệu, ngày hôm qua đã ra khỏi nơi ở ẩn. Từ lâu lắm, đây là lần đầu tiên người ta nghe thấy một tiếng nói cấp tiến ở Nam Việt Nam.

6
CHIẾN TRANH CÓ SỨC SỐNG RẤT DÀI, NHƯNG MÀ...

1 tháng 2 năm 1973

Ngồi trong phòng làm việc rộng lớn như một phòng khiêu vũ có máy điều hoà không khí, tướng Viên thoả mãn xoa hai bàn tay vào nhau.

Mọi việc đang tiến triển tốt.

Cao Văn Viên, 52 tuổi, là Tổng tư lệnh kiêm Tổng tham mưu trưởng quân đội, là nhân vật hùng mạnh nhất của chế độ Sài Gòn, sau Tổng thống và Bộ trưởng Bộ Nội vụ, đang nghĩ có thể thắng được kẻ địch cứng đầu cứng cổ.

Xuất thân là một học viên trường đào tạo sĩ quan của Pháp ở Vũng Tàu, Viên được bổ túc nghiệp vụ cấp tướng tại Học viện quân sự cấp cao của Mỹ, đã dự kiến trước cộng sản sẽ làm gì khi có lệnh ngừng bắn. Ông chờ Việt cộng đưa những đơn vị nhỏ tới chặt đứt các quốc lộ và tỉnh lộ và đã bố trí binh lực để có thể ứng phó kịp thời. Đó là điều ông đã thực hiện từ 8 giờ sáng ngày Chủ Nhật 28 tháng 1 năm 1973, dựa trên hai chủ bài là tính cơ động tuyệt đối cao của các đơn vị cơ giới hoặc máy bay lên thẳng, và ưu thế rất cao về hoả lực.

Cao Văn Viên đang thắng thế trong cái gọi là "chiến tranh xa lộ". Phần lớn các tuyệt giao không đã được giải toả. Dù cho các đơn vị cộng sản vẫn còn tiếp tục các hoạt động phá hoại và còn giữ được một vài vị trí, nhưng đã bộc lộ những dấu hiệu tàn lụi.

Chiến thuật mới mà cộng sản đang áp dụng đã khiến cho binh lực của họ phải ra khỏi các "thánh địa" và phân tán thành từng đơn vị nhỏ.

Những đơn vị xung kích này rất hiếm khi vượt quá một trung đội, nhưng vẫn có những khó khăn lớn là tiếp tế đạn dược, ngay cả ban đêm. Các đoàn tiếp vận phải vượt những chặng đường dài để mang vác những quả đạn cối, những băng đạn trọng liên, và phải vượt qua nhiều khu vực do Sài Gòn kiểm soát.

Hôm qua, các vụ vi phạm hiệp định ngừng bắn đã giảm bớt, nhưng vẫn còn tới 188 vụ.

Danh từ "vi phạm" có thể hiểu theo nhiều cách. Dù sao, Chủ Nhật trước cũng còn có tới 1.134 vụ vi phạm. Có nghĩa là cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn không ngừng.

Cuộc chiến tranh này có sức sống rất dai.

Đúng như giới báo chí Liên Xô nhận định, cuộc chiến tranh này đã đi tới đoạn chót sau những hai mươi bẩy năm chiến đấu, khó mà có thể chấm dứt ngay lập tức đúng thời điểm quy định. Lời bình luận của Matxcơva thật có ý nghĩa. Liên Xô đang cẩn thận, cố tránh thổi bùng lên ngọn lửa đang phải bắt đầu.

Trong lúc này, các tiểu ban kiểm soát ngừng bắn đang bố trí một cách nhọc nhằn, vất vả. Mãi ngày hôm qua chúng tôi mới nhận được tin đầu tiên của đại sứ Michel Gauvin, trưởng đoàn Canada trong Uỷ ban quốc tế cho  biết, sáu mươi hai nhân viên của Uỷ ban kiểm soát ngừng bắn, trong ngày hôm nay, thứ Sáu 1 tháng 2 đang dự định liến hành chuyến thanh sát đầu liên trên lãnh thổ Nam Việt Nam. Họ sẽ đi bằng máy bay lên thẳng, có các thành viên thuộc tiểu ban quân sự bốn bên (Mỹ, Bắc Việt, Nam Việt, Việt cộng) đi kèm.
Cuối cùng, trong ngày hôm qua, trưởng đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cũng đã từ bưng biền, đáp máy bay lên thẳng được Mỹ tìm đón, tới sân bay Tân Sơn Nhất.

Sau khi đến sân bay, tung tích của đoàn bị chính quyền Sài Gòn bưng bít rất nghiêm ngặt. Không một nhà báo nào được tiếp xúc với nhân vật quan trọng này. Ngay cả họ tên của ông, mãi đến tối hôm qua, mọi người cũng không được biết.

7
TẾT ĐẾN VỚI ANH CHÀNG NGUYỄN TỘI NGHIỆP

2 tháng 2 năm 1973

Cách đây hai năm, tôi có quen một nhân viên khách sạn Continental, một khách sạn cũ xây theo kiểu thuộc địa ở ngay trung tâm Sài Gòn. Anh ta tên là Nguyễn. Vì biết tiếng Pháp nên có một vài lần anh được chọn làm phiên dịch cho tôi.

Hôm qua, tình cờ tôi gặp lại Nguyễn trên đại lộ từ Toà Thị chính dẫn đến bờ sông. Đây là dịp Tết âm lịch của Việt Nam. Đại lộ này biến thành một chợ hoa.

- Thế nào, Nguyễn, mạnh khoẻ chứ?

- Cũng tạm được, thưa ông.

Anh chỉ vào ống tay áo bên trái, đang bay phất phơ dưới mỏm cụt.

Câu chuyện của Nguyễn cũng giống như hàng ngàn, hàng vạn thanh niên ở Nam Việt Nam, đang có lệnh động viên tất cả trai tráng mười tám tuổi. Nguyễn được biên chế vào một đơn vị biệt kích, sau ba tháng huấn luyện bị đưa đi chiến đấu tại vùng châu thổ gần Cần Thơ. Một quả đạn cối nổ gần. Cánh tay trái của Nguyễn gần như bị xé nát. Đưa về trạm quân y, cánh tay bị cắt cụt. Nguyễn trở thành phế binh. Sau đó được giải ngũ, sống bằng tiền trợ cấp thương tật còm cõi. Không chết là may rồi.

- Rồi sao nữa?

- Thưa ông, tôi làm đủ mọi nghề phục dịch nhỏ. Hiện nay tôi giúp những người bán hoa, đang rối bận vì Tết đến.

Nguyễn dạy tôi biết tên ba loại cây cảnh ngày Tết: Mai trắng, Mai vàng, Đào hồng, rồi nói thêm:

- Tôi đã có vợ và vừa mới có con. Mời ông tối nay lại chơi.

Tôi đến chỗ hẹn, và không sao quên được căn hộ của Nguyễn. Đây là một túp lều dựng lên bằng những ván gỗ mỏng, mái lợp tôn lá uốn, bên cạnh phố Võ Tánh, sát đường xe lửa.

Tôi hỏi:

- Không có xe lửa chạy qua chỗ này à?

- Có! Ngày nào cũng có. Tàu đi Biên Hoà. Là tuyến xe lửa cuối cùng ở Nam Việt Nam. Chiều dài ba mươi cây số. Nhưng sau đó, đường sắt này cũng bị cắt.

Nguyễn dẫn tôi vào căn nhà tối om. Anh giới thiệu với tôi người vợ rất trẻ, rồi chỉ vào đứa bé đang ngủ trong chiếc nôi làm bằng vỏ két đạn của Mỹ, nói một cách tự hào:

- Con tôi đấy! Cháu sinh đúng vào ngày đình chiến. Thật là một sự trùng hợp kỳ lạ, vì tôi sinh vào ngày Điện Biên Phủ thất thủ.

Giữa hai cha con là một khoảng cách mười chín năm chiến tranh không ngừng.

Chúng tôi nói chuyện với nhau trong khi vợ Nguyễn pha trà có vắt chanh.

Tôi hỏi:

- Nguyễn này! Cậu có ủng hộ Việt cộng không?

- À, mà không!

- Thế có lẽ cậu ủng hộ Thiệu?

- Càng không. Tôi không ưa viên tướng này. Nhưng nếu cần phải chọn một trong hai phía, thì tôi đứng ở phía...

- Vậy thì cậu bỏ phiếu cho ai?

- Biết thế nào được?

- Nhưng mà, cậu phải quyết định đi. Cậu là người Nam Việt Nam. Sẽ có tuyển cử.

- Tuyển cử ấy à? Không có tuyển cử ngay đâu. Ông hãy tin lời tôi.

- Chiến tranh đã kéo dài mười chín năm rồi. Có lẽ từ bây giờ, lại phải chờ mười chín năm nữa mới có hoà bình?

- Ai mà biết được?

Nói xong, Nguyễn nhe răng cười. Trong vỏ một hộp sữa Guigoz được dùng làm lọ hoa, có một cành mai vàng đang nở hoa.

Thấy tôi nhìn, Nguyễn giải thích:

- Ngày Tết mà!

- Chào mừng năm mới. Một năm tốt đẹp.

Tôi rời khỏi căn hộ.

Trời đã tối mịt. Có tiếng hát của những người đàn bà vang lên từ những căn nhà ổ chuột làm bằng bìa cứng, lợp mái tôn. Phía xa xa, có tiếng còi một chiếc đầu tàu vọng lại.

8
MỘT LÀNG NHỎ TẠI MẶT TRẬN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

3 tháng 2 năm 1973

Như bốn con cóc cụ màu xanh ghê tởm, bốn chiếc xe bọc thép đang lội trong bùn dọc theo quốc lộ số 4.

Phía bên kia là một con đường đất nhỏ màu vàng chạy giữa những ruộng lúa nước màu xanh. Một con đê hẹp lỗ chỗ vì đạn pháo dẫn đến thôn Nhị Quý.

Từ thành phố lân cận, một cụ già đã nói với tôi:

- Các ông khó mà tới đó được. Đang đánh nhau dữ lắm. Nhà thờ chỉ còn là những đống đổ nát.

Hai cây số chạy bộ đưa chúng tôi đến cổng làng. Một búi dây kẽm gai ngăn lối vào phố chính. Chúng tôi bỏ lại chiếc xe tô Meharie có một sinh viên tên là Hân cùng đi để làm phiên dịch ở ngoài cổng.

Từ đây chỉ còn đi hai kilômét, vượt đường cái lớn Mỹ Tho - Cai Lây, trục lộ giao thông chính trong vùng châu thổ là có thể rơi vào khu vực tuyệt đối không an toàn. Có thể nói, khu đó là "mặt trận”, nếu từ ngữ này có một ý nghĩa nào đó trong chiến tranh cách mạng.

Không xa lắm, một cỗ pháo 105 đang nhả đạn vào một mục tiêu vô hình. Những máy bay lên thẳng lượn vòng rất thấp trên khu vực.

Hân nói:

- Trong tiểu khu này vẫn còn có một cuộc hành quân chiến đấu. Sáng nay máy bay đã ném bom.

Cuộc chiến đang diễn ra phía Bắc quốc lộ có lẽ cách khu vực Đồng Tháp Mười khoảng ba hoặc bốn kilômét. Còn chúng tôi thì lại đang đâm bổ xuống phía Nam, về phía sông Cửu Long. Và chúng tôi biết sẽ không tài nào tới đích.


Khu vực này có hàng chục kênh rạch cắt ngang cùng với những bụi cây chuối, cây cọ, cây dừa, Việt cộng đang chiếm lĩnh như giữ nhà của mình.

Một dân làng bảo chúng tôi:

- Các ông đừng đi xa nữa. Ở bên kia cầu, rất nguy hiểm cho binh lính.

Chúng tôi vượt qua cây cầu thép đã bị đánh gục một nửa, tiếp tục đi đến nhà thờ, một ngôi nhà lá đơn sơ dùng làm trường học. Mái nhà đã bị pháo phá huỷ.

Nhưng bên trong, tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng thạch cao vẫn không bị thương tổn.

Một sĩ quan nói với chúng tôi:

- Lúc ngừng bắn, có năm tên Việt cộng đã đóng trong nhà thờ, cắm cả cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng. Chúng tôi đã đánh bật và tiêu diệt chúng.

- Thế lá cờ đâu?

- Chúng tôi bắn pháo rất nhiều tới mức chỉ còn lại có cán cờ.

Nhìn lên một ngọn cây dừa, tôi thấy có một lá cờ hai màu xanh, đỏ, chính giữa có ngôi sao vàng. Tôi hỏi viên sĩ quan:

- Thế còn lá cờ kia, chẳng phải đó là cờ của chính phủ lâm thời Việt cộng đó hay sao?

- À, nhưng chỗ đó là khu vực của Việt cộng.

- Còn ở đây?

- Đây là khu vực của chúng tôi.

Để chứng minh cho lời viên sĩ quan, lính của ông ta, nhan nhản khắp nơi đang đào hố để đặt ổ súng trọng liên.

Có những tiếng súng máy vang lên gần.

Bầy trẻ con đi theo chúng tôi, reo hò vui vẻ như một đàn chim sẻ.

Viên sĩ quan quát lính:

- Nhanh tay lên. Phải bố trí xong trước khi trời tối.

Binh lính vội vã đào hố bằng xẻng.

Khi hoàng hôn tắt nắng thì thôn Nhị Quý cũng đã cắm xong những lá cờ vàng có ba vạch đỏ.

Đây là lần giành giật thứ sáu kể từ thời điểm ngừng bắn.

9
THĂM TOÀ THÁNH CAO ĐÀI


4 tháng 2 năm 1973

May quá, có một người lính canh đang đứng gác giữa đường. Nếu không, có lẽ tôi sẽ đụng phải một máy bay lên thẳng vừa đỗ xuống.

Từ trên máy bay, một người bước xuống, trong tay cầm một bản đồ tham mưu đang mở.

Tôi đoán, đây là một thành viên Uỷ ban quốc tế giám sát ngừng bắn. Nhưng tôi đã nhầm. Đây chỉ là một sĩ quan liên lạc mang mệnh lệnh tới truyền đạt cho binh lính đang hoạt động tại khu vực gần Trảng Bàng, ở phía Bắc.

Vì đây là nơi mà một tuần trước, tôi đã chứng kiến một trong những trận chiến đấu đầu tiên trong cuộc chiến tranh Việt - Việt, và đến nay sự bình yên vẫn chưa trở lại. Các xe tăng, pháo, xe bọc thép vẫn còn ở lại nơi này. Chỉ có xóm nhỏ thanh bình mà những người nông dân đã xây dựng hai bên đường là không còn nữa. Trong đống nhà đổ nát, những người sống sót đang cố bới tìm những thứ gì còn có thể thu nhặt được. Trong những bụi cây dừa, cây chuối bị đạn pháo bắn xơ xác, lũ trẻ nhỏ nhặt nhạnh các băng đạn súng máy và những vỏ đạn pháo. Một đứa khoảng mười hai tuổi mặc quần cộc màu đỏ, giơ cho tôi xem một quả lựu đạn chưa tháo kíp vừa nhặt được trong đống quả dừa, với một vẻ đắc thắng.

Chiếc máy bay lên thẳng bốc lên cao.

Tôi tiếp tục cuộc hành trình tới Tây Ninh, cách Sài Gòn khoảng một trăm kilômét về phía Tây Bắc. Hồi đó, Tây Ninh là một tỉnh lỵ nghèo nàn, bẩn thỉu, nhưng nổi tiếng là lãnh địa của đạo Cao Đài, có thánh thất của tôn giáo này ở ngay gần đó.

Một Vatican kỳ lạ

Vẻ kỳ lạ thể hiện ở chỗ, trên bãi đất cằn cỗi này đột khởi một Vatican của đạo Cao Đài, một khu tôn giáo gồm nhiều cư xá cho các thầy tu, các chức sắc, một bệnh viện, một trường đại học tôn giáo, có cả những dân vệ không vũ trang, mặc đồng phục màu trắng, đội mũ cát màu trắng kiểu thuộc địa có gắn hình đạo kỳ với ba màu vàng, xanh, đỏ.

Toà nhà đặc biệt nhất là Thánh thất, quét vối sặc sỡ, có vẻ như được xây dựng theo một kiểu kiến trúc hoang tưởng.

Tôi đến Toà thánh này không phải để nghiên cứu sâu hơn về đạo Cao Đài mà tôi đã được biết là do một viên chức cũ của Pháp thành lập năm 1946. Khi tới đảo Phú Quốc hồi 8 giờ sáng tôi đã nhìn thấy một nhà thờ đạo Cao Đài có một con mắt thần thánh, nhìn lên trời cao.

Một vị giáo chủ Cao Đài

Tôi muốn được yết kiến Giáo hoàng đạo Cao Đài có tầm quan trọng ở Nam Việt Nam, vì có tới năm trăm nghìn tín đồ. Nhưng người ta nói với tôi, hiện chưa có giáo hoàng vì chưa định được ngày, và đề nghị tôi gặp một trong sáu vị giáo chủ mà tôi đã được nhìn thấy sáu chiếc ghế dành riêng cho các vị này bố trí dưới chân ngai giáo hoàng tại trung tâm nhà thờ, nơi có đặt một quả địa cầu, có con mắt thánh khổng lồ, con mắt của Thượng đế.

Tôi được dẫn đến một gian phòng đẹp đẽ, mát mẻ. Người hướng dẫn bảo tôi ngồi đợi một lát trong phòng khách có đồ gỗ theo kiểu Levitan của Pháp. Tôi nghe thấy có tiếng chân bước đi lệt xệt rồi nhìn thấy một ông già mặc toàn đồ trắng, có hai người hầu xốc nách, dìu vào ngồi trên ghế trước mặt tôi.

Từ trên bộ mặt của người chết, chỉ có hai con mắt nhấp nhánh vẻ ranh mãnh. ông lão hỏi tôi bằng tiếng Pháp rất thành thạo:

- Nào, người anh em muốn gì?

- Thưa Đức ông, tình hình trong địa phận như thế nào?

- Hôm qua vẫn còn bắn nhau. Hôm nay, không đánh nhau. Ngày mai, có lẽ lại bắn nhau.

Ông trả lời một cách khôn khéo. Tôi nói tiếp:

- Thánh thất vẫn được bảo vệ. Thế mà người ta bảo tôi là có đánh nhau ngay trong toà thánh, hoặc ít nhất cũng gần toà thánh.

- Không! Không! Nhờ Trời phù hộ, chúng tôi đã tránh khỏi chiến tranh.

Tôi tránh không muốn hỏi, vong linh của Victor Hugo có giúp được gì không, bởi vì những người sáng lập đạo Cao Đài có nêu lý thuyết thờ cả văn hào Victor Hugo của Pháp. Tôi chỉ hỏi:

- Thế tại sao dân phải đi lánh nạn?

- Đó là dân các làng lân cận đến đây xin ở nhờ. Họ đi theo số dân từ Campuchia chạy sang mà chúng tôi đã cho lánh nạn từ năm 1970. Thật là những người khốn khổ tội nghiệp, như anh đã nhìn thấy đó.

Đúng là, khi tới đây, tôi đã nhìn thấy những người này. Họ cắm lều dưới bóng cây, túm tụm từng gia đình với những thứ nghèo nàn cố mang theo: những chiếc võng, những chiếc chiếu, những nồi niêu xoong chảo đã bẹp...

Một cuộc chiến tranh kiểu khác

Chúng tôi tiếp tục nói chuyện với nhau rất lâu. Khi tôi xin cáo biệt, giáo chủ nói:

- Anh cũng biết câu định lý nổi tiếng của nhà chiến lược quân sự Clausewitz rồi đấy. “Chiến tranh là kế tục của chính trị theo những phương thức khác". Tôi nghĩ người ta đang áp dụng công thức này tại Việt Nam sau khi ngừng bắn. Chúng tôi đang bước vào một cuộc chiến tranh theo hình thức khác; cuộc chiến tranh chính trị. Anh hãy nghe lời lão già này. Chúng tôi chưa kết thúc chiến tranh đâu.

Chừng như để chứng minh cho lý lẽ của ông lão, khi tôi quay trở về qua Trảng Bàng, những tiếng pháo đã im. Những xe tăng hạng nặng vẫn còn ở lại vị trí, nhưng pháo binh đã rút hết.

Đến cuối ngày, vẫn còn vài tiếng súng lẻ tẻ, bắn đi từ những lính canh đang căng thẳng thần kinh hoặc quá nhàn rồi.

Phía xa, vẫn còn nghe thấy vài tiếng súng. Có lẽ là những tiếng nổ cuối cùng.

Và đã một tuần trôi đi kể từ khi tôi nhận định đây là những tiếng súng cuối cùng.

Tôi lái xe đi từ từ, tránh những hố đạn pháo. Chú bé mặc quần cộc màu đỏ nhặt được trái lựu đạn hôm nào, vẫn còn đó. Vừa nhìn thấy tôi, thằng nhóc vội giơ cao quả lựu đạn, làm ra vẻ tháo chết an toàn, rồi toét miệng cười to...

10
CUỘC TIẾP XÚC CHỚP NHOÁNG VỚI MỘT ÔNG TƯỚNG VIỆT CỘNG


3 tháng 2 năm 1973

Ngày hôm qua, ngay tại Trung tâm thành phố Sài Gòn tôi đã gặp một ông tướng Việt cộng mặc quân phục. ông đang ăn cơm trưa tại thành phố. Dĩ nhiên, không phải là một bữa ăn thịnh soạn. Đây là bữa cơm "vừa ăn vừa làm việc" do đại sứ Michel Gauvin, trưởng đoàn Canada trong ban quốc tế kiểm soát ngừng bắn, tổ chức. Chung quanh bữa ăn tại biệt thự trồng nhiều hoa, có các trưởng đoàn Ba Lan, Hungari, Indonexia.

Cùng đi với bốn người mặc thường phục là các quân nhân: Đó là bốn trưởng đoàn đại biểu thuộc tiểu ban quân sự bốn bên: Thiếu tướng Mỹ Gilbert Woodward tham mưu trưởng bộ tư lệnh quân sự Mỹ tại Sài Gòn, trung tướng Ngô Du, trung tướng Bắc Việt Lê Quang Hoà, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam tại Hà Nội và tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh thuộc tổng hành dinh Mặt trận dân tộc giải phóng, do một chiếc máy bay lên thẳng lên tận bưng biền Lộc Ninh tìm đón, đưa về đây vài hôm trước.

Tướng Bắc Việt mặc quân phục ka ki với các cấp hiệu và huân chương. Tướng Việt cộng mặc bộ đồ trận màu xanh lá cây, không đeo sao và dải huân chương, đội mũ cứng như các sĩ quan của Mặt trận dân tộc giải phóng. Trong các khách mời với các bộ đồ may đo sang trọng, ông là vị tướng chiến đấu xuất hiện từ rừng rậm.

Cũng như người đồng nghiệp Bắc Việt, đây là lần đầu tiên ông ra khỏi sân bay Tân Sơn Nhất là nơi ông từng sống kể từ ngày tới Sài Gòn, trong một căn nhà có máy điều hoà không khí, được canh gác, bảo vệ nghiêm mật hơn cả bảo vệ những kho trang sức quý giá của hoàng hậu Ran.

Ông đến đây trên một xe hơi to lớn của Mỹ.

Sau bữa ăn, các vị khách ra khỏi phòng, đứng trên bậc thềm, đồng ý cho chụp ảnh. Đây là lần đầu tiên các cựu địch thủ thoả thuận cùng để lộ mặt trên phim ảnh. Tất nhiên, họ từ chối một cuộc phỏng vấn. Trung tướng Việt cộng Trần Văn Trà vẫn muốn trả lời ngắn gọn vài câu hỏi. Cũng như bạn đồng nghiệp Bắc Việt, ông khẳng định rõ ý muốn thiết lập một cuộc ngừng bắn thật sự. Ông nói:

- Chúng tôi đến đây để góp phần vãn hồi hoà bình. Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam cũng như Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn hoà bình.

Ông phàn nàn về những khó khăn đã ngăn trở tiểu ban quân sự bốn bên công tác hiệu quả như cần thiết. Ông tố cáo chính quyền Nam Việt Nam, nhưng không nêu đích danh, đã chọc gậy vào bánh xe. Ông bộc lộ một sự lo ngại về tương lai khi vạch rõ tất cả những trở ngại này còn xa mới vượt được.

Sau khi nói xong, ông tiến lại gần một lính dù đang làm nhiệm vụ canh gác biệt thự. Ông giơ tay, nói:

- Chiến tranh đã kết thúc. Phải hoà giải.

Tên lính dù sững sờ, không biết phản ứng như thế nào. Bắt tay ư? Rất có thể sẽ bị cấp trên khiển trách. Bồng súng chào ư? Điều này không ghi trong điều lệnh, nhất là trong những tình huống như thế này. Hạ gục tại chỗ viên tướng Việt cộng ư? Ngay trên bậc thềm toà nhà ngoại giao, đây là một hành động gây ấn tượng xấu.

Anh lính quyết định đứng im. Dù sao anh cũng mỉm cười. Đây là nụ cười đầu tiên của hoà bình.

11
TẤM DA BÁO KỲ LẠ MÀ NGƯỜI TA GỌI LÀ NAM VIỆT NAM

9 tháng 2 năm 1973

Trong đêm 2 rạng ngày 3 tháng 2 khi chuông nhà thờ Sài Gòn điểm mười hai tiếng, đó là giao thừa của Tết âm lịch Việt Nam.

Ngày Tết bắt đầu năm mới theo âm lịch Năm mới âm lịch 1973 của Việt Nam có một ý nghĩa đặc biệt tiêu biểu. Không phải do việc ký kết hiệp định Paris, mà là đã ra khỏi năm Tý, năm con Chuột, để bước vào năm Sửu, năm con Trâu.

Trong quan niệm của người xứ này, con Trâu là biểu tượng của sức mạnh. Bộ máy tuyên truyền của Tổng thống Thiệu đang chứng minh cho thời điểm này. Với con Chuột, có thể xảy ra mọi rủi ro lo lắng. Với con Trâu, tất cả mọi hi vọng đều có thể đạt được.

Tuy nhiên, khi chăm chú nhìn kỹ bản đồ Nam Việt Nam, tình hình không sáng sủa chút nào. Chính quyền Sài Gòn còn xa mới kiểm soát được tất cả lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau.

Như một tâm da báo

Có một số người nhận xét: "Nhìn chung, tình hình Đông Dương năm 1973 cũng tương tự như hồi 1954, trước khi ký Hiệp định Genève. Một đường ranh giới tạm thời được vạch ra ở phía Bắc Huế và Quảng Trị, chia cắt đất nước làm hai phần".

Theo tôi, hoàn toàn không đúng như vậy. Đã mười chín năm, kể từ ngày Thủ tướng Pháp Mandès France ký hiệp định Genève, lúc đó các nhà chức trách Sài Gòn hoàn toàn làm chủ phần phía Nam của đất nước Việt Nam. Ngày nay, tình hình không giống như vậy.

Nếu các vùng do chính quyền Thiệu cai trị được tô bằng màu vàng nhạt và những vùng do cộng sản kiểm soát màu nâu thẫm, ta sẽ có một bức tranh sặc sỡ hai màu xen kẽ với nhau, thường được ví như tấm da báo. Những màu nâu sẫm dần dần nhiều như những mảng màu vàng nhạt. Nói một cách khác, hai địch thủ kiểm soát mỗi bên một nửa lãnh thổ miền Nam.

Nhưng là những nửa rất khác nhau. Phía cộng sản dựa lưng vào vùng biên giới Campuchia và Lào, chiếm một vùng lãnh thổ ít dân hơn và không có những tài nguyên dồi dào. Phía "quốc gia Nam Việt" giữ được một phần nước “hữu ích” chạy dài dọc ven biển, bao trùm tất cả những thành phố lớn và những vùng sản xuất các sản phẩm thứ yếu như lúa gạo, đường, rau quả.

Có ít nhất 200.000 chiến binh cộng sản

Một lý do thứ hai khiến cho tình hình miền Nam Việt Nam phức tạp khó khăn hơn hồi 1954 là có những đơn vị cộng sản được tổ chức rất hoàn hảo, sống ngay trong lãnh thổ.

Theo tin tức tình báo của Sài Gòn, Việt cộng có 83.000 chiến binh. Một phần lớn trong số này không phải sình ra ở miền Nam Việt Nam. Họ từ Bắc Kỳ kéo vào. Còn tình báo Mỹ thì ước đoán con số này là 75.000.
Bên cạnh các đơn vị chính quy, còn phải tính thêm 50.000 cán bộ chính trị, dân vận và nhân viên thu thuế.

Cuối cùng, còn phải tính đến những dân quân, dân công phụ trách chuyển vận đạn dược, lương thực.

Về số lượng các đơn vị Bắc Việt đóng tại miền Nam, các tin tức tình báo không thống nhất. Bộ tổng tham mưu quân đội Sài Gòn ước đoán là 300.000, trong khi quân báo Mỹ chỉ khẳng định có 150.000. Có lẽ, con số đúng nhất là 200.000. Nhưng nhiều tuần nay, số quân này đang được tăng thêm. Gần đến ngày ký Hiệp định Paris, Bắc Việt đã chuyển qua lãnh thổ Campuchia nhiều đơn vị chủ lực vào miền Nam Việt Nam. Vào lúc này, tại Campuchia chỉ còn có vào khoảng 10.000 binh sĩ phụ trách hậu cần, 10.000 binh sĩ chiến đấu, so với 60.000 người hồi cuối năm ngoái.

Dưới cái ô của Mỹ

Còn một điểm nữa khác biệt với tình hình năm 1954. Đó là thái độ dân chúng không như cũ. Trong những vùng do cộng sản kiểm soát, những năm học tập chính trị chưa mang lại được nhiều kết quả. Trong những vùng do Sài Gòn cai trị bầu không khí tâm lý thể hiện trên hai vế cụm từ: "Sợ bộc lộ chính kiến” và "chán nản đến cực điểm".

Chỉ tính đến những sự kiện trên đây, cũng dễ dàng kết luận là tướng Thiệu đang trong tình thế xấu. Hơn nữa, Hiệp định Paris trong khi chấm dứt sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam cũng tước mất của Thiệu một vật quý nhất: đó là cái ô viện trợ quân sự của Mỹ, nhất là yểm trợ đường không. Mùa Xuân năm ngoái, quân đội Sài Gòn lẽ ra đã bị đánh bại trong chiến dịch tiến công lớn của cộng sản nếu không được máy bay chiến lược B.52 và các máy bay chiến đấu của hạm đội 7 yểm trợ.

Bi kịch bộ ba của Thiệu: quân đội, cảnh sát, nhà tù

Tuy nhiên, Thiệu có những chủ bài mà những người tiền nhiệm ở Sài Gòn không có được khi kết thúc cuộc chiến tranh thứ nhất vào năm 1954.

Đó là sự viện trợ to lớn của đô-la Mỹ, cộng với các phương tiện chiến tranh hiện đại, một đội quân chưa bao giờ hùng mạnh như vậy (gần một triệu tám trăm ngàn binh sĩ bao gồm cả những đơn vị địa phương quân, dân vệ, cảnh sát các loại).

Quân đội Thiệu ngày nay không thiếu xe tăng, pháo, súng tự động, máy bay, máy bay lên thẳng, đạn dược. Một chương trong Hiệp định Paris còn cho phép hai bên đối thủ được phép thay thế thiết bị quân sự và đạn dược đã sử dụng sát ngày ngừng bắn, trên nguyên tắc một đổi một.

Nhưng từ lâu, mọi người đã nghi ngờ ý chí chiến đấu của đội quân này. Tuần qua, chúng tôi đã được chứng kiến ngay trên chiến trường. Nó đã thể hiện một bi kịch đặc biệt. Đối với chúng tôi, đó là một sự kiện mới.
Tướng Thiệu còn có một chủ bài nữa: chưa đầy năm năm qua, ông ta đã loại hết tất cả các nhân vật đối lập hoặc đã trung lập hoá họ một cách khéo léo. Đó là điều đáng buồn, nhưng mà là sự thật.

Các nhân vật đối lập tích cực nhất đã bị loại trừ. Tất cả mọi người, dù có hơi hướng hoặc gần hoặc xa với chủ nghĩa cộng sản, đều bị bắt giam. Đã có bao nhiêu người như vậy trong các nhà tù ở miền Nam Việt Nam, nhất là ở Côn Đảo? Không ai biết. Các nhà chức trách Hà Nội nói rằng có tới 200.000 hoặc tới 300.000 người. Con số này không sao kiểm tra được vì không thể nào tính hết những nạn nhân bị thẩm vấn sơ bộ rồi bị tra tấn ác liệt tại các trụ sở cảnh sát đặc biệt.

Chúng tôi sẽ không bao giờ nhượng bộ"

Một lực lượng đối lập khác, tức là đối lập hợp pháp, đã bị khoá mõm. Đó là lực lượng của tướng Dương Văn Minh, của Phật giáo, của những tín đồ cấp tiến đạo Cơ đốc. Không một ai trong số họ làm cho viên tướng độc lài trong dinh Độc Lập quét vôi màu trắng giữa Sài Gòn lo ngại.

Mà tại sao ông Thiệu phải lo ngại? Ông đã được đảm bảo về sự viện trợ mọi mặt của Mỹ về kinh tế, tài chính, chính trị, quân sự... Phó tổng thống Spiro Agnew đã không nói gì khác ngoài sự đảm bảo viện trợ mọi mặt của Tổng thống Richard Nixon cho Thiệu trong chuyến thăm Sài Gòn ngày 29 và 30 tháng 1 vừa qua.

Thiệu thuộc lớp người được lòng các tướng lĩnh Lầu Năm Góc và các quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ. Đó là nhân vật được tạc nguyên khối trong tảng đá chống cộng thuần khiết nhất. Ít nhất, đối với Thiệu, Mỹ không có điều gì phiền lòng. Thiệu sẽ không nghiêng ngả.

Thiệu và đám cận thần ít ỏi gồm các cố vấn quân sự và chính trị chỉ có một ý nghĩ là dựng lên một chiến luỹ không gì vượt qua được, đối mặt với những người cộng sản, dù là cộng sản ở miền Nam, miền Bắc hay ở bất cứ đâu. Ý nghĩ thứ hai, gắn liền với ý nghĩ trên, đó là duy trì quyền lực bằng tất cả mọi cách. Bởi vì quyền lực là điều rất dễ chịu, dù người ta phải thực hiện quyền lực bằng muôn vàn sự thận trọng. Không một nhân vật cấp cao nào của chế độ Sài Gòn ra khỏi thành phố mà lại không có những chiếc xe Jeep quân sự vũ trang bằng trọng liên đi  trước mở đường và cảnh sát cưỡi mô tô đi hộ tống, kéo còi hù inh ỏi.
"Chúng tôi sẽ không bao giờ nhượng bộ". Đó là khẩu hiệu của chế độ Thiệu.

Hai ý chí bướng bỉnh

Trong vòng mười chín năm qua không bên nào, trong hai phe đối địch có thể giành được phần thắng. Với một lực lượng viễn chinh Mỹ lên tới 500.000 quân không phải là điều mong ước gì hơn.

Bây giờ, sau khi quân Mỹ ra đi, liệu tình hình có thay đổi không? Điều đó lúc này có vẻ như ít có thể thay đổi.

Cho tới nay, Việt cộng và quân đội Bắc Việt vẫn chưa có thể chiếm được các thành phố lớn bằng vũ lực. Bầu không khí quốc tế cũng không sẵn sàng cho hành động này. Sau ngày ký hiệp định, các cường quốc có thể nhắm mắt làm ngơ trước việc vi phạm ngừng bắn trong một thời gian. Nhưng thời gian này không thể kéo dài. Không thể dung thứ cho một cuộc tiến công lớn.

Về phía chính quyền Thiệu, quân đội Sài Gòn cũng không đủ sức tảo thanh toàn bộ lãnh thổ. Trước kia đã không làm được việc này, mai sau cũng sẽ không làm được. Những người cộng sản vẫn bám giữ các căn cứ, được gọi một cách có lý là “thánh địa” của họ. Sẽ không đánh bật được Cộng sản ra khỏi những nơi này.
Đôi lúc người ta cũng liên tưởng đến tình hình Angiêri năm 1960. Nhưng, ngoại trừ vài điểm tương tự, thực tế Việt Nam vẫn rất khác Angiêri. Mặt trận dân tộc giải phóng Angiêri dựa trên ý chí giành độc lập của dân chúng. Còn Việt cộng thì muốn làm cho thế giới nghĩ rằng người dân Nam Việt Nam chỉ muốn thanh toán "chế độ bù nhìn” Nguyễn Văn Thiệu, để rồi sau sẽ trở thành cộng sản. Nhưng hiện nay, cái "chế độ bù nhìn” này vẫn đứng vững. Hơn nữa, từ ngày đình chiến, chế độ này còn được củng cố.

Hai ý chí cứng rắn đang đối chọi nhau. Ý chí của Thiệu và ý chí của cộng sản. Chừng nào một trong hai bên chưa chịu nhượng bộ, và tình hình này còn kéo dài, thì còn và sẽ còn bế tắc.

Những thất bại của ngày mai

Ngay hôm sau ngày đình chiến, giới báo chí chúng tôi đã viết: “Cuộc chiến tranh thứ ba đã bắt đầu”.
Cuộc chiến tranh thứ ba này bắt đầu bằng một loạt trận đánh kéo dài trên khắp lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Hai bên đã bị mất hàng ngàn người. Hàng chục ngàn người khác đã bị thương. Nghĩa là họ đánh nhau rất ác liệt.

Cuộc chiến tranh giữa hai bên người Việt sẽ còn tiếp tục ngày mai bằng những vũ khí không phải xuất từ các kho quân giới. Cuộc chiến sẽ mang tính chất chính trị. Cả hai phía đều rõ, lĩnh vực này sẽ lâu dài.

Ngừng bắn, dù có hiệu lực nhanh hay chậm, cũng chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp. Nhiều sự kiện khác sẽ thu hút sự chú ý; đó là chuẩn bị cho một hội nghị quốc tế nữa về Việt Nam có các cường quốc tham dự có thể sẽ tiến hành vào khoảng cuối thời hạn sáu mươi ngày là thời điểm tất cảcác lực lượng nước ngoài phải rút khỏi đất nước, mở đầu, dù rất khó khăn, cho việc thành lập một “Hội đồng hoà giải dân tộc", chuẩn bị cho những cuộc tổng tuyển cử "thật sự tự do và dân chủ” dưới sự giám sát quốc tế, như Hiệp định Paris đã vạch rõ.

Văn bản này cũng hứa hẹn cho dân chúng Nam Việt Nam tất cả mọi quyền tự do: “Tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do chọn việc làm và phương thức sinh sống, tự do kinh doanh". Mọi người không ai quên câu nào.
Ôi! Chương trình đề ra thật đẹp.

PHẦN HAI
MỘT NĂM SAU CÁi GỌI LÀ NGỪNG BẮN
(Tháng 2 năm 1954)

12
SÁU MƯƠI NGÀN NGƯỜI CHẾT MÀ KHÔNG AI NÓI TỚI

19 tháng 2 năm 1974

Một buổi tối, trại Võ Tánh có vẻ náo nhiệt khác thường. Những chiếc xe tô lớn cắm cờ trắng, trên có in những chữ ICCS, viết tắt “Uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát" ngừng bắn ở Việt Nam, tấp nập kéo vào công viên lớn trồng nhiều cây me toả bóng mát.

Trưởng đoàn đại biểu Ba Lan mở tiệc chiêu đãi chia tay trong một toà biệt thự và giới thiệu người kế nhiệm.
Các nhân viên tiếp tân mặc áo "vét" trắng, mang khay đựng rượu vốt-ca đi đi lại lại trong phòng tiệc. Suốt một giờ trôi qua, phòng khách lớn vẫn vang lên những tiếng cười vui cứ như là các bạn cũ gặp lại nhau.
Tại đây đang có mặt cả một cộng đồng sắc tộc của Sài Gòn. Có những người châu Á, châu Âu, những nhà ngoại giao, những nhà báo, các đại biểu bốn nước thành viên Uỷ ban quốc tế: Ba Lan, Hungari, Indonexia, Iran (thay Canada), các sĩ quan chính quyền Sài Gòn và các sĩ quan Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

Vị tướng đi ra từ rừng rậm

Tôi đang nói chuyện với hai đại tá quân đội Sài Gòn thì chợt một người đột ngột hỏi:

- Ông có muốn gặp một vị tướng cộng sản không?

Lời gợi ý từ một sĩ quan cấp cao "Nam Việt" thật bất ngờ. Tôi cố giữ không tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ bình thản trả lời:

- Nhất định rồi!

Ông ta dẫn tôi đến chỗ một người gầy gò đang uống nước cam một mình, giữa phòng họp. Ông ta mặc một bộ đồ trận, không đeo huy chương, huy hiệu. Quả là một sự tương phản rõ nét với bộ quân phục mầu xám nhạt may đo rất khéo của hai đại tá quân đội Sài Gòn. Và thế là tôi được làm quen với thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn, 50 tuổi, tóc đen, trưởng đoàn đại biểu Quân giải phóng nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam.

Từ một năm nay, ông đã cùng với phó của mình là đại tá Võ Đông Giang - và có lẽ đây mới là nhân vật số một của phái đoàn - thảo luận họp bàn hai lần một tuần với các đại biểu bộ tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. Sau những lớp hàng rào dây thép gai trong sân bay Tân Sơn Nhất.

Thiếu tướng nói với tôi bằng tiếng Pháp rất thành thạo, cẩn thận chọn lọc từng từ ngữ.

- Ủa! Thưa tướng quân, đã một năm rồi ư?

Tôi nói với ông là từ mười hai tháng trước tôi đã chờ đón từng ngày các sứ giả của Mặt trận dân tộc giải phóng mà không được gặp vì các vị bị bao vây giữa những lực lượng vũ trang khá cuồng chiến.

Ông mỉm cười chua chát và nói:

- Cho tới nay, vẫn chưa có gì thay đổi cả. Chúng tôi vẫn bị canh giữ trong doanh trại cao cấp của chúng tôi.

- Và cũng không được đi vào thành phố Sài Gòn, dù rất gần?

- Trừ những buổi chiêu đãi có tổ chức như buổi hôm nay của Uỷ ban quốc tế. Ngoài ra, không được đi đâu cả, mặc dù chúng tôi thường xuyên phản kháng. Chính quyền Nam Việt Nam luôn vin vào lý do không thể bảo đảm an ninh cho chúng tôi trong thành phố.

Tôi lưu ý ông, là nếu đi dạo phố một mình trên đại lộ Pasteur, có lẽ ông có thể gặp nguy cơ bị một viên đạn bắn lén sau lưng. Nhưng rõ ràng, ông không tỏ vẻ quan ngại về điều đó.

Ông chỉ vào hai viên đại tá quân đội Sài Gòn đang lùi về ngồi ở một góc phòng khách và cho tôi biết, chính hai viên sĩ quan này là những người chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh cho ông.

Nói, nói nữa, nói mãi...

Như vậy là từ ngày ký kết các hiệp định tại đại lộ Kléber, Paris, vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, đại diện hai quân đội đối địch tại Nam Việt Nam là quân đội Thiệu và quân đội công sản trong cái gọi là "Tiểu ban quân sự liên hiệp hai bên" thường ngồi đối diện nhau trong những buổi họp định kỳ trong một doanh trại cũ có máy điều hoà không khí của Mỹ tại căn cứ không quân rộng lớn ở Sài Gòn.

Tôi hỏi tướng Hoàng Anh Tuấn:

- Các vị đã làm gì trong những phiên họp đó?

- Chúng tôi thảo luận với nhau.

- Về những vấn đề gì?

- Về việc thực hiện ngừng bắn.

- Và còn gì nữa?

- Về các vi phạm hiệp định, về việc trao đổi tù binh, về việc xác lập ranh giới các khu vực có liên quan, về việc tập trung các lực lượng, về tất cả những vấn đề đã ghi trong điều 17 Hiệp định Paris.

- Và các vị đã đạt được tiến bộ?

Trong ánh mắt chìm sâu của tướng Tuấn, loé lên một tia chớp mỉa mai. Ông nói:

- Chẳng có một tiến bộ nào cả!

- Thật đáng thất vọng!

- Tôi bình luận với vẻ sốt ruột của người Âu. Tướng Tuấn đáp lại tôi theo quan điểm của châu Á: "thời gian là không đáng kể". Ông nói:

- Tại sao lại thất vọng!

- Bởi vì không có lối thoát.

- Nhưng vẫn có một đường ra.

- Đó là gì?

- Là nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định Paris. Nhưng chế độ Sài Gòn vẫn từ chối thi hành hiệp định này.

36.000 vụ vi phạm hay là 300.000 vụ?

Phía Nam Việt lại nói ngược lại. Và vấn đề nào cũng vậy. Hãy lấy ví dụ vấn đề vi phạm hiệp định ngừng bắn. Tôi đã tới Bộ tổng tham mưu Sài Gòn, hỏi xin các thống kê chính thức và được trả lời:

- Hơn 36.000 vụ trong vòng một năm.

Như vậy là trung bình mỗi ngày có hàng trăm vụ vi phạm. Những ngày lành cũng xảy ra khoảng năm chục vụ, ngày xấu có tới một trăm năm mươi vụ vi phạm.

Nhưng khi tôi hỏi tướng Hoàng Anh Tuấn, ông lại đưa ra một con số hoàn toàn khác hẳn. Ông nói:

- Trong vòng một năm nay, đã xảy ra tới 300.000 vụ vi phạm Hiệp định ngừng bắn.

Tôi lại quay về Bộ tổng tham mưu Sài Gòn:

- Các ông giải thích thế nào về sự khác nhau giữa hai con số thống kê, của các ông và của họ?

- Không có gì phức lạp cả. Với Việt cộng, cái gì cũng có thể gọi là vi phạm ngừng bắn. Một tiếng súng nổ lẻ loi đơn độc: vi phạm! Một chuyến bay trinh sát của chúng tôi: vi phạm. Máy bay lên thẳng của chúng tôi cất cánh: vi phạm! Họ không có máy bay lên thẳng. Vì vậy, họ muốn chúng tôi cũng không được sử dụng máy bay lên thẳng. Nhưng chúng tôi không thể thiếu máy bay lên thẳng được1 (Đây là phía chế độ Thiệu nguỵ biện. Vì Hiệp định Paris ghi rõ "phải đình chỉ tất cả các hoạt động quân sự". (N.D)).

Chuỗi danh sách đẫm máu

Một người bạn là dân Sài Gòn nói với tôi bằng một giọng châm biếm đau đớn: - Càng nói nhiều đến chuyện vi phạm, càng tốt. Bởi vì như vậy cũng là nhắc tới có một bản hiệp định ngừng bắn... mà chẳng ai tôn trọng cả!

Có cần phải chỉ đích danh những “vi phạm” dưới hình thức những cuộc chiến đấu thật sự với sự tham gia của pháo binh, xe bọc thép và về phía Sài Gòn, và cả không quân?

Suốt một năm nay, chiến tranh không ngừng được một ngày. Từ thành phố Sài Gòn, rất hiếm có đêm vắng tiếng pháo từ xa vọng tới các khu phố đang ban hành lệnh giới nghiêm, vắng vẻ.

Từ hai phía đối địch, máu vẫn tiếp tục chảy. Dưới đây là những con số thống kê chính thức từ phía Sài Gòn:
Trong vòng mười hai tháng sau khi ký kết Hiệp định Paris, 12.764 người bị thương, 4.233 người mất tích. Cũng trong khoảng thời gian đó, 2.157 dân thường bị chết, 5.965 người bị thương, 1.882 người mất tích. Chính quyền Sài Gòn tuyên bố những người này bị cộng sản bắt giữ.

Cũng theo Sài Gòn thì số Bắc Việt và Việt cộng bị chết trong cùng thời gian lên tới 44.976 người.

Hiệp định Paris cho phép quân đội hai bên được thay thế số vũ khí đạn dược đã sử dụng trước ngày ngừng bắn trên nguyên tắc “một đổi một”. Không ngạc nhiên khi thấy bên nào cũng nhích lên một chút.

Như vậy là, từ nay đến cuối năm 1975 phía Sài Gòn sẽ còn phải tiếp nhận 150 máy bay khu trục phản lực của Mỹ kiểu F5E. Đây là loại máy bay nhanh hơn và dễ điều khiển hơn loại F5A hiện đang sử dụng, và có thể đối chọi với các loại Mig 21 và Mig 23 Bắc Việt đang có.

Phía sau "trận tuyến” (nếu cần phải sử dụng từ ngữ này) bởi vì thực tế các lực lượng đối địch đang xen kẽ nhau, trên bản đồ chiến sự quân đội Sài Gòn luôn luôn thể hiện trạng thái này như “tấm da báo".

Các lực lượng cộng sản không ngừng hoạt động. Họ tăng gấp đôi việc vận chuyển theo đường mòn Hồ Chí Minh. Đây là tuyến đường có hai nhánh nằm cả trên các lãnh thổ Lào và Campuchia. Đường trải nhựa hoặc đắp đá có thể sử dụng trong mọi thời tiết, đi dọc sườn đông Trường Sơn tới Nam Việt Nam. Từ đường trục lớn, các đơn vị công binh đã bắt đầu mở một loạt nhánh đường rải đá từ những vùng núi hướng về biển Đông. Tất cả những công trình này đều được tiến hành bằng các xe ủi đất do Liên Xô chế tạo. Tổng số chiều dài của những con đường làm thêm trong một năm qua là 537 kilômét.

Việc tiếp tế xăng dầu không cần phải do dân công vận chuyển bằng những bi-đông thồ trên xe đạp nữa và cũng không cần sử dụng loại xe tải Molotova, vì đã xây dựng xong một đường ống dẫn dầu từ Bắc Việt Nam đến tận Lộc Ninh, gần biên giới Campuchia. Lộc Ninh là địa điểm chính phủ cách mạng lâm thời chọn làm thủ đô.

Hiện tại, Bắc Việt có lới sáu sư đoàn đóng tại phần phía Bắc trong lãnh thổ Nam Việt Nam. Cũng tại khu vực này đang tập trung từ ba trăm đến tám trăm xe tăng ở phía Nam vĩ tuyến 17. Phần lớn là loại xe tăng T54 do Liên Xô chế tạo. Cuối cùng, vẫn tại khu vực này, Bắc Việt bố trí khoảng từ mười tám đến hai mươi ba trung đoàn pháo cao xạ.

Thỉnh thoảng tại Sài Gòn lại có tin đồn cộng sản đang chuẩn bị một cuộc tiến công lớn. Nhưng, trong số các nhà quan sát phương Tây không ai tin. Dù sao, mọi người cũng không loại trừ khả năng xảy ra những hoạt động chiến sự quan trọng ở khu vực Bắc của Nam Việt Nam. Nhưng một cuộc chiến tranh tổng lực theo hướng Sài Gòn và các thành phố lớn là điều khó có khả năng thực hiện. Ít nhất cũng trong lúc này.

13
“THÀNH PHỐ XE HONDA" ĐANG ỐM NẶNG

20 tháng 2 năm 1974

Thành phố Sài Gòn có rất nhiều xe cyclo gắn máy, xe đạp máy, xe mô tô nhập từ Nhật Bản của những nhà cung cấp lớn nhất thế giới, tới mức thủ đô Nam Việt được đặt tên là "Thành phố xe Honda".

