Thứ Hai, 11 tháng 2, 2013

Những bí mật về cuộc đời của Lý Thường Kiệt và ngôi mộ của ông

NHỮNG BÍ MẬT VỀ LÝ THƯỢNG KIỆT
Lý Thường Kiệt (1019-1105)

Hoạn quan còn được gọi là thái giám (1), dùng để chỉ những người có thể là do bẩm sinh hoặc tự nguyện chịu tĩnh thân (2) để làm công việc hầu hạ vua chúa, hoàng hậu và các phi tần trong cung cấm ngày xưa. Hoạn quan thường bị người đời khinh khi một phần là do không còn khả năng có con để nối dõi tông đường. Hơn nữa, hoạn quan còn bị khinh rẻ là vì có nhiều người bất tài, chỉ vì ham tiền bạc và danh vọng mà chịu tĩnh thân để làm hoạn quan mong kiếm địa vị hoặc tiền bạc lo cho bản thân và gia đình. Không những thế, hoạn quan còn bị mang tiếng xấu vì ở trong cung họ thường kết bè kết đảng để có quyền hành và nhiều người đã sử dụng quyền hành đó mưu hại trung thần hoặc làm suy yếu hay làm sụp đổ cả một triều đại mà chúng ta có dịp đọc qua trong sử sách.

Xưa nhất phải kể đến Triệu Cao, một hoạn quan được giữ chức thừa tướng dưới thời nhà Tần và đã làm sụp đổ cả triều đại này. Triệu Cao đã giả di chiếu của Tần Thuỷ Hoàng, buộc con trưởng là Phù Tô phải tự sát để nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hợi lên làm vua, tức hoàng đế Tần Nhị Thế, rồi Triệu Cao cướp ngôi nhà Tần dẫn đến việc nhà Tần rơi vào tay nhà Hán. Hay như dưới thời vua Hán Linh Đế (3) có loạn “Thập thường thị” (4), mười hoạn quan thao túng triều đình, làm tan rã nhà Hán và quyền hành rơi vào tay Đổng Trác, mở đường cho Tam Quốc phân tranh.

Trong lịch sử nước ta, không biết hoạn quan có từ bao giờ nhưng một trong những hoạn quan được sử sách ghi lại dưới thời nhà Lý là Lý Thường Kiệt (5), vị tướng tài giỏi bậc nhất và là anh hùng của dân tộc ta. Mặc dù có nhiều người phục cái tài của Lý Thường Kiệt, ngưỡng mộ những công trạng mà ông đã lập được cho đất nước, nhưng cũng có không ít nho gia đã khinh khi ông chỉ vì ông là một hoạn quan. Để biết được Lý Thường Kiệt có đáng phải nhận thái độ khinh khi của các nho gia dành cho ông hay không, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem nguyên nhân nào ông trở thành hoạn quan.

Thân thế Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn, sinh năm 1019 vào thời vua Lý Thái Tổ và mất năm 1105 dưới thời vua Lý Nhân Tông (6). Khi còn trẻ ông rất đẹp trai và được phong “Đệ nhất mỹ nam tử” thời bấy giờ. Ông có tên tự là Thường Kiệt, sau được vua ban quốc tính đổi sang họ Lý nên có tên là Lý Thường Kiệt (7). Ông là con của Sùng Tiết tướng quân (8) Ngô An Ngữ (9), và bà Hàn Diệu Chi (10). Ngô An Ngữ là tướng của Khai Quốc vương Lý Long Bồ (11), người con trai thứ hai của vua Lý Thái Tổ. Ngô An Ngữ có công với triều Lý và tuẫn quốc (12), chẳng bao lâu sau thì vợ ông, bà Hàn Diệu Chi cũng qua đời. Do cha mẹ mất sớm nên hai đứa con còn nhỏ của họ là Thường Kiệt và Thường Hiến được Lý Long Bồ nhận làm con nuôi. Đến đời vua Lý Thánh Tông (13), ông được vua nhận làm thiên tử nghĩa nam, tức con nuôi của vua. Ngoài ra, Lý Thường Kiệt còn là cháu gọi bà Ngô Thuần Trúc (14), bằng cô. Ngô Thuần Trúc là phu nhân của tướng Tạ Đức Sơn, người giữ chức Điện tiền Chỉ huy sứ, thống lĩnh ngự lâm quân của triều đình. Ngoài ra, Lý Thường Kiệt còn có quan hệ họ hàng với bà Ngô Cẩm Thi (16), vợ của tướng Tôn Đản (17).

Trong đời, ông đã từng giữ qua nhiều chức vụ quan trọng. Trước tiên là chức Thái tử Mật thư tỉnh sự (18), giúp thái tử Lý Nhật Tôn (19) ở Đông cung, tức vua Lý Thánh Tông sau này. Sau khi bị hoạn, ông được cho giữ chức Hoàng môn chi hậu (20), rồi được thăng đến chức Nội thị sảnh đô tri (21), sau được cho giữ chức Đình Uý sứ, trông coi các việc về hình án trong triều. Năm 1042, vua Lý Thái Tông giao cho ông cùng với một số đại thần soạn thảo bộ Luật “Hình thư”, bộ luật này được xem là bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta.

Đến đời vua Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt được thăng đến chức Thái bảo (22), sau đó do lập được nhiều chiến công trong trận đánh với Chiêm Thành nên ông được phong chức phụ quốc Thái phó (23), tước Khai Quốc công (24). Đến tháng 8 năm 1075 ông được phong chức Đôn quốc Thái uý (25). Đến khi mất, ông được vua Lý Nhân Tông truy phong chức Kiểm hiệu Thái uý Bình chương sự (26) và ban tước Việt Quốc công.

Các đại công Lý Thường Kiệt đã lập

Các đại công Lý Thường Kiệt đã lập phải kể đến trận đánh Tống kinh thiên động địa cuối năm 1075. Trận đánh này do Lý Thường Kiệt tổng chỉ huy (27) quân Đại Việt vượt biên giới phía bắc đánh các châu phía nam của nhà Tống như: Khâm, Liêm và Ung châu (28) nhằm phá huỷ đường xá, cầu cống, các kho lương thực và vũ khí mà Tống tích trữ để chuẩn bị đánh Đại Việt. 

Đây là kế hoạch của Linh Nhân hoàng thái hậu Ỷ Lan khi nhận được tin từ Khu Mật Viện Đại Việt (29) rằng Tống đang luyện binh và tích trữ lương thực chuẩn bị đưa quân tấn công nước ta theo kế hoạch nam tiến của Tể tướng nhà Tống là Vương An Thạch (30). Kế hoạch đánh Tống của bà Ỷ Lan đã được Lý Thường Kiệt và các tướng lúc bấy giờ ủng hộ. Theo kế hoạch này, Đại Việt phòng thủ bằng cách chủ động tấn công trước, đánh phủ đầu quân Tống, phá kho lương thực, vũ khí, đường xá và cầu cống nhằm ngăn cản cuộc xâm lăng của nhà Tống. Sau khi hoàn thành kế hoạch, hạ thành cuối cùng là thành Ung Châu, quân Đại Việt rút về nước (31).

Dân gian có câu ca dao ca tụng việc Lý Thường Kiệt đưa quân qua biên giới phía bắc đánh Tống trong trận này như sau:

Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng

Hoặc là:

Đem chuông đi đánh xứ người
Chẳng kêu cũng đánh vài hồi lấy danh

Chiến thắng này đã làm cho nhà Tống mất mặt đến mức vua Tống Thần Tông (32) đã phải nhượng bộ nước Hạ ở phía tây và chấp nhận cắt đất dâng cho nước Liêu ở phía bắc để rảnh tay đối phó với Đại Việt. Năm 1076, nhà Tống đã huy động toàn bộ lực lượng binh lính ở phía bắc và phía tây tham gia vào cuộc chiến đánh trả thù, quyết tâm chiếm Đại Việt. Trong trận này, hai tướng Quách Quỳ (33) và Triệu Tiết (34) cùng 12 tướng (35) đã từng đánh trận ở Tây Hạ đem khoảng 30 vạn quân (36) tấn công Đại Việt. Nhưng với sự chỉ huy tài giỏi của Lý Thường Kiệt, quân Tống đã bị đại bại ở trận chiến trên sông Như Nguyệt (37) và buộc phải rút quân. Trận thắng Tống lần này đã làm đảo lộn cả giang san nhà Tống và đã phá vỡ kế hoạch của Vương An Thạch (38).