Có những ngày thời tiết nặng nề, không có một làn gió thổi qua, hơi xăng dầu từ những ống xả của những chiếc xe gắn máy hai bánh, chưa kể những xe taxi 4CV sơn độc đáo hai màu xanh lơ và kem sữa và những xe tải, xe khách cũ kỹ vẫn còn chạy được nhờ một phép màu không ai hiểu nổi, phun khói ra khắp các nẻo phố phường, khói dày đặc tới mức đọng thành một làn mây màu xanh lơ bay trên khu dân cư, làm đắng họng và cay mắt.

Lái xe trên những nẻo đường thường xuyên bị tắc nghẽn này quả là một cơn ác mộng, người mệt nhoài, trán toát mồ hôi và áo sơ mi ướt đẫm.

Giá xăng tăng gấp bốn lần.

Bây giờ thì hết rồi: Không còn tắc nghẽn nữa, không còn ác mộng nữa. Có thể lái xe đi khắp Sài Gòn không có vấn đề gì.

Nhưng, đó là dấu hiệu của "Thành phố xe Honda” không được khoẻ.

Nếu chẳng may, anh không có một can xăng dự trữ trong ga ra để xe tô thì có thể phải đi tới sáu hoặc tám cây xăng mới có thể đổ đầy thùng chứa của chiếc xe nhãn hiệu Dalat, do Sài Gòn cải biên từ xe Mehari.

Bạn cũng có thể tự coi là người sung sướng vì không phải xếp hàng đợi hàng giờ mới có thể mua được khoảng mười hoặc mười lăm lít xăng.

Nếu bạn vắng mặt tại Sài Gòn một thời gian nay quay trở lại sẽ rất ngạc nhiên vì giá xăng. Trong vòng một năm, giá xăng cao gấp bốn lần. Từ 60 đồng một lít, đã tăng lên 240 đồng, tương đương 2,40 franc Pháp. Vì vậy, sẽ không bất ngờ khi nhìn thấy từ nay có những người Việt Nam đi bộ hoặc đi xe đạp. Có chiếc xe máy chở tới năm ngươi: bố, mẹ và ba đứa con nhỏ. Dĩ nhiên, không một cảnh sát giao thông nào can thiệp vì chuyện đó đã trở thành quá quen thuộc.

Dân Sài Gòn nói với bạn là: “Thành phố xe Honda” đang ốm nặng.

Nỗi lo lắng về bữa gạo hằng ngày

Nhưng xăng dầu không phải là mặt hàng duy nhất đang tăng giá cao ở Nam Việt Nam. Một năm nay, giá gạo tăng gấp đôi, dầu ăn và nước mắm cũng tăng gấp đôi. Đường tăng gấp ba. Sữa hộp tăng giá gấp bốn lần.

Chỉ có lương tháng và tiền công là không nhúc nhích.

Trường hợp gạo là thức ăn chính của người Việt, tăng giá là chuyện không bình thường. Năm nay, miền Nam Việt Nam được mùa. Gạo hoàn toàn thoả mãn nhu cầu. Năm ngoái, chính quyền Sài Gòn chỉ nhập có 150.000 tấn gạo nhằm cung ứng đủ sáu triệu tấn cho nhu cầu.

Thật là một cảnh tượng đáng phấn khởi, một cảnh tượng hiếm thấy trên một đất nước có chiến tranh từ lâu, nay lại nhìn thấy nông dân đội nón, làm việc trên đồng ruộng, gặt lúa bằng những lưỡi liềm, đập lúa trên khúc gỗ có che vải ba phía để khỏi vung vãi, rồi mang những hạt thóc mẩy màu vàng sẫm đi phơi sát đường cái. Thật không may cho người lái xe nào giày xéo trên thấm thảm thóc vàng trải trên mặt đường nhựa. Lập lức, đàn bà, trẻ con sẽ vung gậy lên đe doạ.

Năm ngoái, giá gạo là 80 đồng một ki lô. Tại các chợ ở Mỹ Tho, Cai Lây, giá bán là 115 đồng. Nhưng đó là loại gạo "cho chó ăn" như các bà nội trợ thường nói. Gạo ngon, trắng như tuyết, giá lên tới 240 đồng một ki lô.

Tại sao giá gạo tăng như vậy? Rõ ràng, không phải do thiếu kém. Cũng không phải do giá xăng dầu tăng, vì ở nông thôn rất ít dùng xăng dầu chạy máy xay gạo. Ở nông thôn cũng không có máy cày, nông dân vẫn canh tác như tổ tiên thời trước. Và trong các khu vườn, rau vẫn mọc tự nhiên, suốt năm, không cần có các thiết bị chạy dầu ma dút.

Giá gạo trong nội thành Sài Gòn tăng cao vì các cơ sở hậu cần của Mặt trận dân tộc giải phóng đang đẩy mạnh việc thu mua gạo. Các đơn vị cộng sản thường đóng quân tại những vùng đồi núi. Họ cần phải thu mua gạo vì gạo không hoàn toàn đưa từ miền Bắc vào. Và những cán bộ cộng sản thường đặt giá thu mua nhiều hơn giá ấn định của chính quyền Sài Gòn là 160 đồng một ki lô.

Xoay xở để sống

Trong vòng một năm, giá sinh hoạt ở Nam Việt Nam đã tăng 60%. Tiền lương không theo kịp vật giá, nhiều gia đình phải kiếm cách xoay xở. Cách cổ điển nhất, lương thiện nhất, là kiếm thêm một công việc buổi tối. Ngày làm việc chính thức của công nhân viên chức kéo dài từ 8 giờ sáng đến 16 giờ chiều, sau đó phần lớn viên chức, người làm công, thợ thủ công, công nhân và cả quân nhân nữa kiếm thêm một công việc phụ.

Ngay cả giờ làm việc chính thức cũng bị cắt xén để "lao động đen". Trên thực tế, ngày làm việc hợp pháp chỉ tính từ 8 giờ 30 đến 14 giờ 30.

Rất nhiều gia đình sống bằng những nghề phụ. Loại công việc này tăng rất nhanh nhất là khi số lao động thất nghiệp đã lên tới 100.000. Nhưng cũng không ai nói lên được những thống kê chính thức và đúng nghĩa về cái gọi là không có việc làm hoặc thiếu việc làm.

Những vỉa hè các phố ở trung tâm Sài Gòn và cả ở những vùng phụ cận đều bị hàng ngàn người xâm chiếm, ngồi bệt trên nền đất, bán thuốc lá, kẹo cao su, xà phòng, dây buộc, kẹo bánh, nấu cháo; thổi cơm, nướng bánh, sửa chữa xe đạp, cố kiếm được vài chục đồng từ những thứ do Mỹ để lại, từ chiếc kìm vặn đinh ốc, hộp thuốc đánh răng, đồ hộp thức ăn, nhất là loại đậu trắng ngâm nước siết cà chua đóng hộp mà chúng tôi, hồi còn đi lính trong đạo quân của tướng De Lattre năm 1945 đã chán ngấy.

Trong “chợ trời”

Lực lượng viễn chinh Mỹ đã xây dựng ở miền Nam Việt Nam hàng tá căn cứ quân sự khổng lồ. Quan trọng nhất là các căn cứ Long Bình và Đà Nẵng. Ngoài ra, còn có tới nửa trăm căn cứ loại trung bình và vài trăm căn cứ loại nhỏ. Dĩ nhiên, lính Mỹ mang theo nhiều thiết bị quân sự để chất đống tài các căn cứ, từ những chiếc xẻng gập tự động đến các máy chữ. Một phần lớn đã đem bán ra ngoài một cách chính thức cho các quan chức Nam Việt Nam rồi lại bị bán đi một phần ba.

Người ta đã nhìn thấy những cặn bã của lối sống Mỹ trên các hè phố Sài Gòn và cả những thành phố khác ở miền Nam Việt Nam. Nhiều thứ đúng là của ăn cắp theo nghĩa đơn giản và đúng đắn, lấy trộm từ các kho quân nhu của Mỹ khi chuyển căn cứ, trong doanh trại, trong nhà bạt, trong xe tải và ngay trên bến cảng.

Do nguồn lộc đó bắt đầu cạn, các chuyên gia kiếm lời bắt đầu tìm những nguồn khác. Họ không thiếu đầu óc sáng tạo và sự khôn khéo. Mục tiêu của họ là những kho hàng ở trên bến cảng, trong đó có những túi xách của phụ nữ, những đồng hồ đeo tay làm ở châu Âu. Nếu bạn bị mất một chiếc máy ảnh, bạn có cơ may tìm thấy vào ngày hôm sau, ở "chợ trời", tức là chợ mua bán đồ ăn cắp, ăn trộm.

Trong một đất nước đang hoành hành các tệ nạn tham nhũng, đĩ điếm, buôn lậu, chính quyền khó có thể hoạt động bình thường. Các tỉnh trưởng đều là quân nhân. Họ đúng là những ông vua con thật sự. Ngay cả nhân viên cảnh sát giao thông cũng có thể tự ý đặt ra luật lệ đi đường theo cách riêng của mình. Nếu bị chặn đường xét hỏi, bạn chỉ có việc dúi vào tay anh ta một tờ giấy mệnh giá 1.000 đồng gấp làm tư, rồi chìa cho anh ta xem giấy phép lái xe.

Những bộ quân phục yêu quý

Để thăng bằng cán cân thương mại, chính quyền Nam Việt Nam cần có 300 triệu đô la.

Năm 1973, các mặt hàng xuất khẩu: gỗ, tôm, cao su, chè, cà phê, đồ thủ công, chỉ mang lại cho họ được 50 triệu.

May quá, chính quyền Mỹ đã viện trợ cho 140 triệu đô la. Bằng thủ thuật như thế này: chính quyền Mỹ thu mua tất cả những quân phục may tại Nam Việt Nam, cho quân đội Việt Nam, rồi trang bị lại cho các binh sĩ của Thiệu theo đúng điều khoản viện trợ quân sự. Các dược phẩm sản xuất tại Nam Việt Nam cũng vậy.

Mặc dù vậy, năm nay vẫn phải kiếm bằng được ít nhất là 100 triệu đô la. Nếu không, Nam Việt Nam sẽ đi tới chỗ phá sản.

Các khoản viện trợ nước ngoài lần lượt được công bố: Tây Đức, Nhật Bản, Pháp hứa hẹn cho Sài Gòn vay 100 triệu đô la và viện trợ không hoàn lại 10 triệu đô la, như đã công bố hành động tương tự đối với Bắc Việt. Tất cả số tiền đó liệu có làm cho con tàu đã đưa xuống nước nổi lên không?

Cộng sản muốn con tàu Sài Gòn chìm đắm. Trong lịch sử đã từng xảy ra chuyện dân chúng đói kém nổi lên làm cách mạng. Nếu khủng hoảng kinh tế cuộn trôi chế độ Thiệu, quả là có lợi cho chính phủ cách mạng lâm thời.

Nhưng Mỹ khó mà có thể bỏ rơi chế độ Sài Gòn về mặt kinh tế. Nếu cần, Washington sẽ bỏ tiền ra thu mua hàng chục ngàn bộ quân phục nữa, may từ Sài Gòn, cho quân đội Thiệu.

14
KHÔNG THỂ CÓ HOÀ BÌNH

24 tháng 2 năm 1974

Đã thành thói quen, hễ thức giấc tại Sài Gòn là nghe thấy tiếng pháo 105 từ xa vọng lại.

Nhưng, rạng sáng hôm nay, một ngày Chủ Nhật của tháng 2 năm 1974 khi thức giấc lại nghe thấy... bản thánh!

Những đoàn người diễu hành mang theo cờ phướn chầm chậm đi về phía nhà thờ quét vôi màu hồng.

Trước mặt nhà thờ xây theo kiểu cổ có hai toà tháp như hai mũi tên, là cả một biển người. Ít nhất cũng có tới hai trăm. Cũng có thể là ba trăm người. Không kể những binh lính đứng canh trên những xe tô gắn súng máy và cảnh sát trên những xe Jeep.

Trên bục cao đã bố trí một bàn thờ có trưng bày tấm hình Đức mẹ đồng trinh Fatima đi chu du khắp thế giới đang dừng lại ở Việt Nam.

Ở đầu hàng người, bên cạnh đức giám mục địa phận Sài Gòn mặc áo choàng màu tứn sẫm, là một đại lão hoà thượng khoác áo cà sa và một “giáo chủ” Cao Đài trong bộ đồ trắng. Đích thân Tổng thống Thiệu mặc áo dài màu xanh lam kiểu áo dân tộc cổ truyền thường xếp trong tủ, chỉ đem ra mặc vào ngày lễ hội, cũng tới dự. Như một con chiên sùng tín, tướng Thiệu quỳ gối bên cạnh vợ, cầu nguyện cho hoà bình.

Sau buổi lễ, Thiệu là người đầu tiên đứng lên tiếp đón công đồng.


Mọi sự chống đối đã bị đè bẹp

“Đó là một thằng hề1 (Nhân vật chính trong hài kịch của đại văn hào Pháp Molière, lấy tên là Tarluffe có nghĩa là một "kẻ đạo đức giả": (ND)), một tên bù nhìn, một con rối."

Những người đứng đầu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã sử dụng những danh từ này để nói về tướng Thiệu. Nhưng, "con rối” này đã nắm quyền được chín năm rồi, kể từ năm 1965 là lúc Thiệu đã chiếm quyền bằng một nhúm sĩ quan và vài đơn vị xe bọc thép.


Theo Chính phủ Cách mạng lâm thời, tên “bù nhìn” này hoàn toàn không có sinh khí vì mọi việc đều do Mỹ giật dây, và từ khi Mỹ bỏ về nước, đã trở thành một con búp bê bất động.

Tên hề Tartuffe này đã khôn khéo tuần tự loại trừ được tất cả các nhân vật đối lập, bịt miệng và làm tê liệt những người bị bắt giam.


Dù cho chế độ Thiệu chỉ có thể dựa chủ yếu vào quân đội cảnh sát và một nhóm thân cận, nhưng Thiệu vẫn đứng vững trước cộng sản.


Tại Nam Việt Nam, có một thế lực chống đối đáng gờm là lực lượng Phật giáo. Năm 1966 lực lượng này đã tổ chức, biểu tình lớn ở Huế, dẫn đến sự đàn áp của quân đội Thiệu. Phong trào lại bùng nổ ở Sài Gòn, tâm điểm của sự nổi loạn là chùa Ấn Quang. Bây giờ, mọi việc đã kết thúc. Không còn một tăng ni nào tự thiếu trên đường phố. Lãnh tụ tinh thần nổi tiếng nhất của họ là thượng toạ Thích Trí Quang đã lui về trong tháp ngà.


Còn có một lực lượng chống đối nữa do ảnh hưởng của tướng Minh, tức "Minh lớn” mà một số người coi đó là Mendes France của Việt Nam. Nhưng tướng Minh đang chơi tennis và trồng phong lan.


Cũng có cả lực lượng chống đối gồm những người theo đạo Cơ-đốc cánh tả. Nhưng đã bị bẻ gấy, đôi khi tàn nhẫn. Chỉ cần nêu lên một thí dụ: linh mục chủ bút tờ Đối diện cho đăng một bài bị coi là "thân Bắc Việt" đã lãnh án bốn tháng tù giam.


Có một giới báo chí tự do. Nhưng nay cũng không còn nữa. Tất cả các báo chí ít nhiều đều phải tuân theo mệnh lệnh của chính quyền. Muốn xuất bản một tờ báo tuần phải ký quỹ mười triệu đồng, một báo ngày hai mươi triệu đồng. Điều đó đã hạn chế những người xin đăng ký ra báo. Ngoài ra, mọi sự sơ xuất đều bị tịch thu báo, bị đưa ra toà, bị phạt vụ, bị tan vỡ.


Không tìm thấy "Lực lương thứ ba”

Trong Hiệp định Paris có ghi:

- Hai điều khoản quân sự: ngừng bắn, tập trung các lực lượng đối địch.

- Hai điều khoản chính trị: thành lập hội đồng hoà hợp hoà giải dân tộc; lổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát quốc tế.

Không một điểm nào trong bốn điểm trên đây đạt được tiến bộ trong năm qua. Cả tiểu ban quân sự hai bên ở Sài Gòn, cả uỷ ban chính trị bốn bên họp ở La Celle-saint Cloud.


Tuy nhiên, ở miền Nam Việt Nam vẫn có nhiều người kêu gọi thực hiện một văn bản do họ đề ra đến nay đã trở thành một lá thư câm. Đó là những người, khi được hỏi đã trả lời, họ không đứng về phía cộng sản, cũng không đứng về phía Thiệu. Nhưng dù họ đông người, họ vẫn không thành lập được cái gọi là "Lực lượng thứ ba" rất khó tìm thấy. Họ không có người đứng đầu, không có tổ chức, không có cương lĩnh. Họ tồn tại như một lực lượng không định hình đinh tính. Thế thôi1 (Đây là nhận định chủ quan, phiến diện của tác giả. (ND)).


Vả lại cũng không chắc là số đông đám này khi cần phải chọn lựa giữa Thiệu và cộng sản, sẽ không chọn Thiệu2 (Tác giả tự mâu thuẫn. Phần trên viết, lực lượng thứ ba là "không thấy được" "không tiếp xúc được". Vậy thì sao biết được xu hướng cụ thể của từng thành phần? Rõ ràng, đây chỉ là chủ quan, đoán mò. (ND)).


Còn bao nhiêu người Mỹ ở lại?

Người dân miền Nam Việt Nam có thể là người theo đạo thiện, ác. Nhiều vấn đề được đặt ra dưới những sự đối lập tàn bạo: trắng hoặc đen. Đúng hơn là màu nâu và màu đỏ Chủ nghĩa độc tài quân sự hay chủ nghĩa cộng sản.


Một thực tế cũng phức tạp như trên đòi hỏi nhiều tinh tế trong phân tích, có thể dẫn đến những khái niệm đơn giản, là một trong những bất ngờ thường gặp sau ngày ngừng bắn.


Không phải vì yêu quý Thiệu mà cho tới nay Mỹ vẫn tiếp tục ủng hộ ông ta. Đơn giản, căn bản chỉ vì Mỹ chống cộng sản.


Hiện nay, có bao nhiêu người Mỹ ở Nam Việt Nam? Theo con số chính thức, có khoảng 10.000 người trong đó rõ ràng không chỉ toàn là những "chuyên viên, và những "chuyên gia kỹ thuật” được giữ lại hoặc để thay thế sau khi những đơn vị quân đội cuối cùng rút khỏi nơi này. Có người châm biếm nêu lên một ví dụ, tại một thành phố nọ có tới 142 phó lãnh sự Mỹ. Chính phủ cách mạng lâm thời khẳng định còn có 24.000 người Mỹ đang ở lại miền Nam Việt Nam.


Với số người Pháp, có thể biết rõ ràng hơn. Tổng lãnh sự Pháp ở Sài Gòn đã ghi vào danh sách được 11.000 người, trong số đó thật ra chỉ có một số ít là người Gaulois nguyên gốc.


Sau khi ngừng một thời gian những cuộc tiến công chống Thiệu, gần đây Chính phủ Cách mạng lâm thời lài nêu lên khẩu hiệu: “Thiệu là trở ngại chính cho hoà bình”. Còn người Mỹ thì tiếp tục nghĩ, một cách trái ngược, Thiệu là chiến luỹ chủ yếu chống cộng sản.


Rõ ràng, Nam Việt Nam đang bị vây bọc trong một cái vòng luẩn quẩn: duy trì nền độc tài quân sự hay là sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng vẫn còn những cái vòng luẩn quẩn khác: tiếp tục chiến tranh hay bập vào hoà bình, thức ăn hay là pháo, thương lượng triền miên hay là thẳng tay cắt đứt hoà đàm, vĩnh viễn chia cắt đất nước hay là hi vọng xa xôi về một đất nước thống nhất.


Một lá cờ trắng tung bay

Một năm sau khi ngừng bắn, vẫn tồn lại nhiều ẩn số.

- Số phận Campuchia là một nước phụ thuộc ít nhiều vào tương lai Nam Việt Nam, sẽ ra sao?

- Bắc Việt quyết định theo đuổi cố gắng rất nặng nề tiếp tục chiến tranh hay là ưu tiên cho việc khôi phục kinh tế quốc dân? Khó mà thực hiện được cả hai việc này trong cùng một lúc, nhất là Nixon đã tuyên bố rõ, chỉ viện trợ kinh tế đã hứa nếu Bắc Việt rút quân ra khỏi Nam Việt Nam.


- Cuối cùng, trong đại gia đình của chủ nghĩa cộng sản, có những quan điểm khác nhau như thế nào? Nhất định, có những khuynh hướng “cứng rắn" muốn tiếp tục cuộc chiến đến cùng, và những khuynh hướng “mềm dẻo” muốn ngừng chiến đấu, tiếp tục cuộc đấu tranh dưới một hình thức khác. Tương lai Nam Việt Nam tuỳ thuộc vào sự giải đáp ba câu hỏi này.

Như chúng tôi đã nói, hiện nay ít có vẻ hai địch thủ lao vào một cuộc tổng tiến công. Muốn đánh lớn, cần phải tạo ra một cái cớ đột ngột hoặc tuần tự leo thang để có thể tự do xé toạc mảnh giấy mỏng manh đã ký kết hiệp định lại.


Cũng có thể chế độ Thiệu sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế đang ngày càng trầm trọng. Đó là điều mà các nhà lãnh đạo Chính phủ Cách mạng lâm thời mong muốn và lợi dụng để tiến quân vào Sài Gòn.

15
LỄ NÔEN BUỒN NẢN

25 tháng 12 năm 1974

Ở Việt Nam cũng có lễ Thiên Chúa giáng sinh.

Nhưng, than ôi, chiến tranh vẫn tiếp tục.

Tuần qua là một trong những tuần đẫm máu nhất kể từ khi ký Hiệp định Paris cách đây gần hai năm: Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn chính thức công bố quân đội Thiệu bị chết 706 người, bị thương 2.758 người và khẳng định đã loại khỏi vòng chiến 3.600 lính Việt cộng.


Năm thứ hai của "hoà bình giả tạo" có thể cũng tang tóc như năm thứ nhất. Con số thương vong của hai bên từ đầu tháng 1 năm 1973 tới nay đã vượt quá 250.000. Riêng phía chính quyền Sài Gòn bị mất 151.000 binh sĩ, trong đó có 27.000 bị chết.


Bản đồ ghi những khu vực cầm chân của quân đội cộng sản tại Nam Việt Nam giống hệt như hồi đầu những năm 60, như những thời điểm đen tối đầu tiên khi quân Mỹ kéo vào, Việt cộng thâm nhập vào tất cả các khu vực. Vẫn là tấm da báo như cũ.


Các đơn vị việt cộng và Bắc Việt không ngừng tăng cường Tổng quân số của họ tại phía Nam vĩ tuyến 17 hiện nay lên tới 285.000 người, tức là tăng thêm 65.000 so với hai năm trước.


Nhưng đường mòn mang tên Hồ Chí Minh đã trở thành những đường cái lớn trải nhựa, có thể vận chuyển xe cộ trong mọi thời tiết. Đã xuất hiện những vũ khí mới trên chiến trường, nhất là tên lửa chống máy bay, dễ dàng mang vác như loại súng chống tăng bazooka.


Đối mặt với sự thâm nhập dần dà này, quân đội Nam Việt đã phải rút bỏ gần 40% số 2.500 đồn bết trong vùng châu thổ. Các cơ quan quân báo Mỹ khẳng định, cộng sản hoạt động theo một tiến trình có kế hoạch đã vạch sẵn: Việt cộng muốn thiết lập tại các tỉnh miền Nam những căn cứ vững chắc, để một ngày nào đó có thể từ những bàn đạp này tiến đánh các thành phố.

Tuy nhiên, các cơ quan tình báo quân sự đó cũng nhận định, quân đội Nam Việt Nam vẫn còn đủ mạnh để bảo vệ các trung tâm đông dân quan trọng.

Ít nhất, sức mạnh này vẫn còn được duy trì trong khi Thiệu vẫn còn nắm giữ chính quyền đang bắt đầu rêu rã nghiêm trọng.

PHẦN BA
CUỘC THÁO CHẠY TÁN LOẠN
(Tháng 3 năm 1975)

16
CUỘC TIẾN CÔNG LỚN BÙNG NỔ TỪ TÂY NGUYÊN


Mọi việc bắt đầu từ ngày 9 tháng 3 năm 1975, tại Buôn Ma Thuộc

Đó là một thị xã 178.000 dân trên cao nguyên Trung phần, cách Sài Gòn ba trăm năm mươi kilômét và phía Bắc-Đông-Bắc.

Một thời gian dài sau trận đánh, một chủ đồn điền gốc Ý là ông Delfante, định cư ở đây từ nhiều năm và trở thành lãnh sự danh dự của nước Pháp kể lại cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện như sau:

- Thị xã bị đánh chiếm chỉ trong hai tiếng đồng hồ. Bộ tham mưu quân đội Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ trước cuộc tiến công nhanh chóng này. Tuy nhiên những người chiến thắng cũng bị bất ngờ. Họ cứ tưởng rằng để giải quyết được cái vì trí được phòng thủ vững chắc này thì có lẽ phải mất từ mươi lăm đến hai mươi ngày tiến công.


Để giải thích rõ tình hình Buôn Ma Thuộc phải điểm qua số cư dân trên địa bàn Tây Nguyên. Tại đây có tới mười lăm sắc tộc chính, là hậu duệ còn lại của đám dân bản địa rất cổ xưa. Chính tại đây, từ nhiều năm trước, đã xuất hiện phong trào FULRO tên gọi tát "Mặt trận thống nhất giải phóng các giống nòi bị áp bức”.
Fulro được sự ủng hộ của Mỹ. Trong suy nghĩ của chính quyền Mỹ, Tây Nguyên phải trở thành một kiểu Nhà nước tự trị trong khối Liên hiệp Việt Nam. Mọi người đều nghĩ rằng các dân tộc Tây Nguyên sẽ liên kết với chính quyền Thiệu. Trên thực tế, đây là những dân tộc rất độc lập, cho tới khi họ đứng về phía Việt cộng.


Cái chết của Paul Léandri

Bạn đồng nghiệp của tôi là Paul Léandri, chỉ vì bị coi là phóng viên đầu tiên đã gửi điện báo tin Buôn Ma Thuộc thất thủ về hãng tin AFP của Pháp, đã bị gọi đến Tổng nha cảnh sát Sài Gòn. Những nhà chức trách nói với Léandri, họ muốn biết anh có được nguồn tin này từ đâu.


Léandri phải ngồi đợi nhiều giờ trước khi bị chất vấn chỉnh thức. Anh nóng ruột. Thấy trời đã tối mịt, anh tự động bỏ về. Vừa ngồi lên xe và mới bắt đầu nổ máy Léandri đã bị một viên cảnh sát nổ súng bắn. Anh chết ngay tại chỗ. Đó là dựa theo thông báo chính thức. Còn nhiều nhân chứng lài nói khác:

- Chúng tôi có những lý do để nghĩ rằng Léandri đã bị đánh chết ngay tại phòng hỏi cung rồi sau đó người ta bày ra chuyện anh chạy trốn nên bị bắn.

Để rõ sự thật, cần phải hỏi những nhân vật đứng đầu ngành cảnh sát của Thiệu. Tôi quen một người. Ông ta khẳng định có biết một quan chức cảnh sát có dính líu vào vụ giết hại Léandri và người này đã "thú tội". Sau khi Sài Gòn thất thủ viên chức cảnh sát này rao bán câu chuyện rùm beng và có giá trị tiền nong này với một trong số các bạn đồng nghiệp của tôi. Nhưng anh ta đã bị tống ra khỏi cửa, không kịp có thời gian thương lượng ngã giá món hàng.


Sai lầm của tướng Thiệu

Fulro, trái với sự mong đợi của Sài Gòn, đã bỏ rơi Thiệu và hàng phục Việt cộng. Họ làm việc này, rõ ràng không phải xuất phát từ ý thức tư tưởng chính trị mà chính vì những lý do kinh tế đã thúc đẩy họ chống lại chính quyền Sài Gòn. Đám dân miền núi này sống khổ cực trên sườn núi dốc phía dưới đồng bằng là những người trồng trọt giàu có.


Thật ra, Fulro thù địch nhiều với chính quyền Sài Gòn hơn là có cảm tình sâu sắc với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Nhưng phía Cách mạng biết khai thác khôn khéo bằng những lời hứa hẹn. Chính vì vậy Fulro đã liên minh với Mặt trận dân tộc giải phóng.


Buôn Ma Thuột là nơi đặt sở chỉ huy của tướng Phạm Văn Thứ, đứng đầu sư đoàn 22 quân đội Sài Gòn. Nhiều tuần trước ngày 8 tháng 3 năm 1975, các tin tình báo của Thứ đã phát hiện nhiều sự di chuyển của địch. Nhưng Sài Gòn cho rằng địch sẽ tiến công Kon Tum ở phía Bắc. Đúng là ngày 8 tháng 3 có những trận đụng độ ở hướng Kon Tum, gần Plây Cu. Tướng Thiệu quyết định đưa một lực lượng lớn tới điểm đang xảy ra giao tranh, coi đó là "hợp lý".


Không một lúc nào Thiệu nghĩ rằng đã phạm sai lầm khi rút bớt quân khỏi Buôn Ma Thuột, chỉ để lại đây có hai đại đội.


Hãy ngừng những trận ném bom vô ích"

Tờ mờ sáng ngày 9 tháng 3 năm 1975, quân đội Bắc Việt và Việt cộng bắt đầu trận đánh. Lúc này Thứ muốn đưa những trung đoàn đang tản mát về Buôn Ma Thuột thì không kịp nữa. Các công binh cộng sản đã chặt đứt nhiều đoạn đường chung quanh thị xã. Từ khắp mọi nơi, dân chúng lũ lượt kéo nhau di tản, tràn ngập cả những đơn vị xe cơ giới của Sài Gòn. Đội quân do Mỹ trang bị lúc này mới đột ngột cảm thấy tính chất dễ bị tổn thương của bản thân. Một trăm chiếc xe bò do trâu kéo có thể chặn đứng không cho một đại đội xe tăng đi tới mục tiêu. Vài chục du kích trang bị bằng súng rốc két vác vai, có thể kìm chân cả một binh đoàn xe cơ giới trong một khu rừng cao su. Chỉ một lò xo bị gẫy là cả bộ máy phức tạp lập tức ngừng hoạt động. Một người lính, xuất thân từ nông dân, mặc bộ đồ như xơ mướp từ rừng rậm chui ra có thể chiến thắng một người lính kỹ thuật trang bị máy móc tối tân hiện đại. Những vũ khí thô sơ nhưng mạnh mẽ trong tay các chiến binh quyết đánh quyết thắng, vượt lên trên cả một đạo quân có xe bọc thép, xe gắn súng máy, xe tăng mà Mỹ trang bị cho Thiệu.


Chỉ có một đơn vị còn chiến đấu ở sân bay Buôn Ma Thuột cách trung tâm thị xã mười hai kilômét. Nhưng rồi đơn vị này cũng phải ngừng chiến đấu. Thế là, từ ngày 12 tháng 3, máy bay Sài Gòn bắt đầu ném bom thị xã. Bom không rơi trúng bất cứ một mục tiêu quân sự nào. Ngược lại, khắp mọi nơi, máy bay gieo rắc tàn phá, chết chóc.


Linh mục Mai đưa cho một đại tá chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng một bản kêu gọi, nhờ chuyển tới Chính phủ Sài Gòn. Lời kêu gọi này vẻn vẹn chỉ có một câu: "Hãy ngừng những trận ném bom vô ích đang giết hại và làm bị thương nhiều dân thường”.


Ngày 27 tháng 3, nhân ngày lễ Thánh, linh mục Mai tổ chức tại nhà thờ Buôn Ma Thuộc lễ chào đón một linh mục mới từ Phan Thiết đến. Thật ngạc nhiên! Việt cộng cũng tới dự.


Tại Roma, Italy, ngày 2 tháng 4 nhân dịp lễ Pâques, giáo hoàng Paul VI liên tưởng tới thảm cảnh ở Việt Nam và kêu gọi các con chiên cầu nguyện cho các linh mục, các thầy dòng, các con chiên và tất cả dân chúng Huế, Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Đà Lạt. Giáo hoàng nói thêm:

- Hỡi các con, những con trai con gái của dân tộc Việt Nam rất đáng yêu, ít nhất hãy cảm nhận từ nơi này tinh thần đoàn kết của Nhà thờ với niềm đau khổ của các con. Chúng ta cầu nguyện cho các con, gia đình các con và cả những người láng giềng Campuchia, với niềm thương cảm sâu sắc.

17
LỆNH RÚT LUI

Giữa trận đánh, lại xảy ra những sự cố trầm trọng

Ngày 14 tháng 3, tướng Thiệu bất ngờ tới Cam Ranh, trong một chuyến đi kiểm tra tình hình. Tư lệnh các quân khu được triệu tập. Thiệu cùng các tướng lĩnh nghiên cứu tình hình. Cuối cùng, ông ta quyết định bí mật di tản toàn bộ phần lãnh thổ phía Bắc của Nam Việt Nam.

Lý do chính thức là: nhằm rút ngắn các tuyến phòng ngự.

Lý do thực tế là: Thiệu biết rõ quân đội của mình tại Tây Nguyên kém hẳn đối phương về số lượng và chất lượng. ông muốn rút các đơn vị xuất sắc về đóng tại phía Nam, để bảo vệ Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.

Ít lâu sau đó, một viên tướng Nam Việt Nam nói với tôi:

- Ông Thiệu đã đột ngột quyết định mà không cân nhắc các hậu quả. Đối với mọi quân đội, chiến đấu trong rút lui là khó khăn nhất.

Ngày 17 tháng 3, tin rút quân bắt đầu lan tới Sài Gòn. Những thành viên chính phủ đã nói đến chuyện "di tản chiến lược" và "dự liệu trước".

Lập tức, nguồn tin này loang khắp mọi nơi. Dân chúng hoảng hốt rời bỏ các thành phố ngay khi vừa mới nhìn thấy quân đội rút đi. Những người lánh nạn này đi đâu? Đi xuống phía Nam, đi tới vùng bờ biển. Bản thân họ cũng không rõ. Họ chỉ có một ý nghĩ: chạy trốn cộng sản vì chính quyền Sài Gòn luôn nhắc đi nhắc lại: cộng sản là dịch hạch.

Trong những trường hợp này, Thiệu đã tỏ rõ những hạn chế về tầm chiến lược. Ngồi ở vị trí cao nhất, viên tướng - tổng thống, tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang đã hành động như một hạ sĩ quan thiển cận.

- "Tôi đã nói mà!'... "Chỉ còn có cách"... "Tôi không muốn biết"...

Quyết định này đã làm nản lòng tướng Pháp Vannuxem, năm đó sáu mươi mốt tuổi, là một trong những viên tướng cũ của De Lattre, hiện đang nghỉ hưu tại một vùng ngoại ô Paris. Hồi Pháp thuộc, Thiệu là học trò của "Vanu” và ngày nay Vang vẫn coi Thiệu như học trò. Vài tuần sau khi Thiệu quyết định rút quận, tướng Vannuxem đã bay tới Sài Gòn để lại “cầm tay dìu dắt” Thiệu. Hết ngày này qua ngày khác, Vannuxem cố động viên Tổng thống Thiệu, giải thích là chiến tranh còn có cơ hội để thắng lợi thậm chí còn khuyên Thiệu gặp bước đường cùng hãy kêu gọi Đài Loan đưa quân giúp!

Buổi tối hôm đó, tại nhà hàng Majestic ở Sài Gòn, tướng Vannuxem say sưa kể lại những chiến dịch cũ do mình chỉ huy tại Đông Dương trước kia.

18
TOÀ LÂU ĐÀI BẰNG GIẤY ĐỔ SỤP

Lệnh lui quân đã ném tung các sư đoàn mà Bộ Tư lệnh cao nguyên Trung phần có được trên những ngả đường. Trong số này, có những đơn vị thiện chiến, như sư đoàn dù và sư đoàn lính thuỷ đánh bộ.

Dù là những đơn vị hảo hạng hoặc ít hảo hạng binh lính cũng bị tê liệt vì phải di tản trong lớp sóng triều của những người dân chạy nạn.

Các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng tận dụng luôn thời cơ đó để đẩy mạnh tiến công. Họ cắt đứt đường xá tràn vào các trung tâm dân cư quan trọng, tăng cường sức ép tại các mục tiêu quân sự.

Và các thành phố cứ thế bị rơi rụng hết lớp này đến lớp khác như những tấm các-tông hình chữ nhật của những quân bài xây dựng toà lâu đài.

Không địa điểm nào có giao tranh thật sự. Ngoại trừ vài trận chiến đấu muộn mằn ở nơi này nơi khác, cuộc rút quân biến thành cuộc tháo chạy tán loạn.

Quảng Trị thất thủ ngày 20 tháng 3 năm 1975.

Ngày 24, bộ đội cộng sản tiến đến bờ biển Quảng Ngãi và Tam Kỳ. Miền Nam Việt Nam bị cắt đôi, Huế và Đà Nẵng bị cô lập. Cố đô Huế sụp đổ ngày 26 tháng 3.

Đà Nẵng chịu chung số phận vào ngày 29.

Các sư đoàn Bắc Việt và Việt cộng hoàn thành việc chiếm đóng Trung phần. Quân đội Sài Gòn tại Đà Lạt, một thành phố còn trôi nổi vài kỷ niệm của cựu hoàng Bảo Đại, thực hiện di tản vào ngày 2 tháng 4.

Trong thời gian đó, những đơn vị khác của cộng sản đã thọc nhanh xuống phần phía Nam bằng xe tăng và bộ binh cố giải phóng hết tốc độ. Cũng trong ngày 2 tháng 4, những đơn vị này tới Nha Trang.


Đó là khung cảnh thuần tuý quân sự của cuộc tiến công chớp nhoáng dưới sự chỉ huy của tướng Pháp.
Võ Nguyên Giáp, người đã chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954 hiện nay như lời đồn đại thì đang mệt mỏi, ốm yếu ở tuổi sáu mươi ba. Nhưng, quả những cuộc tiến công được điều khiển rất thông minh về chiến lược cũng như rất khôn khéo về chiến thuật, ai là người không nhận thấy nghệ thuật chỉ huy của nhân vật có thể coi như Napoleon Bonaparte của xứ Bắc kỳ?

Và những học trò của ông, các viên tướng trẻ của quân đội Bắc Việt, đang tiến theo bước đường của ông.

19
THẢM HOẠ NHA TRANG


Khía cạnh nhân đạo của cuộc chiến tranh đang vận chuyển này còn ngao ngán hơn cả việc vạch những mũi tên trên bản đồ tham mưu. Trên những đường xá, hàng trăm ngàn dân thường đang đói, đang khát. Trẻ nhỏ chết dần. Cụ già kiệt sức ngã gục. Bom và đạn pháo không chừa đàn bà và trẻ con. Nam Việt Nam chỉ còn là một mảng khổng lồ của đau thương lan toả trong vùng đất bốc lửa.

Về thảm cảnh ghê gớm này không ai tả xúc động hơn bạn tôi là Georges Herbouze đặc phái viên hãng tin Pháp AFP trong bài phóng sự gửi đi từ Nha Trang vài giờ trước khi quân Việt tới.

Được anh cho phép, tôi ghi lại đây bài phóng sự đã được truyền đi vòng quanh thế giới.

“Mảnh đất Nam Việt Nam đang trống rỗng vì cuộc tổng tháo chạy khỏi toàn bộ các thành phố.

Thứ Ba trước là Nha Trang, một thành phố làm mồi cho hoảng loạn, cảm thấy đang bị rơi vào cạm bẫy, đã có cảnh tượng một thành phố điên loạn có thể ví như Đà Nẵng trước khi sụp đổ, theo lời kể của những nhân chứng tại chỗ.

Những người được hỏi về địa điểm định di tản tới, bằng tất cả những gì có thể chuyển bánh được, nghĩ một hồi lâu vẫn không thể trả lời. Họ không biết sẽ đi đâu. Tất cả những gì họ muốn, đó là chạy khỏi thành phố này, nơi họ đang hoảng sợ, một số người dự tính sẽ chạy đến đảo Hòn Tre, một hải đảo đất cằn, không cây cối trồng trọt, cách thành phố Nha Trang ba kilômét, đứng trên đất liền có thể nhìn thấy hình dáng đảo ở phía chân trời. Nhưng họ sẽ không thể sống ở đó được. Mặc dù vậy họ vẫn cứ đi tới đó nghĩ rằng sẽ quay trở về trong vài ngày. Họ nói: “Chúng tôi tới đó tránh đạn”. Những người khác chạy theo con đường đi Cam Ranh, cách Nha Trang sáu chục cây số về phía Nam.


Những người còn lại cuống cuồng ngơ ngác chạy đi rồi lại đứng lại chuyển sang hướng khác, rõ ràng đã mất hết sự tự chủ của bản thân.

Trên thực tế, sự hoảng loạn của họ có thể giải thích như sau: từ tối thứ Hai, khi những binh sĩ từ Tây Nguyên thực hiện rút chạy, và những binh lính khác từ Đà Nẵng rút về Nha Trang theo đường biển, đổ bộ lên thành phố, súng lăm lăm cầm tay, vẻ mặt cau có, cướp bóc, đập phá vô cớ. Từ tối thứ Hai các chủ hiệu buôn đã phải đóng sập cửa hàng. Hoạt động buôn bán trong thành phố hoàn toàn không còn nữa. Điện thoại cũng tắt ngấm và không thể nào moi được một thông tin nào.


Chính các sĩ quan và viên chức cấp cao nêu gương trước bằng cách, nếu họ chưa ra đi thì cũng đã cho gia đình vợ con về Sài Gòn.

Sáng thứ Ba, sự hoảng loạn lên tới đỉnh cao. Phó lãnh sự Pháp Henri Siralheim, tổng lãnh sự Mỹ Moncrieff Spear đều trả lời: “Từ nay, chúng tôi không còn chịu trách nhiệm gì nữa"


Người Pháp di tản bằng máy bay tư nhân do sứ quán Pháp thu xếp.

Trong thành phố, những cửa ngục đã mở tung. Phạm nhân chạy ùa ra trong khi không loạt đạn bắn đuổi theo.

Những tin tức lo ngại được truyền đi từ miệng này sang miệng khác:

- “Đức Mỹ, một căn cứ Mỹ cách đây năm mười kiiômét đã bi tiến công”.

Rõ ràng đây là một tin nhảm vì tiểu khu này vẫn yên tĩnh. Nhưng ai nghe cũng tin.

- “Cộng sản lấy dây thép xuyên qua tay con gái”.

Thế là nháo nhào chạy trốn.

- “Thiệu đã bán đứt Nha Trang cho địch".

Sự hoảng loạn càng lớn hơn. Những, có hàng trăm thông tin khác rất đúng sự thật: tối hôm thứ Hai, lính thuỷ đánh bộ định rút xuống tàu tháo chạy đã bắn vào lực lượng an ninh bến cảng. Nhiều người chết và bị thương.


Mãi tới lúc này, thành phố Nha Trang vẫn được nắm giữ chặt chẽ trong tay viên đại tá tỉnh trưởng thì trong hai mươi bốn giờ qua đã làm mồi cho toán lính hỗn loạn đập phá. Những binh lính trong cơn điền loạn, phần lớn do quá khiếp sơ, đã nổ súng bắn lung tung vào bất cứ ai, bất cứ đâu.


Cảnh hỗn loạn diễn ra ngay sát trụ sở tổng lãnh sự Mỹ: hàng trăm người đánh nhau để len vào bên trong, hi vọng sẽ được máy bay lên thẳng đậu trong sân chở đi.

Đó là cách tốt nhất để tới sân bay, vì lính không cho ai đi cả. Thẻ nhà báo của tôi được chính quyền Sài Gòn chứng nhận, cũng trở thành vô hiệu khi tôi giơ cao cố vượt qua hàng rào để kiếrn một chỗ trên máy bay.

Tôi bị một tên lính trẻ đập một báng súng mạnh vào người rồi bắn một loạt đạn sát mang tai, chỉ cách vài mét, để cảnh báo cho tôi biết đây là nghiêm lệnh.

Từ nay, chỉ cơ quan tổng lãnh sự Mỹ có thể là cơ quan - duy nhất cho tôi thoát khỏi Nha Trang.

Trong sân toà lãnh sự đông nghịt người, tôi gặp lại hai quan chức người Pháp chưa kịp di tản. Đó là ông André Chantelange giám đốc nhà máy điện và ông Jean Paul Sarasín, giám đốc trung tâm văn hoá.

Cũng như mọi người nước ngoài khác, họ để lại tất cả mọi tài sản chi mang theo một sốt hành lý được phép.

Các máy bay lên thẳng bay cấp tốc như những con thoi giữa toà lãnh sự và sân bay với quyết tâm đến chiều sẽ chở hết những người di tản. Nhưng nửa giờ sau, khi tôi đang đứng trên nền đất rải đá, chờ chiếc máy bay C46 của Công ty Air America bay tới thì các chuyến bay con thoi đột nhiên ngừng hẳn. Lý do là đường băng không an toàn. Chuyến bay này được coi là chuyến cuối cùng.

Tuy khi đó, vẫn còn hàng mấy trăm người đứng đợi ở sân ga bên cạnh tôi.

Chiếc C46 vừa hạ cánh, mọi người vội đổ xô lên cầu thang máy bay. Một người lính bắn một loạt đạn chỉ thiên để ngăn cản đám đông. Một cô tiếp viên kéo tôi vào khoang máy bay. Một thiếu niên Việt Nam ngồi trên đùi tôi rồi khóc nức nở vì không thấy bố mẹ.

Qua cửa sổ máy bay, tôi nhìn một lần cuối cặp mắt thất vọng của những người phải ở lại. Ngồi gần chỗ tôi là một phụ nữ trẻ tuổi người Việt tên là Dương Thị Thu khóc thầm lặng lẽ. Cô đã để lại trên sân bay mười hai người trong gia đình và năm đứa con của cô.

Lãnh sự quán Mỹ hứa với những người bị bỏ lại là sẽ cho máy bay lên thẳng đến đưa họ ra tàu đổ bộ Mỹ đang túc trực ngoài khơi Nha Trang.

Các nhân viên lãnh sự quán, vào khoảng năm chục người, sẽ từ Nha Trang vào Sài Gòn theo con đường đó.
Trong số những người nước ngoài còn ở lại Nha Trang có các nhà tu hành người Pháp: ba linh mục của phái đoàn Thiên Chúa giáo từ Paris tới, các cha cố Marc Lefebvre và Joseph Vist không muốn rời bỏ các tông đồ mà họ đã đưa tới Nha Trang trên con đường di tản. Còn cha Beysselance thì ở lại trong trại tị nạn cách thành phố hai chục kilômét, gồm khoảng một nghìn năm trăm người Thượng.

Nữ tu sĩ Marguerite cũng không muốn rời bỏ hai mươi con chiên người Việt mà bà phụ trách.

PHẦN BỐN
THEN CHỐT CUỐI CÙNG
(Tháng 4 năm 1975)

20
TRẠI LÍNH KiÊN CỐ SÀI GÒN CHỈ LÀ MỘT CÁI RỔ THOÁT NƯỚC

Thứ sáu 11 tháng 4

Chiếc máy bay từ Paris tới đã hoàn thành chuyến hạ cánh kéo dài tới Sài Gòn.

Đột nhiên, ở phía Đông thành phố, chiến tranh lại xuất hiện. Một loạt đám cháy theo hình vành cung bùng lên như những đám cháy rừng ở châu Phi vào mùa hanh khô. Những cột khói màu xám, những lưỡi lửa màu da cam bốc lên từ những nhà mái tranh và những bụi cây đang bốc cháy dọc theo chiến tuyến, nếu có thể gọi được là "chiến tuyến" trong cuộc chiến tranh này.


Một lát sau, máy bay mới có thể đỗ xuống sân bay Tân Sơn Nhất, nơi thời tiết là 32°C trong bóng râm. Từ trung tâm thành phố bốc lên một cột khói đen. Phải chăng đó là dinh Tổng thống của Thiệu đang bốc cháy. Hay là một bồn xăng đang bị thiêu huỷ?

Một viên đại uý trẻ, nói với tôi:

- Không, đó chỉ là một khu nhà ổ chuột.

"Chỉ là"! Thật là một từ ngữ khủng khiếp. Tôi đã từng nhìn thấy những người mẹ bồng con chạy khỏi những đám cháy từ khu nhà ổ chuột. Những người bố cố giật lại trong lửa vài thứ đồ dùng vặt vãnh, nghèo nàn. Những đứa trẻ khóc thầm lặng lẽ, như người ta vẫn thường khóc như vậy, ở Việt Nam.


Một sự yên lặng lạ lùng

Trong thành phố mà vài hôm trước tất cả báo chí đều viết là một thành trì bị vây hãm, thì nay yên lặng lạ lùng.

Cảnh vật chẳng thay đổi gì so với năm trước. Vẫn đám thanh niên vô tư la cà trên đường phố, tụ tập trong các quán cà-phê, chen lấn trước cổng rạp chiếu phim ở trung tâm thành phố. Tất cả đám người này đều mặc những bộ đồ cốt-tông hoặc téc-gan sạch sẽ. Và tất cả bọn họ đều tươi cười. Làm thế nào tin được rằng đất nước này vừa mới trải qua một thất bại quân sự kinh khủng nhất?

Trước trụ sở quốc hội, loa phóng thanh đang phát đi những bản nhạc quân sự. Một kiểu cách thảm hại nhằm cố lên dây cót tinh thần cho dân chúng.

Chỉ có một sự thay đổi đáng kể. Đó là giảm sút những xe có động cơ, chủ yếu là loại xe gắn máy scooter trước kia vẫn như những đàn ong tràn ngập tất cả các đại lộ. Giá xăng ở Sài Gòn ngày nay thuộc loại đắt nhất thế giới.

Xe xích lô cũng đã biến hết, do lệnh của chính phủ. Người ta nói, đó là vì rằng cuộc tổng tiến công hồi Tết Mậu Thân 1968, các chiến binh Việt cộng thường thâm nhập vào thành phố bằng loại xe này. Còn lần này, không biết quân giải phóng sẽ tiến vào đây bằng xe taxi hay đi bộ? Nhưng rõ ràng họ đang bố trí sẵn sàng tại chỗ.


Pháo đài của tướng - tổng thống

Sài Gòn, một lập đoàn cứ điểm? - Hãy nghiêm chỉnh xét đoán: - thành phố này chỉ là một cái chao, một thứ dụng cụ nhà bếp - như cái rổ thoát nước.

Tuy nhiên, trong khu dân cư rộng lớn đông đúc những người lánh nạn và tràn ngập nạn nghèo đói, có hai pháo đài quan trọng.

- Thứ nhất là căn cứ không quân Tân Sơn Nhất với hàng mấy trăm máy bay khu trục, máy bay ném bom, máy bay vận tải, máy bay lên thẳng do Mỹ cho không.

- Thứ hai là dinh tướng - tổng thống ở chính giữa trung tâm thành phố. Chính toà lâu đài này vừa mới bị máy bay ném bom, nhưng từ bên ngoài nhìn vào, không thấy một dấu vết nào1 (Đây là chiến công của Nguyễn Thành Trung, lái máy bay F5, ném bom dinh Tổng thống Thiệu rồi bay ra vùng giải phóng. (ND)). Ngược lại, doanh trại đã tăng thêm quân số, vũ khí. Từ phía ngoài nhìn vào trong vườn, thấy rõ những xe bọc thép gắn súng máy, những xe tăng hạng nặng, những cỗ pháo phòng không bắn nhanh, những ổ trọng liên, những công sự bê-tông.

Những người lái xe tô lau chùi, đánh bóng những chiếc xe Mercedes sơn màu đen.

Phía sau dinh, hai chiếc máy bay lên thẳng đậu trên bãi cỏ chờ đợi. Chờ đợi gì? Chờ lúc Thiệu bay đi không trở về? Phải chăng, tấn thảm kịch sẽ kết thúc theo kiểu đó?


Trong vòng ba ngày, hay ba tháng nữa?

Và đến bao giờ mới kết thúc tấn thảm kịch đã kéo dài tới ba mươi năm rồi? Không ai có thể nói được.

Một người Pháp, định cư lâu năm ở Sài Gòn và biết rõ xứ sở này, đã trả lời câu hỏi của tôi như sau:

- Chắc chắn là đang tới giai đoạn kết thúc rồi. Nhưng sẽ kết thúc trong vòng ba ngày, ba tuần, hay ba tháng nữa? Thành thật, tôi không biết gì hết.

Điều có thể nói được mà không sợ nhầm lẫn, đó là cuộc chiến giành Sài Gòn đã bắt đầu. Trận đánh đã xảy ra dữ dội cách Sài Gòn có vài chục cây số ở mặt phía Đông thành phố. Cả hai bên đều tung ra những lực lượng quan trọng. Từ nhiều tháng nay, phía cộng sản đã tập trung được nhiều loại vũ khí nặng để chuẩn bị cho cuộc tiến công này. Phía quân đội Sài Gòn cũng làm như vậy bởi họ biết đang phải bảo vệ thành trì cuối cùng.

Trong cuộc giao tranh này, tôi đã nhìn thấy trận tuyến khi tới Sài Gòn vào chiều hôm nay. Liền đó, tôi đột ngột được biệt tin, từ nay lệnh giới nghiêm tại Sài Gòn được nghiêm ngặt thực hiện ngay từ chín giờ tối. Thành phố vắng lặng. Mọi người đi ngủ sớm.

Nhưng ngủ yên giấc thế nào được vì từ phía xa vẫn vọng lại những tiếng trọng pháo, như sấm nổ trong cơn dông.

21
NHỮNG BÍ MẬT VỀ CHUYỆN QUÂN ĐỘI SÀI GÒN THÁO CHẠY

Thứ Bảy 12 tháng 4

Số phận Sài Gòn được quyết định tại Xuân Lộc, một thị xã 100.000 dân, cách thủ phủ Nam Việt Nam bẩy mươi kilômét về phía Đông Đông Bắc.

Đó là then cửa cuối cùng.

Trong giờ phút này, binh lính tại Xuân Lộc vẫn còn chống cự rất quyết liệt. Nhưng không ai có thể đoán trước trận đánh có huy động cả xe bọc thép và pháo nặng này sẽ quay ngoặt theo chiều hướng nào. Sau khi Thiệu bị mất tới nửa số quân trong vòng ba tuần, thì mọi việc đều có thể xảy ra.


Viên trung tướng lên làm tổng thống đã có một quân đội rất mạnh. Có thể nói, đây là một trong những đội quân hùng mạnh nhất thế giới. Đội quân này có tới mười một sư đoàn bộ binh, một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, một sư đoàn dù, mười lăm liên đoàn biệt động, mỗi liên đoàn có ba tiểu đoàn lính, một lữ đoàn dù đặc biệt, và bốn lữ đoàn xe bọc thép. Thiệu có trong tay 160 xe tăng hạng nặng M48, 225 xe tăng hạng trung M41, 700 xe bọc thép chở quân, tổng cộng là 1.085 xe bọc thép các loại. Thiệu cũng có một lực lượng pháo đáng kể: 45 tiểu đoàn pháo 105, 15 tiểu đoàn pháo 155, 3 tiểu đoàn pháo 175. Lực lượng không quân có 370 máy bay khu trục tiêm kích trong đó có 70 chiếc F5E, 60 máy bay vận tải, 400 máy bay lên thẳng hạng trung, 160 máy bay lên thẳng hạng nặng.

Tất cả đã tan rã như băng tuyết dưới ánh nắng mặt trời tháng Tư.


Chuẩn bị cho tổng tiến công

Từ nhiều tháng nay, Bắc Việt Nam chuẩn bị tiến công lớn.

Trước ngày bùng nổ cuộc chiến, khối chủ lực cơ động cộng sản có tới hai mươi sư đoàn và năm mươi nhăm trung đoàn độc lập. Có sáu trăm xe bọc thép do Liên Xô chế tạo gồm các xe tăng hạng nặng T54 và các xe tăng lội nước hạng trung PT76. Lực lượng này được yểm trợ bởi bốn mươi mốt tiểu đoàn pháo binh từ cối 80 đến pháo 130mm.


Tất cả những đơn vị này đã được đưa vào dải đất phía Nam vĩ tuyến 17 trong khu phi quân sự rồi theo đường Hồ Chí Minh qua Lào, Campuchia, sau đó rẽ sang quốc lộ 14 mà cộng sản đã chiếm được dần mòn kể từ ngày ngừng bắn.


Chính thức mà nói, thì không có những đơn vị Bắc Việt ở miền Nam Việt Nam. Nhưng trên thực tế, 85% số sư đoàn cộng sản tham gia cuộc chiến ở Tây Nguyên là từ Bắc Kỳ đưa vào. Trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, 50% số quân chiến đấu là từ Bắc Việt tới.


Những đơn vị này chiến đấu dưới lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng cũng không thay đổi gì tính chất. Dưới vỏ bọc bên ngoài, chính là Bắc Việt đang tiếp tục cuộc chiến tranh "của mình” ở miền Nam.


Một nửa số quân của Thiệu đã biến mất

Để bảo vệ lãnh thổ, chế độ độc tài cảnh sát, Tổng thống Thiệu có một đạo quân chính quy lên tới hơn 300.000 quân. Số quân này lại được tăng cường bởi 300.000 binh lính gọi là địa phương quân và dân vệ.
Lực lượng chủ lực Bắc Việt không phải ràng buộc vào việc giữ đất, có thể tập trung nỗ lực vào bất cứ hướng nào do Bộ chỉ huy đề ra.


Từ tháng 12 năm 1974 và tháng 1 năm nay, lực lượng chủ lực Bắc Việt đã thăm dò chiến trường khu vực Tây Sài Gòn.

Và đến tháng 3 thì trận đánh bắt đầu.

Trong vòng bốn tuần, quân đội Sài Gòn bị tổn thất một nửa quân số và phương tiện chiến tranh.

Để thật chính xác thì phải nói rằng, do muốn thu hẹp tuyến phòng ngự, Thiệu đã để mất:

- Tại khu vực dưới vĩ tuyến 17, ba sư đoàn bộ binh, một nửa sư đoàn lính thuỷ đánh bộ.

- Tại khu vực Tây Nguyên: hai sư đoàn bộ binh, bảy liên đoàn biệt động, một lữ đoàn xe bọc thép.

Trên tổng số quân, Bộ Tư lệnh Sài Gòn chỉ có thể thu hồi được đầy đủ một sư đoàn dù, hai trong bốn lữ đoàn thuộc sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, một trung đoàn thuộc sư đoàn bộ binh 12 và khoảng từ 3.000 đến 4.000 linh thuộc sư đoàn bộ binh 2.


Nhưng, tất cả phương tiện chiến tranh của các đơn vị này đã bị phá huỷ hoặc bỏ lại chiến trường. Có nghĩa là đã bị mất hai phần ba số xe tăng hạng nặng, một nửa số xe tăng hạng trung, một nửa số xe bọc thép vận tải và vào khoảng ba trăm máy bay và máy bay lên thẳng.


6.000 người Mỹ cần di tản

Khi bắt đầu trận đánh Sài Gòn, Thiệu chỉ có một số quân rất hạn hẹp. Bố trí như sau:

- Ở mặt Bắc đồng bằng sông Cửu Long, sáu sư đoàn bộ binh, một sư đoàn dù, hai lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ, năm liên đoàn biệt động, một lữ đoàn xe bọc thép.

- Ở mặt Nam sông Cửu Long một sư đoàn bộ binh, một lữ đoàn xe bọc thép và các lực lượng địa phương quân.

Tổng cộng, chỉ có 150.000 quân chính quy.

Mỹ mới chỉ thay thế được cho Thiệu một phần rất nhỏ các phương tiện đã bị mất. Những máy bay vận tải khổng lồ Galaxie đã đưa tới Nam Việt Nam hai cụm pháo mặt đất, pháo chống tăng và đạn pháo. Thế là hết.
Vào lúc này, quan tâm lớn của đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin là làm sao di tản thật nhanh khoảng 6.000 công dân Mỹ đang có mặt lại Nam Việt dưới nhiều nhãn hiệu khác nhau.


Còn đại sứ Pháp thì cho xây một bức tường dày bằng gạch ở chung quanh sứ quán và gia cố thêm cánh cổng sắt ở lối vào sân.

Bên này tăng tốc độ, bên kia tăng tinh thần.

Bắc Việt chưa có đủ thời gian để đưa tất cả những sư đoàn từ miền Bắc vừa đại thắng hồi tháng 3 vào vùng châu thổ Cửu Long. Vì đây là một cuộc hành quân dài gần một nghìn kilômét, đòi hỏi phải có thời gian, chưa tính đến việc chuyên chở binh lính trên xe tô vận tải, việc vận chuyển xe tăng, pháo nặng, và nhất là việc tiếp tế các vật liệu cần thiết.


Hôm qua, tôi được nghe một phát ngôn viên của quân đội Sài Gòn là đại tá Hinh trong cuộc họp báo không biết đã tiến hành tới lần thứ bao nhiêu rồi. Gần ba mươi năm nay, những sĩ quan cấp cao đã tiến hành tại đây những cuộc “hội báo" về tình hình chiến sự. Vì vậy, mọi người chỉ nghe bằng một cái tai lơ đãng.


Hinh cố tránh né trả lời hai câu hỏi quan trọng:

1. Liệu Bắc Việt có tiếp tục tiến quân và đánh chiếm ngay Sài Gòn mà không cần chờ đại quân tới?

2. Liệu Nam Việt có quyết tâm chiến đấu đến cùng sau trận thất bại ở mấy tỉnh phía Bắc?

Cứ theo sự trả lời của Hinh xoay quanh hai câu hỏi này thì cuộc chiến tranh thứ ba tại Đông Dương sẽ kéo dài vài ngày hoặc vài tuần. Giới hạn cao nhất là vài tháng.

Nhưng, bằng cách nào thì Thiệu cũng đã thua rồi.

22
CUỘC CHIẾN GIÀNH KIỂM SOÁT CON ĐƯỜNG LÚA GẠO


Chủ Nhật 15 tháng 4

8 giờ rưỡi sáng. Con đường đi về vùng châu thổ vừa mới được mở trở lại. Một chiếc xe ủi đất hối hả lấp lại các hố đạn pháo. Cột điện đã được sửa chữa. Chỉ có những bụi cây chuối bị đạn bắn xơ xác là còn mang vết tích giao tranh.


Tại đây có một làng lớn tên là Bến Tranh, cách Sài Gòn 50 kilômét về phía Nam, trên đường đi Mỹ Tho. Đây là nơi phần lớn lúa gạo được chở về nuôi thành phố Sài Gòn. Chính vì lẽ đó hết đêm này qua đêm khác, cộng sản liên tục cắt đứt đoạn đường nhằm uy hiếp thành phố.


Cùng trong lúc đó, Việt cộng cùng giữ chân một số đơn vị quân đội Nam Việt tại vùng châu thổ, trong khi cuộc chiến đang diễn ra ác liệt tại Xuân Lộc ở phía Đông Bắc. Trận đánh lớn sẽ liến hành từ phía Đông, hoặc cũng có lẽ từ phía Tây là nơi ít nhất Bắc Việt đã tập trung quân.


Một đại tá và mười bốn tù binh

Sáng nay, tại Bến Tranh, có mười bốn tù binh ngồi xổm trong sân Sở chỉ huy sư đoàn 7 quân đội Nam Việt.
Mười ba tù binh bị còng tay hai người một, hoặc bị trói giật cánh khuỷu bằng dây thừng. Người thứ mười bốn, bị thương vào ngực, nằm trên cáng. Thỉnh thoảng, anh ta lại khe khẽ rên nhẹ nhàng.


Tất cả tù binh đều đeo trên cổ mỗi người một tấm biển ghi rõ họ tên lý lịch do phòng nhì thiết lập. Họ đều từ Bắc Kỳ tới. Một số chưa quá mười sáu tuổi. Về phía quân đội Thiệu cũng có những người lính ít tuổi như vậy.
Đi chân đất, mặc bộ đồ quân phục gồm một áo sơ mi ra trận màu xanh nhạt và một chiếc quần dài màu xanh lơ, họ cúi đầu ngồi trong đám bụi, có bức tường che mát, mệt mỏi vì bị phơi mặt trước ống kính của các phóng viên ảnh. Chỉ có một chính trị viên khoảng hai mươi nhăm tuổi, không đeo quân hiệu, cấp hiệu là ngửng đầu một cách tự hào. Người cán bộ này biết rõ quân đội của anh ta đang chiến thắng.


Đại tá Thành đứng trong góc sân trước tấm bản đồ lớn, trình bày lại diễn biến chiến sự. Bản thuyết trình kết thúc bằng một câu: "Tiến triển tốt".


Truy đuổi một kẻ thù vô hình trong ruộng lúa

Cũng ngay trong làng này, đại tá Thành cho trưng bày một số chiến lợi phẩm tịch thu được trong những trận đánh gần đây nhất: pháo không giật, súng phóng rốc két, súng cối nặng và nhẹ, súng trọng liên bắn máy bay và rất nhiều đạn.


Sau đó, chúng tôi được đi thăm cái mà đại tá Thành gọi là "bãi chiến trường". Mọi người rời khỏi đường cái, rẽ vào đường mòn đầy bụi, đi qua nhiều thôn ấp. Cuối cùng đến một bãi đất gồm toàn đồng ruộng, phía chân trời là những rặng cây dừa, cây xoài, cây chuối. Mấy chiếc xe bọc thép đi kèm chúng tôi tới đây, dàn trận bố trí dưới vòm cây. Lính lái xe vặt lá ở các bụi cây nguỵ trang cho xe.


Chúng tôi tiếp tục đi theo lính bộ binh nối đuôi nhau theo hàng dọc trên các bờ ruộng. Lúa đã gặt xong. Đất ruộng khô nẻ chỉ còn lại những bụi rơm rạ màu vàng, bị liềm hái cắt cụt.


Chúng tôi đi mãi dưới mặt trời nắng gắt. Có tiếng pháo nổ gần. Từ phía xa vụt bốc lên những cột khói sau rặng cây Đó là những quả đạn pháo 105 vừa mới nổ. Phía bên trái, những mái nhà tranh bốc cháy dữ dội.
Trong khi đó, những người nông dân vẫn bình thản cào đất. Trẻ con chạy ra khỏi thôn xóm, núp dưới bóng cây, rồi ùa tới chỗ chúng tôi, reo cười, xin thuốc lá hoặc kẹo cao su.

Kẻ thù vô hình vẫn không tìm thấy.


Một kho đạn phát nổ

Quả là một cuộc chiến tranh kỳ quái, không ai biết nổi. Ngay cả đến các sĩ quan đi kèm chúng tôi, vừa đi vừa liên tục dùng máy bộ đàm liên lạc với các đơn vị, cũng không giải thích nổi.

Chúng tôi đến một làng nhỏ, bên bờ sông. Vẫn không thấy có Việt cộng. Nhưng họ không ở xa, vì đột ngột có tiếng súng máy. Tiếng súng từ bên kia sông bắn tới.

Có một người lính Sài Gòn bị thương, nằm trong một chiếc thuyền đáy bằng. Gần đó là hai người lính Việt cộng, nhắm mắt ngủ vĩnh viễn. Phải chăng, chúng tôi được dẫn tới đây chỉ cất để nhìn thấy cái cảnh thảm hại này?

Chúng tôi lại quay trở về Sài Gòn.

Vừa tới gần khu vực ngoại thành, chợt một cột khói đen khổng lồ bùng lên trước mắt chúng tôi. Sau đó là tiếng nổ. Tiếp liền đó là một loạt những tiếng sấm rền, tiếng nổ đua nhau kêu rất to. Đó là một kho đạn vừa bị rốc két bản trúng.

Từ con đường nhỏ dẫn tới kho đạn này, có một nông dân đi ngược trở lại, gánh hai bao tải to buộc ở hai đầu cây gỗ, đặt trên vai. Có lẽ, anh ta chính là người vừa mới vác trong một chiếc bao tải này, quả mìn đã làm nổ tung kho đạn cũng nên!

23
TẤN BI KỊCH CỦA NHỮNG NGƯỜI DÂN ĐI LÁNH NẠN

Thứ Hai 14 tháng 4

Từ nhiều năm nay, chiến tranh đã chất đống tại Sài Gòn bất hạnh những đám người bèo bọt: những người bị thương đang phải băng bó hoặc què cụt, bị những vết bỏng trên thân thể, mặt và ngực đầy sẹo bom napalm, những người chột, người mù, người chống nạng, những người chạy khỏi xứ Bắc kỳ từ năm 1 954 nay đang sống trong những mái nhà tranh, những túp lều hoặc trong những hành lang, những ngõ hẻm, ngay giữa những đoạn đường sắt bởi vì đã từ lâu không có xe lửa chạy qua nữa.


Cộng thêm vào nỗi thống khổ thầm lặng đó, là thảm cảnh của những người dân lánh nạn sau khi mặt trận Tây Nguyên đổ vỡ.


Truyện phiêu lưu của Hồng

Họ có bao nhiêu người? 300.000 hoặc 400.000, mà có lẽ là 500.000. Tất cả đều trải qua một cuộc phiêu lưu thảm khốc hoặc bi đát Hồng, một sinh viên 18 tuổi, kể lại:

”Tôi rời Nha Trang trên chuyến tàu thuỷ cuối cùng. Con tàu có sức chứa 2.000 người. Nhưng số thực lề trên tàu là hơn 8.000 người. Người chật lèn, suốt bốn ngày bốn đêm không ngả lưng được. Tất nhiên cũng chẳng có gì ăn. Cuối cùng chúng tôi bị đưa lên đảo Phú Quốc ở tận cùng đất nước. Năm ngày sau tôi tìm cách về được Sài Gòn. Nhưng tôi chỉ còn có một mình. Bố mẹ, gia đình đều ở lại Nha Trang. Tôi không còn lấy một xu. Cũng chỉ còn một bộ quần áo đang mặc trên người. Tôi không biết rồi sẽ ra sao. Tôi muốn trở thành một thầy thuốc. Nhưng tôi rất lo không được tiếp tục chuyện học hành.

Hồng đeo ở cổ một cây thánh giá nhỏ bé bằng vàng. Tôi hỏi:

- Anh đi đạo à?

- Vâng. Nhưng tôi đang lo phải bán cây thánh giá để lấy tiền ăn. Cả chiếc đồng hồ đeo tay này nữa.

Có hàng ngàn người như Hồng, hết ngày này sang ngày khác lượn quanh Sài Gòn tìm một việc làm hoặc một chỗ ở nhưng không sao tìm thấy.

Theo thống kê của chính quyền Thiệu có tới hàng triệu người đang thuộc lớp dân chạy nạn. Chính phủ cách mạng lâm thời cho biết, tại khu vực giải phóng gồm sáu triệu dân do họ kiểm soát, cũng có tới một triệu người lánh nạn.


Hội chữ thập đỏ vào việc

Hội chữ thập đỏ dùng từ ngữ "những người di tản" để chỉ những người chạy loạn. Về mặt pháp lý, danh từ "tị nạn” chỉ được công nhận khi người này đã vượt biên giới, sang sống ở một nước khác.

Uỷ ban quốc tế Hội chữ thập đỏ và một chuỗi hệ thống các tổ chức chữ thập đỏ, hợp tác với nhau rất chặt chẽ, không để mất thời gian. Các tổ chức này đã ra lời kêu gọi quyên góp 35 triệu đô la, tương đương 150 triệu franc Pháp cho Việt Nam và đã nhận được 10 triệu đô la, tương đương 43 triệu franc. Một phần số tiền này đã trao cho chính quyền Cộng hoà Việt Nam ở Sài Gòn, tức là giao cho chế độ Thiệu. Một phần tương đương trao cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, qua đại diện thường trực tại Genève.


Cả hai bên đều đang cần những khoản tiền để mua lều bạt, những tấm nhựa làm mái che chống mưa, sữa hộp, đồ hộp, thuốc men.


Những tàu biển tiếp tục cập bến

Tất cả những mặt hàng cứu trợ bắt đầu tới. Hôm nay một chuyến máy bay của Công ty Belair từ Viên Chăn, Lào đang được chờ đón tại Sài Gòn. Ngày mai, chiếc DC4 từ Na Uy cũng tới Nam Việt Nam. Một máy bay Đông Đức đã tới Hà Nội, với mười lăm tấn lương thực. Hội chữ thập đỏ Nhật Bản đã gửi năm mươi tấn cá hộp tới Hải Phòng.


Đó là chưa kể đến sự trợ giúp của Liên Hợp Quốc, của Quỹ nhi đồng quốc tế gọi tắt làng UNICEF, và của nước Pháp gồm có: thuốc men tăng cường cho bệnh viện Grall ở Sài Gòn và sắp tới sẽ cử một đội ngũ bác sĩ và y tế đến Nam Việt Nam tuỳ theo sử dụng của chính quyền Sài Gòn.


Trong khi đó, dòng người lánh nạn vẫn tiếp lục chảy về Nam Việt Nam, nhất là tại Vũng Tàu là nơi các tàu biển từ miền Trung liên tục cập bến hết ngày này đến ngày khác. Đó là những loại tàu nhỏ, trọng tải yếu, chạy thoát khỏi những vùng biển chưa bị Việt cộng và Bắc Việt chiếm, hoặc những tàu thuyền đánh cá thoát khỏi sự canh phòng của các lực lượng cộng sản vì trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh này Bộ tư lệnh miền Bắc đang tập trung chú ý vào các hoạt động chiến sự.


Lính thuỷ đánh bộ là bọn giặc cướp

Trên boong một chuyến tàu như thế này, đã diễn ra những cảnh tượng khủng khiếp. Khi tàu vừa ra khỏi bến cảng Nha Trang, một số lính thuỷ đánh bộ di tản đã bắt đầu thực hiện kiểu làm luật của chúng. Súng lăm lăm trong tay, chúng đe doạ những người dân, tuần tự tước đoạt của cải từng người. Chúng lục tung vai hành lý của họ, lấy tiền, tước đoạt các thứ trang sức. Những người phản kháng bị chúng đánh đập tàn nhẫn rồi vứt xác xuống biển. Rồi chúng hãm hiếp phụ nữ. Một ông bố vừa mới định bảo vệ con gái đã bị chúng giết hại trước cặp mắt sợ hãi của mọi người.


Một số nhân viên hàng hải không dính líu vào những chuyện ghê tởm này. Họ kịp thời gọi điện về Bộ tư lệnh hải quân ở Vũng Tàu.


Khi tàu cập bến, quân cảnh đã dàn hàng đón đợi. Lính thuỷ đánh bộ định bước xuống nhưng nhận được lệnh phải để cho dân thường xuống trước. Họ được mời đứng xếp hàng trên bờ, nhận diện những kẻ đã hành hạ mình. Khi lính thuỷ đánh bộ bước xuống cầu tàu đã có nhiều ngón tay, chỉ vào mặt, nói: “Chính hắn! Và cả tên này! Cả tên này nữa!" Tổng cộng có hai chục tên lính thuỷ đánh bộ phạm tội.

Chúng đã bị bắt và bị xử bắn trước mặt mọi người.


Vấn đề trẻ mồ côi

Trong những giờ phút này, những người di tản đều được tập trung tại các bãi tắm ở Vũng Tàu và ở đảo Phú Quốc. Tại đây cũng có một trại tập trung cũ giam giữ những tù binh Việt cộng. Những người di tản được đưa về sống trong trại tập trung này, với những điều kiện rất gian khổ, dưới sự trông nom của Hội chữ thập đỏ Việt Nam do ông Trung làm chủ tịch, cùng với sự giúp đỡ của Hội chữ thập đỏ quốc tế và của những người tình nguyện rất hảo tâm ở địa phương.


Về vấn đề đau đớn là cảnh ngộ những trẻ em mồ côi, có vẻ như cũng được giải quyết. Có một phi công Mỹ tên là Ken Healey điều khiển chiếc máy bay của hãng World Airways đã tự nguyện đưa tới trại tị nạn 57 trẻ em không có người thừa nhận, được ủ trong những chiếc chăn.


Sau đó, xảy ra tai nạn khủng khiếp của chiếc máy bay vận tải khổng lồ mang tên Galaxie rơi xuống đất vỡ tan cùng với toàn bộ các trẻ em mồ côi chở trong khoang tàu.


Sau tai nạn này, hình như người ta đã không tiến hành những cuộc chuyên chở như vậy nữa, mặc dù cho đến ngày hôm kia, máy bay Mỹ vẫn còn đưa được 329 trẻ mồ côi từ Nam Việt Nam đến tận Los Angeles bang Califomia Mỹ.

Hội chữ thập đỏ quốc tế đã công bố một bản thông báo như sau:

"Hiện nay, vẫn được phép cho các trẻ em mồ côi người Việt được trú ngụ tạm thời ở Mỹ. Nhưng việc công nhận được nuôi chính thức và vĩnh viễn đám trẻ này vẫn còn bị nghiêm cấm, tuy mọi người đều muốn được mang ẵm trẻ con người Việt".

24
NHỮNG NGƯỜI MỸ RA ĐI

Ngày thứ Ba 15 tháng 4

Anh Ten D.Abbot lộ rõ vẻ không hài lòng, nói:

- Xin thề độc là tôi chưa bao giờ phải kê khai đầy đủ quá nhiều giấy tờ thế này trong đời. Về đến Washington có lẽ hoàn toàn trở thành điên.

Ngồi xổm trong hành lang tổng lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn, Ten dùng hai đầu gối làm bàn viết để kê khai nốt một loạt giấy tờ hợp lệ nhằm cho phép một cô gái Nam Kỳ, 18 tuổi, tên là Mây, mà anh vừa mới cưới làm vợ, được cùng với anh trở về thành phố Phoenix bang Arizona nước Mỹ.


Terry phải ngồi xổm để viết theo kiểu như vậy, vì từ tám giờ sáng, tất cả bàn ghế trong phòng làm việc và ở ngoài hành lang đều đã bị những người khác chiếm giữ. Hàng mấy chục đồng bào của anh đang đứng nối đuôi nhau trước những ô cửa ghi-sê, đặc biệt là tại những ô cửa dành riêng cho việc làm thủ tục khai báo kết hôn, xin nhận con nuôi, xin làm người đỡ đầu. Theo luật, giấy tờ của Terry đều hợp lệ: anh đã tổ chức đàng hoàng hợp pháp lễ kết hôn với cô Mây tại Chợ Lớn từ 5 tháng trước.


Ở bên ngoài, hàng trăm người khác, phần lớn là những phụ nữ trẻ tuổi đang kiên nhẫn chờ đợi trên lối đi trồng hoa và có bóng mát, có cả một chiếc quạt máy to tướng, nhiều ghế ngồi và một bàn phân phối nước đá giải khát.


6.000 hay 150.000?

Khi tôi tới lãnh sự quán, nhân viên gác cổng - mũ lưỡi trai màu trắng, quần dài màu xanh nước biển có sọc đỏ, đeo huy chương - hỏi tôi đến có việc gì? Tôi trả lời đơn giản:

- Như tất cả mọi người.

Anh ta cho tôi vào.

Mọi người cùng vào.

Vấn đề là xin giấy tờ để ra khỏi Việt Nam.

Đứng trước tôi là một người đàn ông trạc khoảng năm mươi nhắm tuổi rút trong ví ra hai tấm ảnh màu: một tấm chụp hình một thiếu nữ Việt Nam rất trẻ, có vẻ chưa quá mười sáu tuổi. Tấm ảnh thứ hai chụp một đứa bé bụ bẫm đang cười. Ông nói với tôi:

- Tôi đang rất muốn mang tất cả hai đứa này về Los Angeles. Nhưng tụi nhân viên đáng nguyền rủa ở đây cứ tìm cách cậy quyền cậy thế, bởi vì tôi kết hôn không hợp pháp. Ông có thể tìm giúp tôi một vị hoà thượng nào có thể tổ chức cho chúng tôi lễ kết hôn tại một ngôi chùa Phật giáo không?

Tôi trả lời:

- Có một cách đơn giản hơn. Ông nên giải quyết việc này với tổng lãnh sự. Đặt tay lên Kinh thánh, thề một câu, thế là xong.

Ông ta đáp lại:

- Ồ! Không được! Con bé đòi bằng được phải làm lễ thành hôn trước bàn thờ tổ tiên. Tôi không muốn làm nó hờn dỗi. Nó kháu khỉnh lắm.

Có bao nhiêu người Mỹ muốn ra khỏi Việt Nam, đi một mình hoặc cùng với gia đình? Người ta nói, có tới 6.000. Nhưng đến ngày mai cũng phải cho di tản tất cả những người Việt đã "cộng tác” với Mỹ. Con số này có thể lên tới 150.000 người. Mà đây là con số chính thức, do đại sứ quán Mỹ ước tính.


Khởi đầu của sự kết thúc

Trong khi đứng xếp hàng trong gian phòng làm việc có máy điều hoà nhiệt độ chạy hết công suất, tôi nói chuyện với những người bên cạnh. Từng người kể lại cho tôi nghe câu chuyện của họ một cách đơn giản. Đây là một kỹ sư. Ông đến đây để xây những chiếc cầu. Xây xong cái nào lại bị Việt cộng phá sập cái ấy. Còn người kia làm việc trong một công ty hàng không. Một người vừa là giáo sư.


Phần lớn những người này đều đã có vợ ở Mỹ. Họ đang hối hả muốn trở về rất nhanh với gia đình. Những người khác đang làm việc ở đây cùng với vợ, con. Họ cũng đang muốn đưa vợ con về nơi trú ẩn an toàn rất nhanh.


Đêm nay, Sài Gòn bị giật mình thức giấc bởi hai vụ nổ rất to. Vụ nổ thứ nhất xảy ra vào lúc trước nửa đêm. Vụ thứ hai vào lúc hai giờ sáng. Thoạt đầu, mọi người nghĩ đây là đạn rốc két từ xa bắn vào trung tâm thành phố. Nhưng thực tế, có lẽ đây là pháo binh cộng sản nhằm vào kho bom đặt ở cạnh căn cứ không quân Biên Hoà.


Nhưng tất cả mọi người vẫn cho rằng đạn rốc két còn có thể rơi xuống Sài Gòn cũng như Nông Pênh.

Một gã đàn ông tóc màu hung, đứng ở cuối hàng, lên tiếng phỏng đoán:

- Rồi các ông xem, ngày 19 tháng 4 này quân Việt sẽ cho một chầu đạn pháo toé lửa. Vì ngày 19 Hạ viện Mỹ sẽ họp tại Washington xem xét yêu cầu của Tổng thống đề nghị thêm một khoản viện trợ phụ cho Việt Nam.


Hầm cố thủ của đại sứ Mỹ

Khi tôi ra khỏi lãnh sự quán, đoàn người vẫn còn xếp hàng dài dằng dặc. Mặc dù trời rất nóng, vẫn còn tới hàng trăm người đang chờ đợi.

Tin đồn về chuyện người Mỹ ra đi, loang khắp thành phố như một thùng thuốc súng. Mọi người dân đều rất lo lắng, bảo nhau:

- Nếu Mỹ ra đi, thế là đi đứt hết.

Hậu quả đã rõ: giá đô la tăng vọt. Trên hè phố, bọn đổi đô la theo giá chợ đen gạ gẫm mọi người, đổi một đô la lấy 1.800 hoặc 2.000 đồng. Hôm qua tỷ giá chính thứ là 720, giá chợ đen là 1.200.

Và cũng chẳng nên tin vào cái bọn buôn lậu này. Hắn giúi cho anh một tập giấy mệnh giá 1.000 đồng, nhưng chỉ có hai tờ ở bên trên và bên dưới gói tiền buộc dây cao su là tiền thật, còn bên trong chỉ là mớ giấy lộn.
Có một người Mỹ duy nhất sẽ không ra đi. Đó là ngài đại sứ Graham Martin, một nhân vật “bám trụ tới cùng”, thường xuyên gặp Thiệu để lên dây cót tinh thần.

- Hãy giữ vững. Không có gì để mất cả.

Đúng là, hãy còn một pháo đài cuối cùng.

Graham Martin không đi ra ngoài sứ quán được bao bọc bằng một bức tường bê tông, được bảo vệ bởi những cặp mắt điện tử. Hễ bật một tín hiệu báo động dù nhỏ nhất, thì những cánh cổng bằng thép tấm tự động khép chặt. Mái bằng của đại sứ quán đã được sửa lại thành bãi đáp cho máy bay lên thẳng. Ban đêm, đèn đỏ bật sáng. Một đại sứ quán khoa học viễn tưởng.


Bức tranh khủng khiếp

Cách đây vài hôm, ở Sài Gòn chỉ còn lại có đại sứ Graham Martin và số cố vấn thân cận. Tất cả những người Mỹ hậu vệ của đội quân khổng lồ đã từng một thời làm cho người ta ngỡ rằng sẽ đem lại một chiến thắng nhân danh lự do và dân chủ, cũng sẽ ra đi.


Sẽ ra đi, tất cả những cố vấn kỹ thuật, tất cả những quan sát viên, tất cả những "người ký hợp đồng" viện trợ cho các ban tham mưu và các đơn vị chiến đấu của quân đội Nam Việt Nam.

Sẽ ra đi, những lính gác đội mũ lưỡi trai màu trắng, mặc quần dài màu xanh thẫm có nẹp đỏ.

Sẽ ra đi, những nhân viên CIA, ít nhất là những điệp viên đã quá lộ mặt, mà dân chúng thường nhìn thấy ngồi trong những chiếc xe tô đồ sộ màu xanh da trời đi ngang dọc khắp thành phố.

Chỉ còn lại có ngài đại sứ trong đại sứ quán được mệnh danh là "lâu đài - pháo đài” từ thời người tiền nhiệm là ông Bunker, được gọi theo kiểu chơi chữ là Bunker's Bunker, có nghĩa là boong ke của Bân - cơ.

Có lẽ ngồi trong boong ke này, đại sứ Graham Martin có lần đã nhìn thấy bức tranh vẽ trên tờ Thời báo vừa xuất bản tuần trước. Tranh vẽ một đoàn dài người Việt đi lánh nạn, chạy khỏi một thành phố đã đổ nát. Trong đoàn người di tản này có hai nhân vật cúi đầu ra đi. Đó là Tổng thống Ford và Ngoại trưởng Henry Kissinger. Nhân vật thứ hai cũng xách trong tay một chiếc vai mở tung, bên trong nhìn thấy rõ một mớ giấy lộn.

Hẳn đó là các bản hiệp định ký kết ở Paris.

25
MỘT TU SĨ DÒNG CHÚA CỨU THẾ TUYÊN BỐ CHỐNG THAM NHŨNG


Thứ Tư 16 tháng 4

- Số phận Tổng thống Thiệu đang tính từng ngày. Chỉ vài hôm nữa, ông ta sẽ bị lật đổ bằng một cuộc đảo chính quân sự.

Người vừa mới khẳng định bằng một giọng chắc nịch với chúng tôi câu này là Trần Hữu Thanh, tu sĩ dòng Chúa Cứu thế, chủ tịch "Phong trào đấu tranh chống tham nhũng nhằm cứu nước và cứu vãn hoà bình".
Dù thật hay giả, thì lời tiên tri này cũng thể hiện bầu không khí rất phẫn nộ đối với chế độ Thiệu, đang bốc cao trong các giới đối lập ở Sài Gòn.


Cha Thanh hồi đó trạc khoảng năm chục tuổi, tóc hoa râm, cặp mắt màu nâu tinh anh lấp lánh sau cặp kính gọng vàng, chiếc áo choàng đen mặc vừa khít, cổ cao có lót tấm nhựa mỏng, tiếp đón tôi trong vườn khu nhà tu. Đây là một ốc đảo thanh bình, mát mẻ giữa trung tâm thành phố. Từ lúc rạng đông, tiếng pháo từ Xuân Lộc là nơi Cộng quân mở cuộc tiến công lớn vọng về gấp đôi khi trước.


Cha Thanh rất ghét Thiệu, gọi Thiệu là "một kẻ đích danh tham nhũng". Chính nhằm chống lại sự thối nát của chế độ mà ngày 18 tháng 6 năm 1974 nhà tu hành nhỏ bé này đã độc lực tuyên chiến với tổng thống.


Các bạn tôi đều đã bị bắt”

Từ bữa đó, phong trào phát triển dưới sự ủng hộ của tổng giám mục Sài Gòn là đức cha Nguyễn Văn Bình vừa mới tham gia phe đối lập. Một uỷ ban được thành lập gồm khoảng hai chục dân biểu, thượng nghị sĩ và những nhân vật tiến bộ, do cha Thanh làm chủ tịch.

Cha Thanh nói với tôi:

- Trong những ngày gần đây, bốn người bạn của tôi đã bị bắt, trong đó có hai luật gia, một cựu tỉnh trưởng và một thẩm phán toà án tối cao. Tôi không biết tình hình của họ hiện nay như thế nào, trừ ông thẩm phán trong một bức thư gửi được về nhà cho vợ, báo tin ông đang tuyệt thực để phản kháng. Nhiều người bạn khác của tôi cứ tối đến là bị cảnh sát đến khám nhà, có người phải đổi chỗ đi nơi khác. Bản thân tôi đi bất cứ đâu cũng bị theo dõi. Ngay tại khu vực Nhà Chung này cũng có hàng chục mật vụ mặc thường phục, thường xuyên theo dõi ở chung quanh.

Linh mục không che giấu sự chán nản do Mỹ gây ra. Đáng lẽ phải tìm mọi cách tống khứ Thiệu thì người Mỹ chẳng làm gì cả. Ông nói tiếp:

- Và đến bây giờ thì Mỹ bỏ đi. Ông có biết không? Mỹ đã gài mìn vào tất cả những trạm ra đa và trạm thu tin của họ, chuẩn bị cho nổ đấy!


Bốn linh hồn của Thiệu đang bị đẩy xuống địa ngục

Theo cha Thanh, Tổng thống Thiệu có bốn linh hồn đáng nguyền rủa vây quanh. Đó là bốn viên tướng hầu cận, biết rất rõ tội trạng của mình đối với đất nước nên đã dùng Thiệu như lấm lá chắn. Vì vậy, họ đã làm bất cứ điều gì có thể làm để giữ Thiệu ở lại ngôi tổng thống.

Bốn linh hồn đáng đầy xuống địa ngục đó là:

- Tướng Quang, cố vấn an ninh của Thiệu, đã từng giữ chức Tư lệnh quân khu 4 tại vùng châu thổ sông Cửu Long. Đây là viên tướng tham nhũng nhất và là một trong những kẻ giàu nhất.

- Tướng Toàn, tư lệnh quân khu 3 sau khi đã làm tư lệnh quân khu miền Trung Việt Nam, bị kết tội tham ô, hủ hoá rồi lại chuyển về quân khu 2 và bị bãi chức vì quá nhiều tai tiếng. Bây giờ thì tướng Toàn được giao chỉ huy binh chủng xe bọc thép, lộng hành ngay tại Sài Gòn.

- Tướng Tấn là một đại tá vừa mới được cất nhắc, đồng loạt với năm sĩ quan cấp cao ngành cảnh sát.

Đây là viên tướng hung ác nhất và cũng là một trong những tên trùm cảnh sát.


Thiệu chỉ nhường bước khi nào bị dí súng vào thái dương"

Cha Thanh khẳng định:

- Thiệu là một kẻ rất ngoan cố, không thể dùng lý lẽ để thuyết phục được. Thiệu chỉ chịu nhường bước khi nào bị dí súng ngắn vào tận thái dương.

Đó là điều sẽ có thể xảy ra.

Lúc này, chưa thể nghĩ đến một cuộc nổi dậy của dân chúng. Nhưng chúng tôi có thể sẽ được chứng kiến một cuộc đảo chính quân sự. Trong những ngày tới, rất có thể một số đơn vị quân đội sẽ làm một cái gì đó để loại trừ Thiệu. Họ cố đạt được mục đích mà không đổ máu.

 - Cha chắc chắn chứ?

- Tuyệt đối tin chắc. Chỉ vài ngày nữa sẽ xảy ra đảo chính. Và nhất định phải đảo chính vì không còn cách nào khác.

- Rồi sau đó?

- Sau đó, sẽ có một chính phủ thống nhất dân tộc, bao gồm tất cả mọi khuynh hướng, kể cả cánh tả. Chính phủ này sẽ thương lượng với "phía bên kia".


Tôi không phải là nhà chính trị

Cha Thanh tiếp tục nói:

- Cộng quân đang tiến quá nhanh. Vì vậy họ không thể nắm chắc được mười hai triệu dân miền Nam. Họ sẽ còn tiếp tục đánh tiêu hao Sài Gòn một thời gian nữa. Rồi sau đó họ mới thôn tính Sài Gòn một cách hoà bình nhất. Còn chúng tôi, chúng tôi có thể đấu tranh một cách có hiệu quả với cộng sản nếu chúng tôi biết tiến hành một cuộc cách mạng kinh tế, xã hội và thiết lập một chính quyền thật sự của dân.

Qua lời phát biểu của cha Thanh, tôi biết linh mục này cũng chống cộng chẳng kém gì chống Thiệu. Tôi hỏi ông:

- Cha không sợ hay sao?

- Không!

- Không bao giờ sợ?

- Không bao giờ. Tôi không phải là một nhà hoạt động chính trị. Tôi chỉ lao vào hành động vì tình yêu đối với đất nước và lý tưởng tôn giáo.

- Tôi có thể nhắc lại những lời cha vừa nói chứ?

- Nhất định rồi. Đó là những điều mà ở bên Pháp cũng cần biết.

Trong vườn Nhà Chung, có trồng những cây hoa nhài, thỉnh thoảng tiếng pháo lại làm gián đoạn tiếng chim hót.

Tiếng chuông nhà thờ báo đã giữa trưa. Cha Thanh nói:

- Xin lỗi. Đã đến giờ cầu kinh Đức Bà.

26
MỘT LỜI CẢNH CÁO KHỦNG KHIẾP


Thứ Năm 17 tháng 4

Trong suốt ngày hôm qua, thứ Tư 1 6 tháng 4, nhiều nhà báo có mặt tại Sài Gòn chăm chú theo dõi tình hình chiến sự Nông Pênh từng giờ phút một. Những tin điện gửi về rất hiếm, các tuyến giao thông liên lạc đều bị cắt đứt. Nhưng, qua những mẩu tin từ các đài Tiếng nói Việt Nam hoặc Hồng Công, qua một số thông tin nhận được từ Băng Cốc, có thể dựng lại một số giai đoạn của cuộc chiến tranh mơ hồ và đẫm máu này.


Dù Nông Pênh chỉ cách Sài Gòn một trăm tám mươi kilômét theo đường chim bay, từ nhiều năm nay vần không thể sử dụng được con đường bộ đã đi sang Campuchia. Quốc lộ 1 đi qua những khu vực do quân Việt kiểm soát rất chặt chẽ, từ vùng "Mỏ Vịt" là nơi họ bố trí một số lực lượng dự trữ. Phía xa hơn, trên lãnh thổ Campuchia, con đường này bị phá hoại tới hàng nghìn quãng do Khơme đỏ đào hào, thường được gọi là "những phím đàn dương cầm".


Đêm ở Sài Gòn bắt đầu từ hai mươi mốt giờ, tức là lúc ban hành lệnh giới nghiêm, các tin tức lại càng hỗn loạn. Có tin không phải chỉ giao tranh trên đoạn đường đi đến Nông Pênh, mà là ở ngay khu vực ngoại thành và hình như cả một số khu phố nữa.


Các nhà báo ở Sài Gòn nghĩ đến các bạn đồng nghiệp vì nhiệm vụ đang mắc kẹt trong lò lửa chiến tranh ở Nông Pênh, gồm hai thông tin viên của hãng tin AFP Jean Jacques Cazaux và Claude Juvenal, đặc phái viên tờ báo Pháp Thế giới Patrice de Beer cùng với năm hoặc sáu đại biểu báo chí Anh, Mỹ, Bắc Âu. Hình như tất cả số người này đang tập trung tại khách sạn Phnom, ở trung tâm thành phố Nông Pênh. Nhà hàng này đã được công bố là khu vực quốc tế.


Bên cạnh đó còn có tới 750 người Pháp đang sinh sống ở thủ đô Campuchia, trong đó có 150 người là các tổng giám mục đạo Cơ -đốc.

Đối với Sài Gòn, những trận đánh ở Nông Pênh là lời cảnh cáo khủng khiếp.

Giờ cuối cùng đã điểm ở Campuchia.

Chẳng bao lâu nữa cũng sẽ điểm ở Việt Nam.

27
DIỀU HÂU VÀ BỒ CÂU CHỌI NHAU Ở SÀI GÒN


Thứ Sáu 18 tháng Tư

Nông Pênh sụp đổ khiến cho cả dân chúng lẫn những nhà chức trách Sài Gòn phải suy nghĩ.

Dĩ nhiên, tình hình hai bên có khác nhau. Tại Sài Gòn, không có một Norodom Sihanuk bị lưu vong đang sẵn sàng nắm lại chính quyền bị tướng Lon Nol tước đoạt từ cuộc đảo chính ngày 18 tháng 3 năm 1970.

Còn “phía bên kia” của Sài Gòn, chính là Chính phủ Cách mạng lâm thời và đội quân gọi là Việt cộng.

Nhưng chỉ vài ngày nữa, hoặc chậm nhất là vài tuần nữa, người ta có thể nhìn thấy trên đất Nam Việt Nam tái hiện những sự kiện dẫn đến sự sụp đổ của thủ đô Campuchỉa. Đó là một kẻ địch có khả năng thâm nhập tất cả mọi nơi, sẽ bao vây thành phố phong toả các bến cảng, làm tê liệt căn cứ không quân, tuần tự phá hoại các kho đạn dược xăng dầu, triệt nguồn tiếp tế lương thực. Nạn đói sẽ làm tăng thêm sự hoảng loạn. Các quả đạn rốc két sẽ gieo rắc thêm sự khiếp hãi trong dân chúng. Vành đai lửa đạn sẽ dần dần xiết chặt thành phố, binh lính Sài Gòn sẽ tháo chạy từng toàn bộ đơn vị. Cuối cùng đội quân thiện chiến và quyết tâm sẽ đánh bại đội quân đã mệt mỏi không muốn chiến đấu, sau nhiều năm chiến tranh vô ích.


Sau Lon Nol sẽ là Thiệu

Sáng hôm qua, Nông Pênh đã sụp đổ.

Như một trái cây chín ruỗng.

Chế độ Lon Nol kéo dài được năm năm một tháng kể từ khi tiến hành đảo chính.

Cách đây hai năm, khi tới Campuchia tôi có gặp Lon Nol. Bị liệt nửa người, chỉ còn lại một cánh tay cũng gần như tê bại, Lon Nol buộc phải chống gậy để đi đứng và sống cô đơn tại một dinh thự có máy điều hoà nhiệt độ.


Lúc này, ông ta không còn tin vào chiến thắng nữa. Ông ta chỉ nói đến "phòng ngự” và cũng không nghĩ rằng có thể cầm cự kéo dài. Điều đáng ngạc nhiên là, chế độ Lon Nol cũng thối nát, tham nhũng như chế độ Thiệu, Lon Nol vẫn kiếm được đô la để có tiền mua xăng đem bán lấy lãi và đã có thể đứng vững được thêm hai năm trước khi sụp đổ thảm hại.


Còn khi tới Sài Gòn, tôi không tài nào gặp được Thiệu. Ông tránh gặp các nhà báo, không chịu ra khỏi dinh tổng thống đã biến thành pháo đài, có pháo và xe bọc thép bảo vệ.

Nhưng, sáng hôm qua, khi những chiến binh cuối cùng kéo lá cờ trắng xin hàng tại trung tâm thủ đô Nông Pênh, tôi đã được gặp một người, và người này vừa mới được gặp Thiệu khá lâu. Ông bạn này cho tôi biết Thiệu vẫn bám giữ chiếc ghế bành của tổng thống như ngai vua, khăng khăng không chịu từ chức. Bởi vì Thiệu vẫn còn có đám cận thần và cố vấn vây quanh và hằng ngày vẫn được đại sứ Mỹ Graham Martin động viên khuyến khích. Thiệu vẫn tin tưởng đến phút cuối cùng, khi cần thiết, Mỹ sẽ cứu vớt tất cả những gì còn lại ở Nam Việt Nam.


Một vòng tròn có bán kính năm mươi kilômét

Nếu ta dùng một chiếc compas xoay một vòng chung quanh tâm điểm là Sài Gòn thì sẽ phác hoạ được phần lãnh thổ hiện nay quân đội Thiệu vẫn còn giữ được. Khu vực này vẫn còn những đường đi lại có thể vươn xa tới năm mươi kilômét mà không sợ vấp phải một sự đụng độ với quân Việt.


Thiệu cũng không còn là chúa tể của xứ Nam kỳ nữa. Càng ngày, Thiệu càng trở thành một viên thị trưởng thành phố Sài Gòn, cai trị một thành phố mơ hồ, khi đạn pháo nổ phía xa, vẫn có người mặc quần cộc trắng, đánh tennis.


Và tiếng pháo vẫn ngày càng nổ dữ tại phía Xuân Lộc, cách trung tâm Sài Gòn khoảng sáu chục cây số. Sau hơn một tuần giao tranh ác liệt, quân chính phủ không những không bẻ gãy được vòng vây của quân cộng sản mà còn chịu nhiều thất bại nghiêm trọng.


Trong khi đó, những sư đoàn Bắc Việt và Việt cộng đánh thốc xuống vùng châu thổ sông Cửu Long, với các xe tăng hạng nặng, pháo, súng phóng rốc két, và từng đoàn xe chở đạn. Sau khi chiếm lĩnh được những khu vực bằng một cuộc tiến công chớp nhoáng, các sư đoàn này đã đứng chân được ở chung quanh Sài Gòn.
Từ đó, Cộng quân sẵn sàng mở cuộc tiến công lớn với tỉ số 5 chọi 1.


Cuộc họp nhiều cãi vã của các tướng lĩnh

Sáng hôm qua, có một cuộc triển khai lớn lực lượng cảnh sát vũ trang với những xe Jeep, máy bộ đàm, súng máy chung quanh dinh Độc Lập, nơi ở của Thiệu. Nhiều tướng lĩnh quan trọng của chế độ Sài Gòn đang họp tại ngôi nhà hiện đại màu trắng được đặt tên là dinh "Độc Lập".