Các lần cầm quân đánh quân Chiêm phải kể đến trận chiến năm 1069 (39), Lý Thường Kiệt bắt được vua Chiêm là Chế Củ và các tôn thất, sau đó Chế Củ xin dâng 3 châu Bố Chính (40), Địa Lý (41) và Ma Linh (42) để chuộc mạng. Tháng 10 năm 1103, mặc dù tuổi cao nhưng Lý Thường Kiệt đã xin vua cho đi đánh Lý Giác (43) ở Diễn Châu nổi lên làm phản. Năm 1104, ở tuổi 85 nhưng Lý Thường Kiệt vẫn còn cầm quân trực tiếp đi đánh Chiêm Thành khi vua Chiêm là Chế Ma Na đem quân đánh lấy lại ba châu do Chế Củ đã dâng cho Đại Việt để chuộc tội trước đây. Lý Thường Kiệt đã đánh thắng trận này, buộc Chế Ma Na phải nộp lại vùng đất đó cho Đại Việt.

Vì sao Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan?

Nhiều câu hỏi đã được đặt ra rằng tại sao vị anh hùng của dân tộc ta là một hoạn quan? Hoạn quan thường không được trọng dụng trong những việc quốc sự và đánh giặc nhưng Lý Thường Kiệt được cầm quân đánh giặc và lập được nhiều đại công làm cho quân Tống phía Bắc, quân Chiêm phía Nam phải khiếp sợ. Điều này chứng tỏ Lý Thường Kiệt không giống như những hoạn quan khác. Vậy việc tĩnh thân của Lý Thường Kiệt có một lý do đặc biệt nào khác chăng? Hay ông là một hoạn quan bẩm sinh? Hoặc việc tĩnh thân của ông là một tai nạn hay chính ông là một nạn nhân?

1. Lý Thường Kiệt là một hoạn quan bẩm sinh?

Lý Thường Kiệt chắn chắn không phải là một hoạn quan bẩm sinh vì trước khi trở thành hoạn quan ông đã có một mối tình với Dương Hồng Hạc, tức hoàng hậu Thượng Dương sau này. Dương Hồng Hạc là cháu của hoàng hậu Thiên Cảm (44), vợ vua Lý Thái Tông. nên hoàng hậu Thiên Cảm đã sắp xếp cho cháu bà là Hồng Hạc trở thành vợ của thái tử Lý Nhật Tôn, tức vua Lý Thánh Tông sau này.

Việc Dương Hồng Hạc trở thành vợ của thái tử Nhật Tôn có thể gây nguy hiểm cho Lý Thường Kiệt nếu triều đình khám phá ra mối tình của ông với Hồng Hạc trước đây. Vì vậy, cha nuôi của ông là Lý Long Bồ đã sắp xếp cho Lý Thường Kiệt đính hôn với Tạ Thuần Khanh (45), là con gái của quan Điện suý Tạ Đức Sơn và bà Ngô Thuần Trúc. Trong khi chờ đợi chính thức nên vợ nên chồng với Tạ Thuần Khanh thì Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan, cho nên ông đã từ hôn với người vợ chưa cưới.

2. Lý Thường Kiệt tự hoạn vì tiền?

Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích việc Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan. Có người tin rằng vì vua Lý Thái Tông thấy Lý Thường Kiệt “mặt mũi đẹp đẽ” nên cho 3 vạn quan tiền bảo tự hoạn để vào cung hầu hạ (46). Lập luận này không mấy có lý bởi vì, thứ nhất số tiền 3 vạn quan là một số tiền rất lớn thời bấy giờ (47). Sử sách còn ghi lại rằng năm 1254 vua Trần Thái Tông cho Phạm Ứng Mộng 400 quan bảo “tự hoạn” để vào cung hầu hạ vua (48). Không thể nào trước đó 213 năm (49), số tiền vua cho Lý Thường Kiệt lại lớn gấp 75 lần.

Thứ hai, Lý Thường Kiệt không thể vì túng tiền mà phải tự nguyện tĩnh thân để có 3 vạn quan. Mặc dù cha mẹ mất sớm nhưng cha ông, Ngô An Ngữ là một công thần của nhà Lý nên anh em Lý Thường Kiệt thừa hưởng gia sản của người cha để lại đủ để anh em ông sống một cuộc sống không thua gì con cái của các quan lại trong triều, cho nên Lý Thường Kiệt không thể nào “túng thiếu” đến mức phải tĩnh thân vì lý do tiền bạc.

3. Tự nguyện tĩnh thân để được vào cung?

Với cương vị là con của một công thần đã vì nước hy sinh và gia đình nối đời làm quan, Lý Thường Kiệt đã có sẵn cánh cửa mở rộng để “tập ấm làm quan” mà không cần phải qua thi cử dành cho những dân thường khác. Hơn nữa, ông còn là người tài trí thông minh, văn võ song toàn thì việc vào cung không phải là chuyện khó; chỉ cần tham dự một kỳ thi ứng thí võ công do triều đình mở ra, ông có thể đậu và trở thành một võ quan một cách dễ dàng.

4. Lý Thường Kiệt bị vua phạt?

Có một thuyết nữa cho rằng: “vua Lý Thái Tông đánh Chiêm Thành bắt được Nùng Trí Cao lại tha về, Lý Thường Kiệt can ngăn, vua cho là thất lễ bắt phải tĩnh thân, sau đó triệu cho vào hầu cận” (50). Thứ nhất, Nùng Trí Cao (51) cai quản các khê động ở phía bắc giáp với Tống, trong khi Chiêm Thành ở phía nam, nên vua Lý Thái Tông đánh Chiêm Thành không thể bắt được Nùng Trí Cao. Thứ hai, nếu cho rằng vua Lý Thái Tông vì lòng nhân từ mà tha cho một người “nổi lên làm giặc” như Nùng Trí Cao thì không lý nào vua lại trở nên “hung ác” đến độ “đem thiến” một người thân cận chỉ vì người đó can ngăn chuyện này.

5. Lý Thường Kiệt bị hại?

Có thuyết cho rằng Lý Thường Kiệt bị hại bằng cách cho đánh thuốc mê rồi hoạn ông trong đợt tuyển hoạn quan dưới thời vua Lý Thái Tông và trong thời gian dài Lý Thường Kiệt không biết ai đứng đàng sau chuyện này. Lập luận này có lý hơn khi nhìn lại những chuyện “thâm cung bí sử” trong cung đình lúc bấy giờ.

Nếu không biết chuyện tình cảm trước đây của Lý Thường Kiệt với Dương Hồng Hạc cũng như chuyện lộng quyền của gia đình họ Dương đối với triều Lý dẫn đến việc họ Dương làm gian tế cho Tống như thế nào, có thể chúng ta nghĩ rằng Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan là do những nguyên nhân kể trên. Để hiểu thêm chuyện cung đình lúc bấy giờ, xin nhắc vài sự việc để chúng ta có thêm dữ kiện liên quan đến câu chuyện của Lý Thường Kiệt.

Dương Hồng Hạc là hoàng hậu, vợ vua Lý Thánh Tông, sau này trở thành thái hậu Thượng Dương. Thái hậu Thượng Dương là người mà chính sử ghi rằng đã bị hoàng thái hậu Linh Nhân, tức bà Ỷ Lan chôn sống với 72 cung nữ sau khi vua Lý Thánh Tông băng hà. Mặc dù chính sử ghi nguyên nhân của câu chuyện này không rõ ràng lắm nhưng các nguồn tư liệu khác có nói việc chôn sống này là do thái hậu Thượng Dương cùng với 72 cung nữ là “tay chân” của bà và những người thân thuộc họ Dương đã làm gian tế cho Tống, được nhà Tống sắp xếp cướp ngôi khi vua Lý Thánh Tông mất (52).