Không một thông báo nào được công bố về "cuộc họp quan trọng” như cuộc bầu giáo hoàng này. Nhưng chúng tôi vẫn được biết, từ các nguồn tin chắc chắn, đáng tin cậy, là trong cuộc họp này cánh diều hâu và cánh bồ câu đã chọi nhau rất dữ dội.


Cánh diều hâu quyết định chiến đấu đến cùng vì tin rằng Mỹ sẽ chi viện tất cả những gì cần có để chống cự, để ổn định thế trận và để thương lượng trên thế mạnh.


Cánh bồ câu lại cho rằng, dù thế nào cũng phải đi đến chỗ đàm phán thương lượng, vậy thì thà thương lượng ngay từ bây giờ còn hơn để chậm trễ nhằm tránh cho đất nước thêm nhiều đau khổ, tránh cho quân đội thêm một thất bại, tránh cho Sài Gòn bị tắm máu.


Sẽ tới lúc cánh diều hâu thắng thế. Nhưng biết đến bao giờ? Có lẽ phải chờ nghiên cứu một tín hiệu do Nguyễn Xuân Phong, người phát ngôn của chính quyền Nam Việt tại hội nghị hai bên ở La Celle Saint Cloud vừa mới phát đi. Đây là lần đầu tiên, ông ta nói đến hoà hợp và hoà giải.

Đó là lòm tắt tình hình cái tiểu vương quốc của triều đình Tổng thống Thiệu, sau ngày Nông Pênh thất thủ.

28
VÒNG ĐAI LỬA XUÂN LỘC


Thứ Bảy 19 tháng 4

Cho tới Biên Hoà, cách Sài Gòn hai chục cây số về phía Bắc, tình hình vẫn còn yên ổn. Những công nhân vẫn còn đang tiếp tục xây một dải phân cách bằng xi măng giữa con đường lớn có bốn làn xe chạy. Giao thông vẫn đang còn tấp nập. Tất nhiên, tất cả những cây cầu đều có lính gác, những thùng xăng được bố trí gây trở ngại, buộc phải đi ngoằn ngoèo.

Gần căn cứ không quân to lớn do Mỹ xây dựng tại Biên Hoà, một đoàn dài xe cộ chở đạn đang chờ lệnh tiến ra mặt trận.

Sáng nay, toàn tiểu khu vẫn yên tĩnh. Suốt đêm không thấy bắn rốc két.


Cảnh chạy nạn đáng thương của dân làng

Chiến tranh đã tới cách Sài Gòn bốn chục cây số, tạo thành một cảnh tượng buồn khổ nhất của những đám dân chạy đi lánh nạn. Các nhà chức trách bị tràn ngập bởi những lớp sóng người khốn khổ này đã tập trung họ ở chung quanh những nhà thờ đạo Cao Đài, quét vôi rất dễ nhận biết nằm trong khuôn viên những nhà thờ đạo Cơ-đốc và trong sân trường. Các gia đình chạy nạn đều có những tấm vải bạt, căng dây bốn góc, tránh nắng.


Càng đi ngược về phía mặt trận, chúng tôi càng gặp những đám dân chạy loạn đi kéo dài bên đường. Một số mang theo xe bò, số khác mang theo xe đẩy, lại có người dắt xe đạp thồ các bao tải. Các bà mẹ bế trên tay những đứa con kiệt sức. Những ông bố phụ trách mang vác gạo là thứ quý giá nhất trong mái nhà tranh bị bỏ lại. Những con bò cái, những con bê đi theo sau với những người chăn dắt. Những người già tập tễnh di sau cùng.


Tất cả đám người này đi rất chậm, đầu cúi xuống, không biết mình đang đi đâu. Họ chỉ biết là đi tìm nơi trú ẩn, không hiểu tại sao, thỉnh thoảng họ lại bị cảnh sát chặn lại. Rồi sau khi được lệnh, họ lại tiếp tục cuộc hành trình bằng những bước chân chậm chạp.


Bây giờ, đường cái vắng tanh

Bây giờ, đường cái đã vắng tanh, không còn một bóng người dân lánh nạn.

Chúng tôi gặp nhiều hố đạn pháo vỡ tung mặt đường, buộc phải đi vòng vèo như trượt tuyết.

Hai bên đường xe tăng và xe bọc thép chở quân đã bố trí hướng về phía các vườn chuối và các đồn điền cao su. Rõ ràng quân đội Thiệu ở khắp mọi nơi đều co vào thế phòng ngự. Thế chủ động thuộc về quân Việt1 (Tác giả dùng từ "les Viets" - "quân Việt" để gọi gộp "Bắc Việt" và 'Việt cộng") đang không ngừng được tăng cường.


Tại đầu làng Xuân An, một đại đội xe tăng hạng nặng bố trí dưới các vòm cây. Gần chỗ chúng tôi, một khẩu pháo 105 mm bắt đầu nhả đạn. Dân chúng đã bỏ lại tất cả nhà cửa trừ một quán cà phê. Tôi bước vào, hy vọng được giải khát. Không còn thứ gì để uống. Nhưng trong gian phòng lớn, vẫn còn hai người Việt Nam tiếp tục chơi bia.


Khẩu đội pháo 105 bắn dồn dập hơn. Từ đây, có thể nhìn thấy đạn nổ dưới chân quả đồi là nơi có quân Việt bố trí từ lúc bắt đầu trận tiến công Xuân Lộc, cách đây một tuần. Bụi đỏ hoà lẫn với khói đen của đạn pháo.
Ra khỏi làng, chúng tôi nhìn thấy binh lính đào các hố cá nhân và xây dựng các ụ súng máy. Số khác đặt súng cối ngay dưới chân tượng Đức Mẹ Đồng Trinh đứng trơ trọi trong một không gian vắng lặng.

Có vẻ như không ai biết kẻ địch đang ở đâu.


Một cuộc chiến mơ hồ

Làng tiếp theo tên là Hàm Thuận. Tại đây diễn ra một cảnh tượng hỗn độn không tài nào tả xiết. Có tới mấy trăm người dân lánh nạn đang tập trung tại đây. Họ đang muốn trở lại nhà để mang đi những vật dụng quý giá nhất. Nhưng đã chậm. Quân việt đã bất ngờ kéo tới. Binh lính ngăn những người dân quay trở lại những ngôi nhà của họ.


Pháo 105 tiếp tục bắn. Đạn pháo bay qua đầu chúng tôi, rơi về phía Xuân Lộc. Lũ trẻ con vẫn tụ tập bên đường, không để ý đến những nguy hiểm, hoặc đó là do đã quá quen với chiến tranh, vì cuộc chiến này đã kéo dài nhiều năm rồi.

Tôi hỏi một chú bé lớn tuổi nhất.

- Vi - xi ở đâu?

Vi-xi là tên gọi tắt, phát âm theo tiếng Mỹ, hai chữ V, C, có nghĩa là “Việt cộng". Chú bé trả lời:

- Ở chỗ kia kìa, đông lắm, nhiều lắm, trong những lùm chuối ấy.

Như để chứng minh cho lý lẽ trên đây của chú bé, một loạt đạn vụt bắn tới, có cả tiếng lựu đạn.

Quân Việt đã ở dây, chỉ cách Sài Gòn sáu chục kilômét.


Binh lính kéo tới

Lực lượng tăng viện của Sài Gòn đang tới, gồm những binh lính trang bị tốt, có rất nhiều súng tự động, súng cối, chuyển vận trên những xe bọc thép bánh xích M113.

Đám lính rời khỏi đường cái rẽ vào khu rừng. Một lát sau vang lên một loạt tiếng nổ. Đáp lại pháo 105, bây giờ có cả đạn pháo của Bắc Việt bắn trả. Toàn khu vực chìm trong lớp khói đen.

Nửa tiếng đồng hồ đã trôi qua. Rồi mọi người lại nhìn thấy, từ một con đường hẻm, những người dân lánh nạn mà không bao giờ biết họ đã làm thế nào thoát ra khỏi cảnh hoả ngục này.

Một chiếc xe nhà binh bóp còi inh ỏi, cố mở một con đường giữa đám đông. Xe chở lính bị thương. Tôi nhìn thấy có một người bị băng kín mặt. Một người khác bị đạn vào bả vai. Một dòng máu chảy dài trên bộ quân phục.


Gần đó là đoàn xe bọc thép cũng quay trở lại vì trúng đạn pháo cộng sản. Vỏ xe bị thủng, những tấm lá chắn bảo vệ quăn queo như mảnh tôn uốn cong. Một chiếc xe bị đạn pháo bắn trúng động cơ, phải nhờ một xe khác kéo đi.

Sau đó là những lính bộ binh chậm rãi lê bước, rõ ràng đã kiệt sức.

Một sĩ quan nói với tôi:

- Vi- xi đông lắm! Cánh mình không làm được gì cả. Chúng tôi phải chiến đấu với tỉ số một chọi với ba. Buộc phải rút thôi.

Binh lính tập trung lại ở ngã tư và bắt đầu đào hào, xây dựng một tuyến phòng ngự mới.

29
GỌNG KÌM XIẾT CHẶT

Chủ Nhật 20 tháng 4

Nguồn thông tin được nghe nhiều nhất ở Sài Gòn không phải là đài phát thanh của chính phủ, cũng không phải đài Việt cộng bắt được làn sóng rất dễ dàng. Mà đó là "Đài phát thanh Catinat", tức là những nguồn tin vỉa hè, trên đường phố Catinat ở trung tâm thành phố, dù đã cải tên là “đường Tự Do" nhưng vẫn không thay đổi gì so với thời thuộc Pháp.

Hôm qua, cái “đài Catinat" này báo tin Thiệu từ chức. Một ngày đã trôi qua. Đến chập tối, khi tôi viết những dòng này Thiệu vẫn còn nguyên vị.

“Đài Catinat" cũng loan tin trong ngày, quân Việt sẽ tiến đánh Sài Gòn trong tuần tới.

Thực tế là đã tới lúc Bắc Việt và Việt cộng có thời gian tập trung hai mươi sư đoàn chung quanh vùng Sài Gòn. Một bạn đồng nghiệp của tôi hôm qua đã có dịp hỏi chuyện một người lính Bắc Việt bị bắt làm tù binh. Người lính mười tám tuổi này đã kể lại những điều kiện hành quân của đơn vị mình từ vĩ tuyến 17 tới đây. Tốc độ hành quân cho phép nghĩ là cuộc tổng tiến công đang tới gần.


Hơn nữa, từ đêm qua, quân Việt đã có khả năng bắn pháo 130 vào căn cứ không quân Biên Hoà chỉ cách Sài Gòn hai chục kilômét. Ít nhất, một bộ phận trọng pháo của họ đã được bố trí sẵn sàng chiến đấu.


Lính Sài Gòn co vào thế phòng ngự

Về phương diện quân sự, nguồn tin gây chấn động nhất là cảng Phan Thiết cách Sài Gòn một trăm năm mươi kilômét về phía Đông đã bị mất.

Như vậy là, mỗi ngày qua đi, lãnh thổ của Thiệu lại co ngắn như tấm da lừa trong cổ tích.

Ở bên trong lãnh thổ còn lại này, chỗ nào quân đội chính phủ cũng nằm trong thế phòng ngự. Từ ngày thất bại ở khu vực phía Bắc và miền Trung họ không tổ chức được một cuộc phản công nào ra trò, cũng không tiến hành được một trận đánh nào lớn. Những đơn vị thiện chiến nhất đều chìm trong thế phòng ngự.

Đó là trường hợp sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo đã lừng chiến đấu dũng cảm ở An Lộc năm 1972, nay bị bao vây tại Xuân Lộc. Dưới tấm lều bạt, trong rừng cao su, tướng Đảo quyết định chiến đấu đến cùng như lính Lê dương Pháp đã làm trong trận Camerone.

Một binh đoàn thiện chiến từ vùng Mỏ Vịt được điều tới giải vây cho Xuân Lộc. Đó là lữ đoàn thiết giáp số 2 của tướng Lê Nguyên Khôi, một trong những đơn vị xuất sắc của quân đội Sài Gòn.

Tại khu vực Tây Ninh cũng được bố trí sư đoàn 25 thuộc loại xuất sắc của tướng Lý Tòng Bá.

Khắp mọi nơi, lính Sài Gòn co mình như con nhím, chờ đợi không thấy một đơn vị nào tổ chức tiến công. Hình như mọi tư tưởng vận động đã biến mất.

30
SÁU NHÓM MUỐN LOẠI BỎ THIỆU

Chủ Nhật 20 tháng 4

Sài Gòn chưa bao giờ quá yêu Tổng thống Thiệu.

Viên tướng năm mươi mốt tuổi này có một bộ mặt phẳng lì vô cảm, nắm chính quyền từ năm 1967, nhờ sự ủng hộ của quân đội, nhờ sự che chở của cảnh sát, và nhờ đại sứ Mỹ khuyên bảo. Cũng phải thêm vào đó tâm lý của một chủ nghĩa Cơ-đốc giáo cuồng nhiệt và chủ nghĩa chống cộng sản sâu sắc hằn thù. Đó là Nguyễn Văn Thiệu.


Sau thảm bại hồi tháng 3, số người không ưa Thiệu tăng dần. Các quân nhân chê trách tổng thống, cũng đồng thời là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang đã hành động như một chuẩn uý kém nhất, khi ra lệnh cho quân đội di tản trong những điều kiện do chính Thiệu tạo ra. Sáu triệu dân Nam Việt Nam oán trách Thiệu đã bỏ rơi họ. Nửa triệu người phải đi lánh nạn oán hờn Thiệu đã làm cho họ mất hết nhà cửa, tài sản. Những người cấp tiến chê bai Thiệu đã không biết vận dụng hoà bình. Nói gọn một câu, người nào cũng chê trách ông tướng - tổng thống một điều gì đó.


Sáu nhóm độc lập

Nếu ngày mai tiến hành tổng tuyển cử, chắc chắn Thiệu sẽ không được bầu.

Có sáu nhóm đối lập đã công khai tuyên bố chống lại Thiệu:

1. Nhóm sĩ quan phản động, cực đoan tập hợp chung quanh tướng Nguyễn Cao Kỳ, bốn mươi nhăm tuổi, nguyên Tư lệnh không quân, nguyên Phó Tổng thống, nguyên Phó Thủ tướng.

2. Nhóm chính trị cấp tiến, tập hợp chung quanh tướng Dương Văn Minh, năm mươi chín tuổi, còn gọi là "Minh lớn" đã từng giữ chức Quốc trưởng sau cuộc đảo chính lật đổ Diệm năm 1963 và nhiều người thường ví với Mendes France của Việt Nam.

3. Phái Phật giáo, tập hợp chung quanh Thượng toạ Thích Trí Quang và các đệ tử của ông tại chùa Ấn Quang.

4. Một phần quan trọng những người theo đạo Cơ-đốc, đứng đầu là Tổng giám mục Sài Gòn Nguyễn Văn Bình, trước kia e dè, nay cũng đã lên tiếng đòi Thiệu ra đi.

5. Các thành viên “Phong trào cứu nước, cứu vãn hoà bình, đấu tranh chống tham nhũng" do linh mục Trần Hữu Thanh đứng đầu.

6. Những nhân vật tập hợp chung quanh thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, chủ tịch các lực lượng hoà hợp dân tộc.


Không một nhóm nào trong sáu nhóm này có khả năng chiếm đa số trong nghị viện. Nhưng, tập hợp lại bên nhau, họ có thể thành lập được một khối liên minh. Từ đó, họ có thể giữ một vai trò nào đó trong những ngày hoặc những tuần tới.


Nhóm dân chúng nín lặng

Những nhân vật đứng đầu sáu nhóm trên là những người duy nhất có thể lấp chỗ trống về chính trị vào một ngày nào đó, khi lực lượng thứ ba xuất hiện và bắt đầu mở những cuộc đàm phán với chính phủ cách mạng lâm thời.


Cho tới nay, mọi ý đồ công khai ra mắt của lực lượng này đều bị Thiệu dập tắt, phớt lờ hiệp định Paris đã ký kết năm 1973. Trong khi đó, Bắc Việt và Việt cộng vẫn công khai tiếp tục cuộc chiến tranh, đang tập trung các sư đoàn đã từng mở cuộc tấn công lớn hồi tháng 3.


Dân chúng Sài Gòn đầy thương tích trong cuộc chiến tranh đã kéo dài từ ba mươi năm nay, vẫn đang nín lặng. Phải kiên nhẫn lắm mới moi được của người dân Sài Gòn những câu chuyện tầm phào. phát biểu bằng một giọng nhẹ nhàng. luôn luôn điểm một nụ cười, trên thực tế là một sự bảo vệ cho họ chống lại những nguy cơ của sự tồn tại.

Trong đám dân chúng vô cùng thiện cảm này thể hiện rõ sự khôn ngoan nhưng đồng thời cũng bộc lộ sự chịu đựng đến cùng kèm theo sự chán nản. mệt mỏi.

Liệu một ngày nào đó. Sài Gòn có thể có những cuộc tuyển cử hoàn toàn tự do được không?

31
MINH LỚN: "MẤT HẾT RỒI!..."

Thứ Hai 21 tháng 4

“Tình hình rất xấu. Mất hết cả rồi!"

Người vừa mới nói với chúng tôi câu đó vào buổi sáng nay, trong biệt thự thanh bình của ông ở Sài Gòn chỉ cách dinh tổng thống của Thiệu vài trăm mét chính là tướng Dương Văn Minh1 (Trong nguyên bản, tác giả viết nhầm là Trần Văn Minh. Trên thực tế, Trần Văn Minh là thiếu tướng không quân, thường gọi là "Minh bé" (ND)) năm mươi chín tuổi, cựu học sinh trường Cao đẳng quân sự Saint Cyr của Pháp, đã từng giữ chức tổng tham mưu trưởng và quốc trưởng, thường được coi là một trong những người cầm đầu lực lượng thứ ba không ai tìm thấy được.


Vài giờ trước đây, Xuân Lộc vừa thất thủ. Sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo đã phải rút khỏi chiến trường được ví như Bastogne của Pháp, là nơi đơn vị của Đảo đã bị vây chặt từ mười ngày nay, bởi ba sư đoàn Bắc Việt có một lực lượng pháo binh rất mạnh yểm trợ.

Tướng Minh nói:

- Bây giờ, sau khi chiếm được đống hoang tàn ở Xuân Lộc, Cộng quân làm chủ một ngã tư rất quan trọng. Họ có thể, hoặc tiến thật nhanh xuống phía Nam, đánh chiếm Vũng Tàu, hoặc sang phía Tây tiến đến Biên Hoà.

Chiếm được Vũng Tàu, chỉ cần vài khẩu pháo cũng triệt được mọi đường thoát từ Sài Gòn ra biển. Chiếm được Biên Hoà cách thủ đô Nam Việt hai chục kilômét, là nắm giữ được một trong những căn cứ không quân quan trọng nhất của Việt Nam. Từ ngày hôm qua, Chủ Nhật, khi tới khu vực này, tôi đã nghe thấy tiếng pháo 130mm của Bắc Việt bắn phá hoại sân bay, phá hỏng đường băng, máy bay F5 của Thiệu không cất cánh được.


Đã quá chậm để thương lượng"

Tướng Minh mời tôi uống nước trà ướp hoa nhài đựng trong một cái chén bằng sứ màu xanh rất đẹp rồi nói.
- Ông đừng tưởng rằng Thiệu sẽ thương lượng. Từ năm 1968 tới nay tôi chưa gặp Thiệu lần nào. Nhưng tôi biết rõ ông ta. Thiệu đã ở dưới sự chỉ huy của tôi khi còn là một trung tá. Bây giờ ông ta ngồi như đóng đinh trên chiếc ghế tổng thống. Đến phút cuối cùng ông ta mới chịu ra đi. Máy bay lên thẳng của Thiệu đã sẵn sàng. Các tướng lĩnh chung quanh Thiệu cũng như vậy. Họ đang chuẩn bị hành lý...

- Ngài không tin vào một khả năng đàm phán nào nữa?

- Trước khi mất phần phía Bắc và cao nguyên Trung phần, những cuộc thương lượng là dễ dàng. Nhưng, bây giờ, tôi lo ngại rằng đã quá muộn rồi. Nếu trong tuần này không tổ chức được hoà đàm, có nghĩa là sẽ mất Sài Gòn. Chúng tôi sẽ phải tuân theo luật của kẻ thắng trận.


Sài Gòn sẽ là thành phố Hồ Chí Minh"

Rõ ràng, tướng Minh không nuôi dưỡng một ảo tưởng nào. Ông đang chờ đợi các lực lượng cộng sản liến vào Sài Gòn và các viên chức từ Bắc kỳ kéo đến tiếp quản.

Theo ông, sự việc đang có nguy cơ kết thúc như vậy.

Ông nói tiếp như tự hỏi:

- Đó là một điều xấu chăng? Ít nhất thì cũng không còn chiến tranh nữa. Mọi việc đều tốt hơn là chiến tranh, tốt hơn cái chế độ đã thối ruỗng mà chúng tôi đang phải chịu đựng nhiều năm nay ở Nam Việt Nam. Người nông dân có mất gì đâu? Người nghèo có mất gì đâu? Họ sẽ không phải sống khốn khổ nữa. Nhất định họ sẽ có công lý hơn khi sống dưới chế độ kế tiếp cái chế độ này. Những người bị thiệt thòi có lẽ chỉ là những tầng lớp giàu có.

- Thưa lưỡng quân, và những người như ngài, thuộc phái cấp tiến, sẽ có tiếng nói. Cũng có thể giữ một vai trò nào đó.

- Nếu có thể giữ một vai trò, thì tôi đã ra làm việc rồi. Còn nếu phải giữ mộ địa vị bù nhìn, thì không bao giờ tôi làm. Dù sao tôi cũng không rời bỏ đất nước của tôi. Ngay cả khi, đến một ngày nào đó, Sài Gòn sẽ đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. Điều này rất có thể sẽ xảy ra. Từ lâu, những người miền Bắc đã nói họ sẽ đặt lại tên thủ đô của chúng tôi.


Chúng tôi sẽ tìm sự giúp đỡ của Pháp"

Tướng Minh nói tiếp:

- Chúng tôi rất cần sự giúp đỡ của các cường quốc phương Tây, đặc biệt là nước Pháp. Tôi hy vọng chính phủ Pháp sẽ giúp chúng tôi tìm được những lý lẽ để hoà giải giữa những người Việt Nam với nhau.

Khi từ biệt, tôi nói với tướng Minh:

- Thưa tướng quân, ngài không lạc quan.

- Không! Tôi lạc quan chứ! Đồng tiền nào chả có hai mặt.

Khi ông tiễn tôi tới bậc thềm bước xuống vườn cây trồng phượng vĩ, một tiếng nổ lớn làm rung chuyển Sài Gòn.

Tướng Minh bình luận đơn giản bằng câu nói bình thản:

- Bắt đầu rồi đấy.

Trong thủ phủ, binh lính đặt thêm các vật cản, đổ đầy cát vào những bao tải, đào hố cá nhân, rải hàng kilômét dây thép gai.


Lính bộ binh trang bị đến tận răng bố trí tại khu vườn thú trên đường đi Biên Hoà ở ngoại thành trên bờ sông đang có thể trở thành một tuyến phòng ngự. Vì đây là ngày hội, ngày lễ lổ tiên, các gia đình đông con đã đưa con tới xem ba con sư tử, hai con voi, một con hổ gầy tọp đứng không vững trên bốn chân.

Đám trẻ vẫn nô đùa, reo cười, bên cạnh những binh lính đang bố trí các ổ súng máy.

32
THIỆU TỪ CHỨC VÀO LÚC CHẬP TỐI

Thứ Hai 27 tháng 4

Khi Tổng thống Thiệu tuyên bố từ chức, các đường phố Sài Gòn đã vắng hết người vì đang giờ giới nghiêm.
Mãi sáng nay, một trong những nhân vật quan trọng của phe chống đối là tướng Minh vẫn còn nói với tôi Thiệu đang "đủng đỉnh trên chiếc ghế tổng thống". Những lời tiên tri thật nguy hiểm.


Rồi đến chiều thì loang đi như một vệt thuốc súng, Tổng thống Thiệu sẽ đọc một bài diễn văn quan trọng vào buổi tối. Thời khắc lặng lẽ trôi. Không ai biết chắc điều gì sẽ xảy ra. Nhưng tất cả mọi người trong thành phố Sài Gòn đều nóng lòng chờ đợi.


Đúng bẩy giờ tối, tôi có mặt tại hàng rào sắt trước cổng dinh Độc Lập là nơi Thiệu triệu tập các thượng nghị sĩ, các dân biểu, các thành viên Toà án tối cao và tất cả các cấp tướng. Tôi nhìn thấy những chiếc xe ô tô chạy qua trước mặt. Toàn là những loại xe Mỹ sang trọng, những chiếc Mercedes choáng lộn và cả những chiếc xe Dalat khiêm tốn, cóp theo kiểu chế tạo loại Citroen 3CV của Pháp.


Thật là một cảnh tượng lạ lùng khó tin là thật khi nhìn thấy những chiếc xe này chạy qua vườn cây rồi dừng lại trước bậc thềm đã có những người phục vụ chờ sẵn, long trọng mở cửa.

Toà lâu đài và những khu vườn đều được thắp sáng như buổi dạ hội. Những vòi phun nước chảy róc rách trong bồn nước. Những cụm hoa toả hương thơm trong không khí buổi tối.

Tôi định vượt qua tấm cửa sắt, tay giơ cao tấm thẻ ghi rõ chữ Báo chương tiếng Việt do các nhà chức trách cung cấp cho các nhà báo, và tôi cũng chỉ biết nói duy nhất một câu “báo chí" bằng tiếng Việt. Tôi bị một lính canh đội mũ sắt, thắt lưng gài một chuỗi lựu đạn Mỹ, đẩy ra ngoài một cách tàn nhẫn.


Một bài diễn văn dài để đi tới một câu ngắn

Tôi đành phải làm như tất cả những người dân Sài Gòn. Tức là tìm một chỗ ngồi dưới loa phóng thanh, là nơi tôi biết có một người phiên dịch sẽ dịch tuần tự từng câu trong bài phát biểu của tổng thống.

Thiệu bắt đầu bài diễn văn lúc mười bảy giờ bốn mươi phút, nói bằng một giọng khô khan, bình tĩnh, nhấn rõ từng câu. Dần dần, khi nóng người ông mới trở lại cái giọng khàn khàn quen thuộc khi ra lệnh.

Đây là một bài diễn văn dài, rất dài, bởi vì Thiệu không muốn bỏ qua một điều nào. Ông ta nhắc lại các hiệp định Paris, những lời Mỹ hứa hẹn nhưng đã phản bội lời hứa, những cam kết với Bắc Việt nhưng không được chấp hành, những vi phạm hiệp định ngừng bắn tháng 2 năm 1973, sự lan rộng của chiến tranh trong năm 1974, cuộc tiến công tháng 3 vào Tây Nguyên trước sự thờ ơ của dư luận quốc tế và sự im lặng của các cường quốc, thảm hoạ quân sự ở Huế và Đà Nẵng. Thiệu kết thúc bằng cách phác hoạ nên một cảnh tượng thảm hại của tình hình đất nước.

Thiệu đã nói tới năm mươi phút rồi mới ngừng và cuối cùng đã tuyên bố bằng một giọng nói khẽ, nhấn mạnh từng chữ, câu nói mà mọi người đang chờ đợi:

- Tôi quyết định từ chức.

Rồi Thiệu lại tiếp tục nói nhiều phút dài dằng dặc nữa. Nhưng, những người có mặt ở đây, còn ai muốn nghe gì nữa. Tất cả đã nói hết rồi, lịch sử đã sang trang.

Phó Tổng thống Hương thừa hưởng một chính quyền mà có lẽ chính ông cũng không muốn kế tục.

Chúng tôi men theo những bức tường, trở về thành phố Sài Gòn, cứ khoảng năm mười mét lại có những lính canh hoặc dân vệ vũ trang, dừng chúng tôi lại dể xét hỏi. Sài Gòn không ai ngủ.

Nhưng cũng không nghe thấy ai ca hát.

Bởi vì, chung quanh thủ đô Nam Việt, có hai mươi sư đoàn Bắc Việt và Việt cộng đang tạo thành một vòng vây thép.

33
THƯƠNG LƯỢNG HAY LÀ TẮM MÁU

Thứ Ba 23 tháng 4

Sau ngày Thiệu tuyên bố từ chức, Sài Gòn ngơ ngác tự hỏi số phận sẽ ra sao. Từ bẩy giờ sáng, tôi đi một vòng khắp thành phố khi lệnh giới nghiêm kéo dài suất hai mươi tiếng đồng hồ vừa được bãi bỏ. Đêm qua, không nghe thấy có tiếng pháo nổ.


Đúng là thành phố thủ phủ này thở phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn chưa thể hé mở nụ cười. Dân chúng nói chuyện với nhau thoải mái hơn. Họ còn hỏi ý kiến người khác dù không quen thân. Nhưng, câu hỏi vẫn luôn luôn nước đôi:

- Ông có nghĩ rằng bây giờ đã có thể bắt đầu đàm phán với phía bên kia chưa?

- Ông có nghĩ rằng cộng sản sẽ tiến công và tình hình sẽ kết thúc như ở Nông Pênh không?


Tất cả đều có thể, nhưng chưa đi tới đâu cả

Biết trả lời thế nào, nếu không đáp lại như thế này:

- Nếu có thể đàm phán thì phải tiến hành rất nhanh. Nếu không sẽ không có cơ may nào khác.

Tuy nhiên, phải nhìn thẳng vào thực tế:

- Việc ra đi của Thiệu có thể mở ra mọi khả năng, nhưng không giải quyết được gì hết. Sáng nay tôi đã nhìn thấy tổng thống mới Trần Văn Hương đi ngang qua trên đường phố trong đoàn xe có cảnh sát hộ tống, kéo còi inh ỏi. Người ta nói, Hương là một người lương thiện, vì đã từng là một nhà giáo. Vừa cách đây không lâu, ông vẫn dùng chiếc xe ô tô Citroen 4 CV bình thường trong khi xe Cadillac mới là biểu hiện của giới cao sang trong thành phố. Ông cũng là một người hiền theo đạo Khổng. Nhưng người ta vẫn có thể tự hỏi, liệu ông già bẩy mươi mốt tuổi, đang ốm nặng, phải chống gậy đi lại khó khăn, có phải là nhân vật của tình thế không?


Thiệu đã bị lu mờ. Người ta nói, ông đang lui về tư dinh, là một biệt thự ở bên cạnh Bộ tổng tham mưu.
Nhưng tay chân của Thiệu vẫn còn giữ nguyên tất cả các vị trí. Đó là những viên tướng tham nhũng, những viên trùm an ninh sẵn sàng bắt giam những người đối lập, những chúa ngục, canh gác các sinh viên vừa bị bắt - có tới hàng trăm người - kể từ đầu tháng tư.


Bắc Việt và Việt cộng đồng ý đàm phán với các đại diện của phe Phật giáo chống đối Thiệu hoặc những người gần gũi tướng Minh. Sáng nay, tất cả hai phía này đều đã ra tuyên bố, vạch rõ:

"Chế độ Thiệu đang tiếp tục không có Thiệu. Chưa có gì thay đổi về căn bản. Nếu muốn có một giải pháp chính trị, không phải cứ hài lòng với chiếc lọ độc bình đặt trên ống khói này".

Cái lọ độc bình này, chính là ông lão Trần Văn Hương khốn khổ đang luyến tiếc những ngày còn đi gõ đầu trẻ, dạy học ở Mỹ Tho.


Hai điều kiện tiên quyết của đối phương

Trước khi bước vào đàm phán, phía Việt1 (Ám chỉ Bắc Việt và Việt cộng) đã đề ra hai đòi hỏi tiên quyết: Thiệu phải ra đi và phải thay Graham Marlin bằng một đại sứ khác.

Thiệu đã ra đi. Nhưng đại sứ Martin vẫn còn ở lại trong toà pháo đài hiện đại. Đêm nào, sau giờ giới nghiêm, những máy bay lên thẳng vẫn tới sân mái bằng của toà đại sứ, đặc biệt sửa lại thành bãi đáp của máy bay lên thẳng, đưa những người Mỹ cuối cùng tới sân bay chính. Trong số sáu nghìn “cố vấn" có mặt ở Nam Việt Nam tuần trước, nay chỉ còn lại hơn một nghìn. Trong trường hợp bất trắc, tất cả đều có thể ra đi trong vòng một buổi, chỉ cần đến hai chiếc máy bay phản lực.


Nhưng không ai dám khẳng định đối phương không đưa ra những yêu sách mới trong lúc này. Có khi họ đã nêu lên rồi. Họ đang có lòng tay tất cả những chủ bài.

Trong tình hình như vậy, phải đối phó thế nào. Nếu ông Hương là người khôn ngoan, thì có hai cách, và chỉ còn có hai cách này thôi:

- Thành lập ngay một chính phủ thật sự dân chủ và cấp tiến, bao gồm những thành viên trong phái độc lập với chế độ Thiệu.

Công khai tuyên bố ý định thực hiện các hiệp định Paris, mở đầu bằng việc thành lập "Hội đồng hoà giải dân tộc".

Nếu điều này còn có thể làm được, người ta sẽ thấy có mặt tại Sài Gòn một chế độ hỗn hợp, cùng chung sống với nhau trong một thời gian lâu hoặc chóng, những thành phần cộng sản trong Chính phủ Cách mạng lâm thời, những người chống cộng sản, những người cấp tiến, những người hoạt động xã hội, những tín đồ đạo Cơ-đốc, đạo Phật.


Không nhất thiết những cuộc đàm phán sẽ diễn ra tại Sài Gòn, Paris, La Celle Saint Cloud. Điều thiết yếu là phải khai mạc những cuộc hoà đàm. Nhưng có mẽ đã muộn quá rồi.


Hai mươi ba sư đoàn quân Việt chung quanh Sài Gòn

Nếu không, chiến tranh sẽ tiếp tục.

Và tiếp tục trong những điều kiện tồi tệ hơn nữa. Bởi vì, không phải chỉ có hai mươi, mà đã có tới hai mươi ba sư đoàn quân đội Bắc Việt và Việt cộng đang từ từ thâm nhập Sài Gòn. Ba sư đoàn mới đến là từ Bắc kỳ đưa vào. Quân đội Nam Việt Nam trên thực tế không còn lực lượng dự trữ chiến lược có thể huy động. Căn cứ Biên Hoà cách Sài Gòn hai mươi kilômét về phía Bắc đang bị bắn phá.

Hôm qua, tôi được nghe giới quân sự nhận xét:

- Nếu trong vòng bốn mươi tám giờ nữa chính phủ không mở được những cuộc hoà đàm thì Cộng quân sẽ bắn đạn rốc két và đạn pháo 130 như mưa xuống thành phố.

Người ta hiểu vì sao sáng hôm qua một đám đông người đã tụ tập trước nhà thờ Sài Gòn theo lời kêu gọi của bốn tôn giáo lớn là đạo Cơ-đốc, đạo Phật, đạo Hoà Hảo, đạo Cao Đài. Tổng giám mục đã tới dự trong bộ áo khoác màu trắng, thượng toạ Phật giáo trong bộ cà sa vàng, các giáo chủ Hoà Hảo trong bộ áo dài và khăn đội đầu màu đen.


Chỉ có lãnh tụ Cao Đài là vắng mặt. Ông ta không thể từ Thánh thất Tây Ninh về Sài Gòn vì đường giao thông đã bị Việt quân cắt đứt.

Người ta cũng bắt gặp ở Sài Gòn những người đang hối hả công việc riêng. Sáng hôm nay, một bà bán đồ cổ trên đường Tự Do hỏi tôi:

- Ông có quen một người Pháp nào muốn lấy tôi làm vợ không? Như vậy, tôi sẽ có thể có hộ chiếu để rời khỏi đất nước này. Tôi sẽ chia cho ông chồng mới của tôi, một nửa giá trị của cửa hàng này. Cửa hàng của bà ta có nhiều cổ vật rất đáng giá.

Nhất là những đồ sứ xanh lam thời nhà Minh và những viên ngọc màu hồng. Nhưng, tôi trả lời bà, tôi đã có vợ rồi.

34
XUẤT HIỆN HAI LOẠI VŨ KHÍ KHỦNG KHIẾP


Thứ Tư 23 tháng 4

- Những người chết không có một chút dấu vết gì là bị thương cả. Tất cả đều nằm ngửa, miệng há hốc, bàn tay co quắp bóp chặt cổ...

Đó là lời viên bác sĩ pháp y, người phát ngôn của quân đội Sài Gòn tả lại cho bạn tôi là phóng viên hãng France Presse về những binh lính Việt cộng và Bắc Việt tử trận ở Xuân Lộc vì một thứ vũ khí mới, khủng khiếp, của quân đội Sài Gòn. Đó là bom hơi.


Loại bom này, gọi theo mật danh là CBU có đặc tính là khi phát nổ hút hết dưỡng khí ở chung quanh, trên một bán kính hai trăm năm mươi mét. Không lực Nam Việt đã được lệnh dùng những vũ khí này trong trận chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc, nhằm giải thoát cho đơn vị của tướng Đảo đang bị bao vây. Cho tới lúc này, CBU mới chỉ được sử dụng ở Campuchia một cách dè sẻn, bởi vì loại bom của kho vũ khí khủng bố này rất đắt: 6.712 franc một quả.


Ít nhất đây cũng là con số mà ngày hôm qua một sĩ quan quan tâm đến trị giá cũng như tính chất dã man của loại vũ khí này đã tiết lộ.


Những quả tên lửa đáng gờm

Ít có thể tin được rằng Việt cộng và Bắc Việt đã có những binh lính bị chết vì bơm hơi, lại không có phải ứng gì.

Người ta được biết, chung quanh Sài Gòn họ đã bố trí những dàn tên lửa SAM 7 kiểu mới đã cải tiến. Theo nhận xét của các chuyên gia Mỹ, loại tên lửa này hơn hẳn những loại Ai Cập đã dùng trong cuộc chiến tranh Kippour. Loại SAM 7 vừa được Liên Xô cung cấp có trọng lượng chất nổ nhiều hơn, tầm bắn xa hơn, một đầu đạn tìm mục tiêu bằng tia hồng ngoại hiệu nghiệm hơn, ít bị nhiễu hơn được dùng như một loại vũ khí cao xạ phòng không có tầm bắn cao tới 5.000 mét, với tính chính xác rất cao, hoặc còn có thể dùng như tên lửa đất đối đất.

Một chi tiết quan trọng: loại SAM kiểu mới này chỉ cần một người thao tác.


Tranh cãi về giới tính các thiên thần

Sài Gòn cũng giống như Byzance năm 1453 khi quân địch đã tới sát chiến luỹ bảo vệ kinh thành, trong cái nóng dữ dội cuối mùa khô, người ta vẫn còn tranh cãi với nhau về giới tính các thiên thần.

Người ta đang bàn luận về việc tổng thống mới Trần Văn Hương xin từ chức.

Người ta bàn đến việc chỉ định một chính phủ mới. Nhưng mà, do kết quả thăm dò, các chính khách vẫn đang lải nhải tranh cãi, hệt như các nghị sĩ của nền Cộng hoà thứ tư của Pháp tranh luận với nhau tại những hành lang điện Bourbon mỗi khi xảy ra một vụ khủng hoảng nội các.

Người ta bàn đến chuyện đàm phán với "phía bên kia". Nhưng mà, trong lúc này, không biết ai là người có đủ thẩm quyền cần thiết để đi thương lượng.


Và càng ngày người ta càng thấy Nam Việt Nam khốn khổ có ít điều kiện hơn trước để thương lượng. Mỗi ngày qua đi, tập đoàn cứ điểm Sài Gòn càng co hẹp lại. Hôm qua, đã không thể đi tới Vũng Tàu được nữa vì đường bộ đã bị cắt.


Tại Tân Sơn Nhất, những chiếc máy bay vận tải khổng lồ Galaxie của Mỹ mang khẩn cấp vũ khí đạn dược tới cho Sài Gòn. Rồi lại chở đi hàng mấy trăm người Việt Nam chỉ nghĩ đến chuyện di tản.


Ngoài khơi những chiếc tàu thuyền cỡ nhỏ mặc cả với những người muốn sang Thái Lan hoặc Philippin, một gói đô la Mỹ to tướng để có được một chỗ. Thật có phúc cho những người nào tới bến an toàn không bị bọn cướp biển móc nối với bọn chở tàu, trấn lột giữa đường.

35
TƯỚNG MINH TỪ CHỐI CHỨC THỦ TƯỚNG


Thứ Năm 24 tháng 4

Vào buổi chiều, có một tấn kịch ở Sài Gòn, lúc 17 giờ. Tướng Minh triệu tập vài nhà báo và nói:

- Tổng thống Cộng hoà trao cho tôi chức Thủ tướng. Tôi đã từ chối. Quả thật, cử tôi giữ chức vụ này có thể sẽ không mở đường cho tôi tiến hành những cuộc thương lượng với phía bên kia. Vì phía bên kia đòi tổng thống nước Cộng hoà phải ra đi.


Phải chăng, tướng Minh muốn nói là mọi hy vọng đàm phán đều không còn? Tuyệt đối không phải như vậy? Chúng tôi có nhiều lý lẽ để nghĩ rằng, tổng thống nước Cộng hoà là ông già Hương, ngày hôm qua còn là phó của tổng thống Thiệu cũng sẽ sớm từ chức.

Một cộng sự thân cận của tướng Minh rỉ tai tôi:

- Ông ta đang xiêu lòng đấy! Như vậy là còn rất nhiều cơ may để vài giờ nữa, nhân vật mà người ta gọi là “Minh lớn" sẽ lại làm người chủ độc nhất của tình hình Sài Gòn.

Có lẽ đó là giải pháp duy nhất.


Nhân vật duy nhất có thể được cả hai phía chấp nhận

Tướng Minh đã từng giữ chức Quốc trưởng, cựu tổng tham mưu trưởng, là một tín đồ đạo Phật từ nhiều năm nay, được coi là nhân vật trông cậy cuối cùng của Nam Việt Nam.

Ông có đủ bốn phẩm chất: quyền uy, cấp tiến, liêm khiết và có khả năng.

Dĩ nhiên, nhiều người khác trên lý thuyết cũng có những khả năng như vậy. Nhưng một số trong bọn họ lại kịch liệt chống chủ nghĩa cộng sản. Một số khác lại quá thân Việt cộng và người ta có quyền nghĩ rằng họ sẽ nhân nhượng quá nhanh, quá nhiều những điểm thiết yếu. Một số nữa lại gắn bó với chế độ Thiệu và đang bị loại ra ngoài.

Minh là người duy nhất được cả hai phía chấp nhận. Và rồi cuối cùng chắc chắn sẽ phải chấp nhận ra làm việc.

Nhưng ông lại muốn có đầy đủ quyền hành và tất cả dân chúng Sài Gòn đều biết, nếu ông chấp nhận nắm lấy chính quyền đã bị rơi rụng, thì đó không phải để bán nước. Ông sẽ cố gắng cứu những gì còn có thể cứu vớt được.


Một người sáng suốt, tinh thông

Thứ hai trước, tôi đã gặp tướng Minh trong toà biệt thự rộng lớn, thanh bình nhưng không xa hoa của ông, một ngôi nhà có vườn hoa mà ông đã ở từ nhiều năm nay ở giữa Sài Gòn.

Trong buổi nói chuyện kéo dài hơn một giờ, ông nói với tôi, những cơ may thương lượng rất ít.

Ông hơn hẳn mọi người khác, ở chỗ đặc biệt sáng suất, nắm được nhiều thông tin. Ông biết rằng mỗi ngày, mỗi giờ trôi đi là đất nước ông mất thêm những chủ bài cuối cùng. Ông xúc động trình bày với tôi là quân đội đã kiệt sức, các tướng chỉ huy đã mất tinh thần, các kho đạn và các công binh xưởng hầu như trống rỗng, vật chất bị suy sụp, chính quyền thì bất lực, dân chúng đang hoang mang và bọn tay chân của Thiệu chỉ nghĩ đến chuyện cất giấu đô la, vàng bạc, cổ vật, đồ trang sức...


Trước cuối tuần hoặc không bao giờ

Tướng Minh nói tiếp bằng một giọng chậm rãi và nhỏ nhẹ. Cặp mắt ông không ánh lên sau lớp kính gọng thép. Nhưng người nghe vẫn cảm thấy ông đang bức xúc về tấn thảm kịch của đất nước ông.

- Dù thế nào đi nữa, tôi cũng không di tản. Dù sướng hay khổ, đây vẫn là tổ quốc tôi. Tôi đã từng sống lưu vong một thời gian ở Băng Cốc. Ở đó, tôi không thiếu thốn thứ gì cả. Nhưng tôi rất đau khổ. Tôi muốn ngồi tù ngay trên đất nước của mình hơn là sống tự do ở nước ngoài.

Cuối buổi nói chuyện, tôi hỏi thẳng tướng Minh, liệu ông có nghĩ rằng, chẳng bao lâu nữa ông vẫn bị lôi kéo ra làm một vai trò chính trị quan trọng. Ông đã trả lời:

- Nếu đi làm bù nhìn thì nhất định tôi không làm. Nhưng, nếu được quyền hành động và có thể hữu ích thì tôi sẽ không từ chối.

Tôi nghĩ, thế là từ giờ phút này, tướng Minh đã sẵn sàng rồi.

Hôm nay, ông già Hương bất lực vừa mới đề nghị tướng Minh giữ chức thủ tướng vì có lẽ thủ tướng đương nhiệm cũng đã muốn từ chức ngay sáng nay rồi.

Minh đã từ chối vì với chức vụ này, ông chưa có được toàn quyền hành động.

Ngày mai, ông sẽ có.

Nếu không, quân Việt sẽ bắt đầu bao vây Sài Gòn.

36
HÃY HỐI HẢ ĐÀM PHÁN TRƯỚC KHI SÀI GÒN BỊ THIÊU CHÁY

Thứ Sáu 25 tháng 4

Từ hai hôm nay, đại sứ Pháp tại Sài Gòn Jean Marie Merillon trở thành nhân vật rối bận nhất.

Đây là vị đại sứ trẻ nhất của Pháp, năm mươi mốt tuổi, bước vào nghề năm 1968 tại Jordanie.

Là một người hăng hái làm việc, ông có những nguyên tắc chặt chẽ, những giờ phút đột ngột nóng lòng nóng ruột và những trận bực tức ghê gớm.

Ông thường mặc một áo sơ mi cộc tay, một chiếc quần dài vải técgan màu cỏ úa. Dưới bộ trang phục nhẹ nhàng giản dị đó là cả một nghị lực phi thường. Ông đã chứng minh rõ điều này khi công tác tại thủ đô Amman của Jordanie giữa lúc chiến tranh.

Trong khi hầu hết các đại sứ nước ngoài đều đã rời khỏi Sài Gòn, Jean Maric Merillon vẫn cho thợ quét vôi lại toà đại sứ và trồng hoa trong vườn nơi ông ở.


Chiếc xe tô Dassault vẫn qua lại trên đường phố

Trong vòng bốn mươi làm giờ qua, đại sứ Pháp đã ba lần ngồi trên chiếc xe hơi Dassault màu đen cắm quốc kỳ Pháp, đi tới dinh Độc Lập, được coi là điện Elysée của Việt Nam.

Hai lần vào ngày thứ Năm, và một lần nữa, lâu hơn, rất lâu vào ngày thứ Sáu, ông Jean Marie Merillon đã gặp và nói chuyện với Tổng thống Hương.

Hai nhân vật này đã bàn luận với nhau những gì. Có thể, phía Pháp đã giải thích:

- Vì lợi ích của đất nước các ngài tôi nghĩ ngài cần phải thương lượng ngay với "phía bên kia". Chính phủ Cách mạng lâm thời, thông qua phái đoàn đại diện của họ ở Paris, đã cho chúng tôi biết, họ từ chối mở cuộc đàm phán chừng nào tại Sài Gòn vẫn còn có những người làm việc trong chế độ Thiệu. Ngài cần rút ra những kết luận...

Các nhà ngoại giao thường có nghệ thuật diễn đạt những gì khó nói nhất.

Quả là đại sứ Jean Marie Merillon đã có một sứ mệnh kỳ lạ. Sau khi đã gây sức ép buộc Thiệu ra đi, bây giờ ông lại gây sức ép để Hương nhường quyền cho người khác.


Người muốn được coi như Pétain

Đã bị bệnh tim mạch, thấp khớp, đôi mắt gần như mù loà, ông lão tổng thống Trần Văn Hương vẫn không muốn rút lui.

Ông chưa muốn ra đi.

Một nhân vật thuộc phía đối lập nói với tôi:

- Ông già đang muốn được coi như Pétain1 (Thống chế Pháp, người ký hiệp ước đầu hàng phát xít Hitler năm 1940). Ông ta muốn tự mình ra ơn cho tổ quốc Việt Nam của mình.

Một lời châm biếm hóm hỉnh. 

Trên thực tế, Tổng thống Hương đang cố tìm một giải pháp hợp hiến. Cứ như là, trong lúc nhà đang cháy, vẫn bám vào những hình thức pháp lý.

Bên cạnh những lý lẽ đó, cũng cần phải nói thêm về tính khôn ngoan chậm chạp trong mọi cuộc đàm phán ở Viễn Đông.

Một sự khôn ngoan có thể biến thành sự dại dột lớn, ngay trong ngày mai, nếu để sự việc quá kéo dài.


Trong nhà tướng Minh, mọi ngườì hối hả

Trong khi đó, tại nhà "Minh lớn" có một sự rộn rã như đàn ong.

Chung quanh nhà riêng của tướng Minh, có một số ngôi nhà phụ thuộc. Tôi biết, trong số những ngôi nhà này, có một căn hộ nhỏ được dùng làm văn phòng. Trong văn phòng chỉ có hai hoặc ba người. Quả là một đội ngũ rất nhỏ bé phục vụ cho nhân vật đã từng làm Quốc trưởng.


Mới hôm qua, tại đây vẫn đang còn tới hai mươi nhăm nhân viên làm việc hối hả, người gọi điện thoại, người đánh máy, người chuẩn bị in ấn, thảo văn bản, có những tờ giấy to như tấm pa-nô quảng cáo, đánh dấu vị trí hai bên đối địch như những tấm bản đồ cơ quan tham mưu.

Không ai nhìn thấy tướng Minh. Nhưng mọi người đều có cảm giác bộ máy của ông đã hoạt động.

Trong khi đó, hàng mấy trăm người Việt Nam vẫn đang chen chúc trước cổng đại sứ quán Mỹ, hi vọng nhận được hộ chiếu đi Califomia. Buổi chiều, có tới hàng mấy nghìn người đứng bám vào những hàng rào sắt sân bay Tân Sơn Nhất.


Các công ty hàng không lần lượt cắt các chuyến bay quá cảnh Sài Gòn. Các đại sứ quán đóng cửa, sau khi đã hạ cờ. Giá đô la chợ đen tăng gấp năm, sáu và bẩy lần giá hối đoái chính thức.

Các bà nội trợ nháo nhác chạy đi mua thức ăn dự trữ. Thành phố gần như điên loạn.


Nếu quân Việt tiến đánh thì trốn đi đâu?

Có một điều rất đau đớn, mà tôi chưa viết.

Đó là, viện quân y Sài Gòn có 2.400 giường nhưng không bao giờ tiếp nhận dưới 3.000 lính què, cụt, bị cháy, bị liệt. Còn đối với những binh lính bị thương nhẹ hơn thì người ta khuyên họ đi chỗ khác chữa trị. Ở đây không đủ chỗ cho tất cả.

Tại nghĩa trang nhà binh ở Biên Hoà, cách Sài Gòn hai chục kilômét, mồ mả chất đống nhiều như Douaumont ở Pháp.

Sáng sớm nay, thành phố trải qua một lúc hoảng loạn vì những tin đồn rỉ tai:

- Sáng mai, thứ Bẩy, quân Việt sẽ tiến đánh.

Rất nhiều lần, đang đi trên đường phố, tôi bị chặn lại hỏi:

- Ông là người Pháp phải không?

Tôi gật đầu. Người ta liền cầu khẩn:

- Nước Pháp phải làm một cái gì đó để chấm dứt cuộc chiến tranh này.

Tôi không thể nào quên được cái người đã nắm lấy bàn tay tôi và nói:

- Nếu tình hình trở nên xấu, tôi và gia đình biết trốn đi đâu bây giờ? Ông ơi, ông làm ơn cứu giúp tôi.

37
KHI CIA CẢI TRANG THÀNH KHƠ-ME Đỏ


Thứ Sáu 25 tháng 4

Sau khi chế độ Lon Nol ở Nông Pênh sụp đổ, Cục Tình báo trung ương Mỹ CIA đặt một đài phát thanh tại Okinawa, hòn đảo lớn trong quần đảo Nhật Bản. Các điệp viên CIA Mỹ giả làm phát thanh viên Khơ-me đỏ tiếp tục truyền đi các bản tin làm người nghe tưởng đây là đài phát thanh của chính quyền Khơ-me đỏ vừa mới dựng lên tại Nông Pênh.

Đài phát thanh bất lương này đã lao vào một chiến dịch thật sự đầu độc dân chúng Campuchia với hy vọng cản trở các ông chủ mới.

Vẫn cái đài CIA này, trong một buổi phát thanh giả danh là đài Việt cộng hôm qua đã loan tin một cuộc đảo chính vừa xảy ra tại Hà Nội, ba sư đoàn Bắc Việt phải rút khỏi miền Nam để quay về Bắc kỳ.

Giám đốc chi nhánh CIA tại Sài Gòn đã khoái trí bình luận với người nào muốn nghe ông ta:

- Đây là chương trình duy nhất hiện nay tôi đang tiến hành và đang tiến triển tốt.

Thật là không thể tưởng tượng được.

Nhưng, đó là sự thật.

38
MINH LỚN" NẮM QUYỀN

Thứ Bảy 26 tháng 4

Xong rồi.

Tướng Minh, tức "Minh lớn" như mọi người thường thân mật gọi như vậy đã trở thành ông chủ cuộc chơi ở Sài Gòn.

Ngày hôm nay, ông già Hương, kẻ sống sót trong chế độ Thiệu đã trao lại cho "Minh lớn" tất cả mọi quyền hành. Vậy là vẫn còn có thể thương lượng với Việt quân trong tình thế tuyến vọng đang tràn ngập miền Nam Việt Nam. Có nghĩa là cố có được một nền “hoà bình trong danh dự".


Từ bây giờ, tướng Minh sẽ được hoàn toàn tự do để thương lượng với Việt quân cái gì còn có thể thương lượng được Tổng thống Hương rưng rưng nước mắt đã tuyên bố xin từ chức.

Màn kịch tiếp theo là phải dàn cảnh quốc hội quyết định một vẻ ngoài muốn cứu nước.


Kết thúc một chế độ

Tất cả đã diễn ra tại Hạ viện, một trụ sở có kiến trúc hơi rập khuôn Hy Lạp, giữa lúc mọi người đã quên có sự tồn tại của quốc hội tại Sài Gòn. Theo đúng hiến pháp, cả hai Viện đã tụ họp trong trụ sở này trong một gian phòng rất xấu xí có xếp đặt những ghế bành màu đỏ chung quanh một chiếc bàn lớn hình móng ngựa.
Trong những giờ phút nguy kịch này, chỉ có nửa tổng số nghị sĩ có mặt. Những người khác đâu? Họ đã di tản rồi chăng? Hay là họ khôn ngoan lánh mặt.


Liệu họ có từ chối bỏ phiếu trong một số trường hợp không? Dù thế nào, đây vẫn là một cảnh tượng thảm hai hơn là được nhìn thấy một cuộc tranh cãi về một chủ đề quan trọng trong một gian phòng có rất nhiều ghế trống văng.


Trong cái nóng gay gắt lúc xế chiều, tôi đã được chứng kiến những cảnh hoàn toàn giả tạo: Trong khi những đoàn quân Việt đang chỉ còn cách Sài Gòn khoảng ba mươi kilômét vẫn còn có những diễn giả liên tục đứng trước micrô: những người này nói, họ vẫn còn muốn thuyết trình nữa, những người khác nói, muốn cứu vãn thể chế. Tất cả ồn ào tranh luận với nhau. Cảnh tượng vừa có vẻ xúc động, sầu não, lại vừa rỗng tuếch, chẳng có ý nghĩa gì cả.


Một vẻ bề ngoài của chế độ Cộng hoà muốn đột ngột thể hiện, cần phải chết một cách tự do.

Cứ như là tại Sài Gòn vẫn đang còn có một nền Cộng hoà và từ nhiều năm, đã không có dân chủ. Cho đến tận tối khuya các vị chỉnh tề có thắt cravat vẫn tiếp tục nói.


Tiếng nói Việt cộng: Mỹ cút đi!

- Buổi sáng, tôi đã được chứng kiến tại trại Davis một cảnh tượng không kém giật gân. Vừa bước đến cổng trại có nhiều lớp hàng rào dây kẽm gai vây quanh, giữa lòng căn cứ không quân Tân Sơn Nhất rộng lớn, tôi nhìn thấy một lính gác quân đội Nam Việt Nam mở cho một lối đi ngoằn ngoèo, sau đó đến bên kia chúng tôi được chào đón bởi những cảnh vệ Việt cộng, đội mũ cứng màu xanh lá cây, đeo huy hiệu Hồ Chí Minh trên ngực áo, súng ngắn và dao găm gài ở thắt lưng.


Từ ngày ký Hiệp định Paris, trong trại Davis có phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời gồm 250 sĩ quan và binh lính, và phái đoàn Bắc Việt gồm 45 người. Tuần nào đại tá Võ Đông Giang cũng mặc quân phục chỉnh lề, mở cuộc họp báo vào ngày thứ Bảy.


Ông ta nhân cuộc họp này công bố chín điều kiện của Chính phủ Cách mạng lâm thời đặt ra với Mỹ:

1. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Nam Việt Nam.

2. Loại bỏ mọi sức ép chính trị đối với dân chúng miền Nam Việt Nam. 3. Ngừng tất cả mọi hoạt động quân sự.

4. Rút về nước tất cả các nhân viên CIA.

5. Rút về nước tất cả các nhân viên quân sự cải trang thành dân sự.

6. Rút ra khỏi lãnh thổ Nam Việt Nam tất cả năm mươi tàu chiến đang hoạt động ở đó.

7. Rút hai trăm máy bay Mỹ đang chuẩn bị can thiệp vào tình hình Nam Việt Nam.

8. Rút sáu nghìn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đang ở các tàu chiến đặt ở ngoài khơi Nam Việt Nam.

9. Đình chỉ viện trợ quân sự và mọi khoản viện trợ khác cho chính quyền Nam Việt Nam.


Thiệu chạy trốn

Sau đó, đại tá Giang trình bày bảy điều kiện do Chính phủ Cách mạng lâm thời đặt ra với Chính phủ Nam Việt Nam, coi như điều kiện tiên quyết để mở cuộc đàm phán

1. Thành lập một chính phủ mới, tuyên bố rõ đây là chính phủ "vì hoà bình, độc lập, dân chủ và hoà hợp dân tộc"

2. Thi hành các hiệp định Paris.

3. Loại bỏ tất cả mọi thành viên trong "bè lũ Thiệu”.

4. Từ bỏ chính sách "hiếu chiến, phát xít, đàn áp, cưỡng bức dân chúng".

5. Huỷ bỏ mọi đạo luật phản dân chủ.

6. Bảo đảm tôn trọng các quyền tự do dân chủ.

7. Trả lại tự do cho tất cả những người "bị giữ và bỏ tù do đã đấu tranh cho hoà bình và độc lập dân tộc”.
Theo tinh thần bộc lộ trong tuyên bố của đại tá Giang thì điều khoản nào cũng bắt buộc phải thực hiện, do đó việc thương lượng đối với chính quyền Nam Việt Nam là rất hạn chế.

Dù cho ngày hôm qua Thiệu đã bay sang Đài Loan mang theo tất cả vàng bạc châu báu, những điều kiện này vẫn không thay đôi.

Một cuộc chạy trốn thảm hại đối với Thiệu!

39
CẢ MỘT KHU PHỐ SÀI GÒN BỐC CHÁY TRONG ĐÊM

Chủ Nhật 27 tháng 4

Khoảng bốn giờ sáng, tôi bị bật dậy khỏi giường vì một tiếng nổ lớn.

Một quả đạn rốc két 122mm vừa rơi trên nóc nhà hàng Majestic ngay giữa trung tâm Sài Gòn, chỉ cách chỗ tôi nằm vài trăm mét.

Tiếp đó là liên tiếp ba tiếng nổ tiếp theo, rất dữ dội, làm rung chuyển cả thành phố.

Tôi lập tức chạy lên sân thượng là nơi có thể bao quát toàn bộ thành phố và những vùng phụ cận. Từ trên cao, tôi nhìn một cảnh tượng kinh khủng: phía sau nhà ga cả một khu phố bốc cháy. Những lưỡi lửa màu da cam vọt lên cao hàng vài chục mét, trong khi một lớp khói đen bốc cao che phủ một góc trời. Từ phía xa, tiếng còi của những đoàn xe chữa cháy vang lên inh ỏi. Những xe cứu thương lao nhanh trên những đường phố vắng người.


Lúc này, bên Pháp mới là hai mươi mốt giờ. Nhưng không phải là lúc chạy ra bưu điện đánh telex về nước. Bởi vì các ngả đường đều có lính gác trang bị đến tận răng.

Tôi đành đứng lại rất lâu trên sân thượng nhìn đám cháy khổng lồ, có cảm giác như không bao giờ tắt.

Phía xa, từ Biên Hoà vọng lại tiếng pháo nặng. Có thể nhìn thấy ánh chớp của những khẩu pháo 155 đang nã từng loạt đạn, hiện rõ ở chân trời.


Giữa trái tim thủ phủ Nam Việt Nam

Chờ đến rạng sáng, khi những vật chướng ngại và những cuộn dây thép gai bùng nhùng đêm nào cũng vây quanh khách sạn của tôi như một con nhím, hết giờ thiết quân luật mới được tháo gỡ, tôi chạy thật nhanh đến nhà hàng Majestic. Quả đạn rốc két được phóng đi ngay ở một địa điểm ngoại thành, chắc là nhằm vào căn cứ hải quân nằm ở khuỷu sông rất gần, đã rơi vào tầng cuối cùng của khách sạn. Người gác đêm đã bị chết trong khi đang ngủ. Trong góc phòng một người Việt Nam đang rầu rĩ nhìn những gì còn lại của phòng khách có bàn ghế làm toàn bằng kiểu Tàu. Ông ta nói:

- Thật là khốn khổ...

Tôi nghĩ ông ta đang nói về người gác đêm bị chết. Nhưng ông ta nói tiếp:

- Chính tôi là người thiết kế nội thất phòng khách.

Cách chợ Bến Thành một quãng đường, một quả rốc két khác, có lẽ nhằm vào dinh Tổng thống, đã rơi xuống giữa phố khoét một mảng trên đại lộ.


Đó là một lời cảnh cáo

Nhưng, cảnh tượng ngao ngán nhất chính là chỗ xảy ra cháy lớn trong đêm.

Quả đạn rốc két, hẳn là định nhằm vào trụ sở tổng nha cảnh sát, đã rơi xuống giữa một khu nhà nhỏ làm bằng gạch, mái tôn, bị thổi bay như một toà lâu đài bằng giấy bồi. Sau đó, lửa đã lan rộng, lần lượt thiêu cháy thêm hơn ba trăm năm mươi gian nhà nhỏ nữa, nay chỉ còn lại những đống gạch đen thui. Mọi người đang tìm bới các xác chết. Có khoảng năm người bị thiệt mạng.

Những người cứu sập dùng đôi bàn tay trần trụi nhấc từng viên gạch, có người dùng que sắt, bới từng mẩu đạt. Từ trong đám bùn màu đen, họ cời ra được những chiếc ấm đun nước đã méo mó, những tã rách cháy dở, những bát ớự a bị vỡ mẻ, những chiếc xe đạp cong queo...

Từ khắp mọi nơi, đội cứu sập và những hướng đạo sinh trẻ tuổi mặc đồng phục chạy thật nhanh tới cứu trợ.

Không một giọt nước mắt.

Không một lời phàn nàn.

Một bà già bình thản nói với tôi:

- Đây mới chỉ là một lời cảnh cáo.

Ông chồng ngừng tay bới đất một lúc rồi nói thêm:

- Chúng tôi rất lo sợ trận bắn phá lại tiếp tục.

Lực lượng dân vệ gồm toàn thanh niên mười sáu tuổi, trang bị súng tự động Mỹ, đeo đầy băng đạn, đứng canh gác các ngả đường, đề phòng trộm cướp hôi của.

Tôi lại gần một người đang mở máy chơi đùa với băng đạn, hỏi anh chàng:

- Cậu có tin là sẽ có hoà bình không?

Anh ta ngạc nhiên nhìn tôi một lúc rồi bốp chát trả lời:

- Không! Tôi không tin vào hoà bình.

40
MINH NÓI "TÔI SẼ CỐ THỬ MỘT SỨ MỆNH KHÔNG THỂ HOÀN THÀNH"

Chủ Nhật 27 tháng 4

Thật khó tin. Nhưng đúng vậy. Tối hôm qua, thứ Bẩy, cả hai Viện của Quốc hội đã quyết định trao toàn quyền cho tướng Minh để cố thực hiện một "nền hoà bình trong danh dự”. Trong khi đó, từ đêm thứ Bẩy đến rạng sáng Chủ Nhật, đạn rốc két bắt đầu rơi như mưa xuống trung tâm Sài Gòn, dân chúng đang sống trong cảnh hoảng sợ những trận bắn phá tiêu hao tiếp tục thì các sư đoàn Bắc Việt và Việt cộng càng xiết chặt vòng vây chung quanh thủ phủ, những đơn vị dẫn đầu có xe tăng yểm trợ, chỉ còn cách trung tâm thành phố chưa đầy ba mươi kilômét, các tướng lĩnh quân đội Sài Gòn tuyên bố "đã mất hết cả rồi”. Tướng Trần Văn Đôn, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, một nhân vật liêm khiết hiếm hoi của chế độ, phác hoạ tình hình như một bức tranh ảm đạm. Những chiếc máy bay vận tải khổng lồ Galaxie của lực lượng không quân Mỹ cố di tản những người Mỹ cuối cùng. Tình hình kinh tế hoàn toàn kiệt quệ, các Ngân hàng Mỹ đột ngột đóng cửa. Những tay chân cuối cùng của chế độ Thiệu cố noi gương quan thầy chạy trốn ra nước ngoài, mang theo những chiếc vali nhét đầy đô la vàng bạc trang sức và những vật quý giá. Trong khi tất cả đang sụp đổ giữa giờ phút bi thảm thì hai Viện quốc hội cùng với tổng thống Cộng hoà một ông lão bại liệt, mù dở vẫn cố tìm những phương thức đúng pháp lý để trao toàn bộ quyền hành cho tướng Minh mà không vi phạm Hiến pháp.

Và, trong không khí ngột ngạt, Hạ viện vẫn giơ tay biểu quyết những kiến nghị viển vông như thời kỳ hoàng kim của nền đệ tam Cộng hoà.

Cuối cùng, sau một ngày điên loạn là lệnh giới nghiêm. Đêm đã tới. Một cơn dông ập xuống Sài Gòn. Lúc đó hai Viện mới đi đến biểu quyết cuối cùng là trao lại tất cả mọi quyền lực cho tướng Minh, như tôi đã viết ở phần trên.

Hôm nay, thứ Hai, tướng Minh bắt đầu thực thi sứ mệnh ghê gớm là điều đình với “phía bên kia".

Nhân vật dũng cảm và bình tĩnh này còn rất ít khả năng xoay chuyển tình hình.

Một trong những cộng sự viên gần gũi nhất của Minh hôm nay đã nói không úp mở với tôi:

- Chúng tôi cố thử một sứ mệnh không có khả năng thực hiện.

41
NHỮNG CẢNH ĐỔ VỠ TỪ BIÊN HOÀ


Thứ Hai 28 tháng 4

- Anh chở tôi đi Biên Hoà được không?

Người lái chiếc xe 203 cũ kỹ gật đầu, nói:

- Thưa ông, được. Nhưng không đi xa được đâu.

Người lái xe Việt Nam này đã nói đúng. Chúng tôi mới đi được khoảng chừng hai mươi kilômét đã rơi vào mộl cảnh hỗn loạn mà tôi chưa bao giờ thấy kể lừ tháng 5 năm 1940, khi quân đội Pháp tháo chạy trước sự tiến công của Đức.


Có đến hàng chục ngàn người lánh nạn

Những làn sóng người lánh nạn đổ xô về Sài Gòn. May mắn nhất là những người kịp đưa được một phần của cải lên những chiếc xe tải hoặc xe “moóc”, xe kéo, xe bò. Những người khác phải đưa toàn bộ gia đình lên những xe ô tô cũ kỹ, xe tải, xe lôi nhãn hiệu Honda, xe 4CV đã quá hạn sử dụng. Có những người ngồi trên các bao tải đựng gạo, chất đống trên những chiếc xe trâu bò kéo. Những người khác đẩy xe đạp chở nặng như ngựa thồ. Còn phần lớn thì đi bộ, thành từng đoàn dài chậm chạp, mang vác, gồng gánh. Những người đàn bà bước tập tễnh, đầu đội nón lá che nắng.


Những người đàn ông để đầu trần, đầm đìa mồ hôi, đeo ba lô hoặc mang túi vải. Trẻ con, đứa lớn cõng đứa bé. Các cụ già khập khiễng bước chân, thỉnh thoảng dừng lại vì kiệt sức, rồi lại tiếp lục đi, liếp tục nghỉ.


Ở cả hai bên đường, bên phải lẫn bên trái, la liệt những người nằm dưới bóng cây hoặc ngồi giữa ánh nắng, giữa - đống bao tải, ga men; kéo dài dằng dặc quá tầm mắt. Những người này phải dừng cuộc hành trình vì không biết đi đâu và cũng không sao bước nổi nữa. Có thể, họ sẽ vấp phải những vật cản của cảnh sát, không cho họ kéo vào thành phố.


Họ có bao nhiêu người? Có tới hàng chục và hàng mấy chục ngàn. Có thể nhiều hơn nữa. Và họ vẫn luôn luôn kéo tới khốn khổ hơn, mệt mỏi hơn, đói khát hơn, tuần tự với những giờ phút trôi qua.


Lính đào ngũ vứt súng chạy trốn

Những chiếc xe Jeep chuyển thành xe tải thương, bóp còi inh ỏi, mở đường chạy về phía sau. Lính bị thương nặng nằm trên cáng, lính bị thương nhẹ ngồi trên thành xe, bàn tay ôm trán, ôm cánh tay, hoặc bả vai.


Những binh lính không bị thương thì chạy trốn trên xe máy. Bọn này vẫn còn giữ lại chiếc mũ sắt đội đầu, nhưng đã vứt bỏ tất cả vũ khí. Tại một ngã tư, một viên cảnh sát ngơ ngác nhìn một đống súng trường, súng tiểu liên và lựu đạn bị lính vứt lại.


Có những tên lính đào ngũ chặn xe tải của tư nhân lại rồi bám vào thành xe. Bọn này vẫn còn mang súng. Mỗi khi tắc đường, xe chạy chậm, bọn chúng lập tức bắn đạn lên trời. Mọi người vội nép sang hai bên, không một ai thốt ra một tiếng phản kháng.


Thỉnh thoảng vẫn còn thấy vài chiếc xe bật đèn pha tiến ra mặt trận. Đó là những chiếc xe "téc" chở xăng và cả những chiếc xe "moóc" to tướng chở đạn.


Nhưng, quan trọng hơn cả vẫn là đám lính ùn ùn kéo về Sài Gòn, chờ tối đến là chôn giấu hoặc đốt luôn bộ quân phục đang mặc trên người. Đó là bước đầu của sự đổ vỡ.

Tôi hỏi một đại uý dù mặc quân phục rằn ri ngồi trên xe Jeep vừa chạy tới, quân Việt đã tiến tới đâu rồi.

Anh ta trả lời:

- Tôi chẳng biết gì cả!

Một chú lính nhóc

Chúng tôi tiếp tục tiến lên chừng bốn hoặc năm kilômét nữa, cho tới khi vấp phải một lớp hàng rào dây thép gai chắn ngang đường. Phía bên kia, trận đánh đang ác liệt.

Trên một quả đồi gần đó, có một ngôi chùa nhỏ đã cổ, có thể dùng làm một đài quan sát rất tốt. Chúng tôi tới đó, hoà trong đám người đang xem đánh nhau. Khoảng một kilômét trước mặt là những Việt Cộng đang tiến lên từng đợt trên một địa hình bằng phẳng, có nhiều bụi cây. Đạn pháo 105 của quân đội Sài Gòn bắn không ngừng làm tung lên những cột khói và bụi. Đôi lúc, xen kẽ những loạt đạn trọng liên. Một máy bay lên thẳng Chinook lượn vòng trên vùng trời Biên Hoà hiện đang hầu như hoàn toàn bị bao vây có những mái nhà ngói đỏ thấp thoáng phía xa. Vài chỗ có khói đám cháy bốc lên.


Không nhìn thấy xe tăng Bắc Việt. Nhưng từ sáng nay, chúng tôi đã được tin những xe tăng và pháo nặng đang bố trí theo hình vòng tròn, bao vây Sài Gòn ở khoảng cách chừng ba mươi kilômét.

Một thiếu niên vác súng các-bin Mỹ bước tới. Người lái xe kiêm phiên dịch cho tôi hỏi chuyện. Anh lính này tên là Sinh, mười sáu tuổi.

Tôi hỏi:

- Việt cộng có đông không?

- Ở khắp mọi nơi, từ đất chui lên.

- Thế chú định làm gì?

- Cũng chả biết nữa. Có lẽ phải chiến đấu, vì tôi ghét cộng sản. Nhưng bây giờ, nếu ông cho tôi năm trăm đồng, tôi sẽ…

Tôi cho chú lính tờ giấy bạc mệnh giá năm trăm. Chú vội cầm lấy, chạy đi mua một chai cô ca cô la.

42
NHỮNG LOẠT ĐẠN BÍ MẬT

Thứ Hai 28 tháng 4

Tướng Minh vừa kết thúc buổi diễn văn nhậm chức tổng thống, trong đó ông bày tỏ quyết tâm chấm dứt chiến tranh bằng cách đàm phán với phía "bên kia" thì chợt vang lên nhiều loạt đạn ở ngay trung tâm thành phố Sài Gòn.


Gần dinh tổng thống là nơi chúng tôi đang có mặt đồng loạt vang lên những tiếng tiểu liên, súng trường Mỹ M16, súng trọng liên và thỉnh thoảng nghe thấy cả tiếng đạn pháo xe tăng.


Phía xa cũng vang lên những tiếng nổ khó phân biệt đó là đạn rốc két, đạn pháo 155 mm hay là đạn trong kho bị phá nổ.


Phải mất hơn hai tiếng đồng hồ mới biết được chuyện gì vừa xảy ra. Có nghĩa là vừa rồi tất cả những ai có súng đều nhả đạn, và điều rất lạ lùng là toàn bắn lên trời.

Rồi, sau đó nửa giờ, tiếng súng ngừng bặt như một phép màu.

Mới đầu, cứ tưởng xảy ra một cuộc đảo chính lật đổ tướng Minh. Sau đó lại nghĩ, đó là cuộc tiến công bất ngờ của Việt cộng, mà người ta đều rõ đang có mặt ở nhiều vùng ngoại thành, là nơi vừa xảy ra đánh nhau lúc sáng.


Mỗi người giải thích theo một cách khác nhau. Cuối cùng mới biết, có ba chiếc máy bay vừa tới ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, rồi bay rất thấp trên thành phố, qua căn cứ hải quân là nơi mọi người tưởng sẽ lại bị ném bom nữa. Tất cả các khẩu súng trong thành phố đều chĩa lên trời nhả đạn.

Bây giờ đến lượt người ta bàn tán về lai lịch những chiếc máy bay:

- Phải chăng có những phi công trong quân đội Sài Gòn chạy sang “phía bên kia" như lần trước đã xảy ra việc ném bom dinh tổng thống Thiệu?

- Phải chăng, đây là những máy bay do cộng sản tịch thu được trên các sân bay khi quân đội Sài Gòn tháo chạy?

Các giả thuyết tạm ngừng khi xuất hiện những chiếc xe ô tô gắn loa phóng thanh, chạy trên các đường phố báo tin có lệnh giới nghiêm hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ.

Từ phía xa, chỉ còn nghe thấy tiếng đạn rốc két bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất.

Sài Gòn cuối cùng đã tìm thấy một chính phủ, lại bắt đầu nằm ngủ mà không có cảm giác thoải mái.

Rất nhiều lo lắng lởn vởn trong tâm trí mọi người, trong đêm dài bị xé rách bởi những ánh chớp của cơn dông tố phía xa.

43
SÀI GÒN TRONG CƠN HẤP HỐI

Thứ Ba 29 tháng 4

Dù từ nay có xảy ra chuyện gì đi nữa cũng không bao giờ tôi quên được cơn hấp hối bi đát của Sài Gòn.
Tối thứ Hai hôm qua một chút hi vọng đã nhen nhóm trong tất cả dân chúng, khi tướng Minh phát biểu về hoà bình, hoà hợp và hoà giải dân tộc. Đó là những câu chữ mà do cuộc chiến tranh kéo dài từ hai mươi chín năm nay, người ta đã quên hết ý nghĩa.

Câu trả lời đã tới vào lúc bốn giờ sáng hôm nay, dưới hình thức những quả đạn rốc két 122 và đạn pháo 130.


Một đài quan sát tuyệt vời

Tất cả mọi khách hàng của khách sạn Caravelle đều chạy lên sân thượng, người mặc gi-lê chống đạn, người chỉ mặc quần áo ngủ.

Cũng cần nói thêm, tất cả những khách hàng này đều là phóng viên báo chí hoặc nhiếp ảnh quay phim.

Cũng nói thêm nữa, từ sân thượng nhà hàng chín tầng này có thể nhìn bao quát toàn bộ Sài Gòn.

Và cũng có thể nhìn thấy toàn bộ lãnh thổ của chế độ Nam Việt Nam, diện tích đã thu hẹp lại rất nhiều. Đây là một đất nước mà hai tháng trước vẫn còn trải dài hơn một nghìn kilômét từ Bắc xuống Nam, bây giờ đã rút ngắn lại chỉ còn một tầm bắn của pháo.

Chính từ vị trí trên cao này chúng tôi đã nhìn thấy pháo bắn như giã giò vào căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, cách chỗ chúng tôi đứng khoảng tám kilômét.

Đạn rốc két rơi liên tục không ngừng. Rồi đến đạn trọng pháo. Mỗi khi một chiếc máy bay bị bắn trúng lại có một quả nấm lửa khổng lồ vọt lên, xé vỡ màn đêm đang có mưa dông. Một lúc sau, phía sân bay chỉ còn là một biển lửa màu da cam.


Một chiếc máy bay nổ tung trước mắt chúng tôi

Trời đã sáng. Mặt trời khổng lồ nhô lên từ đồng ruộng.

Chúng tôi hếch mũi lên trời, theo dõi một chiếc máy bay vận tải, khá giống loại Nord Atlas của Pháp đang lượn vòng trên vòm trời. Đột nhiên từ thân máy bay loé ra một luồng lửa. Chiếc máy bay vỡ làm đôi, cứ thế rơi xuống, rơi rất chậm, rất chậm. Nó vừa bị trúng đạn tên lửa SAM 7, một loại tên lửa vác vai kiểu mới do Liên Xô chế tạo và do một xạ thủ Việt cộng nào đó, có thể đã đứng một mình chờ đón suốt đêm trên một nóc nhà ngoại thành, phóng trúng.


Các loa phóng thanh lại rống lên, báo tin lệnh giới nghiêm kéo dài suốt hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ, sau khi đài truyền đi bản quốc thiều là bài nói của tướng Minh kéo dài tới hơn hai mươi phút.

Làn sóng từ ngữ trong bài diễn văn chẳng có hiệu quả gì đối với những trận chiến đấu đang tiếp tục ác liệt, chung quanh thủ đô của Nam Việt Nam. Từ nhiều khu vực ngoại thành lại vọt lên những cột khói đen, những lười lửa đám cháy, xen lẫn tiếng nổ của đạn pháo.


Các đường phố vắng tanh vắng ngắt. Nhưng vẫn còn một vài phụ nữ rón rén mở cửa định bước ra ngoài, hy vọng còn có một cửa hàng cửa hiệu nào đó mở cửa. Trẻ con vẫn lặng lẽ chơi đánh bi hoặc nhảy ô quan trên vỉa hè, dưới cặp mắt của binh lính và cảnh sát trang bị tiểu liên.


Những thanh niên mang vũ khí đáng lo ngại

Chỉ có những xe ô tô có cắm cờ là đi lại trên đường. Những chiếc xe cứu thương hối hả mang những người bị thương, chủ yếu từ sân bay Tân Sơn Nhất và từ Chợ Lớn, bị trúng đạn trong đêm, phóng nhanh tới các bệnh viện.


Rồi người ta thấy xuất hiện, chẳng biết từ đâu chia ra những thanh niên mặc toàn đồ den. Họ có vẻ như là một lũ nhóc vô lại chơi trò nghịch súng các-bin Mỹ. Nhưng đó chính là những dân vệ có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự. Lực lượng này gồm toàn thiếu niên từ mười lăm đến mười tám tuổi rất dễ bị kích động.


Khắp mọi nơi, pháo 105 của quân đội Nam Việt Nam tiếp tục bắn trả các khẩu pháo 130 của các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.


Từ phía Biên Hoà là nơi hôm trước tôi vừa mới thực hiện chuyến "thám hiểm" cuối cùng, đang đánh nhau rất dữ dội.


Những người Mỹ cuối cùng ra đi bằng máy bay

Mặc dù có lệnh thiết quân luật, các nhà báo vẫn liều đi ra ngoài.

Chính vì vậy tôi đã tới được sứ quán Mỹ, chứng kiến những cảnh tượng chẳng vẻ vang gì. Được báo động bởi một mật lệnh truyền qua đài phát thanh, những người Mỹ cuối cùng hối hả mang vác hành lý lên xe ô tô buýt đưa họ đến những chỗ tập trung. Từ những địa điểm này, những máy bay lên thẳng sẽ đưa họ tới những tàu sân bay của hạm đội 7 đang đậu ở một nơi nào đó ngoài khơi.

Đại cường quốc Mỹ đang chạy thoát thân.

Trước cổng toà lãnh sự Mỹ có hai binh sĩ lính thuỷ đánh bộ đội mũ sắt, súng cầm tay đứng gác, hàng mấy chục người Việt vẫn còn cố một cách tuyệt vọng, xin một hộ chiếu đi Giam, Midway, Honolulu...

Cũng từ đây, tất cả các nhà báo Mỹ (kèm theo cả nhiều người khác) cũng đang đóng gói hành lý vội vã ra đi.

Chỉ còn một người vẫn ở lại là đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin. Nhưng tướng Minh đã yêu cầu ông vui lòng ra đi để tránh mọi sự cố.

Cuối cùng ông đại sứ Mỹ cũng rút khỏi đại sứ quán, mang theo lá cờ sao và vạch, tượng trưng cho nước Mỹ, đã được kéo xuống, gấp cẩn thận, cất kỹ lưỡng cặp xách tay.

Ông là người cuối cùng đi bộ ra khỏi toà đại sứ (Lúc này, đại sứ Mỹ đi bộ sang sứ quán Pháp) chào từ biệt đại sứ Pháp.


Nỗi sợ trong lòng

Trước đó ít lâu, tôi đã nhìn thấy một viên tướng Nam Việt Nam trẻ tuổi, mặc quân phục may đo rất khéo, ngồi trong chiếc xe hơi rất sang trọng, đi ngang qua. Ông ta chạy vội vào trong sân sứ quán Mỹ rồi leo lên một trong những chiếc máy bay lên thẳng cuối cùng đợi trên sân thượng nhà mái bằng.

Sau khi đại sứ Mỹ đi ra ngoài, những cánh cổng toà đại sứ được đóng lại.

Đúng lúc đó có một người Việt Nam ngồi trên xe, đèo theo một phụ nữ, phóng đến cổng sứ quán Mỹ. Không nhìn thấy có ai, họ hỏi tôi:

- Thế này thì chúng tôi còn biết đi đâu bây giờ? Chúng tôi chết mất. Quân cộng sản đang tới. Tướng Westmorland đã hứa bảo vệ chúng tôi.

Nỗi lo sợ lan tràn khắp thành phố

Hàng nghìn người chạy như điên tới sân bay, nhưng không còn chiếc máy bay nào cất cánh nữa. Hơn nữa, trước cổng nhà ga hàng không, cảnh sát đang dựng lên một rào cản.

Hàng nghìn người khác lại đổ xô đến căn cứ hải quân mang theo valy, hành lý, cố tìm cách leo được lên một chiếc tàu nào đó để chạy trốn theo dòng sông Sài Gòn.


Khi tất cả mọi thứ đều sụp đổ

Từ những khu vực ngoại thành, hàng ngàn người khác cũng đang chạy vào những khu phố ở trung tâm Sài Gòn.

Tôi đi qua các phố, buồn rầu, chậm chạp, trong khi tiếng pháo nổ mỗi lúc một gần. Luôn luôn tôi bắt gặp nhiều người giữ tôi lại, nói:

- Chắc ông là người Pháp, vì ông vẫn còn ở lại với chúng tôi. ông có thể làm gì giúp chúng tôi được không?

Họ chìa ra những giấy tờ, thư từ, chứng minh họ có họ hàng đang ở bên Pháp.

Tôi nhìn những con người khốn khổ đang ứa trào nước mắt. Tôi không thể nói gì hơn ngoài sự thật đau buồn:

- Hết rồi! Không thể ra khỏi Sài Gòn được nữa. Chậm quá rồi!

44
BỨC ĐIỆN CUỐI CÙNG

Ngày 29 tháng 4

Trong đêm, tôi gửi về toà soạn ở Pháp bức điện telex nội dung như sau:

"Khó biết được điều gì xảy ra nếu chúng tôi tiếp tục làm việc và nhất là đảm bảo truyền tin".

Vài giờ sau, tất cả mọi thông tin liên lạc đều bị cắt. Tất cả chúng tôi đều bị chìm ngập trong im lặng...

PHẦN NĂM
SÀI GÒN THẤT THỦ
30 tháng 4 năm 1975

45
NHỮNG GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG

Thứ Ba 29 tháng 4

Đêm qua, Sài Gòn lại mất ngủ một lần nữa. Suốt nhiều giờ, pháo 130 và rốc két 122 bắn như giã giò vào sân bay Tân Sơn Nhất cách trung tâm thành phố bảy kilômét. Từ sân thượng trên tầng thứ mười khách sạn nơi tôi ở, tôi nhìn thấy bùng lên những khối lửa mỗi khi có một chiếc máy bay bị trúng đạn. Những chiếc máy bay đậu dàn hàng trên bãi sát cánh với nhau lần lượt bị nổ vỡ. Thỉnh thoảng một đám lửa hình nấm màu da cam lại bùng lên rất cao, đó là một kho đạn đang nổ tung.


Rạng sáng thứ Ba 29 tháng 4 mọi chỗ chung quanh thành phố thủ phủ bị bao vây đều bốc lên những cột khói từ những đám cháy. Pháo tiếp tục bắn, hầu như không lúc nào ngừng.


Khoảng xế chiều một chiếc xe Mercedes màu đen, cắm cờ Nam Việt Nam màu vàng có ba dải đỏ chạy ngang oai vệ tiến vào sân bay, vượt qua trạm gác đặt lrong một tháp súng đồ sộ bằng thép, phóng thẳng tới trại Davis là nơi từ hai năm nay đang hiện diện tiểu ban quân sự Việt cộng và Bắc Việt trong doanh trại có những gian nhà làm bằng gỗ được thành lập theo Hiệp định Paris. Từ trên xe, một người bước xuống. Đó là đặc phái viên của ông Nguyễn Văn Huyền cựu chủ tịch Hạ triện đã từ chức từ năm 1971 do bất đồng với Nguyên Văn Thiệu. Tướng Minh sau khi nhận chức tổng thống, đã cử ông Nguyễn Văn Huyền làm phó, đặc biệt phụ trách thương lượng với những người gọi là “phía bên kia".


Vị đặc phái viên này được cử tới đây để hỏi các sĩ quan Việt cộng và Bắc Việt, những người suối đêm qua đã phải nằm dưới hầm tránh đạn pháo, những điều kiện để thực hiện ngừng bắn và được trả lời:

- Các ông đã biết cả rồi đó. Chúng tôi đã cho công bố đầy đủ những điều kiện này trên đài Giải phóng trong buổi phát thanh ngày thứ Bảy 26 tháng 4. Ở Sài Gòn, tối nào người ta cũng nghe lén đài phát thanh Giải phóng của Việt cộng và được biết những điều kiện ngừng bắn này gói gọn trong hai điểm:

- Một là, tất cả những người Mỹ phải rút khỏi Nam Việt Nam.

- Hai là, toàn bộ quân đội, cảnh sát và chính quyền Nam Việt Nam phải giải tán.


Đặc phái viên vội quay trở về dinh Độc Lập báo cáo lại câu trả lời rất rõ ràng cụ thể như trên.


Xin chào ông Martin

Cuối buổi chiều, đặc phái viên lại quay lại sân bay Tân Sơn Nhất lần thứ hai, trong khi những chiếc máy bay lên thẳng to tướng của công ty Air America tiếp tục cuộc thao diễn hàng không huyền ảo.

Đại sứ Mỹ Graham Martin trước khi ra đi báo tin muốn gặp vị đại sứ Pháp láng giềng là ông Jean Marie Merillon. Đại sứ Pháp rất ngạc nhiên. Nhưng ông Martin chỉ nói một câu:

- Tôi muốn chào ông trước khi ra đi.

Nói xong, Graham Martin lên máy bay lên thẳng, cất cánh lừ sân thượng sứ quán Mỹ.

Cũng trong lúc này, tướng Nguyễn Cao Kỳ gọi điện thoại tới tướng Minh, nói:

- Phải kháng cự. Ngài không có quyền đầu hàng. Phải chiến đấu tới cùng. Cho tới người cuối cùng. Ngài nghe tôi nói đấy chứ? Đến người cuối...

Tướng Minh đặt ống nghe, không trả lời.

Mỗi khi người Mỹ rời khỏi một căn hộ hoặc một biệt thự là lập tức bọn hôi của xông đến từ khắp mọi nơi trong thành phố. Chúng đẩy cổng, phá vỡ cửa sổ rồi thẳng tay vơ vét. Có thể nói, đây là lũ châu chấu đang ào xuống một đồng lúa ở châu Phi.


Chính tôi đã nhìn thấy tận mắt, bọn này cướp phá trụ sở của "Hội Cơ-đốc giáo Mỹ trợ giúp những người bị nạn”, đặt trong một biệt thự giữa khu phố trung tâm Sài Gòn. Chỉ trong vòng chưa đầy một giờ: mọi vật trong nhà đã bị vét hết, từ các máy chữ, các bìa đựng hồ sơ, bàn ghế, sữa hộp, nước quả hộp, quạt máy, cho đến cả những cuộn giấy vệ sinh.


Cảnh sát để mặc. Còn những binh lính ở vọng gác bên cạnh thì tiếp tay cho lũ trộm cướp hoành hành.

Các tàu sân bay đón đợi ở ngoài khơi

Trời đã xẩm tối, máy bay lên thẳng vẫn quần đảo ầm ỳ trên vùng trời thành phố.

Có tới ba chục sân thượng được sửa sang thành bãi đáp của máy bay lên thẳng. Những bãi này đều được đánh số bằng lân tinh, để máy bay có thể nhìn rõ trong đêm tối. Có nơi còn bố trí cả đèn điện làm tín hiệu. Đôi khi dùng cả đuốc, đóm nữa.

Hàng nghìn người Việt Nam ngóng đợi máy bay suốt nhiều giờ.

Tôi biết, những phi công lái máy bay lên thẳng trong quân đội Nam Việt Nam đã tính toán chuẩn bị mọi việc để đến phút cuối cùng sẽ ra đi cùng với gia đình. Họ đã sửa sang bãi đáp trên sân thượng. Đến giờ hẹn, họ đưa tất cả mọi người đến tầng thượng đã thuê sẵn để dùng trong trường hợp này. Và sau đó, họ phá luôn thang máy để không ai có thể ngăn cản họ ra đi nữa. Rồi máy bay đáp xuống. Tất cả mọi người chui vào trong. Máy bay bốc lên. Trước tiên, bay cao sát nóc nhà. Rồi bay sát mặt biển để tránh súng phòng không của Việt cộng. Ra tới ngoài khơi mới vọt thẳng lên cao, ở vị trí này có thể quan sát thấy những tàu chiến của Hạm đội 7 đang túc trực ở phía xa. Những chiếc tàu này đậu cách Vũng Tàu ba mươi dặm biển. Các máy bay lên thẳng lần lượt đáp xuống boong tàu sân bay. Một số gặp tai nạn. Không có thời gian đề đưa những chiếc máy bay này vào khoang chứa bằng cần cẩu, cũng không còn chỗ để kéo chúng đỗ xếp hàng trên boong tàu đã quá chật. Thế là, sau khi người cuối cùng đã bước xuống khỏi chiếc Chinook, hoặc chiếc Bell, chiếc máy bay lên thẳng này bị vứt luôn xuống biển.


Thành phố bỏ mặc cho cướp phá

Vào lúc đã khuya, tôi chứng kiến một cảnh lạ lùng ở gần nhà hàng Continental. Chính những nhân viên cảnh sát ở trạm gác gần đó vơ vét của cải từ một cư xá lớn của người Mỹ đã bỏ đi. Vào giờ phút khuya khoắt này, họ chú ý đặc biệt đến các đệm "mút" trên giường. Từng người một, theo nhau mang vác, chuyển cẩn thận về đồn cảnh sát.

Đến chín giờ sáng, chiếc máy bay lên thẳng chở nặng cuối cùng mới rời khỏi khu vườn của sứ quán Mỹ. Lập tức, toà nhà bị cướp phá luôn.

Cũng vào giờ phút này. nhiều cảnh điên loạn diễn ra trên bờ sông Sài Gòn. Gần trụ sở Bộ tư lệnh hải quân có tới hàng nghìn người cố trèo lên ba chiếc tàu biển. Cũng như ở Đà Nẵng tháng trước, mọi người đánh nhau để chen một chỗ đi lên chiếc cầu hẹp lên tàu. Nhiều người bám vào thành tàu, vào những chiếc tàu cứu sinh. Đám người dày đặc chen kín cả cầu tàu, khoang tàu.


Vừa lúc đó, một chiếc sà lan chở đạn đi qua. Hàng trăm con người khốn khổ mang hành lý cố chạy đuổi theo. Không cần biết chiếc sà lan này sẽ đi tới đâu, họ cứ nhảy ào lên tàu. Nhưng chiếc sà lan này không đi đâu cả. Nó cứ quay tròn hàng giờ, như là những tàu tuần tiễu siêu tốc, tất cả những họng súng trung liên đều chĩa vào kẻ thù vô hình, trong khi đạn pháo không ngừng bắn tới mỗi lúc một dữ dội.


Tại bến số 5, xa hơn một chút, những cảnh tương tự cũng diễn ra chung quanh bốn hoặc năm chiếc tàu đánh cá. Có những người hãy còn trẻ chĩa súng ngắn vào chủ tàu đòi phải đưa họ ra biển xa.


Nhưng các chủ tàu rất dè dặt khôn ngoan vì biết dòng sông đã bị thả mìn và trước khi ra tới biển Đông tàu của họ có thể bị vỡ tung.

Quả nhiên, chỉ một lúc sau, có một chiếc tàu nhỏ bị nổ vỡ ngay giữa lòng sông.


Một số mặc quần đùi tháo chạy

Đi về phía bến cảng, tôi được chứng kiến cảnh hỗn loạn của đám lính bảo vệ trụ sở Bộ Hải quân. Họ đã thay thường phục để chạy về nhà. Những tốp đi đầu nhảy lên xe máy Honda hoặc xe Jeep phóng thật nhanh. Những kẻ chậm chân hơn, đi xe đạp hoặc đi bộ, men theo bờ tường. Bọn cuối cùng không còn quần áo để thay nữa. Thế là chúng cởi bỏ quân phục ngay giữa phố, vứt trên đường áo chẽn, quần dài của bộ quân phục, chỉ còn may-ô quần đùi, cứ thế chạy, giữa lúc trận mưa gió mùa đổ ập xuống.


Đường phố chất đầy mũ sắt, quần áo lính, áo nịt chống đạn, súng trường, băng đạn, lựu đạn, vỏ đạn, giày nhà binh.

Các ngõ ngách Sài Gòn cũng vậy.

Hàng chục ngàn binh lính và sĩ quan đã vút vũ khí, vội vã chuyển thành dân thường.

Từng phút, từng phút một, tôi nhìn thấy tan rã ngay dưới mắt mình, một trong những đội quân được trang bị nhiều vũ khí nhất thế giới, một bộ máy chiến tranh trị giá hàng nhiều triệu đô la trích từ khoản thuế đóng góp của người Mỹ.


Một cảnh sát tự sát

Vào lúc mười một giờ rưỡi, một tiếng súng nổ gọn trước toà nhà Quốc hội. Một người nằm ngã vật dưới chân đài tử sĩ Tôi vội chạy đến. Đó là đại tá Hổ.

Hổ là sĩ quan chỉ huy cảnh sát mà tôi đã gặp ở khách sạn. Buổi tối nào, khi trở về phòng, tôi cũng nói chuyện đôi ba câu với người sĩ quan này. Hổ nói với tôi, anh không thể nào chịu đựng nổi khi nhìn thấy đất nước của anh trở thành cộng sản.

Hiểu rằng tất cả đã mất, quân Việt đã tới cửa ngõ thành phố, Hổ đi tới đài tử sĩ trước lối vào đường Lê Lợi. Anh bỏ mũ, rút súng ngắn, tự bắn một viên đạn vào đầu.

Hổ nằm ngã vật, thẳng cẳng, mũ đặt trên ngực. Từ vết thương ghê gớm trên vành tay trái, máu trào ra, có lẫn cả một ít óc trắng.

Hổ hãy còn thở gấp, rất ngắn, khi tôi đến nơi.

46
XE TĂNG TIẾN VÀO

Thứ Tư 30 tháng 4

Lúc này chuông đồng hồ lớn, hình tròn, trên mặt nhà thờ Sài Gòn xây bằng gạch màu hồng, chưa điểm mười hai giờ trưa.

Vài người đi bộ rảo bước trên đại lộ Thống Nhất. Đó là con đường lớn dẫn đến dinh Tổng thống. Trên các vỉa hè nhan nhản những đống mũ sắt, súng Mỹ, túi đạn súng trường, băng đạn súng máy. Mặt đường ngổn ngang những xe cộ bị vứt bỏ, nhiều chiếc không còn bánh, không còn ghế, không còn xăng, không còn bu-gi... Bọn hôi của đã qua đây.


Tiếng pháo lớn đã hoàn toàn ngừng nổ sau khi đạn nã suốt đêm. Đến rạng sáng, đạn pháo đã rơi gần trung tâm thành phố Sài Gòn. Đạn rốc két cũng đã ngừng bắn.


Sự yên lặng lạ lùng này là thế nào? Phải chăng đây là một đợt ngừng để chuẩn bị cho trận tiến công cuối cùng?

Đột nhiên, mọi người nghe thấy tiếng động cơ nặng chen lẫn tiếng bánh xích nghiến trên đường. Tôi vội quay lại. Trước mặt tôi xuất hiện một chiếc xe tăng hạng nặng T54 do Liên Xô chế tạo. Trên xe có cắm một lá cờ Việt cộng rất lớn gồm hai dải ngang màu xanh và đỏ, chính giữa có một ngôi sao vàng.


Chiếc cổng sắt bị húc đổ

Theo sau chiếc xe tăng cắm cờ đi đầu là mười bốn chiếc xe tăng nữa. toàn loại nặng năm mươi tấn chiếc nào cũng cắm cờ như vậy. Giữa những con quái vật khổng lồ bằng thép này là những chiếc xe chỉ huy cắm cờ hiệu, đi xen kẽ. Nhưng không thấy có một lá cờ Bắc Việt nào.


Các tháp xe tăng đều mở toang, để lộ những nòng súng dài và những lá chắn phủ bụi, gài các cành cây, các tàu dừa, các cọng rơm vàng nhạt.

Trên mỗi chiếc xe tăng đều có những binh lính tóc đen cắt ngắn, quân phục màu xanh bằng vải thô, mũ cứng cũng màu xanh, trên tay có đeo băng đỏ, cũng có người chỉ đơn giản gài một miếng vải đỏ vào vai. Tất cả đều trẻ tuổi, có người rất trẻ. Phần lớn đi dép cao su, làm bằng những mảnh lốp tô màu đen. Đó là những "đôi dép Bác Hồ" nổi tiếng. Vài người đi chân không.


Chiếc xe tăng đi đầu đã tới cổng dinh Độc Lập, nơi Thiệu đã sống nhiều năm. Chiếc xe tăng tốc độ một chút rồi húc cánh cổng sắt. Vài quả đạn pháo và vài loạt trung liên từ xe tăng bắn lên trời. Hẳn đây là những loạt đạn cảnh cáo hoặc uy hiếp, bởi vì đội vệ binh gác cổng đã xếp súng trên thềm và giơ cao tay xin hàng.
Chiếc xe đầu đàn dừng lại. Những chiếc xe khác chiếm lĩnh các vị trí trong sân cỏ. Vài phút trôi qua. Chợt trên nóc dinh xuất hiện vài người lính bé nhỏ, mặc quân phục xanh. Họ kéo lá cờ vàng có ba sọc đỏ tụt xuống rồi kéo cờ của họ lên.


Tôi đang chờ các quý ngài ở đây”

Các sĩ quan cấp cao cũng đã rời khỏi xe chỉ huy. Có binh linh vũ trang hộ tống, họ bước nhanh trên bậc thềm rồi lọt vào phòng làm việc của tướng Minh.

- Tôi đang chờ các quý ngài ở đây.

Đó là lời phát biểu của tướng Dương Văn Minh trên đài phái thanh Sài Gòn vào lúc mười giờ sáng, trong lời kêu gọi gửi tới đối phương đang sẵn sàng mở trận tổng tiến công vào thành phố.