Dương Hồng Hạc là con của Dương Đức Uy và là cháu gọi hoàng hậu Thiên Cảm, vợ vua Lý Thái Tông, bằng cô. Khi hoàng hậu Thiên Cảm được vua Lý Thái Tông sủng ái, cha của bà là Dương Đức Thành được phong làm Tể Tướng. Từ đó thế lực họ Dương được hình thành như: Dương Đạo Gia (53), Dương Đức Uy (54), Dương Đức Thao (55), Dương Đức Huy (56)…ba thế hệ lần lượt nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều.

Để tạo thêm thế lực cho họ Dương, hoàng hậu Thiên Cảm đã đem đứa cháu gọi bằng cô ruột là Dương Hồng Hạc gả cho con chồng là thái tử Lý Nhật Tôn để khi Nhật Tôn lên làm vua thì Hồng Hạc trở thành hoàng hậu. Trước khi lấy Hồng Hạc, thái tử Nhật Tôn đã được cảnh giác về việc họ Dương lộng quyền có thể dẫn đến cướp ngôi vua như Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, vì vậy Nhật Tôn không muốn gần gũi với Hồng Hạc vì lo sợ nếu có con sẽ trúng kế họ Dương.

Mặc dù làm vợ thái tử nhưng Dương Hồng Hạc chẳng hề được chồng đoái hoài tới nên Hồng Hạc nhớ tới người tình cũ – Lý Thường Kiệt, người đang giữ chức Thái tử Mật thư tỉnh sự, giúp thái tử Nhật Tôn ở Đông cung. Mặc dù giữa Thường Kiệt với Nhật Tôn bên ngoài là quan hệ chúa – tôi nhưng bên trong hai người rất gần gũi và thân với nhau vì hai người đều là con nuôi của Lý Long Bồ, cùng chơi đùa với nhau từ thời thơ ấu. Vì vậy, Dương Hồng Hạc đã nhờ Thường Kiệt giúp mình nói với Nhật Tôn để được “ban hồng ân”.Có lẽ vì lo cho hậu vận nhà Lý nên Thường Kiệt đã không nhận lời giúp đỡ Hồng Hạc. Phải chăng vì lý do đó mà ông đã bị Hồng Hạc và hoàng hậu Thiên Cảm ra tay bức hại trong một đợt tĩnh thân tuyển hoạn quan vào cung? Hậu quả của việc này cũng giải thích phần nào lý do tại sao Lý Thường Kiệt đã đứng về phe của bà Ỷ Lan chứ không phải là phe của hoàng hậu Thượng Dươngtrong việc tranh giành quyền “nhiếp chính” sau khi vua Lý Thánh Tông mất.

Riêng về cuộc đời của Dương Hồng Hạc, sau khi thái tử Nhật Tôn lên ngôi tức vua Lý Thánh Tông, hoàng hậu Thiên Cảm lúc đó trở thành thái hậu và đã ép vua Lý Thánh Tông phong Hồng Hạc làm hoàng hậu, tức hoàng hậu Thượng Dương. Nhưng từ khi được tiến cung đến khi trở thành hoàng hậu cho tới khi vua Lý Thánh Tông mất, Dương Hồng Hạc hay hoàng hậu Thượng Dương sau này chưa một lần được vua “ban ân sủng”. Bà đã sống âm thầm lặng lẽ trong cung với mối hận nhà Lý không nguôi nên đã cùng với bác là Tể tướng Dương Đạo Gia và tay chân họ Dương âm mưu cướp ngôi nhà Lý khi vua Lý Thánh Tông mất. Vì vậy mới có câu chuyện thái hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ bị giam và bị chôn sống theo vua Lý Thánh Tông mà chúng ta đã biết qua sử sách.

Tâm ý của người viết:

Bài viết này chỉ muốn phân giải phần nào nguyên nhân trở thành hoạn quan của Lý Thường Kiệt, người mà cho dù đã lập được nhiều đại công nhưng vẫn bị các nho gia khinh khi. Đứng trên phương diện nhìn về lịch sử đã qua, cho dù Lý Thường Kiệt là hoạn quan với bất kỳ lý do nào khác, lòng tôn kính của hậu thế chúng ta đối với ông phải dựa trên những công trạng ông đã đóng góp cho đất nước, trong đó chiến công hiển hách nhất là đánh Tống để giữ vững nền độc lập cho nước Đại Việt. Công trạng đối với đất nước mới là điểm chính yếu xác định ai là anh hùng dân tộc, là người mà muôn dân phải luôn tôn kính và ghi nhớ.


Ghi chú:

(1) Mặc dù hoạn quan và thái giám được dùng cùng một nghĩa nhưng trước đây hoạn
quan không hẳn là thái giám mà hoạn quan dùng để chỉ những người phục dịch, hầu hạ vua, không nhất thiết phải là người bị thiến. Cho đến thời Đông Hán mới có lệnh ban ra là hoạn quan phải là người đàn ông bị thiến. Đến đời nhà Minh, từ “thái giám” xuất hiện và người được giữ chức thái giám phải là hoạn quan. Từ đó, thái giám được dùng để chỉ hoạn quan.

(2) Tĩnh thân: còn gọi là hoạn, thiến, yêm cát, cung hình, hủ hình, âm hình, tàm thất…chỉ việc cắt bỏ một phần hoặc hoàn toàn bộ phận sinh dục người nam hoặc làm cho người đó không còn khả năng quan hệ với phụ nữ nhưng không nhất thiết phải thiến hoặc cắt bỏ.
(3) Hán Linh Đế: là vua thứ 12 thời Đông Hán, cai trị từ năm 168-189.
(4) Loạn “thập thường thị”: mười tên hoạn quan hợp nhau khuynh đảo triều chính:
Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng.
(5) Hoạn quan đầu tiên nhiều người cho là Đỗ Thích, người được cho là đã giết vua
Đinh Tiên Hoàng và con trai là Đinh Liễn. Nhưng chính sử ghi hoạn quan đầu tiên là Lý Nhân Nghĩa, giúp thái tử Lý Đức Chính (tức Lý Phật Mã) dẹp loạn chư vương (Dực Thánh vương, Đông Chinh vương, Vũ Đức vương) lên ngôi, tức vua Lý Thái Tông. Hoạn quan được biết sau đó là Lý Thường Kiệt.
(6) Lý Nhân Tông: là con của vua Lý Thánh Tông và bà Ỷ Lan, có tên huý là Lý Càn Đức, là vua thứ tư nhà Lý. 1. Lý Thái Tổ – Lý Công Uẩn, 2. Lý Thái Tông – Lý Phật Mã hay Lý Đức Chính, 3. Lý Thánh Tông – Lý Nhật Tôn, 4. Lý Nhân Tông – Lý Càn Đức.
(7) Có nguồn tin cho rằng Thường Kiệt được ban họ Lý vì công lao của cha ông đối với triều Lý nên sau khi cha ông - Ngô An Ngữ - mất, ông được ban quốc tính đổi họ. Nhưng cũng có nguồn tin cho rằng ông được đổi sang họ Lý khi lập được đại công sau này.
(8) Sùng Tiết tướng quân: tức Sùng ban Lang tướng.
(9) Ngô An Ngữ: là cháu đời thứ năm của Ngô Quyền. Ngô An Ngữ là con Ngô Ích Vệ, cháu nội Ngô Xương Xí, cháu cố (chắt) Ngô Xương Ngập, chút của Ngô Quyền.
(10) Hàn Diệu Chi: là bạn của Ngô Thuần Trúc, phu nhân của tướng Tạ Sơn.
(11) Lý Long Bồ: là con trai thứ hai của vua Lý Thái Tổ. Ông là em của công chúa An Quốc (vợ tướng Đào Cam Mộc) và công chúa Bảo Hoà (vợ Thân Thừa Quý). Lý Long Bồ là người có nhiều mưu lược và cũng chính là người đứng đằng sau chỉ huy nhiều trận đánh trong các cuộc đụng độ ở biên giới giữa ta với Tống. Vì sự hiểu lầm giữa ông với triều đình (cho rằng ông làm phản) nên các công lao của ông không được chính sử ghi lại. Ông có hai con trai là hoàng tử Lý Hoằng Chân và Lý Chiêu Văn là những anh hùng đã chỉ huy trận đánh Tống năm 1075 và cả hai đã tử trận trong trận đánh Tống trên sông Kháo Túc (Nham Biền) sau đó.
(12) GS Lê Văn Lan cho rằng: năm 1031 Ngô An Ngữ đi tuần ở Thanh Hoá và mất tại đó. Nhưng theo các nguồn sử liệu khác thì Ngô An Ngữ chết năm 1028 trong trận triều đình dẹp loạn các chư vương, khi quân của chư vương đánh phá Trường Yên. Vì vậy, Ngô An Ngữ đã được vua ban hai câu đối như sau:
“Đã đem xương máu đền non nước,
Còn mãi tinh thần với gió trăng”
Sau khi mất, vua chiếu công lao truy phong chức tước cho ông là Tả kim Ngô Thượng Tướng quân, Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự, Trường Yên Tiết độ sứ.
(13) Lý Thánh Tông: có tên huý là Lý Nhật Tôn, là vua thứ ba triều Lý.
(14) Ngô Thuần Trúc: là em gái của Ngô An Ngữ, cháu đời thứ năm của Ngô Quyền.
(15) Tạ Đức Sơn: tức Điện Suý Tạ Sơn vì ông giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ, bảo vệ an ninh hoàng cung.