Minh cũng đã ra lệnh cho tất cả các đơn vị quân đội Nam Việt Nam ngừng chiến đấu. Giờ đây, ông ngồi yên trong gian phòng tổng thống rộng rãi, như đã báo tin. Thái độ rất bình tĩnh, ông trao đổi vài lời với những cộng sự viên và vài bộ trưởng mà ông đã kịp thời chỉ định hôm trước.


Các sĩ quan Việt kéo vào, tiến thẳng đến chỗ Minh đang đứng. Trong số những sĩ quan đến đây với tư cách những người chiến thắng, không ai đeo cấp hiệu phù hiệu, có cả một số thành viên trong tổ chức Việt cộng hoạt động bí mật ở Sài Gòn biết rất rõ tướng Minh. Họ lại gần ông và nói:

- Ông đã góp phần lớn làm cho Sài Gòn khỏi bị huỷ diệt. Chúng tôi cám ơn.

Tướng Minh trả lời, ông xin hàng và trông cậy vào sự rộng lượng của những người chiến thắng1 (Đoạn này, tác giả không được chứng kiến. chỉ nghe kể lại nên có chi tiết không thật chính xác. (ND)).
Mấy hôm trước đây, liệu tướng Minh có nghĩ là có khả năng thương lượng hay không? Tôi không tin. Khi tôi gặp tướng Minh trước ngày ông nhậm chức tổng thống, tôi có cảm tưởng ông nghĩ không có khả năng tránh khỏi một sự đầu hàng. Nhưng chắc chắn ông hy vọng có thời gian thảo luận về những điều kiện mềm dẻo.


Bộ binh tới

Phía sau xe tăng là đơn vị bộ binh cơ giới. Binh lính ngồi chập bên trên những chiếc xe lải Molotova nguỵ trang bằng nhiều cành cây. Một số xe có bố trí trọng liên hai nòng và bốn nòng có tốc độ bắn nhanh.


Chiếc xe Molotova đầu tiên dừng lại ở đầu phố Pasteur. Một phần binh lính từ trên xe nhảy xuống, tiến thận trọng, men theo bờ đường, đầu ngọn súng hướng về các cửa sổ và các mái nhà. Chiếc xe tải từ từ lăn bánh theo. Người lính giữ khẩu trọng liên trên xe sẵn sàng nhả đạn yểm trợ bảo vệ cho toán lính trinh sáit trong trường hợp có vài kẻ bắn tỉa từ sân gác một tòa nhà nào đó bắn xuống.


Nếu có một dúm lính Sài Gòn tuyệt vọng muốn tiến hành một trận chống cự cuối cùng, xuất phát từ một chiếc xe bọc thép bỏ lại bên đường, một hầm cố thủ bê tông, hoặc một trong số những chiến luỹ đắp bằng bao tải đựng cát rải rác khắp các đường phố, thì lính chiến thắng sẽ sử dụng luôn khẩu súng phóng lựu đạn RPC7 có nòng dài bắn ra những quả đạn hình phễu có chứa chất nổ với sức công phá lớn.


Một tiếng thở phào nhẹ nhõm

Phía xa, vẫn có tiếng súng nổ từng đợt, xen kẽ với những loạt đạn trung liên 12,7 kéo dài là tiếng sủa ngắn gọn của pháo đặt trên xe tăng.

Nhưng trên đường phố Pasteur là nơi tôi đứng, tất cả đều yên tĩnh. Trước khi xuất hiện người chiến binh đầu tiễn trong bộ quân phục màu xanh lá cây, dân chúng tại khu phố này cũng như tại tất cả các khu phố khác trong Sài Gòn đã treo cờ Việt cộng lên các khung cửa sổ. Sau đó, họ đã khôn ngoan dát trẻ con vào nhà rồi đóng cửa ra vào lại.


Khi thấy không khí trôi qua thanh bình, mọi người mới lại bắt đầu ra khỏi cửa. Những người lính quân phục màu xanh giơ lay vẫy chào họ.


Trẻ con là những người đầu tiên đáp lại. Rồi đến đàn òng, đàn bà. Mọi người tập hợp thành từng nhóm trên hè. Sau đó mọi người bắt tay nhau, dân chúng nạm tay những người lính mà toàn thành phố gọi là "Bộ đội", có nghĩa là những binh lính miền Bắc.


Tôi không nhìn thấy những cảnh hồ hởi như khi nước Pháp được giải phóng: có những tiếng reo hò, những bàn tay vẫy cờ. những cô gái ôm hôn những anh lính, những người đàn ông mang chai rượu chạy đến... Ở đây không có những cảnh đó nhưng đôi bên nói chuyện với nhau rất thân tình. Có cả một sự tò mò giữa hai phía và ở bất cứ nơi nào, hơn ba triệu dân trong thành phố cũng thở phào một hơi dài nhẹ nhõm.
Sài Gòn không bị thiêu huỷ. Và chiến tranh đã kết thúc.

47
ĐỘI QUÂN CỦA BẮC VIỆT NAM

Thứ Tư 30 tháng 4

Một loạt súng nổ đột ngột ngay gần chồ tôi.

Đường phố Pasteur vụt vắng tanh dân chúng. Trong khi đó, những người lính bộ đội nấp phía sau cây me hoặc trong góc cửa, giương súng bắn Về phía trụ sở Bộ Tư pháp là nơi có vẻ như đang có một ổ đề kháng.
Tôi nhìn thấy những người lính này nhảy vọt từng đợt lên phía trước. Súng máy nhả đạn. Vài quả lựu đạn nổ. Rồi tất cả lại im lặng, chỉ nghe thấy liếng những đoàn xe chạy vọng lại từ trung tâm thành phố.


Không một phát súng nào bắn vào trụ sở Bộ Quốc phòng mà quân đội Sài Gòn đã biến thành những pháo đài, có ụ súng và những lớp hàng rào dây thép gai. Khi tổ xung kích được lệnh tiến vào chiếm lĩnh, họ chỉ thấy có một đại tá. Người này đang ngồi một mình trong phòng làm việc của Bộ trưởng, để tiến hành những thủ tục bàn giao, ông ta nộp súng ngắn, nói một câu theo nghi thức, và thế là lễ bàn giao kết thúc.


Những đội FFI và FTP ở Nam Việt Nam

Trong các phố ở trung tâm Sài Gòn bắt đầu xuất hiện những người dân đeo băng vải đỏ trên cánh tay áo. Đó là lực lượng vũ trang hoạt động bí mật trong thành phố, giống như các đội FFI và FTP của Pháp thời kháng chiến chống phái xít Đức1 (FFI: tên gọi tắt "lực lượng kháng chiến trong nội địa Pháp" (thuộc phía theo De Gaulle); FTP: lực lượng dân quân du kích do đảng Cộng sán Pháp tổ chức và chỉ đạo (ND)).

Họ là lực lượng "giải phóng”.

Những người này được trang bị súng trường M.16, súng ngắn, lựu đạn, liều liên. Họ chỉ việc cúi xuống nhặt là kiếm được các thứ vũ khí này trên đường phố. Số súng đạn lính Sài Gòn vứt lại khi tháo chạy có thể trang bị cho cả một sư đoàn bộ binh.


Một bạn đồng nghiệp của tôi là Philippe Marcovici nhặt được cả một chiếc mũ lưỡi trai có gắn cấp hiệu thiếu tướng và một chiếc bật lửa có ghi chữ "quà tặng của tổng thống” Thiệu.

Phải chăng, như một số người khẳng định, những tổ vũ trang Việt cộng này đã xuất hiện trong thành phố trước khi những chiếc xe tăng đầu tiên của đội quân chủ lực tiến vào? Riêng tôi, tôi không được nhìn thấy tận mắt. Nhưng lôi tin chắc là những người táo bạo nhất trong bọn họ đã ra khỏi vòng bí mật, lộ rõ mặt và chiếm đoạt vũ khí - nếu họ chưa có - trước khi quân chủ lực kéo lới. Ít nhất cũng tại một số khu phố.


Dù thế nào đi nữa, chúng tôi cũng biết lịch sử chính thức sẽ ghi là "dân chúng Sài Gòn đã nổi dậy khi các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng tiến đến gần”. Người ta cũng sẽ khẳng định, hành động chung này đã góp phần đập tan “bè lũ Mỹ - Thiệu”. Người ta sẽ không tách rời vai trò của nhân dân với quân đội, bởi vì bản thân quân đội cũng từ nhân dân mà ra.


Riêng về phân cá nhân, tôi lo sợ đặt ra câu hỏi thật sự này: có bao nhiêu người kháng chiến hoạt động bí mật tại Sài Gòn sau bao nhiêu năm dưới chế độ độc tài quân sự, bị vây ráp, bắt giữ, tù đầy, tra tấn, bắn giết? Tôi chắc rằng rất ít1 (Đây hoàn toàn do tác giả suy luận, không nêu được dẫn chứng cụ thể). Nhưng đội ngũ này đột nhiên tăng vọt, khi mọi nguy hiểm không còn nữa.


Chiếm lĩnh trụ sở quốc hội

Trong khi đội quân chủ lực tuần tự tiến từ khu phố này sang khu phố khác nhằm chiếm đóng khu vực dân cư rộng lớn, những lực lượng kháng chiến bí mật trong nội thành lúc này cũng chuyển sang hoạt động công khai, reo hò ầm ỹ các phố, đi trên những chiếc xe Jeep mà các nhân viên chính phủ đã bỏ lại rất nhiều.
Bên hoạt động. Bên gây náo động.

Quân chủ lực thực hiện một kế hoạch quân sự không chậm trễ, không ngần ngại. Quân nội thành hoạt động nhằm bộc lộ sự có mặt của mình.

Một nhóm những chiến binh không quân phục này tiến đến trước trụ sở Quốc hội. Họ cố xô đổ cánh cổng đã khoá nhưng không được. Một người mặc quần xanh thẫm, áo sơ mi xanh nhạt, đi chân đất liền trèo lên mặt tường phía trước, tháo lá cờ Nam Việt Nam vứt xuống đất, thay bằng lá cờ Việt cộng... Mọi người xúm lại nhìn.


Lại có tiếng súng nổ. Đám đông dân chúng giải tán. Trên quảng trường nhanh chóng vắng hết dân, chỉ còn lại những chiến binh, đứng hoặc ngồi, súng chĩa lên nóc nhà. Tiếng súng có vẻ như bắn ra từ toà thị chính. Người ta nghe thấy có hai hoặc ba tiếng nổ lớn. Rồi im bặt. Lũ trẻ con lại bắt đầu chạy nhảy nô đùa giữa những lớp rào dây thép gai.


Dọc phố Lê Lợi là đại lộ chính của khu trung tâm, có một đoàn tù binh mặc quần áo loang lổ ngồi kéo dài. Trong số này có khoảng gần mười người tù mặc thường phục. Lính Việt cộng đứng gác. Một người ra lệnh. Đoàn tù binh vội xếp thành hàng một, nối nhau đi về phía nhà ga. Chỉ có hai lính áp giải.


Đoàn xe tăng không ngớt

Cùng với thời gian, bộ đội kéo vào thành phố mỗi lúc một đông hơn.

Tất cả các đại lộ đều thấy xuất hiện những đoàn quân dẫn đầu là các xe tăng T54, pháo tự hành, pháo cao xạ, xe bánh xích, xe tải, xe liên lạc. Chiếc xe nào cũng chật lèn binh lính, trang bị nhiều loại súng máy, súng phóng lựu đạn phóng rốc két, súng cối hạng nhẹ. Đây không phải là đội quân du kích của Mặt trận dân tộc giải phóng, được tuyển mộ ở miền Nam Việt Nam, xuất phát từ những đồng ruộng và rừng rú kéo về chiếm lĩnh thành phố.


Đây là cả một đội quân của Bắc Việt Nam, trang bị mạnh mẽ các vũ khí Xô Viết tối tân, tiến vào Sài Gòn, từng đại đội này đến đại đội khác, tiểu đoàn này đến tiểu đoàn khác.


Chúng tôi đã được biết, tất cả hai mươi ba sư đoàn Bắc Việt này, tức là toàn bộ khối chủ lực tác chiến của tướng Giáp từ vài ngày trước đã hình thành một vòng vây thép cách Sài Gòn khoảng ba mươi kilômét.


Nhưng, đó mới là chuyện được biết. Còn bây giờ thì được nhìn tận mắt những đơn vị bộ binh cơ giới hầu như vô tận này.

Chỉ riêng có tướng Pháp Vannuxem mà tôi tình cờ được gặp là không ngạc nhiên. Ông nói:

- Chà! Họ chỉ có khoảng hơn hai đại đội xe tăng là cùng. Vẫn những chiếc xe này chạy ra chạy vào đấy mà!...


Nhưng khi đi thu thập tin tức thì được biết, đã có hơn hai sư đoàn xe tăng kéo vào thành phố. Cũng cái kiểu nói như thế này, khoảng chưa đầy nửa tháng trước, tôi đã gặp một sĩ quan Pháp chiến đấu chống quân Việt ở Bắc kỳ trung cuộc chiến tranh Việt Pháp, nói:

- Chỉ cần cho tôi hai đại đội cảnh sát vũ trang cơ động là tôi giành lại Xuân Lộc được ngay?


Thành phố Hồ Chí Minh

Trên túi áo sơ mi cộc tay, từ hai hôm nay tôi vẫn gài một tấm biển nhỏ, một bên là hình lá cờ Pháp với ba màu xanh, trắng, đỏ, một bên là dòng chữ viết bằng tiếng Việt: “Báo chí Pháp".


Khi nhìn thấy hàng chữ này, những người lính Bắc Việt mà tôi gặp trên hè phố đã tiến lại gần, tươi cười bắt tay tòi. Họ nói bằng tiếng Việt, hỏi tôi: "Pháp?” rồi chỉ vào ngực tôi hỏi tiếp: "Pari?". Tôi gật đầu. Họ có vẻ hài lòng. Tôi cũng chỉ vào ngực họ, hỏi “Hà Nội". Họ công nhận và phá lên cười như con nít.


Tôi viết những dòng này vào lúc trời đã tối, dưới ánh sáng một ngọn đèn dầu. Từ lúc 13 giờ 40 phút đã tắt điện, mọi liên lạc vô tuyến đường dài cũng đã bị cắt. Sài Gòn như bị cô lập với thế giới bên ngoài cho lới bao giờ? Chúng tôi không được biết chút gì. Điện vẫn bị cắt. Từng đoàn dài xe tăng bật đèn sáng quắc, tiếp tục kéo vào thành phố. Tôi nhìn thấy những chiếc xe này đi ngay ở phía dưới cửa sổ, rung chuyển cả toà nhà.
Dù sao, ít nhất trong đêm nay, nếu không ngủ được thì cũng không nghe thấy liếng rốc két.
Đài báo tin, Sài Gòn sẽ mang tên Hồ Chí Minh.

48
LIÊN HOAN NHÂN DÂN TRONG THÀNH PHỐ

Thứ Năm 1 tháng 5

Từ lúc rạng đông, mọi người trong thành phố đã xuống đường. Hàng nghìn người đi bộ, đi xe đạp, xe máy, chỉ có một ít đi xe ô tô, vì thiếu xăng chăng?

Họ đi đâu thế này? Họ đi về phía dinh Độc Lập để được nhìn thật gần những anh lính bé nhỏ, mặc quân phục màu xanh lá cây.

Khoảng đất rộng rợp bóng cây phía trước những hàng rào sắt, đã có những chiếc xe tăng, xe bọc thép chở quân, pháo cao xạ. Binh lính nằm ngủ trên cỏ, ngay bên cạnh đám khí tài ghê gớm này. Bây giờ, họ đã trở dậy, thổi cơm, giặt giũ. Một số lau súng.


Hà Nội - Hà Nội - Hà Nội

Dân Sài Gòn đã hết mọi e ngại, sán lại bắt chuyện với các chú 'bộ đội". Bao giờ cũng là câu hỏi đầu tiên, không thay đổi:

- Chú từ đâu tới đó?

Câu trả lời lúc nào cũng giống nhau:

- Hà Nội. Những anh lính này thuộc các đơn vị xe bọc thép Bắc Việt, đại đa số là người xứ Bắc kỳ.

Nói chuyện với những người tò mò đang vây quanh, những người lính này kể lại cuộc hành quân kéo dài gần hai tháng, từ vĩ tuyến 17 đến tận đồng bằng sông Cửu Long. Họ biểu diễn thao tác loại súng tiểu liên Trung Quốc AK47. Họ tháo, lắp không biết mệt loại súng máy Xô Viết Kalachnikov. Họ giải thích cách bắn súng phóng rốc két RPG7, một thứ vũ khí cá nhân, một người điều khiển, đạn có thể khoan thủng vỏ thép xe tăng. Con gái, con trai đám dân Sài Gòn trèo lên xe tăng T54, lên xe tải Molotova, lên cả pháo cao xạ, được các pháo thủ biểu diễn cho xem cách điều khiển nhằm bắn.


Hố ngăn cách

Trong khắp thành phố, nơi nào cũng có cảnh thân ái đấy tình anh em như vậy.

Những người thợ may cờ Việt cộng, dù theo chủ nghĩa cơ hội hay là xuất phát từ niềm tin, đều làm việc hết công suất. Một người bạn đồng nghiệp của tôi là Yves Nguy Bergès, cho rằng màu vàng của những lá cờ Nam Việt Nam lúc này được sử dụng để may ngôi sao vàng trên quốc kỳ mới.


Tại trụ sở Quốc hội tổ chức một cuộc mít-tinh của giới viên chức. Một quan chức đứng dưới tấm hình chân dung Hồ Chí Minh, giải thích cho mọi người rõ, công việc sẽ tiếp tục vào ngày mai. Tan cuộc họp, từng người xin ghi tên tiếp tục đi làm. Những người này được nhận mỗi người một chứng chỉ. Tại Sở báo chí, một người đội mũ cát két màu xám nhạt đánh máy danh sách tất cả những nhà báo tới trình diện. Người cán bộ này nói, đây chỉ là một hình thức đăng ký đơn giản. Nhưng không có huấn thị gì đối với những đặc phái viên hoặc phóng viên thường trú là người nước ngoài, có tới một trăm hai mươi nhăm người.


Trước trung tâm bưu điện, các cán bộ Mặt trận giải phóng tổ chức cuộc mít tinh đầu tiên. Họ đi tới bằng xe Jeep, căng biểu ngữ, đọc một bài phát biểu ngắn và mời dân chúng đi diễu hành tới dinh Độc Lập, lúc này đã vắng người.


Hàng ngàn cuộc nói chuyện chứng minh với tôi là niềm vui lập lại hoà bình đang hoà trong tình cảm chung. Chỉ có một số rất ít dân lộ vẻ không hồ hởi. Những người lính nhỏ nhắn mặc quân phục màu xanh lá cây, mà người ta gọi là “các chú giải phóng", nhất định là những người anh em cùng giống nòi.

Nhưng, trong xã hội, vẫn còn hố ngăn cách.


Những trận chiến đấu cuối cùng

Niềm vui không đến với tất cả mọi gia đình ở Sài Gòn. Những giờ phút cuối cùng của chiến tranh lại đẫm máu hơn người ta tưởng. Dần dà, khi đi trong khu dân cư và hỏi chuyện nhiều người dân mới phát hiện được những sự kiện chưa biết.


Tại sân bay Tân Sơn Nhất, một đơn vị lính dù đã chiến đấu quyết liệt tới cùng, phá huỷ năm xe tăng Bắc Việt, khung xe vẫn còn âm ỷ bốc cháy. Tại Gia Định, Chợ Lớn và nhiều khu phố khác, chung quanh các trại lính và gần Tổng nha cảnh sát vài nhóm lính đã tiến hành một trận đánh cuối cùng vì danh dự nhà binh. Đôi khi, quân tiến công phải diều động xe bọc thép tới để thanh loàn những ổ kháng chiến cuối cùng này. Ngoài ra, một máy bay có cánh và một máy bay lên thẳng bị rơi ngay giữa khu dân cư đã gây ra nhiều thiệt hại.
Số người chết chưa có thống kê chính thức, nhưng những người bị thương thì tràn ngập các bệnh viện.
Thỉnh thoảng vẫn còn nghe thấy có tiếng nổ lớn ở phía xa. Đó là những kho đạn. Vào buổi tối việc phá huỷ một kho bom ở căn cứ không quân Biên Hoà đã làm vọt lên, giữa những ruộng lúa, những cột khói hình nấm như bom nguyên tử. Người ta bảo: “Đó là loại bom CBU phát nổ”.


Vào cuối buổi chiều, tôi thấy có nhiều xe tải Molotova chở lính hải quân tới trụ sở Bộ tư lệnh hải quân. Tôi hỏi:

- Các anh từ đâu đến đây?

- Từ Hà Nội. Chúng tôi là bộ đội hải quân miền Bắc Việt Nam.

Những người lính thuỷ này vừa mới vượt một ngàn tám trăm kilômet bằng xe tải trong bốn ngày bốn đêm. Có lẽ họ đang tìm chỗ ngủ. Một số leo lên các thành chắn, duỗi chân, nắn chân một lúc cho khỏi tê bại rồi lần lượt từng người đi vào các tàu chiến bỏ lại trên sông Sài Gòn.


Khi trời tối, những người chiến thắng vui mừng bắn một loạt pháo hoa chung quanh thành phố. Suất gần một tiếng đồng hồ, những đạn tín hiệu các màu trắng, đỏ, xanh và cả những quả pháo sáng màu vàng, ngày hôm qua vẫn còn dùng trong những trận chiến đấu ban đêm, buộc dù, lơ lửng từ trên cao rơi xuống.

49
SÀI GÒN SUÝT NỮA BỊ HUỶ DIỆT

Thứ Sáu 2 tháng 5

Sự cá cược về số phận Sài Gòn mà nước Pháp đặt ra, chúng tôi đã biết, biết trước khi một số người rõ chuyện rỉ tai chúng tôi. Chính phủ Pháp đã để cho hàng chục ngàn người Pháp giữ nguyên vị trí của mình ở Sài Gòn, điều đó chẳng nói lên rằng, Pháp đã không làm khác được hay sao? Nước Pháp không có khả năng vật chất để di tản những công dân của mình ra khỏi Sài Gòn, không có tiềm lực gần như hạm đội 7 của Mỹ, không có một đội quân máy bay lên thẳng. Tổng thống Pháp Giscard phải quyết định ngay cùng một lúc hai địch thủ đánh nhau trong thành phố. Quyết định này cho phép tổng thống có quyền, và nhất là có khả năng tiếp xúc với ba bên là Hà Nội, Chính phủ Cách mạng lâm thời, Nam Việt Nam, là những nơi pháp có những đại diện ngoại giao, và tiếp xúc với cả đại diện ba bên này tại Paris - Tổng thống Pháp đã nài ép họ, lần lượt hết bên này đến bên khác, thương lượng với nhau. Jean Marie Merillon, được coi là một đại sứ xung kích của Pháp, là đặc phái viên tại chỗ của điện Elysée bên cạnh các nhà chức trách Nam Việt Nam. Cuối cùng, sau khi đã đặt lên bàn cân mạng sống của mười ngàn người Pháp ở Sài Gòn, trong đó chỉ có một phần năm là gốc châu Âu, người ta đã tránh được một trận Stalingrad tại đây.


Nhưng về lý lẽ có thể sẽ không đúng, bởi vì các bên đối địch đều cứng đầu cứng cổ và có tác phong đàm phán lề mề chậm chạp của những người châu Á. Chỉ cần chậm trễ vài giờ là sự cá cược của Pháp có thể dẫn đến thảm hoạ.


Bây giờ, tôi đã được biết, vì đâu chúng tôi đã thoát khỏi cuộc chiến trong thành phố. Một đại uý pháo binh Bắc Việt đã nói với tôi:

- Chúng tôi đã nhận được lệnh bắt đầu bắn phá Sài Gòn ngày thứ Tư 30 tháng 4 nếu không nhận được sự đầu hàng. Chúng tôi đã chia thành phố ra thành ba mươi ô vuông. Mỗi ô vuông là mục tiêu cho một trăm quả rốc két. Chúng tôi sẽ tuần tự bắn phá lần lượt từng ô vuông một. Nói thế, chắc ông hiểu rồi.


Người sĩ quan này không cần nói thêm gì nữa. Sáng nay, lôi đã tới thăm bệnh viện Grall. Tôi đã nhìn thấy rất nhiều người bị thương tới mức người ta phải xếp hai người nằm chung một giường, hoặc đặt nằm trên cáng thương để ở dưới đất.


Đây là một bệnh viện của Pháp. Một thầy thuốc đã dẫn tôi đến phòng gây mê hồi sức. Thật kinh khủng. Có những trẻ nhỏ bị cụt chân cụt tay, một phụ nữ bị bỏng toàn thân, một người lính trẻ bị mù, một người nữa bị đạn vào gáy vẫn còn thoi thóp thở...

Bác sĩ gây mê hồi sức nói với tôi:

- Hôm trước, tướng Phan Văn Thứ chỉ huy sư đoàn Buôn Ma Thuộc quân đội Sài Gòn được đưa tới đây. Ông ta định tự tử bằng cách uống một lọ Nivaquine. Chúng tôi xử trí bằng cách cho ông thở oxy. Nhưng oxy đang thiếu. Chỉ còn lại một íl trong bình cần phải dùng cho ca mổ. Tôi đành phải cắt suất của ông tướng này. Ông ấy đã chết.

Bác sĩ nói thêm:

- Thôi! Thế càng tốt hơn.


Từ thứ Tư 30 tháng 4 ngày nào xe cứu thương cũng đưa tới bệnh viện Grall những người tự sát cần phải cấp cứu. Ở đây người ta chỉ nhìn thấy một số. Còn những người khác. Nhiều người nữa.

Đại tá Hổ là một trường hợp. Hai giờ sau khi tôi nhìn thấy viên chỉ huy cảnh sát này rút súng ngắn bắn vào thái dương, ông được đưa đến bệnh viện Grall và đã chết trên cáng.


Tại nhà "đồng chí" Tạo

Tôi đến Bộ Thông tin. Tại đây, một viên chức trẻ tuổi của chính quyền cũ, sáng hôm nay vừa mới run như cầy sấy trở lại nhiệm sở, dẫn tôi đến gặp ông Bích, giám đốc Sở báo chí, là một người đáng yêu mà tôi đã quen biết.


Nhưng ông Bích đã đi biệt. Trong phòng tôi chỉ nhìn thấy có một chiến sĩ du kích tên là Thanh Long đang ngồi tại một cái bàn giấy có đặt ấm nước trà, một máy điện thoại, một máy chữ và một bản đồ thành phố Sài Gòn có ghi màu đỏ tất cả những trụ sở cần chiếm đóng và kiểm soát Người cán bộ này đeo trên cánh tay một băng vải đỏ ghi chữ H5. ông ta nói:

- Đây là ban đặc biệt phụ trách thông tin.

Chúng tôi vừa mới trao đổi đước vài ba câu thì một người cấp cao hơn, có lính bảo vệ đi kèm, tiến vào phòng. Mọi người gọi ông là "đồng chí Tạo”. Ông ta có cặp mắt sắc, giọng nói cao, thể hiện lòng say mê chiến đấu. ông nói với tôi:

- Hiện nay, thành phố Sài Gòn tạm đặt dưới quyền Uỷ ban quân quản.

- Trong khoảng bao lâu nữa?

- Ô! Việc tiếp quản một đô thị quan trọng như thế này đòi hỏi phải có thời gian.

- Khi nào thì bắt đầu lập uỷ ban hành chính?

- Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ thay thế Uỷ ban quân quản, nhưng không trước ba tháng.

- Ông nói sao?

- Ba tháng.

Đồng chí Tạo có vẻ tin ở lời mình nói. Nhưng liệu ông có biết thật không? Tôi không rõ, vì không biết ông giữ cấp bậc gì, đảm đương chức vụ gì. Phải chăng, ông chỉ đến đây để tiếp quản những ban, phòng của Bộ Thông tin, như tấm bản đồ trải trên bàn ghi dấu? Liệu ông có phụ trách việc cải tổ Bộ Thông tin theo những phương thức mới không? Làm sao tôi biết được.

Tôi hỏi:

- Còn chúng tôi, những nhà báo phương Tây thì ông dự định sẽ làm gì?

- Chúng tôi chưa nhận được những chỉ thị của cấp trên về việc này.

Lời hứa hẹn là như vậy đó?


Du kích rởm

Hồng, một chú bé mười lăm tuổi, nhanh nhẹn, hoạt bát trước kia thường bán những cuốn sách nhỏ, gọi là “sách bỏ túi" của Mỹ trước cửa khách sạn Continental. Nay vừa mới tự cải tổ. Chú kiếm được một chiếc áo chẽn, khoác vào người, đeo thêm một băng đỏ. Chú đã kiếm được một khẩu súng các - bin M16, cả đạn và băng đạn, túi đạn. Thế là chú tự biến đổi thành một lính nhóc, làm luật với đám trẻ con trong khu phố.

Tôi gặp Hồng sau giờ giới nghiêm một lát, tại một ngõ nhỏ gần trụ sở quốc hội. Thằng nhóc cố hăm doạ tôi bằng vũ khí nhưng thấy không đạt kết quả, đã chuyển giọng:

- Ông có tờ giấy bạc một trăm nào không? Từ buổi sáng, tôi chưa có gì nhét vào bụng.

PHẦN SÁU
VIỆC NẮM QUYỀN
Tháng 5 năm 1975

50
CUỘC TỔNG VỆ SINH BẮT ĐẦU

Thứ Bảy 3 tháng 5

Việc nắm quyền đã bắt đầu. Trên đường phố Tự Do xuất hiện một vài bà lao công, miệng ăn trầu, đầu đội nón lá cổ truyền, đẩy các xe bằng tay. Họ quét dọn rác rưởi trên nền vỉa hè, tích luỹ từ hơn một tuần nay để cho lũ chuột cứ đêm tối là ra đấy ăn cỗ.


Nhưng, còn những viên đạn nằm rải rác khắp mọi nơi thì không ai đụng đến. Đã có lệnh, phải để việc này cho bộ đội thu dọn. Nhưng bộ đội vẫn chưa vội vã làm việc này. Tại trụ sở quốc hội, có một đại tá tên là Huỳnh Bá tới công tác, đứng đầu "uỷ ban kiểm tra". Viên sĩ quan cấp cao này hãy còn trẻ, gương mặt thông minh, càng thêm tươi sáng bởi nụ cười hồ hởi, mặc một áo sơ mi cộc tay màu xanh nước biển, quần dài màu xanh lá cây. Sáng nay ông kêu gọi các dân biểu và thượng nghị sĩ của chính quyền cũ tới trình diện. Khoảng sáu chục người có mặt, đều thuộc phái đối lập Thiệu. Còn những phần tử thân Thiệu đã biến hết tất cả.


Bá đọc bài phát biểu trước các cử toạ ngồi chung quanh chiếc bàn hình móng ngựa, trong phòng lớn đại hội đồng. Bài nói của ông Bá được các cựu nghị sĩ vỗ tay hoan nghênh nhiều lần. Phía sau họ có vài bộ đội ngồi nghe. Hẳn đây là những quân nhân vừa từ đồng ruộng hoặc rừng rú tới. Họ có vẻ ngạc nhiên như vừa khám phá ra một cảnh tượng mới mẻ.


Tại khách sạn Majestic là nơi được thông báo sẽ có cuộc họp của nhiều nhân vật cấp cao của chế độ mới, giám đốc cũ nay dưới quyền một người mới đến. Đó là ông Phạm Như Hoành, một cán bộ có nhiều quyền hành về chính trị. Nhân viên khách sạn đã vặn các đồng hồ nhanh lên một giờ, cho phù hợp với giờ giấc Hà Nội.


Tại phòng Thương mại, một uỷ ban nhân danh nhân dân đã nắm quyền. Nhân vật chủ yếu là một nhà nhập khẩu các hoá chất. Sáng hôm nay, ông vừa tiến hành một cuộc họp. Tham dự có đầy đủ cả Chủ tịch lẫn các phó Chủ tịch cũ, rất vui vẻ tươi cười, hoà lẫn tới đám đông các nhà kinh doanh buôn bán và công nghiệp. Sau khi đề nghị vỗ tay hoan hô “các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng”, diễn giả đưa ra ba chủ trương: mở lại hoạt động các cơ sở kinh doanh, không tăng giá; giúp đỡ trong điều kiện có thể những người dân đi lánh nạn và các bộ đội.


Gần Nha chiến tranh tâm lý của chế độ cũ, một nhân vật tới phụ trách các vấn đề thông tấn. Đó là trung tá Sinh. Ông hứa "sẽ nhanh chóng" giải quyết vấn đề các nhà báo nước ngoài còn ở lại Sài Gòn. Tất cả chúng tôi đều có cảm giác ông giữ đúng lời hứa. Nhưng, bao giờ?


Lực lượng “thứ ba"

Trong gian nhà nhỏ chất đầy các pho sách luật học, tôi gặp một trong những phụ nữ có ấn tượng nhất Sài Gòn. Đó là bà Ngô Bá Thành, một cổ động viên không mệt mỏi của "Lực lượng thứ ba". Bà đã có năm bằng tiến sĩ luật ở Pháp, tiến sĩ luật ở Mỹ, nói thành thạo cả hai thứ tiếng Pháp và Anh, nói rất nhanh như súng liên thanh. Người bà ánh lên nét thông minh. Cơ thể nhỏ bé này đã dũng cảm biết bao, đã gầy mòn vì những đau khổ thiếu thốn trong các nhà tù của Thiệu. Bốn đợt bị bắt liên tiếp đã làm cho bà phải sống trong nhà giam tổng cộng năm năm.


Bà là một phụ nữ thời trẻ có thể rất xinh đẹp. Hôm nay, bà mặc một chiếc quần âu đã cũ và một áo sơ mi cộc tay. Miệng bà hé mở để lộ hai hàm răng đen sạm. Mớ tóc đen của bà được tết lại rất cẩn thận, buộc bằng dây chun, như kiểu để tóc của thiếu nữ. Tuy con người bà thể hiện dáng vẻ của những phụ nữ Anh đấu tranh đòi quyền bầu cử, tính chiến đấu của phong trào phụ nữ tự do ở Mỹ và của người phụ trách phong trào xã hội của phụ nữ Pháp. Một sự hỗn hợp đáng ngạc nhiên!


Ngay trong ngày Sài Gòn sụp đổ, bà Ngô Bá Thành tiếp quản luôn cư xá Brinks1 (Cư xá này đã từng được sử dụng làm nơi ở của các sĩ quan không quân Mỹ và đã từng bị đặc công đánh bom), một toà nhà hiện đại người Mỹ đã từng sử dụng một thời gian như một nhà câu lạc bộ, ở gần khách sạn Continental. Bây giờ được chuyển thành trụ sở ủy ban nhân dân, có văn phòng của 35 tổ chức trong "lực lượng thứ ba”.
Sáng hôm nay, bà Ngô Bá Thành rất hài lòng vì tối qua phóng viên truyền hình Hà Nội tới phỏng vấn bà. Trước ống kính, bà đã nhắc lại những lời đã nói nhiều lần: bà đấu tranh nhằm ba mục đích: độc lập dân tộc, Mỹ phải rút về nước, quyền tự quyết của nhân dân Nam Việt Nam. Hai mục tiêu đầu đã thực hiện được, bây giờ là thực hiện mục tiêu thứ ba.

Bà nói:

- Bây giờ, mọi việc đều có thể thực hiện được, nhờ sự hy sinh của các chiến sĩ giải phóng và sự giúp đỡ có tính chất quyết định của miền Bắc Việt Nam, nếu không Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ không thể nào giành được chiến thắng cho sự nghiệp đấu tranh của mình. Giờ của tự do đã điểm. Bây giờ phải tiếp tục đấu tranh để thực hiện được sự chung sống của tất cả các lực lượng chính trị, tất cả các khuynh hướng xã hội, cùng xây dựng nền hoà hợp dân tộc.


Tư pháp nhân dân

Không xa doanh trại to lớn của lính dù, nơi hãy còn ghi nhiều vết tích của những trận chiến đấu cuối cùng, có một người đã lấy cắp xăng trong một chiếc xe tải quân sự. Những binh lính buộc người này phải dùng một chiếc mũ sắt của Mỹ, múc xăng đổ lại vào can chứa, dưới những cặp mắt quan sát của đám người vây quanh.

Sau đó, binh lính đưa người này ra hỏi tội. Người này nói:

- Không phải tôi.

Binh lính hỏi những người chung quanh:

- Tất cả bà con đây có thật nhìn thấy anh ta lấy cắp xăng không?

- Đúng! Đúng hắn đấy.

- Hắn phải xử tội như thế nào?

- Như một tên ăn cắp.

Người đàn ông bị kết tội oà lên khóc nức nở, nói rằng anh ta đang phải nuôi một đàn con. Lính đẩy người này lên xe tải. Trong cơn hoảng loạn, đã ba lần anh ta dập đầu vào thành xe nhưng chỉ có thể làm bươu đầu. Chiếc xe tải nổ máy. Đám đông từ từ giải tán. Kể ra, cũng chẳng cần phải có cảnh tượng này để biết, Sài Gòn vừa bước vào một kỷ nguyên của công lý và trật tự. Thời đại của những ổ điếm, trộm cắp, buôn lậu đã được quyết định kết thúc.


Vĩnh biệt Christian và Michel

Tin đồn mà chúng tôi được biết và nghi ngại từ một tuần nay, đã được các bạn chính thức báo rõ vào chiều tối nay. Christian Hoche của tờ Figaro và Michel Laurent của tờ Gam ma đã chết thật rồi. Họ vừa nhìn thấy hai nấm mộ trên đường đi Xuân Lộc. Một nông dân nói, chính anh ta đã chôn cất hai người châu Âu này.


Christian mới đến Việt Nam được hai ngày. Sáng Chủ Nhật tôi đã nhìn thấy anh lên đường đi viết phóng sự. Anh có nói cho tôi biết địa điểm sẽ tới nhưng lúc đó tôi đã cứng lưỡi không khuyên ngăn anh. Tôi đã không tin có thể sử dụng cái quyền anh cả của người hơn tuổi anh, một người bạn đồng nghiệp trẻ tuổi, đáng yêu.
Còn Michel thì đã tới Sài Gòn trong cùng một chuyến máy bay với tôi. Chúng tôi đã đến khách sạn này trong cùng một chiếc tai. Tối nào tôi cũng nhìn thấy anh trong khách sạn Caravelle, nhẹ nhàng hút những điếu xì gà to tướng mà anh ưa thích. Tối nào tôi cũng bảo anh, anh đang lao vào quá nhiều rủi ro. Nhưng anh muốn chụp những tấm ảnh độc đáo, xung kích, anh lặng lẽ trả lời tôi: “có thế mới bán được".


Cả hai người đều đã bị chết ngay trong ngôi làng nhỏ mà trước đó vài hôm tôi đã tới, ngay sát gần vị trí đặt pháo 105.

51
MỘT SỰ KỲ DIỆU

Chủ Nhật, 4 tháng 5

Jean Pouget (Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, Jean Pouget là sĩ quan luỹ tùng của tướng Navane, đã nhảy dù xuống chiến đấu trên đồi A1, bị bắt làm tù binh rồi được trả lại tự do, tiếp tục viết sách, viết báo về chiến tranh Việt Nam) đã lên đường đi Xuân Lộc cùng với vài nhà báo khác. Họ đã phát hiện thấy hai ngôi mộ và tổ chức khai quật. Trong một ngôi mộ có thi hài Michel Laurent. Nhưng trong ngôi mộ thứ hai lại là xác một Việt cộng đi dép lốp cao su.


Pouget nói, nếu không thấy xác Christian Hoche trong hố huyệt này thì có thể anh nằm ở một trong số các ngôi mộ chung quanh. Anh tiếp tục sứ mệnh tang tóc rùng rợn của mình. Nhưng vẫn không tìm thấy một dấu vết nào của Christian.


Trở về Sài Gòn, Pouget gặp một chủ trại người Pháp, có giấy thông hành và biết nói tiếng Việt, đã từng đi điều tra tại thôn ấp mà Michel bị chết. Anh tìm gặp lần lượt từng người, hết người này đến người khác, hỏi thăm các nông dân, cuối cùng đã tới được một bệnh viện dã chiến cách đó khoảng sáu chục kilômét, gặp lại Christian đang còn sống.


Hai giờ sau, tôi gặp lại Christian trong phòng của Franchini ở khách sạn Continental. Anh đang ngồi uống rượu Chivas với một vẻ khoái trí rõ rệt. Đúng là Christian đã thoát chết một cách kỳ diệu. Một viên đạn AK47 đã bắn trúng đùi Christian ở phần mềm, không xuyên ra phía sau, cũng không đụng tới xương. Một viên đạn khác bắn trúng cổ, xuyên ra phía sau, không đụng vào hàm. Christian nằm yên trong hố, trong khi Michel bị ba viên đạn vào lưng và một viên đạn vào gáy, bị chết sau cơn hấp hối ngắn. Khi quân Việt xông tới, Christian đứng dậy, giơ cao hai tay lên trời. Anh nói:

- Nếu mình bị thương nặng, có thể chết bỏ xác rồi. Nhưng mình vẫn còn tập tễnh đi được và đã phải đi theo Việt cộng tới sáu mươi kilômét. Thật là cực hình. Mình đi sau cùng, ở đuôi hàng quân. Cẳng chân nóng ran kinh khủng. Mỗi lần gặp một toán lính đi ngược chiều lại bị đánh và đập vài báng súng. Họ tưởng mình là một gián điệp Mỹ. Cuối cùng, tới một nhà tranh được dùng làm trạm quân y trong rừng. Họ mổ đùi để gắp đạn, nhưng không có thuốc tê nên đau khủng khiếp. Rồi mảnh thịt rách dưới mặt được khâu lại. Thế là mình nằm liệt dưới bóng mái tôn, tự nhủ, có lẽ phải hơn một tuần nữa các bạn mới tìm thấy...


Sự hy sinh vô ích của đám dân vệ đạo Cơ-đốc

Chrislian và Michel đều mặc thường phục. Việt cộng không bao giờ bắn vào những người không phải là lính chiến đấu. Nhưng cuộc chiến tranh nào cũng có những ngoại lệ.

Đó là điều tôi muốn viết khi tôi được biết có một cuộc chiến đã xảy ra trong khu vực. Những cuộc giao tranh cuối cùng không phải đã xảy ra giữa các đơn vị quân đội chính quy Nam Việt mà là do các dân vệ theo đạo Cơ-đốc tiến hành. Điều không may là Michel và Christian đã bị kẹt giữa hai luồng đạn của Việt cộng đang tiến đến và của những dân vệ theo đạo Thiên Chúa mặc thường phục đang cố ngăn chặn.


Bị các cha cố nhồi sọ chủ nghĩa cuồng tín, những dân vệ chừng mười bốn mười lăm buổi này, mang theo lá cờ vàng và trắng của Vatican đã chiến đấu rất quyết liệt ở vùng Hố Nai. Với những chai xăng, những lựu đạn chống tăng, bọn dân vệ này đã tiêu diệt được một số xe tăng T54 và xông lên những xe tải để chém giết những binh lính Bắc Việt ngồi chật lèn trong đó. Như trong cuốn phim truyện Cây cầu do Nam Tư sản xuất, bọn thiếu niên dân vệ này là người gốc ở xứ Bắc kỳ di cư vào Nam từ năm 1954, kịch liệt chống cộng. Quân đội Thiệu đã bỏ đi từ lâu, để lại khẩu pháo 105 để bọn dân vệ này muốn bắn thế nào thì bắn. Những tên sống sót cuối cùng trong trận chiến đấu tuyệt vọng này, khi bị quân Việt tìm thấy trong các hố hào và những căn nhà đổ, đã bị đưa đi xử tội.


Đồng chí Thượng tướng

Đài phát thanh truyền đi bản danh sách "uỷ ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định" vừa thành lập. Uỷ ban này gồm một Chủ tịch, năm Phó Chủ tịch và năm uỷ viên. Chủ tịch uỷ ban là Thượng tướng Trần Văn Trà. Hai năm trước tôi đã gặp ông, khi ông đứng đầu phái đoàn Việt cộng tại tiểu ban quân sự được tổ chức theo các hiệp định Paris.


Tướng Trà 57 tuổi, là một trong những gương mặt quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Ông đã từng là bí thư chính trị và tư lệnh quân sự Việt Minh tại Sài Gòn năm 1946. Năm 1954, sau chiến dịch Điện Biên Phủ, ông ra Hà Nội bổ túc nghiệp vụ. Sau đó, người ta thấy ông làm phó cho tổng tư lệnh ở miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai: chiến tranh chống Mỹ. Năm 1968 ông tổ chức cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân. Sau đó, ông xuất hiện ở An Lộc. Tóm lại, đây là một trong những nhân vật chủ chốt suốt ba thập kỷ, có lẽ là nhân vật số 3 trong hệ thống quân sự sau tướng Giáp và tướng Văn Tiến Dũng, 57 tuổi, tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam từ năm 1953.


Nói chuyện với một lính gác

Đã mười giờ tối, tại một góc quán cà phê Bò đá:

- Này, chú lính. Chú làm gì trong đêm với khẩu súng Tàu và mấy quả lựu đạn Mỹ này?

- Tôi gác phố.

- Nhưng có gì để gác đâu?

- Người ta bảo, phải bảo vệ thành phố chống lại tay chân bè lũ Mỹ - Thiệu.

- Đúng đấy. Tối nào tôi cũng nghe đài Giảl phóng nói như vậy. Nhưng, như chú nói, Mỹ cút thì bọn bù nhìn cũng biến hết rồi.

- Người ta bảo tôi canh gác ngã tư này thì tôi cứ đứng gác.

- Chú lính này! Chú đi khỏi nhà lâu chưa?

- Ba năm rồi.

- Quê chú ở đâu?

- Ở một làng gần Hà Nội.

- Chú bao nhiêu tuổi rồi?

- Chẵn hai mươi.

- Ba năm qua được mấy lần nghỉ phép?

- Chưa một lần nào. - Thế chú nhận được bao nhiêu thư từ gia đình gửi tới?

- Hai.

- Ít quá chú lính ạ?

- Chiến tranh mà!

Chú rể tương lai trẻ tuổi

Tại khách sạn Caravelle, tôi gặp T, một người Pháp 25 tuổi vừa đến trong chuyến máy bay cuối cùng. Tôi nghĩ, anh là một nhà báo. Anh là một vị hôn phu, tới đây chờ ngày cưới vợ. Anh tới được Sài Gòn là nhờ sự giúp đỡ của một nhà ngoại giao để làm lễ thành hôn với một cô gái việt Nam trẻ tuổi. Đây là một lễ cưới bình thường nhưng nhằm một mục đích duy nhất là tạo điều kiện cho cô gái Việt ra khỏi đất nước một cách hợp pháp.


Chờ đợi lâu hơn là câu chuyện của C. cũng là người Pháp, tới đây vào giờ phút cuối cùng, tôi cũng không hiểu tại sao anh nhất định tới đây, bằng những phương tiện phải bỏ ra nhiều tiền. Anh nói, anh đã mua được sáu chiếc xe ô tô và được ở tại sứ quán New Zealand. Từ đó, anh phụ trách một số người Việt, giải quyết nhiều công việc, ăn to, nói lớn, gây gổ với người này người khác, kể lại cho nghe nhiều chuyện không thể nào tin được, như là: chính anh đã thu hồi được lá cờ Mỹ của đại sứ Graham Martin và đưa về cho Tổng thống Ford; chính anh đã gây sự với những người Nga để họ phải gửi cho anh một chiếc chuyên cơ Anh là bạn thân của Tổng thống Pháp Giscard; anh đang chờ thị thực nhập cảnh để đi Hà Nội... Ngày mai, nếu cần, anh sẽ kiếm được một máy bay lên thẳng; anh có tiền đô la đầy lèn hai túi- và không phải đó là tiền của anh - cũng chưa phải thế là hết...


Bài diễn thuyết ba hoa này thường kết thúc bằng câu chuyện anh đánh nhau với những lính gác Việt cộng ở ngay hành lang khách sạn Miranmar. Rồi C. mất hút. Mấy hôm sau, người ta gặp lại anh, đang được tiêm và uống thuốc an thần tại bệnh viện Grall.


Tới cùng

Đêm đã quá khuya. Lệnh giới nghiêm không còn nghiêm ngặt như lúc đầu nữa, tôi lại tiếp tục nói chuyện với những người lính Bắc Việt đứng canh tại khu phố có trụ sở Quốc hội. Những chú lính hai mươi tuổi này đều rời nhà di bộ đội từ nhiều năm nay. Nhưng họ cũng không nói đến chuyện sẽ trở về hoặc sẽ lấy vợ. Họ thuộc một khối cộng đồng rộng rãi những người lính rất chịu đựng gian khổ, có kỷ luật không giống với những quan điểm của người phương Tây chúng ta.


Khi đi sâu vào câu chuyện, người ta được biết rõ, những chú lính trẻ này thật ra cũng muốn trở về nhà ở xứ Bắc kỳ và lấy vợ. Nhưng, các chú hiểu rằng, nay chưa phải là lúc tính chuyện đó. Và những chàng trai tóc cắt ngắn này không hề phàn nàn.


Với Thị Ba là một trong những cô gái làm công cho các gia đình người Âu, ngay từ khi mới tiến vào Sài Gòn, những người lính này đã bộc lộ và vẫn thường nhắc lại:

- Chúng tôi chưa thể quay trở về nhà được. Sau miền Nam Việt Nam, còn phải đi Campuchia để bảo vệ bà con người Việt.

Họ đi đâu chẳng được, nếu họ muốn. Họ có một niềm tự hào dân tộc và thuộc một đội quân xuất sắc.


Việc cứu thương ở Vũng Tàu

P., cựu trung uý dù, bác sĩ khoa liệu pháp vận động, cùng đi với một đội cấp cứu y tế đổ bộ đường không, tới Vũng Tàu vài ngày trước khi chiến tranh kết thúc. Nhiệm vụ của anh là cứu chữa những người lánh nạn bị thương đang chất đống trong thành phố và những vùng phụ cận.


Trước khi đối phương mở cuộc tiến công một ngày, anh đã tước vũ khí một tiểu đoàn bộ binh quân đội Sài Gòn đang tạm trú tại bệnh viện, đưa sang sân vận động bên cạnh.

Ngày 28 tháng 4 thành phố bị bắn pháo nhưng bệnh viện không bị trúng đạn. Ở ngoài bến, năm chiếc tàu chưa kịp ra khơi đã bị bắn đắm.

Quân Việt tiến công thành phố bằng hai gọng kìm vào buổi sáng 29 tháng 4. Họ đã vấp phải những cuộc chiến đấu đường phố rất ác liệt. Hai đại đội dù và vài đơn vị thuỷ quân lục chiến đã chống lại tới cùng.

Vào buổi chiều P. mặc bộ đồ trắng, dấu hiệu chữ thập đỏ nổi trên mũ sắt và trên xe Jeep cứu thương, bắt đầu công việc thu nhặt lính bị thương của cả hai phía đối địch. Nhưng rồi anh bị bắt, bị một lính canh giải đi khắp phố, đến một ga ra để xe ô tô và bị giam trong đó cùng với một số người Pháp. Tám giờ sau, những người này được thả. Họ đề nghị được rời khỏi Vũng Tàu vào ngày hôm sau. Yêu cầu của họ được chấp thuận. Họ đi ra bến tàu. Nhưng lại cần phải có giấy phép mới sử dụng được thuyền bè. Đường bộ đã bị cắt, chỉ còn đường thuỷ. Họ quay lại thành phố xin một giấy phép thứ hai. Khi. P. và những người cùng đi về được đến Sài Gòn thì tất cả hoàn toàn kiệt sức.


Côn Đảo được giải phóng

Tôi gặp lại một nhân vật đối lập với chế độ Thiệu, bị bắt đầy ra Côn Đảo, nay được giải phóng về Sài Gòn. Ông có may mắn là bị bắt chậm và chỉ phải ở Côn Đảo một thời gian ngắn. Nhiều người khác bị đưa ra đây trước ông đã bị chết như những người bị giam ở Buchenwald1 (Một trại tập trung của phát xít Đức, giam giữ những người Do Thái và tiếp đó là tù binh gồm nhiều quốc tịch, bị hành hạ dã man, rất nhiều người chết). Chưa nói đến những người khốn khổ bị nhốt trong những "chuồng cọp” rất hẹp, tới mức không thể đứng thẳng hoặc nằm duỗi dài chân. Sau nhiều tháng, nhiều năm bị giam trong tư thế ngồi xổm họ đã bị tàn phế, phải đẩy lên xe.

Người tôi gặp có vẻ khá khoẻ mạnh so với một người tù được giải phóng. Tôi ngạc nhiên, chúc mừng ông. Ông nói:

- Được như thế này, đó là vì chúng tôi có một tổ chức kháng chiến trong ngục tù. Chúng tôi đã nắm được bọn cai ngục. Bọn chúng thấy gió xoay chiều đã cho chúng tôi được ăn uống tử tế.


Vào lúc 18 giờ ngày 30 tháng 4, bẩy mươi chín người tù tại Côn Đảo đã nổi dậy. Họ đã vô hiệu hoá bọn lính canh, ra khỏi nhà giam và được sáu ngàn dân trên đảo đón tiếp nhiệt tình. Sau đó họ thành lập một uỷ ban gồm mười một thành viên đứng đầu là đồng chí Lê Câu. Tối hôm đó đài Giải phóng trong bản tin về Côn Đảo, cho biết thêm 27 tàu thuyền của "bọn nguỵ bù nhìn" định bỏ chạy đã bị chặn lại ở ngoài khơi, bị các đơn vị hải quân Bắc Việt bao vây và buộc phải quay về bến Côn Đảo.


Còn bao nhiêu tàu chiến lớn nhỏ khác đã thoát khỏi vòng vây? Chắc hẳn, người ta chẳng bao giờ biết được câu chuyện này là sự tổng hợp những chuyện phiêu lưu cá nhân của mấy ngàn người và chẳng khi nào đưa vào sử.

52
TƯỚNG MINH GIỮA NHỮNG BỂ NUÔI CÁ CẢNH

Thứ hai 5 tháng 5

Hoàn toàn tình cờ, tôi lại đến nhà tướng Dương Văn Minh. Lần này, không thấy một người lính nào, một người gác nào. Cổng hé mở. Tôi bước vào tròng vườn. Tướng Minh ngồi phía sau toà biệt thự cùng với bốn người khác, cùng ngồi chung quanh một chiếc bàn tròn, giữa hàng chục bể nước nuôi toàn loại cá cảnh quý hiếm.

Tôi nói:

- Ngài đã có công lớn với Nam Việt Nam, tránh cho Sài Gòn bị tàn phá.

Ông nắm lấy bàn tay tôi, xiết chặt và nói:

- Phải viết chuyện này.

- Tôi đã viết.

- Cám ơn ông.

Tướng Minh giải thích thêm, đối với ông mọi việc đã trôi qua một cách rất đẹp. Ông đã ở lại dinh Độc Lập, được canh gác tốt, từ hôm thứ Tư đến tối thứ Bảy. Ông dùng đúng câu chữ "được canh gác tốt". Ông dẫn chứng:

- Những người lính canh, tất cả đều có thiện cảm với tôi. Đây này - ông chỉ vào một người trẻ tuổi đứng ở gần bàn, phía tay trái tôi - đây là một chú đã canh giữ tôi. Hôm nay, chú ấy đến đây chào tôi.

- Rồi sau đó, thưa tướng quân?

- Chẳng có gì xảy ra cả. Ông thấy đấy: tôi đang ở đây. Tôi đang chờ chuyện tiếp theo. Tôi đã nói với ông, tôi sẽ không rời khỏi đất nước tôi.

- Vâng, tôi vẫn còn nhớ.

Chúng tôi nói chuyện tào lao một lúc lâu. Tướng Minh vẫn bình thản, như tác phong vốn có. Ông nói:

- Ông thấy đấy. Mọi sự đều tốt lành. Hoà bình đã được lập lại.

Một khoảng yên lặng trôi qua. Tướng Minh lại nói tiếp:

- Hoà bình. Ông không cảm thấy như vậy là tốt hơn hay sao?

53
SÀI GÒN TẮM RỬA

Thứ Ba 6 tháng 5

Trước trụ sở Quốc hội cũ, nhân dân lật đổ tượng đài "chiến sĩ trận vong” biểu tượng của chủ nghĩa quân phiệt rõ nét nhất, tạc hình hài người lính cầm súng đang xông lên phía trước. Không rõ như thế nào mà người ta lại có thể nặn ra một tác phẩm xấu xí đến thế này? Khối bê tông vẫn chưa đổ sụp vì có cốt thép mạnh. Nhưng, chưa đầy hai giờ sau, tất cả chỉ còn là một đống đổ nát.


Mặc dù thiếu kinh nghiệm về việc phá huỷ, cũng may không có ai bị thương. Nhưng từ Chợ Lớn, ba kẻ táo tợn đã dùng thuốc nổ để phá tượng đài. Kết quả là ba người bị chết.

Tất cả các khu phố đều tiến hành việc tẩy uế.

Đài phát thanh tuyên bố: "Thành phố chúng ta phải là một thành phố cách mạng, văn minh, sạch sẽ, lành mạnh, vui vẻ, tươi trẻ".

Những xe ô tô xúc rác rất hiếm. Nhưng các phụ nữ lao động đã trở lại với nón lá đội đầu và quần dài bằng vải lĩnh đen. Các sinh viên cũng có mặt, tăng cường thêm sức lao động bằng các chổi lúa, xẻng, xô. Trên các tuullg gạch được quét vôi lại để xoá những lá cờ Nam Việt Nam mà Thiệu bắt sơn trên mỗi căn hộ. Những khẩu hiệu của chế độ đã diệt vong bị cạo bỏ, thay bằng những khẩu hiệu khác, toàn nói về hoà bình, độc lập, tự do. Tấm biển trước cửa nhà thờ lớn, gần tượng Đức Mẹ Đồng Trinh được thay bằng tên gọi mới, là đường phố Hoà Bình.

Tại các khu phố đều thành lập các uỷ ban. Đây là trụ sở hội phụ nữ cách mạng, kia là hội các nhà kinh doanh cấp tiến. Chưa đâu xuất hiện các từ ngữ cộng sản. Chỉ có những khẩu hiệu về dân chủ, hoà giải hoà hợp dân tộc.


Những khẩu hiệu

Mặt trước các công sở đều có những băng vải đỏ, nêu các khẩu hiệu:

“Không có gì quý hơn độc lập tự do"

"Nhân dân và quân đội đoàn kết xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

"Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh".

"Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân muôn năm"

“Tình đoàn kết Việt Nam, Lào, Campuchia muôn năm!"

"Đảng Lao động Việt Nam muôn năm"

“Sài Gòn giải phóng muôn năm"

"Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trồng trái tim chúng ta!"


Những đứa trẻ bị bỏ rơi

Có hai đứa bé tội nghiệp, bơ vơ trong đại dương của những đau khổ do cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm gây ra.

Một đứa tên là Jean Marc, mười bảy tuổi rưỡi, có một gương mặt thanh tú của người âu, tóc dài, đi lại uể oải. Bố em quốc tịch Việt Nam nhưng sống ở Pháp mà em không bao giờ biết mặt. Mẹ em gốc Ba Lan, quốc tịch Pháp, tái giá với một người Mỹ và đã định cư tại Los Angeles. Hiện em sống một mình trên hè phố Sài Gòn, không có tiền. Năm 12 tuổi, em đã làm dịch vụ cho một đơn vị lính biệt kích Mỹ. Em nói tiếng Pháp giọng Mỹ. Em đi lang thang trên hè phố với hộ chiếu Pháp trong tay. Chính vì vậy mà tôi làm quen với em.


Còn đây là một cô gái mảnh dẻ, hai mươi mốt tuổi, tên là Jane. Em đã ở trong một trường "trung học” ở Nha Trang. Khi em chạy khỏi Nha Trang, đến được Sài Gòn thì cha mẹ em đã đi sang Mỹ. Thế là một mình em ở lại thành phố này với một chùm chìa khoá của biệt thự gia đình nơi em nuôi hai đứa bé mười lăm tuổi. Jane vẫn còn có một ít tiền. Nhưng sau này?


Tối nay, tôi đã đón tiếp cả hai em, cho chúng ăn uống. Do trời đã khuya, tôi cho chúng ngủ trong phòng tôi. Jane để nguyên cả quần áo nằm trên một trong hai chiếc giường, sau khi đã cầu kinh rất lâu rồi nhắm mắt ngủ. Jean Marc nằm chung với tôi trên chiếc giường kia. Khi tôi thức dạy, Jean đang giặt chiếc áo sơ mi của tôi trong phòng tắm.

Jean Marc khi ra đi, nói:

- Cháu mong rằng đã không quấy rầy chú!

- Jane là bạn gái của cháu, có phải không?

- Không. Đó chỉ là một người cùng gặp trên đường.

- Cháu nên làm lễ kết hôn với Jane rồi đưa Jane về Pháp vì cháu có quốc tịch Pháp.

- Chú nghĩ thế sao?

Jean Marc vẫn có thói quen hỏi lại người đặt ra câu hỏi.

Tôi trả lời:

- Chú cũng không biết nữa. Nhưng cô ấy xinh xắn dễ ưa đấy chứ?

- Cháu đang tự hỏi, liệu cháu có đang say đắm cô ấy không.

- Sao? Cháu phải tự hỏi? Cháu không tin chắc?

- Cháu bắt đầu chợt để ý đến Jane trong bữa cơm tối hôm qua, trong lúc chú đang nói chuyện với các bạn chú, cháu - đã nhìn ngắm Jane. Cháu không giải thích được rõ. Chú nghĩ, đó là tình yêu hay sao?


Thật là lũ trẻ mỏng manh đến tội nghiệp, dễ vỡ tan như sành sứ, liệu các em sẽ ra sao nếu các em ở lại trong thành phố này, Jean với tấm hộ chiếu và Jane với chùm chìa khoá. Mà nếu rời khỏi đất nước này thì các em sẽ đi đâu?

54
THẲNG TIẾN TỚI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Thứ Tư, 7 tháng 5

Bốn giờ sáng, tôi bị đánh thức bởi các loa phóng thanh. Tại quảng trường trước mặt trụ sở quốc hội cũ những đoàn đại biểu đầu tiên đã tập hợp để chuẩn bị đi dự cuộc họp mặt nhân dân quy mô lớn bắt đầu vào hồi tám giờ tại dinh Độc Lập.


Đến buổi trưa, các đường liên lạc vô tuyến viễn thông đã được thiết lập. Cũng cần nói rõ cho chính xác hơn: cánh cổng mới chỉ hé mở. Tôi chạy ra bưu điện trung ương đi gửi một bức điện, bức điện đầu tiên kể từ ngày 30 tháng 4.


Chiếc vỏ chai trên mặt biển

Được đánh đi từ Sài Gòn ngày thứ Tư 7 tháng 5, đến thứ Sáu ngày 9 bức điện này mới tới được nước Pháp, vì một lý do nào đó không biết, dù sao cũng còn nhanh hơn các bức điện khác. Các bạn đồng nghiệp của tôi nói vui, có lẽ vì bài báo này gửi cho tờ Dauphiné libéré, có nghĩa là Dauphiné giải phóng, cũng như tờ báo Sài Gòn giải phóng hoặc Đài giải phóng.


Đây là bài báo đầu tiên từ Việt Nam, được gửi về tới Pháp, với nội dung ngắn gọn như sau:

Một tuần sau khi chiếm được Sài Gòn, đúng vào ngày kỷ niệm hai mươi mốt năm chiến thắng Điện Biên Phỉ, các tuyến liên lạc viễn thông đã được khôi phục, trong những điều kiện khác nhau, đường truyền phải đi qua Hà Nội. Những tuyến viễn thông này đã bị cắt đứt từ ngày thứ Tư 30 tháng 4 vào lúc mươi ba giờ bốn mươi phút. Từ thời điểm đó là một sự im lặng hoàn toàn. Tôi gửi bài báo này một cách hú hoạ, như là nhét một lá thư vào vỏ chai rồi ném xuống biển.


Từ bốn giờ sáng, toàn thành phố đã đứng dậy. Trước khi mặt trời mọc, hàng ngàn người đã mang theo cờ Việt cộng, biểu ngữ, ảnh chân dung Hồ Chí Minh đến chỗ tập trung rồi đi về phía dinh Độc Lập.


Đến lúc rạng đông đã bắt đầu tập trung một số người rất đông vui, có kỷ luật, như cảnh tượng thường thấy trên Quảng trường Đỏ ở Matxcơva hoặc ở Quảng trường Nhân dân tại Bắc Kinh. Điểm chủ yếu trong buổi hội họp đông người này là bài diễn văn dài của tướng Trần Văn Trà, Chỉ tịch Uỷ ban quân quản đang tạm thời quản trị Sài Gòn đã được đổi tên thành "thành phố Hồ Chí Minh".


Không ai biết đến bao giờ cái Uỷ ban gồm mười một tướng tá này mới được thay bằng một chính quyền dân sự và càng không biết được cái chính quyền tiếp theo uỷ ban quân sự này sẽ như thế nào.


Còn hiện nay thì uỷ ban quân quản này đang vừa lập lại trật tự tại thành phố còn ngập ngụa từng đống rác, những khung xe ô tô, những xe nhà binh bị bắn cháy, những vũ khí và thiết bị quân sự bỏ lại trên đường, vừa tiến hành khởi động lại bộ máy chính quyền, tiếp tế lương thực, ổn định dân cư. Việc nắm quyền này được thực hiện một cách mềm dẻo, tuần tự từng khu phố, từng ban, ngành. Cũng đã bắt đầu đưa vào quân ngũ những lực lượng du kích nội thành.


Chiếc máy bay duy nhất mà mọi người nhìn thấy xuất hiện trên vòm trời Sài Gòn ba hôm trước là của Liên Xô và đang làm con thoi nối Sài Gòn với Hà Nội. Trong thành phố Sài Gòn mà những điều kiện sinh sống chưa bao giờ ổn định, ngày hôm nay mọi người đều ghi nhận hai điều kỳ diệu đó là những vụ phá hoại đã bị hạn chế tới mức cực kỳ tối thiểu, và số người chết đã tương đối ít. Trong tổng số mười ngàn người Pháp chính thống hoặc người Pháp theo quốc tịch ghi trong hộ chiếu đang sống tại thành phố, chỉ có một người thiệt mạng. Đó là Michel Laurent, bạn đồng nghiệp của tôi, phóng viên hãng ảnh Gamma. Một buổi lễ truy điệu anh đã được tổ chức sáng nay, với sự tham dự của đại sứ Pháp. Ngồi trên hàng ghế đầu là Christian Hoche, phóng viên tờ Figaro là người đã may mắn thoát hiểm khi đứng bên cạnh Michel, bị nhiều vết đạn.


Trong khi những chiếc loa phóng thanh vẫn không ngừng vang lên những bài hành khúc và những qui chế cho dân chúng, ngồi trong nhà nhiều người vẫn hỏi nhau về số phận Nam Việt Nam sẽ ra sao. Nhưng, dù thế nào thì mọi người vẫn thở phào một cái dài: chiến tranh đã hết!”

55
CUỘC GẶP ĐẦU TIÊN VỚI ÔNG CHỦ MỚI CỦA SÀI GÒN

Thứ Năm 8 tháng 5

Lễ Thăng thiên. Phải có một bạn đồng nghiệp nhắc giúp, tôi mới nhớ hôm nay là ngày lễ Đức chúa Giê-xu lên trời. Quả là đã quá xa. Kinh Thánh viết: "Hỡi những người ở đất Galilée, các con nhìn ai mà cặp mắt cứ ngước lên trời?"


Người mà tôi nhìn, người mà hôm nay chúng tôi nhìn, không phải là Trời mà đó là tướng Trần Văn Trà, lần đầu tiên tiếp các nhà báo ở dinh Độc Lập. Đó là điều khiến chúng tôi vinh dự. Nhưng, thay vào buổi họp báo này, nếu có một chiếc máy bay đưa chúng tôi về nhà vẫn tốt hơn.


Vị tướng mà tôi đã được gặp sau khi Hiệp định Paris ký kết văn không thay đổi: vẫn dáng đi trẻ trung dù đã năm mươi bảy tuổi, vẫn đôi mắt sắc sảo sau cặp kính, vẫn bộ tóc màu đen cắt ngắn, vẫn giọng nói sang sảng, vẫn bộ quân phục bằng vải màu xanh lá cây không gắn huy chương, huy hiệu, vẫn sự đón tiếp thân tình, vẫn những câu trả lời linh hoạt.


Tướng Trà, dù ít hay chưa được phương Tây biết đến, đã giữ một vai trò thiết yếu trong ba cuộc chiến tranh Đông Dương: Cuộc chiến tranh chống Pháp, cuộc chiến tranh chống Mỹ và cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng ông hoạt động bí mật rất lâu. Ngay đến tên ông cũng ít người biết. Lúc đó, ông lấy tên là Trần Nam Trung. Tên này chỉ là bí danh, có nghĩa là miền Nam và miền Trung. Thói quen giữ bí mật là đặc tính của những người đã tạo ra chiến thắng của cộng sản ở Việt Nam.


Tướng Trà bắt đầu buổi nói chuyện bằng cách bộc lộ với chúng tôi hai vấn đề quan tâm lớn của ông. Một mặt, bảo đảm trật tự an ninh cho dân chúng. Mặt khác bình ổn các điều kiện sống. Ông thừa nhận:

- Đây không phải là một công việc dễ dàng. Trong lịch sử chưa bao giờ có chuyện một đô thị rộng lớn tới hơn ba triệu dân, được giải phóng rất nhanh chóng như thế này.

Tất nhiên, chúng tôi dồn dập hỏi tướng Trà, đến bao giờ thì một chính quyền dân sự kế tục Uỷ ban quân quản. Ông trả lời:

- Chính chúng tôi cũng muốn chuyển giao càng nhanh càng tốt cho một chính quyền dân sự. Nhưng, rất tiếc chưa thể công bố đích xác ngày giờ được.


Nhiều nhà báo cho rằng, sự chậm trễ này là do có sự thảo luận giữa Hà Nội và Chính phủ Cách mạng lâm thời về hình thức chính quyền mới, về màu sắc chính quyền, về sự thống nhất đất nước, mà có người muốn hoàn thành nhanh, có người lại muốn định ra một thời hạn. Nhưng tôi không viết câu này trong bài báo vì bức điện phải chuyển qua đường Hà Nội.


Trên thực tế, tất cả những nhà báo ngồi quanh tướng Trà đều có mối quan lâm hàng đầu là muốn biết đến khi nào thì họ có thể rời khỏi Việt Nam để về nước. Và ít nhất họ đều muốn có khả năng gửi thẳng bài báo bằng telex. Đó là chưa nói đến những bức ảnh, những cuốn phim, những cuốn băng ghi âm chất đống từ ngày chiếm được Sài Gòn, chưa có thể gửi về nước được vì không có máy bay.

Mọi người hỏi tướng Trà về chuyện này. Ông trả lời:

- Bộ Ngoại giao sẽ có thông báo về việc này.

- Bao giờ?

- Sắp tới!

Sau đó, ông mời các nhà báo cùng uống với ông, ngay trên thềm dinh Độc Lập, rượu bia 33 và nước ngọt coca-cola.

56
TUẦN TỰ TỪ TỪ TIẾN TRIỂN

Thứ Sáu 9 tháng 5

- Thế nào, đồng chí chính uỷ, vẫn luôn luôn bận rộn chứ?

- Càng ngày càng lắm việc. Cứ như là quét dọn chuồng ngựa. Đòi hỏi phải có thời gian. Nhưng chúng tôi sẽ hoàn thành. Chẳng bao lâu, các ông sẽ nhìn thấy, không còn dấu vết gì của cái chế độ thối nát đã tồn tại quá lâu ở Sài Gòn này.


Vị chính uỷ, đặc phái viên từ Hà Nội mới vào, không cường điệu. Ngày lại ngày, chúng tôi nhìn thấy đô thị này đổi thay ngay trước mắt.

Không còn nhìn thấy quân đội nữa. Không thấy một chiếc xe tăng nào, một khẩu pháo nào, một khẩu trọng liên nào. Thỉnh thoảng mới chỉ thấy những chiếc xe ô tô vận tải chế tạo từ Trung Quốc hoặc Liên Xô, chở các thùng xăng hoặc bao tải gạo chạy qua thành phố. Phần đông những binh lính đi la cà ngoài phố đều không mang vũ khí, có vẻ như là những người đi phép nhởn nhơ.


Những rác rưởi của các bà nội trợ đều được thu dọn vào buổi sáng. Các vỉa hè được quét dọn. Mọi người cũng nhìn thấy các sinh viên tham gia tô điểm thành phố với những chiếc xô, hộp sơn, bát sơn... Một số khác đứng ở các ngã tư, cố gắng làm hết sức mình để thay các cảnh sát viên vắng mặt.


Lính cảnh vệ tiếp tục canh gác các công sở. Nhưng số lượng giảm dần và những chùm lựu đạn cũng dần dần không thấy đeo ở thắt lưng nữa.

Ở các chợ trời buôn bán các thứ trộm cắp, những con buôn tiếp tục trưng bày lộ thiên các chai rượu nho, rượu uýt-ki, rượu sâm banh, các đồ điện tử, các máy ảnh, những lọ nước hoa, các dụng cụ, các máy nổ. Tất cả những thứ này đều cướp được từ các kho của Mỹ.


Các ngân hàng vẫn liếp lục đóng cửa. Bưu điện cũng vậy, ngoại trừ các điện tín báo chí, phải nộp hai bản một lúc.

Các quán ba, nhà hàng mát - xa và các sòng bạc các loại đều bị đóng cửa.

Những viên chức cũ và quân nhân dưới chế độ cũ được kêu gọi tới đăng ký tại các địa điểm và ngày giờ đã ấn định, tuỳ theo chức vụ, cấp bậc.

Chỉ có một tờ báo duy nhất, thay cho năm hoặc sáu tờ trước kia. Đó là tờ Sài Gòn giải phóng.

Tại các khu phố đều có những uỷ ban nhân dân, kiểm soát mọi ngành nghề kể cả những nhà kinh doanh bốn mùa và các chủ khách sạn.

Các trạm bơm xăng đều khô cạn. Càng ngày càng giảm dần số xe có động cơ. Nhất là do xăng chợ đen bán rất đắt, lên tới mười franc một lít có pha theo tỉ lệ dầu nhớt hoặc nước lã. Chẳng bao lâu nữa, có thể dân Sài Gòn phải đi bộ hoặc đi xe đạp.

Được cái may mắn là gạo, thịt, rau, quả đều không thiếu.

Đồng chí chính uỷ có vẻ hài lòng. Ông nói:

- Trước đây, Sài Gòn là hiện thân của một nền văn minh đang trên đà tan rã. Ngày mai, Sài Gòn sẽ tượng trưng cho trật tự, sạch sẽ, đạo đức, công lý.


Trở lại Chợ Lớn

Những đồng tiền cuối cùng của tôi đang bay hơi. Các ngân hàng vẫn đóng cửa. Tỷ giá hối đoái tương đương đã sụp đổ. Tôi đành quyết định đi bằng xe ô tô thuê, may mắn vẫn còn chạy được. Có một chiếc xe cọc cạch đang chờ tôi đến dạm hỏi ở trung tâm Chợ Lớn. Tôi lững thững đi một mình tới đó. Liệu tôi có giống một người Mỹ nào đó, bị máy bay lên thẳng bỏ rơi không?

Một người sán lại gần tôi, nói:

- Vi-xi đấy!

Rồi anh ta chỉ tay vào hai người lính mặc quân phục màu xanh lá cây, đi ở bên kia hè.

Tôi hỏi lại:

- Ông là Việt cộng à?

- Không. Tôi không phải Vi-xi.

- Thế còn ông?

- Tôi, tôi là người Pháp.

Anh ta chìa tay bắt tay tôi. Tôi cảm nhận được hơi ấm từ bàn tay anh.

Một số người Hoa, do cẩn thận, đã treo ở trước cửa nhà mình lá cờ của Mao Trạch Đông bên cạnh cờ Việt cộng. Thật là chưa bao giờ thấy ai quá cẩn thận như vậy.

57
ÔNG TƯỚNG BỊ LỘT ÁO

Thứ Bẩy 10 tháng 5

Ở cổng khách sạn Caravelle có ba người Pondichery1 (Một xứ thuộc địa cũ của Pháp ở Ấn Độ) làm nghề gác cổng, mang hộ chiếu Pháp, nói tiếng Pháp. Chủ khách sạn cho họ mặc những bộ đồng phục khá thô kệch, rập khuôn theo những bộ quân phục cấp tướng trên sân khấu ca kịch. Mỗi khi họ mặc bộ đồ có cả lon gù này, tôi thường nói với người cao tuổi nhất, khi anh ta mở chiếc cửa kính cho tôi:

- Chào tướng quân!

Anh ta trả lời một cách hóm hỉnh.

- Thưa ông, tôi chỉ là trung sĩ thôi, nhưng tôi có mề đay2 (Medaille militaire: Huy chương của Pháp, hạng thấp nhất) quân nhân đấy!

Buổi tối nay, vị tướng của tôi chỉ mặc một chiếc quần dài bằng vải màu xám và một chiếc áo sơ mi cộc tay màu xanh da trời. Tôi hỏi:

- Thưa tướng quân! Ngài đã vứt bộ quân phục đi rồi hay sao?

- Không đâu. Đây là những người Việt bảo tôi phải mặc thường phục. Họ bảo đồng phục cũ của chúng tôi nom kỳ cục lắm, mặc như vậy không xứng với những công dân tự do, dân chủ.

- Thế rồi sao?

- Thế rồi, tôi phải xin thưa với ông, tôi đã mặc bộ đồng phục màu xanh lơ, cổ đứng, đội chiếc mũ lưỡi trai có lon vàng này mười chín năm rồi. Bây giờ tôi vừa lòng với bộ thường phục này. Dễ thở hơn.


Những đứa trẻ bị bỏ rơi (tiếp theo)

Jane lại quay đến chỗ tôi, gõ cửa phòng tôi như người có thẩm quyền, mang theo một cô gái tóc dài khoảng mười lăm, mười sáu tuổi. Jane nói, cô bé này muốn tự tử. Nhưng hiện nay đang có nhiều việc phải quan tâm. Vì cô rất nhức đầu. Tôi làm ra vẻ lin lời Jane nói, chuẩn bị một viên aspinn. Cả hai cô phá ra cười như hai con mèo ngồi trên ghế bành. Tôi giải thích cho hai em hiểu, tôi đang bận làm việc và đưa cả hai cô bé ra tận thang máy. Các cô cám ơn rồi đi mất. Phải chăng các cô bé này đến đây chỉ để uống một viên thuốc nhức đầu? Còn câu chuyện tự tử, tôi không tin một chút nào.


Chiếc vali và máy điện thoại

Mỗi ngày, tôi lại gặt hái được một lô chuyện khó tin:

Một trong những nhà buôn người Ấn Độ trong phố Tự Do muốn di tản bằng máy bay lên thẳng với những người Mỹ. Ông ta nhét vào vali tám triệu đồng, tức là toàn bộ của cải ông còn cuống cuồng tìm cách đổi số tiền này lấy đô la hoặc franc, rồi buộc thành từng tiệp giấy bạc này bằng dây chun. Ông đi quanh Sài Gòn, không tìm được người đổi chẳng lẽ vứt tập giấy này đi? Ông đành quay về nhà đi ngủ, dùng chiếc vali đựng tiền làm gối đầu.


Trong khi đó, tại sứ quán Mỹ, một người Việt Nam ngồi trong ghế bành nói chuyện điện thoại rất lâu. Sau khi nói chuyện xong, anh ta cẩn thận để ống nói trên máy, rứt đứt dây điện rồi ra đi với chiếc máy điện thoại cắp dưới nách. Đúng là một cảnh trong cuốn phim câm hài kịch Charlot.

58
CÁC ANH BỘ ĐỘI KHÁM PHÁ MỘT XÃ HỘI TIÊU THỤ

Chủ Nhật 11 tháng 5

Đối với những người lính lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng, mỗi bước đi vào Sài Gòn là một điều lạ lùng mới mẻ. Những anh lính trẻ mặc quần áo vải xanh lá cây vừa trải qua nhiều năm tháng trong rừng, phần lớn xuất thân từ nông dân, vừa khám phá ra một thành phố lớn và một xã hội tiêu thụ.

Tôi đã hỏi nhiều người trong bọn họ:

- Điều gì gây ấn tượng nhất đối với các anh?

Tất cả đều trả lời:

- Mật độ giao thông.

Đúng là đường phố Sài Gòn hệt như một tổ kiến.

Tối hôm qua, tôi đã nhìn thấy vài anh bộ đội đến từ Trung kỳ hoặc Bắc kỳ, tò mò nhìn ngắm khách sạn Continental, một lâu đài cũ xây theo kiểu thuộc địa, đang dần dần tàn lụi trong buổi già lụ khụ. Trước mặt là khách sạn Caravelle, là nơi các anh lính khác thường mỗi ngày hai lần tới ăn cơm tại gian phòng phụ số 106 mà giám đốc khách sạn, theo gợi ý của bộ đội, đã chuyển thành căng tin. Rồi, tối đến các chú bộ đội này lại ngồi lên thành những chiếc ghế bành, xem ti vi.


Khi bước vào liệm cà phê, những người của rừng rú mà chiến tranh đã tôi luyện có một thói quen sống kham khổ, chỉ gọi một cốc nước cam hoặc một cốc trà đá. Và nếu vào một cửa hàng ăn, họ cũng chỉ ăn một bát cơm với rau chấm nước mắm. Sau khi ăn xong rất nhanh, họ trả bằng tiền "đồng” của miền Bắc Việt Nam.


Họ không uống rượu cồn. Họ quan hệ với các cô gái một cách dè dặt và bẽn lẽn. Rõ ràng, họ chỉ có ít tiền. Còn kỷ luật, điều lệnh họ lại có rất nhiều. Họ thuộc về một xã hội khác, có đạo đức riêng. Một nền đạo đức cực kỳ khe khắt.


Bây giờ, họ bước vào một xã hội mà cái xã hội này đã vứt hết mọi đạo đức. Một thành phố mà sự có mặt của Mỹ đã làm cho thối nát bởi đồng tiền và chế độ Thiệu đã huỷ hoại tất cả bởi tham nhũng.


Những chú lính bé nhỏ quân phục màu xanh lá cây từng người đều biết rõ mình tiến vào Sài Gòn là để khôi phục lại lương tri, lòng ngay thẳng, sự lao động và nền công lý bình đẳng.


Tuy nhiên, những con người mặc quần áo vải rộng đội mũ đôi khi còn gài vài cành lá cây, cũng không thể dửng dưng trước một vài thích thú khiêm tốn. Họ thích chụp ảnh trước cổng toà thị chính và cười vui như trẻ con, khi thấy chỉ một phút sau hình ảnh đã xong. Họ cũng đã ra chợ trời và đôi khi, nếu có một người đồng hương mời chào, họ cũng mua một cái đồng hồ và một đài bán dẫn. Và rất ít khi mua thêm một thứ gì nữa.


Hỡi ơi! Từ ngày mà nghề nghiệp buộc tôi phải chứng kiến những cuộc chiến tranh và những cuộc cách mạng, tôi chưa bao giờ nhìn thấy những người thắng trận kín đáo khiêm tốn như thế này.


Tóc dài và đánh móng tay

Đài Giải phóng cùng với tờ báo hằng ngày Sài Gòn Giải phóng là nguồn thông tin duy nhất của chúng tôi vừa mới truyền đi một bản thông báo về vấn đề đề tóc dài và đánh móng tay. Văn bản này gồm ba điểm:

Điểm một: Để tóc dài hoặc sơn màu móng tay là tuỳ ý, thuộc quyền tự do cá nhân.

Điểm hai: Tuy nhiên, nhân dân ta vừa mới đại thắng chủ nghĩa đế quốc, cho rằng đây là những tàn dư của chế độ bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu.

Điểm ba: Do đó, những người cách mạng chân chính có lời khuyên là: con trai nên cắt tóc ngắn, con gái không nên sơn màu các móng tay1 (Tác giả viết không đúng, hoặc có thể do phiên dịch sai. Vào thời kỳ này, tại Sài Gòn loan truyền những tin đồn nhảm, do bọn phán động tung ra, là cách mạng sẽ bắt những thanh niên nam nữ đế tóc dài, sơn sửa móng tay, mặc quần áo màu sặc sỡ... phải đi lao động cải tạo. Báo và đài đã kịp thời giải thích, khẳng định đây là những tin đồn nhảm, đồng thời khuyên mọi người sống lành mạnh, chứ không "ra thông báo" cứng nhắc như trên (ND)).


Trong một buổi phát thanh khác, đài Giải phóng thông báo, trong những ngày lê, mỗi nhà nên treo hai lá cờ: cờ Việt cộng và cờ Bắc Việt1 (Ta không dùng những từ "Bắc Việt ", "Việt cộng " như thế này).
Còn bao lâu nữa để chỉ có một lá cờ tung bay, lá cờ của Hà Nội, suốt từ biên giới giáp Trung Quốc đến tận mũi Cà Mau, đó là lất cả vấn đề.


The ugly American2 (Nguyên văn tiếng Anh, nghĩa là "Người Mỹ xấu xí", nhại tên một tiểu thuyết của tác giả người Anh "Người Mỹ trầm lặng" (The quiet American) - viết về một gián điệp Mỹ hoạt động tại Việt Nam)


Từ mười hai ngày nay, Thomas F thực tế không lúc nào tỉnh rượu. Khi người anh toát ra hơi rượu, đó là để làm tình với một phụ nữ Việt Nam đầy quyến rũ, tại gian phòng của anh trong khách sạn Miramar.

Thomas là một trong những người Mỹ không thể rời khỏi Việt Nam. Ngồi vắt vẻo trên chiếc ghế đẩu cao ngất trong quán bar, anh vừa nốc rượu Vodka vừa kể cho tôi nghe câu chuyện phiêu lưu của mình.

Qua làm việc tận vùng châu thổ, trong khu vực tỉnh Cần Thơ, để hoàn thành kế hoạch xây dựng một công trình thuỷ điện, khi nghe đài loan báo tất cả những người Mỹ được lệnh di tản, anh vội trèo lên xe Jeep phóng về Sài Gòn. Những cuộc giao tranh trên Quốc lộ 4 làm anh tới chậm. Nhiều lần, anh phải dừng xe, tìm nơi ẩn nấp, chờ đến khi hết tiếng súng mới lái đi tiếp. Có lẽ anh đã phải vượt qua nhiều trận tuyến, mà không biết, vì cuộc chiến tranh này làm gì có mặt trận. Những binh lính giơ tay chào anh. Anh phóng xe rất nhanh vượt qua những hố đạn pháo và những vật cản.


Khi anh về tới Sài Gòn, chiếc máy bay lên thẳng cuối cùng đã rời khỏi khu vườn sứ quán Mỹ.

Hôm nay là ngày Chủ Nhật. Thomas F đến ghi tên tại trụ sở nhập cư, theo đúng thông cáo dán trên tường. Anh không lo ngại gì, vì không phải là người dễ hoảng hốt, nhưng anh tò mò muốn biết sẽ được tiếp nhận như thế nào. Anh nói:

- Tôi gặp một viên chức rất thạo tiếng Anh. Hắn nói với tôi như thế này: "Anh là người Mỹ đầu tiên đến trình diện. Chúng lôi rất hài lòng về anh, bởi vì chúng tôi có thiện cảm với nhân dân Mỹ. Anh là một kỹ sư điện và anh đã làm việc cho đất nước Việt Nam. Nếu anh muốn tiếp tục làm việc cho Việt Nam thì anh có thể ở lại đây. Chúng tôi đang cần những kỹ sư ngành điện.

- Rất cảm ơn ông. Nhưng tôi muốn trở về nhà ở Los Angeles.

Thomas F ngừng một lát, nốc thêm một đợi vodka - soda nữa rồi nói tiếp:

- Có thể tôi sẽ trở về, sau vài tháng hoặc hơn một năm nữa. Vì còn có thể kiếm tiền tại đất nước này.

Nói xong, anh ta khó nhọc leo xuống ghế cùng với cô nhân tình biến mất húi trong những táng cao.

59
BÀ THIẾU TÁ TRUY QUÉT NHỮNG KẺ THÙ CỦA NHÂN DÂN

Thứ Hai 12 tháng 5

Trong bộ quân phục màu xanh lá cây, người đàn bà này không đeo một cấp hiệu gì hết. Vậy mà bà đã là thiếu tá và giữ một vai trò quan trọng trong bưng biền Việt cộng.

Tuần trước, tôi đã nhìn thấy bà ngồi bên cạnh tướng Trần Văn Trà, phiên dịch cho Chủ tịch Uỷ ban quân quản. Hôm nay, tôi lại nhìn thấy bà tại Bộ Ngoại giao chưa có Bộ trưởng.

Bà có những dáng nét hài hoà, cặp mắt hạt dẻ gợi cảm, bộ tóc đen dài. được tết lại và cuộn thành một búi nhỏ, khó đoán được tuổi. Tiếng Pháp của bà không chê vào đâu được. Bà đã ở Paris ba năm.

- Vậy thưa bà thiếu tá, chúng tôi có thể sắp tới sẽ được rời khỏi Sài Gòn.

- Tôi mong muốn như vậy.

- Tại sao người ta lại yêu cầu chúng tôi tới đăng ký, nếu không phải để tổ chức cho chúng tôi về nước.

- Đó là do chúng tôi muốn biết chính xác, có bao nhiêu người nước ngoài ở Sài Gòn.


Quả là bất ngờ. Chính nhân dịp này đã phát hiện thấy còn có những người Mỹ ở Sài Gòn. Tôi không nói tới các nhà báo, còn lại tới hàng chục mà là những "cố vấn, Mỹ bị lỡ chuyến máy bay lên thẳng cuối cùng. Số này có lới mấy chục người.

Bà thiếu tá hỏi lại tôi:

- Tại sao các ông không ở lại Việt Nam một thời gian nữa?

- Bởi vì chúng tôi thấy, thời hạn của chúng tôi đã kéo dài quá lâu rồi. Nếu còn có thể được chúng tôi muốn đi Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng hoặc vùng châu thổ sông Cửu Long.

- Tôi khuyên ông đừng làm như vậy.

- Tại sao? Không còn một nguy hiểm nào nữa, chỉ có xăng là thiếu, buộc chúng tôi phải tê liệt.

- Ông nghĩ sai rồi. Những kẻ thù của chúng ta chưa chịu khuất phục. Chứng cớ là, chúng tôi đã ra lệnh phải nộp vũ khí, nhưng mới chỉ thu hồi được một số rất ít.

- Nhưng mọi cuộc kháng cự đã ngừng từ lâu. Đất nước hoàn toàn yên tĩnh.

- Đúng vậy. Chúng tôi biết, các ông là những người tốt, và chúng tôi cũng biết các ông làm việc cho những tờ báo nào. Nhưng vẫn còn có những kẻ bất lương.

- Nếu không được đi xa thì liệu chúng tôi có được gặp các vị thành viên trong Chính phủ Cách mạng lâm thời không? Cho tới nay, chúng tôi mới chỉ được nhìn thấy một vị.

- Tại sao các ông không tìm gặp những thanh niên, sinh viên? Các ông biết, họ có những chuyện lý thú.

- Đúng vậy. Và chúng tôi đã liếp xúc với họ rồi. Nhưng chúng tôi còn muốn tiếp xúc tới những nhân vật cấp cao hơn.

- Tôi sẽ chú ý đến việc này. Tôi sẽ cố gắng theo khả năng. Đến đây, kết thúc buổi nói chuyện với bà thiếu tá Nguyễn Ngọc Dung.


Những viên tướng "bù nhìn”

Hằng ngày, các viên tướng "bù nhìn" của chế độ cũ đều phải tới đăng ký danh sách những nhân vật cấp cao của quân đội chế độ cũ. Đã có 24 người tới trình diện tại địa điểm ấn định. Trong số này có tướng Nguyễn Văn Vỹ, nguyên tổng tham mưu trưởng, rồi giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng cho tới ngày 11 tháng 4 năm 1972, tướng Nguyễn Hữu Có cũng đã từng làm Bộ trưởng Quốc phòng; tướng Lê Minh Đảo chỉ huy sư đoàn 18 trong trận Xuân Lộc...


Ít nhất, tới viên tướng Đảo này, ông ta cũng đã chiến đấu dũng cảm, thật là khó chịu bị gán ghép thêm tính từ "bù nhìn". Từ sau trận thất bại ngày 9 tháng 3 tại Buôn Ma Thuộc không còn hy vọng có được chiến thắng nào nữa, nhưng Đảo vẫn cố giữ chặt cái then cửa ở Xuân Lộc. Tôi không thích gán tính từ “bù nhìn" cho một sĩ quan đã hành động như thế.


Còn những kẻ đã buộc binh lính chiến đấu tới người cuối cùng rồi riêng họ lại bỏ chạy như những thằng hèn thì thế nào? Tôi biết, có một đại tá thuộc Bộ tổng tham mưu quân đội Sài Gòn đã lạnh lùng bỏ, lại cả vợ và cả đàn con. Chắc chắn đây không phải là người duy nhất. Tướng Đảo, vừa được người chiến thắng ghi tên trào danh sách các sĩ quan nguỵ ra trình diện, là một bại tướng có tư cách, theo tôi nghĩ.

60
MỘT VẠN NGƯỜI PHÁP Ở SÀI GÒN TỰ HỎI

Thứ Ba, 13 tháng 5

- Thành thật mà nói, tôi không biết sẽ làm gì. Tôi rất muốn ở lại đất nước này, nơi mà tôi đã gắn bó sâu sắc. Nhưng liệu tôi còn có thể làm được việc gì ở đây nữa.

Người Pháp vừa nói câu này là một ông già ngoài bẩy mươi tuổi tôi gặp trên hè phố mang tên cũ là Catinat. Ông đã định cư ở Đông Dương ba mươi chín năm nay và đã thành lập ở đây một văn phòng xuất nhập khẩu. Suy nghĩ của ông cũng là tóm tắt những lo ngại của rất nhiều đồng hương chúng tôi. Họ không biết nên tiếp tục ở lại đây hay là nên chuẩn bị hành lý ra đi.


Thời gian gần đây, người ta nói nhiều đến chuyện còn có tới hàng chục ngàn người Pháp đang ở Sài Gòn. Con số chính xác là 10.904 người theo danh sách ghi trong sổ của tổng lãnh sự quán Pháp. Trong số này chỉ có 1.500 là người Pháp chính gốc. Những người còn lại là Pháp lai, kết quả của những cuộc hôn nhân hỗn hợp Pháp - Việt, hoặc những người Việt Nam gia nhập quốc tịch Pháp, hoặc những người Pondichery một thuộc địa cũ của Pháp ở Ấn Độ. Số người gốc Pondichery chỉ có 1.500.

Ngoài ra, còn phải tính đến khoảng một nghìn người Pháp nữa đang sống rải rác từ nhiều thành phố khác ở Nam Việt Nam.


Cộng đồng người Pháp quan trọng này gồm các giáo sư, các chủ đồn điền cao su, các nhà buôn, các chủ khách sạn và tiệm cà phê, các chủ ngân hàng, các nhà nhập khẩu, các thầy thuốc, thầy tu, và những người đã nghỉ hưu. Cũng còn có cả một vài kẻ nhố nhăng ngông cuồng như những nhân vật trong cuốn tiểu thuyết “Những người thuộc châu Á" của Jean Hougron. Ở Sài Gòn, ai còn lạ gì một gã được gọi tên là "con quạ” chuyên viết thư nặc danh rồi đều đặn đem bỏ vào những hòm thư. Và những ngày lễ, ngày hội, có một lên được gọi là "ông tướng", nhưng thực chất chỉ là một lính lê dương cũ, nhưng đã may đo một bộ quân phục theo kiểu phóng tác, có cả lon lẫn sao, đi ngông nghênh giữa các khu phố trung tâm.


Khung cảnh cũng đã thay đổi nhiều từ thời kỳ tràn ngập rượu cô nhắc - soda với trang phục dùng cho vùng đất nóng như sa mạc. Tại tiệm cà phê Impérial là nơi buổi tối thường tụ tập những người cũ của xứ Nam Kỳ, người ta lại kể chuyện ngày xưa:

- Này, ông có nhớ cái buổi tôi thách đố xem có ai dám đi qua khách sạn Continental mà không đội mũ "cát” che nắng không?

- Để tôi nhớ xem. Ông đang định nói...

- Rằng ai đã thắng cuộc à! Chính là ông. Nhưng ông đã không nói gì về "cái cú” bị cảm nắng.


Từ buổi Sài Gòn được giải phóng đến nay đã được mười bốn ngày. Người Pháp không có điều gì phải phàn nàn về sự cai trị của uỷ ban quân quản. Những của cải và cả bản thân họ đều được tôn trọng. Có lẽ. bộ đội đã nhận được những huấn thị căn dặn "Phải lịch sự đối với những người nước ngoài, nhất là những người Pháp. Họ là bạn của chúng ta và ngoài Hà Nội chúng ta đang có những quan hệ rất tốt với Pháp".


Khi nào thành lập xong chính phủ ở miền Nam Việt Nam, rất ít có khả năng chính phủ này yêu cầu người Pháp rút khỏi Việt Nam. Nhưng có lẽ những cải tổ, chuyển đổi về kinh tế, tài chính, xã hội và chính trị sẽ buộc một số đông trong bọn họ ra đi. Bởi vì, các chủ ngân hàng còn làm được gì dưới chế độ xã hội chủ nghĩa? Các chủ đồn điền sẽ ra sao nếu nhà nước quốc hữu hoá những đồn điền của họ? Các công ty nhập khẩu sẽ còn có vai trò gì trước việc các tổ chức chính phủ trực tiếp làm việc thẳng với những nước sản xuất sản phẩm? Các nhà buôn sẽ ra sao nếu không có khách hàng?

Ông Jean Gaudet là giám đốc khách sạn Ramuntcho, một trong những khách sạn có phòng ăn ngon nhất ở Sài Gòn, nói với tôi:

- Lúc này, tôi cứ chờ xem sao. Tôi sẽ được biết tình hình xoay vần như thế nào. Anh biết đấy, năm 1954 tôi đã mất hết, ở ngoài Hà Nội. Lần này, có lẽ tôi cũng sẽ sớm về Pháp, không chần chừ nữa.

Còn ông Jo phụ trách quán ăn Aterbea, cũng thuộc loại ẩm thực sang trọng nhất của Sài Gòn, cũng có suy nghĩ tương tự.

- Tôi rất mê đất nước này. Nhưng, ông hiểu đấy, nếu quán ăn của tôi không còn khách nữa, thì...

Trong lúc này, đội ngũ một trăm hai mươi nhăm nhà báo chúng tôi đang góp phần tạo ra một bầu không khí náo nhiệt nào đó ở Sài Gòn. Nhưng mai đây...

Một trăm nghề ngoài phố

Càng ngày càng có những tin đồn về việc sẽ dẹp hết hàng trăm nghề ngoài phố, như: những gánh hàng ăn nấu nướng ngay trên đường phố, những xe lưu động bán nước mía ép có pha đá với vài giọt nước chanh vắt, những thợ sửa chữa xe máy và xe đạp với những hòm đồ nghề nhỏ bé trong tay; những người bán hàng vặt: xà phòng giặt, thuốc đánh răng, bút bi; những người ghi, khắc biển số; những thợ lắp kính, bán kính deo mắt; những người bán thuốc lá rong; những người bán côn trùng; những người bán chim cảnh; những người bán rắn, những người bán dơi dơi; những người bán cá vàng; những người rao bán tôm, lươn, cua hãy còn sống; những người bán và khêu ốc luộc, những người bán và đốt những thẻ nhang thơm...


Tôi hiểu rõ, chủ nghĩa xã hội có thể sẽ khó khăn lắm trong việc dung túng cái loại chợ vô trật tự này, cái cơn kịch phát của chủ nghĩa cá nhân này, cái trò xoay xở dâng cao đến cực điểm này: đó là những tàn dư của một xã hội đang tan rã. Người ta sẽ lập lại trật tự trọng tất cả những ngành nghề này. Người ta sẽ tập trung cái thế giới hỗn độn nhỏ bé này vào những khuôn khổ ấn định, phân loại, dán nhãn, đánh số cẩn thận. Người ta sẽ cải tạo những người bán hàng rong. Người ta sẽ thu gom những người ăn mày ăn xin. Người ta sẽ chữa trị chăm sóc cho những người hủi. Người ta sẽ thu nạp những người què, cụt. Người ta sẽ dạy chữ cho những kẻ lang thang. Người la sẽ cải hoá những gái điếm. Người ta sẽ giải độc cho những người nghiện ngập. Người ta sẽ cử chuyên viên về nông thôn để thúc đẩy mùa màng thu hoạch tốt...

Người ta sẽ làm tất cả mọi việc đó và cả những cái cách khác nữa. Và người ta sẽ có lý.

Các hè phố Sài Gòn sẽ lại sạch sẽ như đã từng bị mất vẻ thông thoáng đẹp đẽ. Mọi người sẽ đi lại dễ dàng trên vỉa hè, nhưng sẽ buồn vắng.

Tôi không yêu thích những chuyện khử trùng để có văn minh. Những cái đó đã làm tôi ngáp dài...


Những người chết còn sống

Một trong những chuyện buôn bán phát tài nhất ở Sài Gòn trong vòng mười lăm ngày qua là những đám ma. Cái ánh sáng rực rỡ kỳ cục của những xe đòn, với những vòng hoa hạt cườm to lớn, vẻ thiêng liêng của những người đi đưa tang mặc toàn đồ trắng. Tất cả đều luôn luôn làm ngạc nhiên những người phương Tây.


Từ ngày 30 tháng 4 đến nay, người ta đã thành kính chôn cất mộl số khá nhiều nhân vật quan trọng không kịp chạy trốn và đang phạm nhiều tội, đứng trước nguy cơ bị trừng trị: đó là những sĩ quan và viên chức cao cấp. Tuy nhiên trong những chiếc quan tài này đều trống rỗng.


Dù đã bị gạch tên trong danh sách hộ lịch những người chết này vẫn còn sống. Họ đang tìm cách làm lại cuộc sống, tại một xó thanh bình nào đó, hoặc ở tít một ngôi chùa xa vắng. Hãy đi tìm họ trong đám đông hỗn độn của Sài Gòn này.