(16) Ngô Cẩm Thi: theo gia phả họ Ngô, bà là con của Ngô Quảng Thiên, tức Ngô Xương Anh. Ngô Cẩm Thi là cháu đời thứ năm của Ngô Quyền, dòng Ngô Xương Văn. Lý Thường Kiệt, tức Ngô Tuấn là cháu đời thứ sáu của Ngô Quyền, dòng Ngô Xương Ngập.

(17) Tôn Đản: là tướng cùng với Lý Thường Kiệt chỉ huy các trận vượt qua biên giới đánh các châu của Tống nhằm ngăn chặn kế hoạch xâm lược quân Tống. Mặc dù có công lớn với đất nước nhưng cả đời ông chưa từng nhận chức tước hoặc bổng lộc của triều Lý. Tôn Đản không phải là Nùng Tông Đán, người đứng đầu các châu mục bắc biên, như một số sách lầm tưởng. Tôn Đản lớn hơn Nùng Tông Đán khoảng 40 tuổi và là con của Tôn Trung Luận, còn Nùng Tông Đán là con của Nùng Tồn Thương. Nùng Tông Đán đã từng bỏ ta theo Tống.
(18) Thái tử Mật thư tỉnh sự: tức là chức Mật thư Tỉnh sự thuộc phủ Thái tử (Đông cung). Thường khi thái tử 13 tuổi được cho ra ở Đông cung để “tập làm vua”. Mỗi tháng cũng thiết triều 3 lần nhưng không cùng ngày với vua. Chức Thái tử Mật thư Tỉnh sự là chức quan nửa võ nửa văn, ngang với chức Tham tri (thứ trưởng ngày nay). Người giữ chức vụ này luôn ở bên cạnh thái tử và có nhiệm vụ trình và đọc tất cả mọi tấu chương cho thái tử. Khi thái tử ban lệnh ra thì người này có nhiệm vụ truyền lệnh và theo dõi xem lệnh đó có được thi hành không.
(19) Lý Nhật Tôn: ông có tước Khai Hoàng vương, là vua Lý Thánh Tông sau này. Ông là con của vua Lý Thái Tông và bà Triệu Liên Phương nhưng chính sử ghi mẹ ông là Linh Cảm hoàng hậu – Mai Thị.
(20) Hoàng môn chi hậu: là hoạn quan theo hầu hạ vua. Ngoài ra, người giữ chức này cùng với Hoàng môn Tổng quản chịu trách nhiệm khám tuyển các phi tần nạp vào hoàng cung cho vua và các thân vương.
(21)Nội thị sảnh đô tri: người giữ chức này chịu trách nhiệm giám sát các công việc hàng ngày trong hoàng cung.
(22) Thái bảo: là một chức quan trong hàng Tam sư: Thái sư, Thái phó, Thái bảo.
(23) Thái phó: cao hơn chức Thái bảo một bậc, cũng là một chức quan trong hàng
Tam sư: Thái sư, Thái phó, Thái bảo.
(24) Khai Quốc công: Khai Quốc là tước hiệu, công là tước công.
(25) Thái uý: Chức quan đầu triều trong hàng tam công: Thái uý, Tư Đồ, Tư không.
Thái uý tương đương với chức Tổng tư lệnh quân đội ngày nay.
(26) Tên đầy đủ của chức này là “Nhập nội Điện đô tri Kiểm hiệu Thái uý Bình chương quân quốc trọng sự”.
(27) Trận bắc phạt Tống năm 1075: tổng chỉ huy là Lý Thường Kiệt cùng các tướng
Tôn Đản, Nguyễn Căn, Lý Kế Nguyên, Trung Thành vương Lý Hoằng Chân và Tín Nghĩa vương Lý Chiêu Văn. Hoằng Chân và Chiêu Văn là cháu nội vua Lý Thái Tổ, hai ông là con của Lý Long Bồ.
(28) Sử Việt ghi có ba châu là: Khâm, Liêm và Ung châu nhưng Tống sử ghi sáu châu: Ung, Khâm, Liêm, Dung, Nghi và Bạch châu. Theo Việt Sử Kỷ Yếu thì sau khi hạ Ung Châu, Lý Thường Kiệt kéo quân lên Tân Châu. Viên quan coi châu này nghe tin quân ta kéo lên liền bỏ trốn.
(29 Khu Mật Viện: tương đương với Hội đồng An ninh Quốc gia ngày nay ở Việt Nam, gồm Bộ Công an, Cục Tác chiến, Cục Quân báo và Cục Phản gián.

(30) Vương An Thạch: được xếp trong “Đường Tống Bát Đại Gia”, tức là tám nhà thi hào lỗi lạc nhất đời Đường – Tống. Ngoài ra, ông còn là Tể tướng thời vua Tống Thần Tông. Vương An Thạch đã đưa ra Tân Pháp nhằm cải cách tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Tống lúc bấy giờ. Trong Tân Pháp có nhiều điểm tiến bộ mà nhiều người cho rằng nếu việc thực hiện thành công có thể Trung Hoa sẽ qua mặt cả châu Âu và châu Mỹ sau này. Tiếc rằng do bị các quan trong triều chống đối Tân Pháp nên Vương An Thạch đã xui vua Tống đánh Đại Việt để lấy lại uy tín nhưng sự thất bại ở Đại Việt đã làm cho ông mất chức Tể tướng và Tân Pháp cũng bị huỷ bỏ.
(31) Quân Đại Việt bắt đầu rút quân ngày 23 tháng giêng năm Bính Thìn, tức 1-3-1076.
(32) Tống Thần Tông: tên là Triệu Húc, con của vua Tống Anh Tông – Triệu Thự.
Tống Thần Tông là vua thứ sáu nhà Tống: 1. Tống Thái Tổ - Triệu Khuông Dẫn, 2. Tống Thái Tông - Triệu Khuông Nghĩa, 3. Tống Chân Tông - Triệu Hằng, 4.Tống Nhân Tông - Triệu Trinh, 5. Tống Anh Tông - Triệu Thự, 6. Tống Thần Tông - Triệu Húc. Nhưng Triệu Thự không phải là con ruột của vua Tống Nhân Tông. Triệu Thự là cháu cố của vua Tống Thái Tông, vì vua Tống Nhân Tông không có con trai nên nhận ông làm con nuôi và nhường ngôi cho ông.
(33) Quách Quỳ: dòng dõi Quách Quân Biện, người đã bị bắt sống trong lần quân
Tống xâm lược nước ta năm 981 dưới thời vua Lê Đại Hành. Quách Quỳ từng giữ chức Tuyên vũ sứ Quảng Nam (Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay), sau được cử làm Kinh lược chiêu thảo sứ, kiêm Nguyên soái, Tổng quản, Chánh sứ trong cuộc chiến chinh phạt Đại Việt.
(34) Triệu Tiết: từng giữ chức An phủ sứ Quảng Nam Tây Lộ, tức Quảng Tây, sau
được cử làm phó Nguyên soái, phó Tổng quản, cùng với Quách Quỳ sang đánh Đại Việt.
(35) Tên của 12 tướng này là: Khúc Chẩn, Vương Mẫn, Diêu Tự, Lôi Tự Văn, Lý Hạo, Dương Vạn, Trương Chi Giám, Lữ Chân, Trương Thế Cự, Lê Hiếu Tôn, Địch Tường, Quảng Vi. Các tướng này đã qua kinh nghiệm trận mạc và có chức tước, đã chính thức giữ chức chỉ huy các đạo binh. Nhưng theo chính sử Việt thì chỉ có 9 tướng.
(36) Chính sử Việt ghi chỉ có 10 vạn quân. Nhưng theo các nguồn sử liệu khác thì con
số này hơn 30 vạn. Theo nhật ký hành quân của Quách Quỳ và Triệu Tiết trong “Quách Thị Nam Chinh” và “Triệu Thị Chinh Tiễu Giao Chỉ Ký” thì tổng số quân sang đánh nước ta trong trận đó là 96 vạn, được chia ra như sau: 30 vạn binh triều, 16 vạn binh các lộ, châu, 5 vạn kỵ binh, 5 vạn thuỷ binh, 40 vạn bảo binh (quân đi theo vận chuyển lương thảo, nấu ăn, tắm rửa cho ngựa. Khi cần có thể xung trận). Thiết nghĩ, con số phải là trên 10 vạn vì theo tài liệu thì số quân này từ biên giới phía bắc và phía tây được điều động về cùng với quân triều đình đưa sang đánh nước ta. Nếu cần 10 vạn quân cũng có thể lấy thiên tử binh của triều đình, không cần phải điều động quân thêm từ các chiến trường. Vả lại mục đích tiến quân lần này là để trả thù cho 10 vạn quân, dân bị chết trong trận vừa rồi và cũng để “làm cỏ” Đại Việt thì không thể mang chỉ có 10 vạn là đủ.
(37) Sông Như Nguyệt: tức sông Cầu ngày nay. Lý Thường Kiệt đã cho quân lập ba
phòng tuyến chặn quân Tống trên sông này ở ba đoạn: Phú Lương, Kháo Túc (tức Nham Biền) và Như Nguyệt. Sau khi các nơi khác bị thất thủ thì phòng tuyến rên sông Như Nguyệt là nơi cuối cùng chặn giặc không cho tiến vào Thăng Long. Nơi đây đã xảy ra trận đánh kinh thiên động địa, hơn ½ số quân Tống bị giết, buộc Quách Quỳ phải lui binh.
(38) Trong lúc giữa Tống và Liêu với Tây Hạ còn đang cầm cự, Vương An Thạch xin
vua Tống Thần Tông đem quân đánh Đại Việt. Khi Đại Việt thua thì các nước phía nam như: Đại Lý, Lão Qua, Chiêm Thành, Chân Lạp, Xiêm La sẽ thần phục nhà Tống, lúc đó Tống đưa quân các nước này lên đánh dẹp Liêu và Tây Hạ dễ dàng. Vua Tống nghe lời, cho luyện tập binh mã, tích trữ lương thực, xây dựng đường xá chuẩn bị đánh Đại Việt, đồng thời cấm không cho buôn bán qua lại giữa hai nước để nước ta không biết việc làm này. Tống âm thầm chuẩn bị được 3 năm thì Đại Việt biết được và kéo quân qua đánh. Thất bại ở Đại Việt đã làm cho Vương An Thạch bị phe chống đối buộc vua Tống Thần Tông cách chức, năm 1076 An Thạch về quê sống ở Giang Ninh.
(39) Trận đánh Chiêm 1069: có nhiều nguyên nhân quân ta đánh Chiêm trong trận
này nhưng nguyên nhân chính là do Tống xúi Chiêm tràn qua biên giới giết người Việt. Vì vậy, Đại Việt đánh Chiêm cũng với mục đích là dằn mặt Tống.
(40) Bố Chính: nay là đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
(41) Địa Lý: sau còn gọi là châu Lâm Bình, nay là đất huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình.
(42)Ma Linh: sau còn được gọi là châu Minh Linh, nay là đất huyện Bến Hải, tỉnh
Quảng Trị.
(43) Lý Giác: người học được tà thuật, tự xưng là tướng nhà trời nên nhiều người ở
Diễn Châu theo về. Nhân đó Lý Giác giữ Diễn Châu làm phản, chống lại triều đình. Sau khi bị Lý Thường Kiệt đánh dẹp, Lý Giác qua Chiêm xúi vua Chế Ma Na đánh Đại Việt.
(44) Hoàng hậu Thiên Cảm: tức Dương hậu. Bà là con của Tể tướng Dương Đức
Thành và là em của Dương Đức Uy, tức cô ruột của Dương Hồng Hạc. Dương hậu là người thiếp yêu của vua Lý Thái Tông, tháng 7-1035 bà được lập làm hoàng hậu.
(45) Tạ Thuần Khanh: là em con của người cô của Lý Thường Kiệt.
(46) Xin xem: “Hoạn quan”, Nguyễn Thị Chân Quỳnh: http://vietsciences.free.
fr/vietnam/vanhoa/phongtuc/hoanquan.htm
(47) Vào thời điểm đó, mỗi quan tiền là 600 đồng, 30.000 quan bằng 18.000.000 đồng. Giá một thùng gạo (10.75 kg) là 5 đồng, vậy 30.000 quan có thể mua được 3.600.000 thùng gạo, tức 38.700.000 kg gạo. Nếu 1 kg gạo nuôi 2 người lính trong một ngày, thì số gạo trên có thể nuôi 75.000 lính trong khoảng 3 năm, một số tiền rất lớn.
(48) Phạm Ứng Mộng: xem Đại Việt Sử Ký Toàn Thư quyển V, phần I.
(49) Nguồn tin này cho rằng Lý Thường Kiệt bị hoạn khi 23 tuổi, tính theo tuổi ta tức năm 1041.
(50) Xin xem: “Hoạn quan”, Nguyễn Thị Chân Quỳnh: http://vietsciences.free.
fr/vietnam/vanhoa/phongtuc/hoanquan.htm
(51) Nùng Trí Cao: con của Nùng Tồn Phúc và bà A Nùng. Nùng Trí Cao là thủ lĩnh các khê động ở biên giới phía bắc giáp Tống và đã nhiều lần nổi dậy chống Tống với sự trợ giúp của nhà Lý đứng đằng sau. Sau đó Nùng Trí Cao chiếm đất Tống lập nên nước Đại Nam, tồn tại khoảng ba năm.
(52) Các nguồn sử liệu Tống có ghi lại việc này như sau: vua Tống cho người sang Đại Việt với lời hứa sẽ phong cho Dương Đạo Gia làm Giao Chỉ Quận Vương nếu cướp được ngôi nhà Lý. Nhà Tống muốn Dương Đạo Gia tổ chức binh biến cướp ngôi với lời hứa nếu thất bại thì họ sẽ gửi quân Tống sang giúp. Họ Dương tin lời và đã tổ chức cướp ngôi ngay khi vua Lý Thánh Tông mất, đưa hoàng hậu Thượng Dương lên làm thái hậu, nắm quyền trong triều. Ỷ Lan là mẹ vua Lý Nhân Tông chỉ được làm thái phi mặc dù bà rất tài giỏi, trước đây đã làm nhiếp chính khi vua Lý Thánh Tông cầm quân đi đánh Chiêm Thành. Nhờ có sự giúp đỡ của Lý Thường Kiệt nên phe bà Ỷ Lan lật đổ được phe hoàng hậu Thượng Dương rồi lên nắm quyền nhiếp chính, bà Ỷ Lan được tôn lên làm hoàng thái hậu Linh Nhân. Sau khi thất bại, quân Tống đã không qua giúp họ Dương như lời hứa nên phe họ Dương đã bị diệt.
(53) Dương Đạo Gia: tức Dương Đức Minh. Ông giữ chức Tể tướng kế tiếp cha ông,
Dương Đức Thành. Dương Đạo Gia là bác của Dương Hồng Hạc.
(54) Dương Đức Uy: tức Dương Đức Khai, là cha của Dương Hồng Hạc. Đức Uy giữ chức Tham tri bộ Lại, tương đương chức Thứ trưởng bộ Nội Vụ ngày nay.
(55) Dương Đức Thao: Anh trai của Dương Hồng Hạc.
(56) Dương Đức Huy: là con của Dương Đức Thao, cháu gọi Dương Hồng Hạc bằng
cô.
BÍ MẬT VỀ NGÔI MỘ ĐƯỢC GỌI LÀ MỘ CỦA LÝ THƯỜNG KIỆT
Thông tin về mộ đã có từ lâu

Theo ông Ngô Vui - Trưởng ban liên lạc họ Ngô Việt Nam, việc tìm ra nơi chôn cất danh nhân Lý Thường Kiệt (tên thật là Ngô Tuấn) đã được dòng họ chú ý từ lâu. Thời gian gần đây, dòng họ nhận được một số thông tin về nơi chôn cất Lý Thường Kiệt tại thôn Ngọc Quỳnh, thị trấn Như Quỳnh, Hưng Yên. Ngôi mộ được cho là của Lý Thường Kiệt được phát hiện từ năm 1979, khi địa phương quy tụ mồ mả trên cánh đồng làng để tạo diện tích sản xuất.

Theo những người dân thôn Ngọc Quỳnh thì trên cánh đồng này có khá nhiều mồ mả và gò, đống. Khi san ủi mặt bằng, người dân phát hiện ra một ngôi mộ hợp chất "trong quan, ngoài quách", có nhiều điểm đặc biệt. Sau khi khai quật, ngôi mộ này được dân làng chôn lại ngay sát nơi phát lộ.
Ngôi mộ hiện đã được người dân thôn Ngọc Quỳnh xây dựng lại sau cuộc khai quật năm 1979.

Đã có nhiều phán đoán khác nhau về người nằm dưới mộ. Tuy nhiên, nhiều ý nghiêng về suy đoán đây chính là mộ của Lý Thường Kiệt. Vì Ngọc Quỳnh chính là quê hương của Nguyên Phi Ỷ Lan - người mà Lý Thường Kiệt có nhiều gắn bó lúc sinh thời. Sau khi nhận được thông tin trên, thời gian gần đây, phía dòng họ Ngô Việt Nam cũng đã có nhiều lần về khảo sát tại khu vực này.

Để có những thông tin xác thực, chúng tôi đã về thôn Ngọc Quỳnh tìm gặp lại những người đã trực tiếp tham gia và chứng kiến việc khai quật ngôi mộ bí ẩn này năm 1979. Ông Lê Trọng Cam - Trưởng thôn Ngọc Quỳnh cho biết, vào thời điểm phát lộ và khai quật ngôi mộ trên, ông là người chứng kiến từ đầu cho đến khi mộ được lấp lại. Theo ông Cam, khu vực ngôi mộ được phát hiện vốn là một gò đất cao chừng 1m và rất rộng. Khi phát lộ ra khối "bê tông" lớn (đây là phần quách hợp chất - PV), những người tham gia lao động lúc ấy đều cho rằng dưới mộ sẽ có vàng bạc, châu báu. Họ quyết định khai quật toàn bộ khu vực mộ này lên với tâm lý tìm của cải.

Nhắc lại sự việc này, ông Lê Văn Hạ - một xã viên trực tiếp tham gia đào xới ngôi mộ lúc ấy kể: "Khi chúng tôi san ủi gò đất thì phát hiện một khối “bê tông” rộng tới 3 gian nhà. Phải mất 7 ngày 7 đêm chúng tôi mới đánh bật được lên. Khối “bê tông” có đến chục lớp, mỗi lớp dày chừng 10cm. Giữa các lớp “bê tông” có hình ô trám và càng xuống phía dưới những lớp này càng rắn, rất khó phá. Đặc biệt, những lớp “bê tông” này có mùi thơm rất đặc biệt".
Ông Hạ còn cho biết thêm, những người tham gia đào mộ lúc đó hầu hết là thanh niên trai tráng trong làng. Đào đến ngày thứ 7 thì mới chạm tới được lớp ván thiên. Ông Hạ nhớ như in, khi lớp ván thiên được lộ ra, trên ván hiện ra 4 chữ nho rất lớn, hai bên có hai hàng chữ nhỏ. Đây là những chữ được dán hoặc viết lên nền áo quan. Dân làng đã gọi những người tinh thông chữ nho ra đọc. Người thì dịch những chữ lớn thành "Đại thị công khanh", người lại dịch nôm na là "hoạn quan"... Tuy nhiên, các chữ nhỏ chưa kịp dịch thì quá trình đào xới, dẫm đạp đã làm cho các chữ này mất đi.

Điều đặc biệt hơn nữa, khi tấm ván thiên được lật ra, những người khai quật cảm nhận được một thứ hương thơm lan toả. Họ thấy phía trong quan tài có một lớp vải màu mỡ gà rất đẹp, vẫn còn như mới. Tấm vải được lật ra, thấy một xác người như đang nằm ngủ, đầu đội mũ cánh chuồn, râu tóc còn nguyên.Trên ngực áo người chết có tấm vải vuông,  có hình con nghê đi trên mây đầu quay về hướng mặt trời.

Ông Lê Văn Hạ khẳng định, ông đã trực tiếp lật từng lớp vải, áo... xem có của cải gì không. Ông Hạ đã đếm được 36 chiếc áo đi kèm trong quan tài (không có quần). Tất cả những chiếc áo này đều có chất liệu như vải lanh, có 1 chiếc còn có miếng vá nhưng miếng vá ấy cũng rất đẹp và được khâu cẩn thận. Ngoài những chiếc áo trên, ông hạ ước chừng có khoảng 300m vải được chèn trong quan tài. Tuy nhiên, cả xác người chết và những lớp vải này nhanh chóng xạm đi rồi toả ra mùi xú uế. Phía bên trong quan tài còn có một chiếc quạt (chỉ còn phần xương quạt) dài chừng 50cm và hai chiếc hộp gỗ đựng chất liệu giống như một loại sáp.
Ông Lê Trọng Cam (trái) và ông Lê Văn Hạ kể lại sự việc.

Sự “lận đận” của ngôi mộ đặc biệt

Sau khi được khai quật, những tấm ván quan được dân làng cạy lên để bán. Thời đó, gỗ khá quý hiếm. Những tấm ván quan lại lớn và dày. Ông Lê Trọng Quất - một người tham gia đào mộ vẫn nhớ, tấm ván quan này nếu để trên mặt ao thì người lớn ngồi lên vẫn không bị chìm. Những người đào mộ bán số ván trên được 300 đồng. Cỗ áo quan này cũng có 6 chiếc đinh bằng đồng nhưng sau đó đã bị thất lạc.

Khi khai quật mộ, những người tham gia cũng đã chuẩn bị một chiếc tiểu để chôn cất lại. Tuy nhiên, do xác còn nguyên vẹn, lại nhiều vải vóc nên không thể cho vừa vào chiếc tiểu đã chuẩn bị. Họ dùng bồ cào kéo xác xuống hố bên cạnh đã được đào sẵn và bỏ tất cả vải vóc, quần áo, quạt... xuống cùng mà không có áo quan. Khi dùng bồ cào, xác đã bị tổn thương, lộ rõ ra cả những sợi gân cổ.

Ông Lê Trọng Cam cho biết, sự việc sau đó đã được ngành văn hoá tỉnh Hải Hưng (cũ) biết tới và cũng đã về khảo sát. Tuy nhiên, ông không nhớ cụ thể ngành văn hoá có khai quật lại lần nữa hay không. Đến năm 1998, nhiều người dân trong làng vẫn áy náy về việc người nằm dưới ngôi mộ đã bị đối xử tệ bạc, nên lại khai quật lại. Lúc này, người nằm dưới mộ kia chỉ còn xương sọ và các xương lớn, còn phần xương nhỏ và đồ tuỳ táng đều mủn thành đất. Phần xương này được xếp vào tiểu và dân làng lập mộ xây cất để thờ cúng.

Mộ Lý Thường Kiệt hay mộ của vị quan nào?

Nếu chỉ căn cứ vào những thông tin phía bên trong ngôi mộ thì chưa thể khẳng định được ngôi mộ đó chính là của danh nhân Lý Thường Kiệt. Tuy nhiên, phía dòng họ Ngô Việt Nam cho rằng khả năng đây chính là ngôi mộ của vị danh nhân này. Khu vực phát lộ ngôi mộ nằm rất gần với đền thờ Nguyên Phi Ỷ Lan. Nguyên Phi Ỷ Lan chính là người mà Lý Thường Kiệt phò tá chống lại phe Dương Thái hậu và Lý Đạo Thành (triều đình nhà Lý). Chính vì ngôi mộ nằm ở vị trí gần đền thờ vị Nguyên phi nói trên mà niềm tin về ngôi mộ của Lý Thường Kiệt của phía họ Ngô càng được củng cố. Tuy nhiên, để có được những thông tin chính xác hơn, dòng họ Ngô Việt Nam cũng đã có các cuộc đánh giá, khảo sát nội bộ và có niềm tin rằng ngôi mộ trên là của Lý Thường Kiệt.

Mặc dù đã có những căn cứ nhất định về ngôi mộ nhưng phía dòng họ Ngô cho biết họ vẫn mong muốn có được sự tham gia của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lịch sử để giám định chính xác về thân thế của ngôi mộ. Dòng họ cho rằng, Lý Thường Kiệt chính là một anh hùng dân tộc, nên những việc liên quan đến ông, dòng họ không thể tự quyết mà cần có sự tham gia và kết hợp của các cơ quan hữu quan.

Từng có sự nhầm lẫn về mộ Lý Thường Kiệt

Phía dòng họ Ngô Việt Nam cho biết, trong quá trình biên soạn cuốn Phả hệ họ Ngô, các thành viên dòng họ đã tìm tòi khá nhiều tài liệu và thông tin liên quan. Trong đó, có thông tin về mộ của Lý Thường Kiệt nằm ở Yên Lạc - Đồng Tiến– Khoái Châu – Hưng Yên. Nơi này dân làng có thờ một vị thánh có công trạng “đánh Tống, bình Chiêm” và nhiều chức vị giống như Lý Thường Kiệt. Phía dòng họ Ngô cũng đã có 2 cuộc khảo sát thực tế tại khu vực được cho là có mộ và đền thờ của Lý Thường Kiệt tại Yên Lạc. Tuy nhiên, những người dân ở địa phương này lại gọi người được thờ tự là “Đức thánh Lác”.
Ngôi mộ đang được nghi là của Lý Thường Kiệt.

Ông Ngô Vui - Trưởng Ban liên lạc dòng họ Ngô Việt Nam khẳng định đó là sự nhầm lẫn bởi ngôi mộ và nơi thờ ở Yên Lạc chính là của Đỗ Anh Vũ - một nhân vật lịch sử thời Lý. Trong nhiều tư liệu lịch sử có những nhận định không mấy hay ho về nhân vật này. Khi khảo sát tại khu vực Yên Lạc, dòng họ Ngô không còn tìm được mộ chí của Đỗ Anh Vũ nữa. Theo người dân Yên Lạc, mộ chí của Đỗ Anh Vũ do thời gian nên đã bị chìm sâu xuống phía dưới lòng đất, chỉ còn ngôi chùa mang tên Diên Phúc thờ nhân vật này cùng với một tấm văn bia đặt tại chùa.

Sở dĩ, có việc nhầm lẫn trên là do Đỗ Anh Vũ có những chức vị tương đồng với Lý Thường Kiệt.  Đỗ Anh Vũ cũng làm đến chức Thái úy ở đời Lý như Lý Thường Kiệt. Một số tài liệu lịch sử cũng cho rằng, Đỗ Anh Vũ được vua ban họ Lý. Cho nên, cũng gọi là Lý Thái úy, y như Lý Thường Kiệt, lại thêm, văn bia có đề “Cự Việt quốc Thái úy Lý Công Thạch bi minh tự”, nghĩa là bia tựa của lời khắc vào bia quan thái úy họ Lý người nước Cự Việt (tức Đại Việt). Nếu đọc bia chữ đã mờ mà không để ý thì dễ nhầm ra “Việt quốc công thái úy Lý Công” nghĩa là Lý Thường Kiệt. Chức tước Đỗ Anh Vũ cũng dài và gần giống chức tước của Lý Thường Kiệt.

Trong khi đó, Đỗ Anh Vũ sinh năm 1113 và mất năm 1158 (Lý Thường Kiệt sinh năm 1019 - mất  năm 1105). Công cuộc đánh Tống, bình Chiêm đều diễn ra từ thời trước khi Đỗ Anh Vũ sinh ra. Như vậy, nhân vật Đỗ Anh Vũ không thể là người tham gia “đánh Tống, bình Chiêm” được, thực tế từ lâu nay người dân đã nhầm lẫn.

Trong cuốn sách viết về Lý Thường Kiệt do học giả Hoàng Xuân Hãn biên soạn cũng cho rằng, nếu đọc văn bia trên mộ chí của Đỗ Anh Vũ mà người đọc không thật chú ý sẽ nhầm đó là mộ chí của Lý Thường Kiệt.
Đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan rất gần ngôi mộ.

Nhà khoa học lên tiếng

Trước những thông tin về ngôi mộ nghi là của Lý Thường Kiệt tại thôn Ngọc Quỳnh, đã có một số nhà khoa học, lịch sử lên tiếng.

Phát biểu với báo chí, Giáo sư khảo cổ học Nguyễn Lân Cường cho biết, đặc điểm “trong quan ngoài quách” của ngôi mộ ở thôn Ngọc Quỳnh thể hiện đặc trưng cho những ngôi mộ thời hậu Lê thì không thể là của danh nhân Lý Thường Kiệt.

Giáo sư Sử học Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho biết, theo những gì mà Báo GĐ&XH mô tả thì chưa thể khẳng định được điều gì. Ông cũng nhận định, nếu đó là một ngôi mộ hợp chất có xác ướp thì thông thường chỉ thấy ở giai đoạn cuối nhà Lê. Những ngôi mộ có đặc điểm tương tự được phát hiện đều rơi vào giai đoạn này, chưa từng phát hiện ngôi mộ nào có đặc điểm như trên mà có niên đại sớm hơn. Tuy nhiên, Giáo sư Lê cho rằng, cũng chưa thể kết luận điều gì bởi khoa học luôn có những bất ngờ. Giáo sư Phan Huy Lê cho biết, ông sẽ sớm bố trí thời gian để trực tiếp xuống địa bàn khảo sát. Chỉ sau khi khảo sát và nghiên cứu cụ thể ông mới có kết luận chính thức.

Giáo sư Sử học Lê Văn Lan cũng cho biết, ông chưa từng nghe thông tin về mộ của Lý Thường Kiệt. Theo ông, ở Việt Nam chưa từng đào được ngôi mộ nào thời Lý. Trong các tài liệu lịch sử cũng không có những thông tin liên quan đến đặc điểm thông thường của một ngôi mộ thời Lý. Vì vậy, để xác định được một ngôi mộ thời Lý có những đặc điểm gì nổi bật  là rất khó.

Giáo sư Lê Văn Lan cho biết thêm, thông tin mới chỉ dựa vào những lời kể của bà con địa phương, trong khi sự việc đã diễn ra từ khá lâu. Nếu đích thực xác của người nằm dưới mộ kia có râu thì cũng là một đặc điểm cần lưu tâm bởi Lý Thường Kiệt vốn là hoạn quan. Đặc điểm của các hoạn quan thường là không có râu. Giáo sư Lan cũng cho biết, ông sẽ để tâm nghiên cứu về sự việc này và sẽ có những đánh giá sau khi thực sự tìm hiểu kỹ càng.

Đặt ra các giả thiết có sự nhầm lẫn về ngôi mộ, ông Ngô Vui - Trưởng Ban liên lạc dòng họ Ngô Việt Nam cho rằng, việc có những thông tin nghi ngờ là quyền của dư luận. Ông cho biết là đã nghiên cứu khá kỹ các tài liệu và vẫn có niềm tin ngôi mộ là của danh nhân Lý Thường Kiệt.

Theo ông, ngôi mộ ở thôn Ngọc Qùynh nằm ở vị trí rất sát với đền Ghênh – nơi thờ Nguyên Phi Ỷ Lan. Từ ngôi đền có thể nhìn thẳng ra ngôi mộ đang nghi vấn trên. Nhiều ý kiến cho rằng, có khả năng, vào giai đoạn cuối đời, Lý Thường Kiệt đã ở rất gần Nguyên Phi Ỷ Lan và khi ông qua đời đã được bà cho chôn cất ngay tại nơi này. Đây là một trong những đặc điểm khiến nhiều người suy đoán ngôi mộ chính là của Lý Thường Kiệt.

Mặc dù có niềm tin tưởng lớn về ngôi mộ nhưng trước những ý kiến ban đầu của các nhà khoa học, phía dòng họ Ngô Việt Nam cũng như nhân dân thôn Ngọc Quỳnh đều cho rằng, muốn xác định rõ ngôi mộ nói trên thì phương án tốt nhất lúc này là khai quật ngôi mộ và tiến hành giám định AND.

Ngày hôm nay, 28/5/2010, đoàn khảo sát dòng họ Ngô Việt Nam sẽ thêm một lần trực tiếp xuống Ngọc Quỳnh để khảo sát. Dòng họ cho biết, lần khảo sát này sẽ làm việc với những người dân đã chứng kiến, tham gia đào ngôi mộ năm 1979 tại Ngọc Quỳnh một cách kỹ lưỡng hơn. Sau khi thu thập thông tin, dòng họ mới có các quyết định tiếp theo.
Những di vật bất ngờ xuất hiện

Ngay sau khi đưa ra những thông tin về ngôi mộ hợp chất tại thôn Ngọc Quỳnh (Như Quỳnh- Hưng Yên) nghi là của danh nhân Lý Thường Kiệt, chúng tôi đã luôn sát cánh với dòng họ Ngô Việt Nam trong quá trình tìm kiếm các di vật liên quan đến ngôi mộ. Trong lần khảo sát ngày 28/5, chúng tôi đã cùng với ông Ngô Vui - Trưởng Ban liên lạc dòng họ Ngô Việt Nam, Thiếu tướng Ngô Tiến Quý - Viện trưởng Viện Khoa học hình sự Bộ Công an và nhiều thành viên khác của dòng họ Ngô về thôn Ngọc Quỳnh để thu thập thông tin. Trong lần khảo sát này, chúng tôi đã có thêm được những thông tin và di vật vô cùng quý báu về ngôi mộ này.
Đại diện dòng họ Ngô Việt Nam trở lại khảo sát ngôi mộ.

Ngay khi về tới thôn Ngọc Quỳnh, bà con địa phương tập trung rất đông để hợp tác với đoàn khảo sát. Trong quá trình khai thác thông tin, chúng tôi được ông Lê Trọng Cam - Trưởng thôn Ngọc Quỳnh cho biết, đã phát hiện ra một người dân trong thôn đang lưu giữ một số mảnh di vật liên quan đến ngôi mộ. Ngay lập tức, chúng tôi đã xin được tiếp cận với những di vật này. Đó là những mảnh vỡ của chiếc quạt và một phần chiếc hộp đựng sáp. Trên 2 mảnh vỡ của chiếc quạt thu thập được có một số chữ cổ được viết theo kiểu chữ "triện" (một loại chữ cổ). Mặc dù chưa biết rõ đây là những chữ gì và có thể mang lại kết luận nào hay không, nhưng những người trong đoàn khảo sát đều vô cùng mừng rỡ, bởi đây là di vật có tính chất xác thực nhất trong quá trình tìm hiểu thông tin về ngôi mộ tại Ngọc Quỳnh.

Dòng họ Ngô đang khẩn trương nhờ các chuyên gia Hán - Nôm đọc và dịch những chữ quý hiếm này. Dòng họ đang đặt niềm tin vào những chữ này, bởi nó có thể là mấu chốt để xác định được người nằm dưới mộ là ai. Trong trường hợp các chữ trên mảnh di vật nói trên vẫn chưa mang lại thông tin rõ ràng, dòng họ Ngô mới tiến hành các bước tiếp theo. Trước mắt, có thể sẽ khai quật phần quách còn lại dưới lòng đất để mang đi giám định.

Một ngôi mộ khác thường

Như chúng tôi cũng đã đưa tin, sau khi Báo GĐ & XH đăng tải thông tin về ngôi mộ nghi là của Lý Thường Kiệt, một số nhà khoa học đã nhận định ngôi mộ như vậy thường xuất hiện vào thời kỳ hậu Lê. PGS.TS Nguyễn Lân Cường cũng cho chúng tôi biết, ông đã từng tiếp cận với rất nhiều ngôi mộ "trong quan ngoài quách" và 100% số mộ ông từng biết đều rơi vào thời kỳ nhà Lê. Tuy nhiên, đặc điểm của một ngôi mộ hợp chất thời Lê thông thường là phía bên trong sẽ sũng một loại chất dạng nước. Đây là loại tinh dầu rất thơm. Tinh dầu này chính là một chất góp phần bảo quản các thi hài. Phía dưới thi hài thường có một tấm ván với 7 chiếc lỗ được gọi là ván "thất tinh". Ở các ngôi mộ hợp chất, ngoài loại tinh dầu trên, dưới phía ván thất tinh thường là chè, gạo rang, than...
Những mảnh vỡ của chiếc quạt và một phần chiếc hộp đựng sáp được người dân cất giữ.

Ở ngôi mộ "trong quan, ngoài quách" tại thôn Ngọc Quỳnh, tất cả những người tham gia đào bới ban đầu đều khẳng định chắc chắn phía trong quan tài hoàn toàn khô ráo. Toàn bộ những súc vải, quần áo, cũng như những đồ tuỳ táng của người dưới mộ đều không có dấu hiệu thấm nước hoặc loại tinh dầu nào. Phía bên dưới ván thất tinh cũng không có chứa gạo, chè... hay một loại vật chất tương tự nào khác.

Nhận xét về đặc điểm độc đáo trên của ngôi mộ, PGS.TS Trình Năng Chung, Trưởng phòng Khoa học - Viện Khảo cổ học Việt Nam cho biết, nếu không tìm thấy gạo, chè...và cũng không có tinh dầu trong mộ hợp chất thì cũng là một đặc điểm lạ đáng lưu tâm. PGS Chung đặt ra giả thiết là phải chăng, ngôi mộ được sử dụng một loại chất nào đó mà ta chưa biết được để ướp xác. PGS Chung cũng cho biết, "mộ hợp chất" xuất hiện ở một số nơi trên thế giới, một số ngôi có niên đại cách đây hàng ngàn năm.

Lý Thường Kiệt từng có nhiều vợ?

Với thông tin người đàn ông nằm dưới ngôi mộ tại Ngọc Quỳnh vẫn còn nguyên râu khá dài, một số chuyên gia nhận định việc một người đàn ông có râu sẽ rất khó có thể là hoạn quan. Về nhận định trên, ông Ngô Vui - Trưởng ban liên lạc dòng họ Ngô cho