Những hòm lựu đạn của đại sứ

Đại sứ Pháp Jean Marie Merillon chỉ mặc một chiếc quần cộc ngắn màu xanh da trời, hai chân ngâm trong nước ấm của bồn tắm, đang thư giãn sau những giờ phút khó khăn vừa trải qua. ông nói với tôi:

- Lần đầu liên tôi gặp các nhà chức trách mới là vào khoảng bốn hoặc năm hôm sau khi họ chiếm được Sài Gòn. Anh biết đấy, lúc đó tôi có hàng đống vấn đề cần giải quyết. Ví dụ như: binh lính chế độ cũ khi tháo chạy đã vứt qua tường, rơi vào sứ quán Pháp những băng đạn súng máy và cả những hòm lựu đạn. Tôi hỏi những người có liên quan: "Phải làm gì bây giờ”. Họ đáp: "Ngài muốn làm gì thì làm. Chúng tôi đang bù đầu lên đây này. Không có thời gian đâu để thu lại các thứ”.

Ngài đại sứ Merillon liền hỏi lại một cách lịch sự:

- Các ông có muốn để tôi cho người mang đi không ?

- Không thành vấn đề đối với chúng tôi.

- Thế thì, tôi sẽ cho đưa ra ngoài vỉa hè.

Tôi cố hỏi đại sứ để biết những người có liên quan đó là ai. Ông đại sứ khẳng định, chính ông cũng không biết. Ông đã gặp họ tới bốn, năm lần trong vòng hai tuần, luôn luôn tiếp chuyện họ một cách lịch sự nhất. Nhưng không một ai trong số những người này xưng tên hoặc cho biết cấp bậc, chức vụ của họ. Đại sứ kể lại:

- Đã hai lần, tôi giáp mặt với những nhân vật có trình độ học vấn cao, nói tiếng Pháp rất hoàn hảo. Tôi có cảm giác, một người đã tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm của Pháp. Người này sử dụng một thành ngữ thường dùng trong các sinh viên ở phố Ulm bên Pháp. Nhưng rốt cuộc, tôi tuyệt đối chẳng biết gì về họ cả.
Đối với tôi quả thật đáng phấn khởi khi thấy, đến cả vị đại sứ của nước Pháp cũng chẳng biết gì hơn cánh nhà báo chúng tôi về các ý đồ của Chính phủ Cách mạng lâm thời, và chính đại sứ cũng ít được tiếp xúc, cũng như bất cứ nhà báo nào khác với các nhân vật quan trọng.


Albert

Mỗi buổi tối, vào đúng giờ đã định, khi các khách hàng đã ăn cơm xong thì trong vườn cây của khách sạn Continental, Albert mới ra khỏi nhà bếp. Albert chậm rãi đi dưới vòm cây đại bước qua sàn lát đá giữa các bàn ăn rồi mất hút về phía các "toa - lét". Albert đi không vội vã, thỉnh thoảng lại đứng lại, nhìn ngó chung quanh.

Đó là một con chuột rất to. Chúng tôi đặt tên cho nó là Albert.

61
NIỀM TIN NGỰ TRỊ

Thứ Tư 14 tháng 5

Tôi đến khách sạn Miramar để mang trả hai cuốn sách đã mượn của giám đốc, chợt nhìn thấy ông già này ngồi sụp trên một chiếc ghế dài có hai người lính đứng canh gác. Tôi hỏi:

- Có chuyện gì thế?

- Tôi không có quyền nói cho ông biết được.

- Ngôi nhà của ông bị trưng dụng hay sao?

- Ừ.

- Vậy ông đang chờ hay ông đã được gặp các nhân vật quan trọng?

- Có thể.

Biết bao nhiêu bí mật xoay quanh một sự kiện rất đơn giản. Các nhà lãnh đạo Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tới đây. Có lẽ có một nhân vật đã đến ở gian phòng tôi vừa mới ra đi cách đây bốn hôm.

Cách đây khoảng một trăm mét, trước cổng khách sạn Caravelle, tôi gặp một nhà quay phim truyền hình Bắc Việt, biết nói tiếng Pháp, và chúng tôi đã trao đổi với nhau những vấn đề thuần tuý nghiệp vụ từ khi anh ta tới Sài Gòn. Tôi chìa bàn tay. Anh nắm lấy, bắt tay tôi và đồng thời khẽ đẩy tôi ra xa một chút.

- Tôi không được nói chuyện với anh nữa.

- Anh nói gì?

- Tôi nói rằng, tôi được lệnh cấm nói chuyện với các nhà báo phương Tây.

Cần viết thêm, nếu khi về Pháp tôi kể lại câu chuyện này sẽ có những người cho rằng tôi đã sáng tác do bị thúc đẩy bởi chủ nghĩa chống cộng sản.


Lá cờ Vatican

Trong số rất ít những nhà ngoại giao không chạy trốn khỏi Sài Gòn - bởi vì một số đã di tản trong cơn hoảng loạn cao độ nhất - có một sứ thần của Toà thánh giáo lý tông đồ. Đó là Đức ông Lemaitre.

Buổi chiều hôm nay, một số tín đồ cánh tả đạo Cơ-đốc, thuộc phong trào tôn giáo vì hoà bình, định tiến công trụ sở này dưới sự chỉ huy của kẻ cầm đầu là Nguyễn Phúc Khánh. Mục đích của nhóm biệt kích này là đòi trục xuất sứ giả toà thánh mà họ buộc tội là đã ủng hộ Thiệu cho tới phúc cuối cùng. Một trong đám người trẻ tuổi còn cố giằng lấy lá cờ màu vàng và trắng của Vatican.


Ngay sau khi được cấp báo, một đơn vị bộ đội dã có mặt. Các anh bộ đội bắn súng chỉ thiên giải tán đám biểu tính.


Nhà giam Chí Hoà

Roland Paringause, đặc phái viên hãng AFP tại Hà Nội, cùng với những nhà báo Liên Xô và Trung Quốc và Jean Vidal của lờ Nhân đạo, cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp và một nhà báo nữa của tờ Đoàn kết, cơ quan của Đảng Cộng sản Italy được mời đi thăm Sài Gòn giải phóng. Họ tới đây trong ngày hôm qua bằng máy bay cất cánh từ Bắc kỳ. Hôm nay, họ được hướng dẫn viên đưa đi thăm khám Chí Hoà, nơi đã từng giam giữ mấy nghìn tù chính trị, cách ly hoàn toàn với số tù thường phạm.

- Từ sáng 30 tháng 4 lính canh ngục đã vứt bỏ sắc phục, tháo chạy hết và liền sau đó các tù nhân cũng chạy nốt. Nhà ngục chỉ còn lại những xà lim bẩn thỉu ghê tởm và những hành lang chất đống giầy lính, quần áo lính, ga - men, giấy tờ.

Roland đẩy một cửa phòng. Trong những ngăn kéo còn bỏ lại hàng ngàn, chục ngàn thẻ căn cước và hộ chiếu. Anh vô tình lượm được một hộ chiếu ghi tên Pierre Debirs. Đó chính là một người Pháp đã bị Thiệu bắt giam và đã ngồi tù suốt năm năm vì đã cùng với André Mensas kéo lá cờ Việt cộng ở ngay trước đài chiến sĩ của chế độ Thiệu.


Nước Pháp công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời

Tại Pháp, buổi chiều hôm nay, thứ Tư, Hội đồng bộ trưởng chính phủ Pháp đã quyết định công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, một sự chậm trễ theo thói quen của ngành ngoại giao Pháp. Các nước Thuỵ Điển, Anh... theo thói quen của họ, đã quyết định việc này nhanh hơn. Chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng của họ đã phục vụ quyền lợi của họ. Còn người Pháp chúng ta vẫn luôn luôn lóng ngóng bò sát đất trong một mạng lưới của những thủ tục chứng cứ pháp lý.


Michel Hiriet được cử làm đại biện lâm thời ở Hà Nội. Còn đại sứ Jean Marie Merillon lại Sài Gòn thj được lệnh về nước, sau này sẽ chỉ định một đại sứ mới tại Sài Gòn.


Nỗi sợ

Hôm nay, tôi lại có thêm một chứng cứ: nỗi sợ đã tác động đến con người như thế nào. Ông X, cho tôi biết, ông vừa mới can thiệp để cứu mười bảy đứa trẻ bại liệt bị bỏ rơi. Trước đây, hai linh mục Đức vẫn chăm sóc lũ trẻ với sự viện trợ tài chính của một tổ chức từ thiện Cộng hoà liên bang Đức. Trước ngày Sài Gòn sụp đổ hai mục sư này đã nhảy lên một chiếc máy bay lên thẳng Mỹ chạy trốn, bỏ lại những đứa trẻ.

Một hình thức nữa của nỗi sợ: lo sợ tương lai. Lũ trẻ này đã bóc những mảnh giấy có chất phốt pho dán trên vỏ bao diêm nhai nuốt để tự tử.


Các chủ đồn điền

Trong phòng khách nơi tôi trọ, có bốn ông chủ đồn điền tranh luận với nhau:

- Ngày hôm qua, hãy còn tới hơn 120.000 nghìn hecta cây cao su, hơn 5.000 hecta cây cà phê, hơn 8.000 hecta gốc trà, chưa kể đến cây mía và các cây ăn quả khác ở vùng ven biển. Ngày hôm nay, chúng tôi không biết còn lại gì. Và ngày mai chúng tôi không biết sẽ ra sao.

Một người quyết đính cứ ở lại bất cứ sau này ra sao. Người khác quyết định ra đi bằng mọi cách. Hai người cuối cùng dự định sẽ luỹ nghi ứng biến, miễn sao thích ứng với các hoàn cảnh do các ông chủ Việt Nam tạo ra.

Người cao tuổi nhất, đeo kính, bụng phệ, vì căng dạ dầy tới mức có thể làm đứt những cúc áo sơ mi, phàn nàn:

- ”Họ" muốn chúng tôi giữ nguyên tiền lương cho công nhân nhưng "họ" lại mua sản phẩm của chúng tôi với giá hạ gấp hai lần, và "họ" còn tăng giá phân bón cũng như dụng cụ gấp đôi. Chúng tôi làm thế nào ra thoát được?

Các chủ đồn điện này đã làm ăn ở đây từ hai mươi đến ba mươi năm. Một người nói:

- Tôi đến đây từ năm 1929.

Người cao tuổi nhất, nói:

- Còn tôi, tôi đến từ năm 1928. ông thấy đấy, tôi đạt kỷ lục hơn ông một năm.

Họ coi Việt Nam như đất nước của mình.

Một trong những chủ đồn điền này còn thiết lập được những quan hệ thân tình với một viên tướng tư lệnh đơn vị đóng trong khu vực có đồn điền của ông.

Ông đã mở tiệc chiêu đãi ông tướng tư lệnh bằng cách làm thịt cả một con bò. Vị tướng từ nhiều năm nay vẫn ăn cơm cùng với binh lính ở trong rừng, rất ngạc nhiên khi thấy bữa tiệc có quá nhiều thịt như vậy.


Cuối bữa cơm, vị tướng đã nói với chủ điền, những lời làm yên lòng chủ điền hơn. Dưới chính quyền của Chính phủ Cách mạng lâm thời, Nam Việt Nam sẽ có một đường lối độc đáo Sài Gòn sẽ là một bàn xoay giữa Đông và Tây. Các quyền lợi của Pháp sẽ được tôn trọng. Một phần lợi nhuận của người Pháp được giữ lại để đầu tư trong nước Việt Nam, còn một phần, có thể lên tới 25 phần trăm, sẽ được chuyển về Pháp.

62
DIỄU BINH MỪNG CHIẾN THẮNG

Thứ Năm 15 tháng 5

Ngày hôm nay, nhân kỷ niệm 85 năm ngày sinh Hồ Chí Minh (1890 - 1969) bắt đầu tổ chức những lễ hội mừng giải phóng Sài Gòn, kéo dài trong ba ngày.

Một lễ đài được dựng lên phía trước dinh Độc Lập trong một thời gian kỷ lục bởi những người mặc quần áo màu xanh lá cây. Người này chưa cưa xong tấm ván người khác đã đóng đanh, người thứ ba lập tức sơn và người thứ tư mang đến những cây xanh và cờ.


Sáng nay, vào lúc tám giờ, trên lễ đài trời nắng gay gắt. Một vị cao tuổi, mặt tròn, bước đi khó khăn ngồi xuống một chiếc ghế bành có ô che nắng. Đó là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Tôn Đức Thắng. Ngồi bên cạnh cụ là một người mặc bộ đồ màu xanh nhạt, tóc hoa râm cắt ngắn. Đó là Thủ tướng Chính phủ Cách mạng lâm thời Nguyễn Tấn Phát (Tác giả viết nhầm. Đây là ông Huỳnh Tấn Phái (ND)).


Trong số các nhân vật quan trọng chúng tôi nhìn thấy có ông Lê Đức Thọ luôn tươi cười sau cặp kính đeo mắt, bà Nguyễn Thị Bình, sắc sảo linh hoạt hơn bao giờ hết, tướng Trần Văn Trà trong bộ quân phục đại lễ, các tướng lĩnh và sĩ quan cấp cao trong quân phục màu xanh tươi, ngực đầy huân chương; các thành viên phái đoàn ngoại giao chủ yếu đến từ Hà Nội bổ sung thêm cho một số rấl íl nhà ngoại giao còn ở lại Sài Gòn, vài hoà thượng khoác áo cà sa màu da cam và tổng giám mục dịa phận Sài Gòn Nguyễn Văn Bình, toát mồ hôi trong chiếc áo dài lụa đen có khuy màu tím, phải nhờ chiếc quạt giấy để có được ít gió.

Nhiều bài phát biểu liên tiếp trong buổi lễ.

Ông Phát là nhân vật quan trọng hàng đầu của Chính phủ Cách mạng lâm thời và là người đầu tiên phát biểu công khai kể từ ngày Sài Gòn được giải phóng. ông nhấn mạnh, Việt Nam là một nước dân chủ. Ông mong muốn thiết lập những quan hệ hữu nghị với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Ông sẽ tôn trọng các chính kiến đa dạng...


Sau bài diễn văn là cuộc diễu binh, kém hấp dẫn rất nhiều so với ngày xe tăng bắt đầu tiến vào Sài Gòn. Nhưng, trong cuộc diễu binh này, những thanh chắn trước mũi xe tải do Liên Xô, Trung Quốc chế tạo đã được sơn trắng, các xe tăng đã được cọ rửa, khung xe được đánh bóng, và tất cả bộ đội ngồi trên xe đều đeo găng tay trắng.

Những lính thuỷ mặc quân phục trắng, cổ áo xanh lơ mở đầu cuộc diễu binh.

Tất cả đều ngồi trên mười sáu chiếc xe tải Molotova, xếp thành bốn khối, mỗi khối bốn hàng ngang, bốn hàng dọc. Người lính nào cũng đội mũ cứng màu trắng, nắm trong tay khẩu AK, loại vũ khí lợi hại do Trung Quốc chế tạo, viên đạn rất nhỏ nhưng có thể khoan thủng hoặc làm vặn vẹo một tấm lá chắn sắt thép.


Tiếp theo là những đơn vị bộ binh cũng ngồi trên mười sáu chiếc xe. Sau bộ binh chủ lực là các đơn vị địa phương quân, mặc đồ đen, trang bị vũ khí tước được của địch, thường là súng M.56 của Mỹ. Rồi đến các nữ chiến binh cũng mặc đen, quấn khăn rằn có những hình ô vuông màu đen và trắng trên cổ. Cuối cùng là những đơn vị tự vệ công nhân, quần xanh, mũ lười trai xanh, giày vải trắng.


Sau đó một quãng là những khẩu pháo 130 do xe tải kéo, những khẩu cao xạ hai nòng; những cỗ pháo phòng không các loại; những ống phóng rốc két, những trọng liên đế bằng; những xe tăng T54, những tên lửa khổng lồ đặt trên dàn phóng có xe kéo.

Đến mười giờ mọi cuộc diễu hành đều kết thúc.

Buổi chiều, hai phi đội Mig 21 lượn vài vòng thấp rất gây ấn tượng.

Buổi tối có bắn pháo hoa rực rỡ trên bờ sông. Đây không phải là buổi trình diễn pháo hoa đẹp nhất mà tôi đã từng được xem, nhưng mà kéo dài nhất.

Đám đông đi lại nhởn nhơ rất lâu trong đêm nồng ấm.

Cuộc dạo chơi trong vườn cây bên bờ sông Sài Gòn ngập nước phù sa gợi nhớ lại những bờ sông Tigris ở thành phố Bagdad bên Irak. Lứa tuổi thanh niên đang tìm thấy, hoặc lại tìm thấy cảnh nhàn tản tươi vui, gợi cảm.


Bóng tối đã nuốt chửng những người bị thương, què cụt, mù loà, những người bị bom napalm, những người bị bệnh phong, những người không nhà cửa, không gia đình họ hàng, không tiền của, những người thường vào những giờ nhất định lại xuất hiện ở trung tâm Sài Gòn, đặc biệt là gần những khách sạn lớn, biến nơi đây thành một cái sân phức tạp.


Một mảnh tràng lưỡi liềm nhô lên trên các sân thượng. Trên những cột tàu thuyền đều mắc nhiều bóng đèn điện kết thành hình cây thông trong lễ Noel. Từ xa vẳng lại những âm thanh của một dàn nhạc đang chơi những bài thời thượng.

Nhiều lúc, tôi đã nghĩ, Sài Gòn đã trở lại niềm rui được sống.

63
NHỮNG CẢNH TƯƠNG PHẢN

Thứ Sáu 16 tháng 5

Ngày thứ hai của lễ hội. Đã hết diễu binh, liên hoan, bắn pháo hóa. Nhưng ngày hội vẫn còn. Chỉ có vài cửa hàng cửa hiệu mở cửa, vắng khách. Không ai mua gì hơn ngoài gạo và rau.

Hằng ngày đều có mưa dông hoặc mưa rào. Gió mùa đã về, biến đường xá thành những rãnh nước và đồng ruộng thành ao hồ.

Thất vọng

Lã Thị Ba, người làm công cho ông Georges đang chát vọng. Ngôn ngữ Việt Nam rất tinh tế. Thị Ba có nghĩa là người con gái thứ ba (Tác giả nhầm. Ở miền Nam, người con đầu lòng thường được gọi là anh Hai hoặc chị Hai. Vậy thì, chị Ba không phải là người con gái thứ ba). Người đàn bà này phải phục vụ ông bạn Georges của tôi trăm công ngàn việc, phải nấu nướng những món ăn ngon không ngày nào giống ngày nào. Thật sự, đây là người chị cả hoặc một bà cô chứ không phải là em gái thứ ba.

Những người đàn bà nhiều tuổi này có một trực giác kỳ lạ: chỉ mới nghe nửa câu đã hiểu, và còn biết sừ dụng cả máy điện thoại.

Vậy mà Thị Ba đang thất vọng. Con gái của bà là một tiến sĩ luật, đang ở thành phố Nice bên Pháp. Bà muốn được đi theo con. Nhưng bà đang lo không được lãnh sự quán cấp thị thực nhập cảnh vào Pháp. Sáng nay, bà nói với Georges:

- Nếu quả thật tôi không được đi, tôi sẽ tự tử.

Georges nói nhỏ với tôi:

- Rồi anh xem. Bà ta đã tiết lộ với tôi, rằng bà đã mua hai "ống tuýp” thuốc ngủ.

64
ÔNG SẮP"


Thứ Bảy 17 tháng 5

Tại Bộ Ngoại giao, người ta đã đồng ý cho phép chúng tôi diễn vào các thể thức thủ tục xin thị thực xuất cảnh. Sẽ có một máy bay đưa chúng tôi tới Viên Chăn.

- Bao giờ?

- Sắp!

Một ngày trôi qua. Chưa có tin gì cả.

Chúng tôi liền đặt cho người phụ trách báo chí của Bộ Ngoại giao cái tên: “Ông Sắp”.

Mệt mỏi vì chờ đợi.

Lại thêm bực bội vì ngày nào loa phóng thanh cũng ầm ỹ.

Sự chuyển đổi

Ngày hôm qua các vị chức sắc người Pháp ở Sài Gòn còn đi lại bằng xe ô tô. Sáng nay, một đoàn do Chủ tịch phòng thương mại Pháp dẫn đầu phải đi xe đạp tới truyền hình Pháp. Đây là sáng kiến của phóng viên Jean Lartéguy, và phải hiểu đây là một ý nghĩ nực cười.

Xăng đang rất thiếu vì phải dành cho các xe quân sự.

Một phần thành viên chính phủ xuất hiện công khai trong buổi lễ duyệt binh nay lại lui vào bí mật, hoặc trong hậu trường. Rất khó có dịp được gặp nhân vật có lẽ quan trọng nhất ở miền Nam Việt Nam. Đó là ông Phạm Hùng, Uỷ viên Bộ Chính trị.

Lệnh giới nghiêm

Đã ba tuần nay, lệnh giới nghiêm đang ngả theo chiều hướng bị xếp xó. Một thông báo đăng trên tờ Sài Gòn giải phóng cho biết, từ nay lệnh này chỉ tiến hành từ nửa đêm đến năm giờ sáng. Bản thông báo cũng ghi rõ: “Trừ các trường hợp đau đẻ, cháy, cấp cứu, sẽ báo cáo ngay với cán bộ khu phố".

65
ĐÀI PHÁT THANH CONTINENTAL

Chủ Nhật 18 tháng 5

Chúng tôi đã nhận lại được các hộ chiếu trong đó các nhà chức trách ghi rõ thị thực xuất cảnh có hiệu lực đến ngày 25 tháng 5 bằng đường không hoặc đường biển cũng được. Lập tức cái thế giới thu nhỏ của các nhà báo thường ngồi trên thềm khách sạn Continental lại bắt đầu suy tưởng, đoán mò:

- Liệu xem đến ngày 25 tháng này có ra đi được không.

- Không đâu, cái thời hạn 25 này chẳng nói lên điều gì cả.

- Thế tại sao người ta lại ghi thêm: đi bằng đường biển cũng được?

- Là bởi vì không có máy bay.

- Không phải. Mà là vì có một trục trặc gì đó ở Lào, sân ga hàng không Viên Chăn phải đóng cửa.

- Ai bảo anh thế?

- Đó là X. Anh ta vừa nghe đài Ôxtrâylia.

- Chắc chắn chứ?

- Không chắc.

- Thế thì, có lẽ chúng ta sẽ đi bằng tàu biển. Và rồi mọi người lại tưởng tượng đến những cuộc hành trình qua Hồng Công, Manila, Băng Cốc, Xingapo. Rồi tính toán khoảng cách. Rồi ước lượng chiều dài của hành trình. Và cứ thế nói mãi, nói mãi.

- Này, hầu bàn, cho một chầu nữa.

Và cuộc họp lại tiếp tục.

Chuyện phiêu lưu của tàu 602

Bốn chiếc tàu chiến nhỏ của quân đội Sài Gòn, mang các số hiệu 602, 230, 330, 331 ngày 30 tháng 4 đã di tản sang Xingapo. Sau khi tới Xingapo ngày 5 tháng 5, đến ngày 9 tháng 5 lại đi sang Philippin.

Trên tàu 602 "có một số binh sĩ hải quân không muốn theo đuổi cuộc sống nô lệ ở nước ngoài và đã xung đột với nhóm sĩ quan ngoan cố. Cuối cùng, dưới sự chỉ huy của trung uý Thái Văn Lệnh, tàu 602 đã trở lại". Tin này đã được phát đi trên đài Giải phóng.

Tuy nhiên trong thành phố vẫn xì xào những tin đồn trái ngược. Vẫn có những kẻ phao tin rằng "bọn này quay trở lại vì chưa mang theo được vợ con đi cùng".


Sự thay đổi

Trong khu phố trên đường Tự Do, có một sự chuyển biến đang diễn ra tuần tự và kín đáo. Đầu tiên là những biển hiệu "mát – xa” biến mất. Tiếp đó là các quán "bar" chuyển thành những tiệm cà phê lành mạnh. Các cô gái mát - xa và mời rượu trở thành những cô bán nước giải khát, có cặp mắt bẽn lẽn nhìn xuống. Mỗi ngày qua đi lại mang đến một sự thay đổi. Đây là một vách ngăn bị dỡ bỏ, thay vào là một bức lường mới xây lên, nơi khác là một cửa hàng mới sửa lại. Tôi biết chắc chắn, chỗ này hôm qua hãy còn là một hộp đêm, sáng nay đã chuyển đổi thành một cửa hiệu giặt, ủi...

66
TUẦN TRA TRÊN ĐƯỜNG PHỐ

Thứ Hai 19 tháng 5

Vẻ tươi vui trong lòng của các nhà báo ở Sài Gòn bắt đầu xẹp dần. Bộ đội cũng vậy. Đã có một số bộ đội bị ám sát trong ba ngày liền, phần lớn bị đâm bằng dao găm tại những nơi vắng vẻ và cũng có khi ở ngay cả chỗ đông người. Các nhà chức trách không nói gì về chuyện này, nhưng trong thành phố toàn loan truyền những tin đồn đại. Tôi nghĩ cần phải nghi ngờ những câu chuyện mà đúng ra phải được xác minh tuyệt đối chính xác bởi người thông tin biết chắc chắn.

Dù thế nào đi nữa, quân đội cũng nghiêm túc đề phòng. Cứ nhìn những đội tuần tra đi hàng dọc trên đường phố mang theo máy bộ đàm là đủ rõ. Những đội tuần tra này gồm có những binh sĩ đơn vị chủ lực, cánh tay đeo băng vải có ghi QCGP, có nghĩa là “Quân cảnh giải phóng”. Có cả hai loại băng vải nữa ghi KSTT, tức "Kiểm soát trật tự" và KSAN, tức "Kiểm soát an ninh". Những người đeo hai loại băng này thường là lực lượng dân phòng, đôi khi trang bị tiểu liên hoặc súng trường tịch thu được của Mỹ. Một số là thanh niên rất trẻ tuổi.

Buổi tối, vào lúc trước nửa đêm, tôi trở về khách sạn được chứng kiến một cuộc đụng độ. Có những kẻ nào đó, nấp trên mái nhà, bắn vào đội tuần tra, rồi chạy vào khu vực gần khách sạn Continental lẩn trốn. Chúng lập tức bị đuổi theo nhưng vẫn chạy thoát. Bộ đội tổ chức truy lùng. Tôi nghe thấy có những tiếng súng nổ trên đường phố tôi vừa di qua. Rồi có hai người mặc thường phục vút qua như chạy trốn. Một tốp người mặc quân phục xanh lá cây đuổi theo. Năm phút sau, tình hình lại yên tĩnh.


Gạo ăn hàng ngày

Số dân nội thành Sài Gòn đã quá tải vì những người lánh nạn chưa quay về chỗ ở cũ. Một triệu viên chức chế độ cũ không được trả lương. Các ngân hàng đều đóng cửa từ ngày 30 tháng 4. Nhiều nhà máy không hoại động. Việc buôn bán chỉ cầm chừng và thưa vắng.


Các nhà chức trách chính quyền giải phóng đang cố hết sức khởi động lại cuộc sống kinh tế. Nhưng cỗ máy chỉ mới chuyển động từ từ. Phải phân phối gạo tại các khu phố. Mỗi người dân được cấp hai mươi ki lô gạo và ba nghìn đồng trong một tháng. Dân Sài Gòn lúc này đã có tới hơn ba triệu người.

Nạn thiếu đói cùng với số tù thường phạm thoát khỏi các nhà giam trong ngày giải phóng làm cho nạn trộm cướp hoành hành mỗi ngày một lăng.

Sáng hôm qua, ngay tại trung tâm thành phố, tôi được chứng kiến việc bắt giữ bốn tên "cao bồi". Đó là bốn thanh niên phóng xe Honda bạt mạng. Bọn này bị chặn lại, đứng úp mặt vào tường, bị lục soát kỹ xem có đem theo vũ khí không rồi bị giải về đồn công an.

Mỗi khi trở về khách sạn vào lúc quá khuya, tôi đều thấy trên đường đi có dựng các vật cản. Binh lính nói to với những kẻ còn tụ tập trên đường vào lúc đã khuya:

- Này! Giải tán đi! Nếu không tôi bắn đấy!

Nhưng bộ đội không nổ súng. Còn ở một vài khu phố khác, vào giờ này, có nghe thấy tiếng súng tiểu liên. Lại bọn cao bồi bị săn đuổi chăng? Phải chờ đến sáng mai, xem báo Giải phóng mới biết chính xác.

67
XEM PHIM ĐIỆN BIÊN PHỦ

Chỉ với 150 đồng, nghĩa là chưa đầy một franc có thể mua vé xem phim từ Bắc Việt Nam đưa vào. Phần lớn là phim tuyên truyền. Nhưng cuốn phim về trận Điện Biên Phủ, dù hình ảnh còn kém vì quay từ hai mươi nhăm năm trước, khi xem lại rất thú vị. Có những cảnh mở đường xuyên rừng, những đoàn xe ô tô tiếp vận đi trên sườn núi, những cảnh khiêng, vác, kéo những khẩu pháo nặng bằng sức người, cảnh những chiến sĩ vui vẻ hồn nhiên thổi kèn harmonica trong lúc chờ đợi giờ xuất phát tiến công. Nhưng, đối với những người Pháp, những cảnh cuối phim rất nặng nề khi chiếu lên hình ảnh từng đoàn tù binh dài dằng dặc vừa đi vừa phất cờ trắng...

68
NHỮNG NGƯỜI LÁNH NẠN BỊ BỎ QUÊN

Thứ Tư 21 tháng 5

Trong sân nhà tu kín, chung quanh nhà thờ, trong vườn cây, trong trường học trước mặt, đều chật ních những người lánh nạn. Họ đang chờ một chuyến xe để trở về Đà Nẵng hoặc Nha Trang. Người ta nói với tôi là cha Thanh, người đã phát động cuộc đấu tranh chống tham nhũng dưới chế độ Thiệu, đang đi vắng. Ông đi tìm những xe tải, xe con, chất đất. Điều đáng ca ngợi là mặc dù gặp nhiều trở ngại ông không bao giờ nản lòng. Một niềm tin cộng với một tinh thần dũng cảm, đó là điều tôi hiếm thấy.

Những đội tuần tra được tiến hành nhiều hơn, cảnh giác hơn trên các đường phố. Vào đêm, luỵ chưa đến giờ giới nghiêm, các phố đã vắng tanh.

Phải bao nhiêu thời gian nữa mới ổn định được thành phố này? Ba tháng? Sáu tháng? Một năm? Điều chắc chắn là, nhất định sẽ bình ổn được.

69
CUỘC SĂN LÙNG SÁCH

Thứ Năm 22 tháng 5

Sáng nay, vụt một cái, tất cả những sạp bán sách trên vỉa hè, gần rạp chiếu bóng REX, đều biến mất. Trước kia, ở đây thường bán những cuốn sách mà trong các thư viện Sài Gòn sẽ không có nữa. Đó là những loại sách độc hại đối với chủ nghĩa cộng sản. Thanh niên hiểu rằng đây là những cuốn cuối cùng được bán hạ giá. Chỉ trong vòng một tuần họ đã lao đến các sạp bán sách, mua vét hết.

Chán sống

Tôi gặp lại Jane, cô gái Pháp bị bỏ rơi, vào cuối buổi chiều đang ngồi trước một tách trà đã cạn tại một tiệm cà phê. Cô gái có vẻ buồn. Hai người bạn gái đi cùng với cô, giúp tôi phiên dịch. Cô cho biết, một trong hai cô gái vị thành niên lánh nạn tại nhà cô đã tự tử. Cô bé tội nghiệp đã uống hết cả một "tuýp" thuốc Nivaquine.

Và bây giờ đến lượt ba cô gái tươi trẻ, xinh xắn lại bắt đầu nói với tôi về chuyện tự tử. Tôi nói:

- Vào tuổi các cháu, phải nghĩ đến chuyện sống.

- Tại sao lại phải sống? Chúng cháu không còn hứng thú gì với cuộc đời này.

Tôi thừa nhận, đây không phải chỉ là câu nói cửa miệng. Bởi vì trong người các cô gái này đều có mang theo hàng trăm viên thuốc nhỏ màu trắng.

Một chuỗi im lặng kéo dài làm ngừng câu chuyện tuyệt vọng.

Bữa ăn tối

Trong khu phố đang vắng dần, người ta chỉ còn nghe thấy tiếng gõ lạch cạch đều đặn theo một nốt nhạc của một chú bé báo hiệu bữa ăn tối đã chuẩn bị xong. Và thế là, trong bóng tối đang ập xuống, những người vóc dáng bé nhỏ ngồi xổm ngay trên hè, chung quanh người phụ nữ nấu ăn, lặng lẽ và chăm chú, đang múc từ trong nồi nghi ngút bốc khói đổ vào những cái bát một thức ăn hỗn hợp mì sợi dài và mảnh, những mẩu thịt và một ít rau.

Đứa trẻ tiếp tục gõ nhịp trên thanh gỗ, mời khách ăn. Hãy đến đây! Đến đây! Khi những tiếng gõ đều đều này đã ngừng, những dư âm vẫn ám ảnh tôi, như tiếng trống trong đêm châu Phi.

70
GIÓ MÙA

Thứ Sáu 23 tháng 5

Vào khoảng 11 giờ sáng, một người trong bọn chúng tôi, được cử đi thăm dò tình hình ở Bộ Ngoại giao, trở về vui vẻ nói:

- Xong rồi, các bạn ơi! Chuẩn bị ra đi. Một giờ nữa phải có mặt tại sân bay.

Chúng tôi vội vàng thu xếp hành lý.

Chúng tôi đây, tức là tám mươi hai phóng viên báo viết, báo nói, báo hình phương Tây bị mắc kẹt tại Sài Gòn sau ngày giải phóng, gồm bốn mươi chín người Pháp, ba mươi ba người Nhật Bản, mười lăm người Anh, chín người Mỹ, sáu người Đức, bốn người Italy, hai người Bỉ, hai người Thuỵ S , một người Hà Lan, một người Đan Mạch, một người Ôxtrâylia, một người New Zealand và một người Ấn Độ.

Vài ngày trước khi chế độ cũ đầu hàng, chúng tôi có tới hơn ba trăm năm mươi nhà báo. Lúc đó, chúng tôi đã có thể ra đi trên một trong những chuyến máy bay cuối cùng hoặc leo lên một máy bay lên thẳng của Mỹ. Nhưng chúng tôi đã thích ở lại. Chúng tôi cũng đã biết rõ, ở lại thì sẽ phải hứng chịu những gì. Nhưng một sự say mê tò mò đã khiến chúng tôi không sợ hãi. Và lúc đó, chúng tôi không nghĩ rằng sẽ ở lại lâu như thế này.


Kể ra, chúng tôi cũng khá ngây thơ!

Ngay sau ngày Sài Gòn thất thủ, chúng tôi đã không ngừng đề nghị chính quyền mới tìm cách cho chúng tôi được rời khỏi Việt Nam. Người ta đã hứa sẽ làm mọi việc cần thiết, nhưng sau đó lại cho biết là gặp nhiều vấn đề về phương tiện, kỹ thuật.

Những vấn đề kỹ thuật nào? Chúng tôi biết, đường băng sân bay Tân Sơn Nhất vẫn còn sử dụng được, đài kiểm soát không lưu vẫn còn hoạt động.

Ngoài ra, chúng tôi còn nhìn thấy sáng nào cũng có một chuyến máy bay từ Hà Nội vào mang theo hành khách và báo chí Bắc Việt Nam1 (Tác giả đã suy diễn. Trong những ngày đầu giải phóng Sài Gòn, chỉ có máy bay quân sự hoạt động, chưa có máy bay dân dụng và chưa thiết lập được tuyến đường hàng không chở hành khách Hà Nội- Sài Gòn (ND)).

Sự thật, là các nhà chức trách của chính quyền mới, trước quy mô và tốc độ nhanh chóng của chiến thắng, đã rất rối bận, còn nhiều việc phải giải quyết hơn là chăm sóc giới báo chí phương Tây.

Ngày nào chúng tôi cũng hỏi xin một chuyến bay.

Lần nào, người ta cũng trả lời:

- Chúng tôi đang thu xếp. Hãy kiên nhăn.

Tất cả những bức điện chúng tôi gửi về cho các chính phủ của chúng tôi ở Paris, Luân Đôn, Bon, Roma, Tokyo đều không thay đổi được tình hình. Tôi không nghĩ rằng Bộ Ngoại giao Pháp phải lo lắng lắm về số phận của chúng tôi. Tất nhiên, Sài Gòn không phải là Nông Pênh (dưới chính quyền của Khơme đỏ). Chúng tôi không phải khổ sở. Chúng tôi có thể đi lại tự do trong nội thành và ngay cả làm một vài chuyến đi ra ngoài, không hỏi ai cả, cũng vẫn được.

Điều chúng tôi phàn nàn là họ đã đối xử với chúng tôi như chúng tôi là một lớp học sinh bị phạt, bị giữ lại trong lớp Họ coi như chúng tôi không có mặt. Chúng tôi cũng không được tiếp xúc với các nhà lãnh đạo như bà Nguyễn Thị Bình, ông Nguyễn Hữu Thọ. Các nhân vật lãnh đạo khác cũng lẩn tránh.

Họ nghi ngờ chúng tôi chăng? Tôi không tin như vậy. Họ dửng dưng với chúng tôi chăng? Chắc chắn là không. Họ bận quá nhiều công việc? Nhất định rồi. Họ còn mắc nhiều cuộc họp hành, thảo luận? Cũng có lẽ. Nhưng, điều chính yếu là họ không thấu hiểu sự cần thiết của thông tin. Ba mươi năm chiến tranh và thắng lợi rực rỡ đã không tạo ra được sự cần thiết phải có những quan hệ tốt với giới báo chí. Tôi không oán trách ai hết. Tất cả mọi người đều đối xử rất lịch sự với chúng tôi. Tôi chỉ muốn, chính quyền mới có một ngưji phụ trách thông tin sáng suốt.

Cuối cùng, sau hai mươi bốn ngày chờ đợi, trưa hôm nay chúng tôi đã được mời tới sân bay. Chúng tôi đã tới. Người nào cũng ướt đẫm mồ hôi, thở hổn hển, mang vác nặng. Nhưng vẫn cứ phải chờ. Người ta đưa cho chúng tôi mỗi người một cái vé máy bay Sài Gòn - Viên Chăn với giá 120 đô la. Dĩ nhiên, phải là đồng đô la. Tôi chỉ có tiền franc, bị lườm nguýt: “Tiền gì thế này? Ông mà lại không có đô la à? Và cái tờ giấy mệnh giá năm trăm franc này, liệu còn lưu hành không?” Tôi đã cảm thấy, đã đến lúc tôi bị từ chối.
Nhưng rồi mọi việc đều ổn thoả.

Đúng lúc đó, nhà ga hàng không lại báo tin, đến sáng mai máy bay mới cất cánh được.

Lý do?

Chẳng ai biết cả!

Tôi hỏi một nữ tiếp viên, mặc bộ áo dài màu đỏ, và được trả lời:

- Đó là tại gió mùa. Sân bay Viên Chăn chiều nay không tiếp nhận máy bay hạ cánh.

Chúng tôi đành cụp tai quay trở về thành phố.

71
TỰ DO, TỰ DO YÊU QUÝ..."

Thứ Bảy 24 tháng 5

Bẩy giờ sáng, tất cả chúng tôi lại có mặt đầy đủ ở sân bay Tân Sơn Nhất. Ngoài ra còn có vài đại diện sứ quán Pháp và ông đại biện lâm thời Nhật Bản cũng tới để quan sát những thể thức, thủ tục hải quan.
Hành lý của chúng tôi phải qua một cuộc kiểm tra rất kỹ, kéo dài không dưới ba giờ.

Cuối cùng, đến mười giờ chúng tôi được đưa tới một chiếc máy bay bốn động cơ, sơn hai màu xanh và trắng, có lính canh chung quanh. Đến chân cầu thang máy bay một lần nữa chúng tôi lại phải đưa trình hộ chiếu và soát lại lần cuối cùng thị thực xuất cảnh.

Khắp nơi chung quanh, trên các sân đỗ máy bay đều là các loại máy bay tiêm kích, vận tải, lên thẳng bị phá huỷ.

Chúng tôi leo lên chiếc máy bay dành riêng cho mình. Đó là một chiếc Iliusin 18 do Liên Xô chế tạo, sơn nhãn hiệu máy bay dân dụng Việt Nam, nhưng tổ lái đều là quân nhân. Chúng tôi ngồi vào ghế. Nữ tiếp viên đưa kẹo Caramen đến mời. Máy bay sắp cất cánh. Một sĩ quan bước vào khoang hành khách, khẩu súng ngắn đeo sệ bên đùi, đi lại giữa hai hàng ghế, đếm đầu người rồi đếm lại một lần nữa. Sau đó, ông ta mới hướng về chỗ phi công (cũng đeo súng ngắn) nói to:

- Được rồi! Điểm số xong rồi! Có thể cất cánh!

Máy bay hướng thẳng về phía Bắc, lướt tới Đà Nẵng, ngoặt sang phía Tây ra biển. Sau hai giờ bay chúng tôi đã hạ cánh xuống Viên Chăn.

Tại sân bay Viên Chăn đã có nhiều phóng viên nhiếp ảnh và quay phim đón đợi, cứ y như là chúng tôi vừa sống sót sau một cuộc thám hiểm.

Mặc dù ở đây cũng nóng và ẩm như Sài Gòn, nhưng bầu không khí bên Lào làm chúng tôi dễ chịu. Đối với chúng tôi bầu không khí này có hương vị của sự tự do.

Tối đến, tôi nằm lăn xuống giường trong khách sạn Imperial, người mệt nhoài.

Mới rạng sáng một tiếng nổ lớn làm tôi bừng tỉnh. Đang còn ngái ngủ, tôi chạy vội ra cửa sổ, cứ tưởng vẫn còn ở Sài Gòn.

Đó chỉ là tiếng sấm của cơn dông.

Từ bên kia đường phố, trong vườn một toà biệt thự quét vôi màu trắng là nơi tôi đã biết, từ hai năm trước, khi phục vụ trong quân đội hoàng gia Lào, tôi nhìn thấy một lính gác đang đi đều bước. Quân phục bằng vải ka ki, súng AK 47 của Trung Quốc, mũ kiểu Mao, nhưng đeo phù hiệu Pathet Lào.

Tốt - Cứ thế tiếp tục...

KẾT LUẬN

Có những lúc, lịch sử tiến gấp.

Hồi đầu năm 1975, ai dám nghĩ là cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ 20 lại kết thúc trong vòng chỉ có ba tháng?

Lúc đó, ai có thể nghĩ được rằng Sài Gòn sẽ rơi rụng như một trái chín, gần như không chiến đấu? Tất cả diễn ra rất nhanh tới mức những hình ảnh cũng bị nhiễu và nhoà.

Do không có thời gian để suy ngẫm, lúc này từng người đang giải thích một cách, tuỳ theo phe phái, tầng lớp, chính đảng, quan điểm và tư duy của mình.

Không ai ngăn được những người này nhận định rằng việc chiếm lĩnh Sài Gòn là chiến thắng lớn. Và đúng là một đại thắng.

Nhưng cũng không ai cấm được người khác cho rằng không phải như vậy.

Do tình hình rất phức tạp, nên người ta muốn tuyệt đối thu hẹp trong những giả thiết. Ngược lại, tất cả đều phải trắng, đen rõ rệt.

Tuy nhiên, tất cả mọi người đều thoả thuận trên ba điểm:

- Chiếm được Sài Gòn là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong ba thập kỷ nay.

Và cũng là sự kiện quan trọng nhất của châu Á sau khi Bắc Kinh (của Tưởng Giới Thạch) sụp đổ năm 1949.

- Ngày 30 tháng 4 năm 1975 mai kia sẽ được ghi trong sử sách, như điểm kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm. Nhưng, ngày kỷ niệm này còn có giá trị tiêu biểu gấp bốn lần nữa:

+ Tiêu biểu cho tất cả nhân dân các dân tộc thuộc địa. Đây là thắng lợi rực rỡ chống chủ nghĩa thực dân.

+ Tiêu biểu cho tất cả các kẻ thù của Mỹ trên toàn thế giới. Đây là thất bại của Mỹ cả về quân sự lẫn chính trị.

+ Dưới mắt những người châu Á, đây còn là tiêu biểu cho thời điểm quyết định loại trừ bọn thực dân da trắng đã thống trị lục địa da vàng từ năm thế kỷ nay.

+ Dưới mắt nhân dân các nước phương Tây cũng như các nước trong khối cộng sản, đây là tiêu biểu cho bước tiến quyết định tới chủ nghĩa cộng sản.

Phần còn lại, là thử tìm hiểu xem, có phải sự kiện vừa xảy ra đã được tính toán từ hai năm trước đó không?
Tôi không muốn nói là "đã nhìn thấy trước". Từ rất lâu, những nhà quan sát sáng suất đã báo trước sự kiện này. Không cần phải có khả năng của nhà tiên tri mới biết được điều đó.

Tôi muốn nói là, việc thôn tính miền Nam Việt Nam đã đặc biệt ghi ngầm một cách bóng gió trong các hiệp định Pari.

Ai chẳng biết, Kissinger và Lê Đức Thọ đều đã được giải thưởng Nobel vì hoà bình, và họ đã bí mật đàm phán với nhau những gì nữa?

Ngược lại, nếu vứt bỏ lời giải thích này, thì sẽ không hiểu nổi rằng Bắc Việt Nam đã theo đuổi trong hai năm việc chuẩn bị cho cuộc tiến công cuối cùng mà không làm dấy lên một lời phản đối nào, một sự phản ứng nào về phía chính quyền Mỹ.

Nhưng, các nhà quan sát đã bắt đầu nhìn rộng ra cả ở bên ngoài Việt Nam.

Nhìn đến Campuchia là nơi đang tiến hành một cuộc cách mạng triệt để. Có lẽ, đây là cuộc cách mạng triệt để duy nhất trong lịch sử. Cuộc cách mạng này đã san bằng mọi thứ trong quá khứ để muốn xây dựng một xã hội hoàn toàn mời, đi lên từ hạt gạo nguyên thuỷ gieo trong đồng ruộng. Đó là ý chí của Khơ-me đỏ.
Các cặp mắt cũng hướng về Lào nơi đang phát triển từ từ, hoà bình, bằng các biện pháp chính trị, êm ái, không ầm ỹ. Phải chăng, trường hợp ở Lào là "một con bài domino bằng cao su”?

Và, rồi các nhà tiên tri đoán điềm cũng đã báo trước con bài domino sắp tới: đó là Thái Lan.

Tóm lại, toàn bộ Đông Nam Á đều chấn động rung chuyển về việc đánh chiếm Sài Gòn.

Còn tại chính thành phố này thì hiện nay đang diễn ra những sự kiện gì?

Những gì mà tôi nhìn thấy ở đây, trong tháng 5 tuyệt đối chưa cho tôi nói gì được về tương lai. Chúng tôi là một trăm hai mươi nhăm nhà báo cùng trải qua một trường hợp. Chúng tôi đã chăm chú quan sát những gì diễn ra trước mắt mình. Chúng tôi đã chứng kiến một sự kiện lịch sử: sự rung chuyển của một thế giới.


Người ta bảo tôi: Nam Việt Nam sẽ trở thành cộng sản. Chắc chắn, đó là điều đáng chờ đợi. Nhưng trong bao lâu, là theo cách nào? Việc này đòi hỏi phải có thời gian và phải trải qua nhiều giai đoạn. Chế độ này sẽ tuần tự tiến triển từ màu hồng qua hồng thẫm rồi mới đến màu đỏ.


Người ta còn bảo tôi: Hà Nội sẽ thống nhất toàn bộ đất nước dưới sự cầm quyền của họ. Chắc chắn rồi, đó là mục liêu của họ. Nhà cầm quyền Hà Nội đã nhiều lần tuyên bố như vậy. Vấn đề này cũng đã được ghi trong các văn bản hiệp định Genève 1954. Đây là một trong những tư tưởng mãnh liệt của Hồ Chí Minh. Nhưng việc hợp nhất bốn mươi nhăm triệu dân này không thể thực hiện ngay lập tức. Không thể kết hôn hấp tấp hai chế độ, hai nền kinh tế, hai hình thức xã hội, hai mức sống, hai lối sống khác nhau: đó là chủ nghĩa cộng sản ở miền Bắc và cái gọi là chủ nghĩa tư bản xuống dốc ở miền Nam.


Trong vài khoảng thời gian nữa, và chắc chắn là trong nhiều năm nữa vẫn có hai lá cờ phấp phới lung bay ở miền Nam Việt Nam: lá cờ đỏ sao vàng của Bắc Việt và lá cờ xanh, đỏ có ngôi sao vàng ở Nam Việt Nam.

Cuối cùng, vào một ngày nào đó sẽ tổ chức trưng cầu dân ý về thống nhất và tiến hành tổng tuyển cử. Tất cả đều được tổ chức kỹ. Và sẽ có tới 99,9% tán thành "nước Việt Nam là một, kế tục mấy ngàn năm lịch sử".

Tôi nhớ lại hồi còn ở Sài Gòn ngày nào tôi cũng nhìn thấy một chú bé khoảng mười ba tuổi, tên là Thơ, đứng trước cổng khách sạn.

Hai cánh tay chú bé bị bom napalm thiêu cháy chỉ còn là hai ống thịt sần sùi, xưng phồng, giống như đống giấy gói bị vò nát. Chân của em cụt, bị văng đi mất, ngay trước trận bom đó Lưng và cổ em còn ghi lại nhiều vết cháy bỏng.

Thơ hay cười, nụ cười tươi mát, hồn nhiên của trẻ thơ, chỉ biến mất sau tuổi trưởng thành.

Không bao giờ chú bé chìa tay xin tiền. Chú quá tự hào, không thèm đi ăn xin. Chú tập tễnh trên chiếc chân gỗ, đi theo tôi vài chục mét. Chú nói với tôi, sau này sẽ làm gì, bằng những câu tiếng Anh nghèo nàn học được trên hè phố. Tôi dúi vào tay chú vài trăm đồng, coi chú như đứa con út của tôi, cũng trạc tuổi này, nhưng đang ở một nơi rất xa.

Và mỗi buổi sáng, tôi lại nhìn thấy chú bé đứng trước thềm, vẫn nụ cười tươi rói như thường lệ.

Trước ngày Sài Gòn thất thủ, Thơ biến mất. Tôi tưởng cậu bé đã chết. Nhưng một tuần sau chú lại trở về, vẫn vui vẻ mặc dù bị tàn phế.

Ngày hôm nay, trong khi viết những dòng này, đằng sau nụ cười của chú bé trên đây, tôi lại hình dung thấy tất cả những người bạn người Việt Nam, hoặc những người Việt lai Pháp mà chúng tôi đã chia tay. Đó là Thanh, Hồng, Nguyễn, Trung, Jean Marc, Jane, Tước, Mỹ, Tuấn, Mây và bà già Thị Ba, Nioum... với nụ cười bí ẩn rất khó hiểu và bao nhiêu người nữa.

Cũng như chú bé Thơ, tôi mong muốn các bạn không bao giờ để mất nụ cười. Cầu mong các bạn được sung sướng.
Viết xong tại Grenoble, Pháp
Ngày 4 tháng 6 năm 1975

Không có nhận xét nào: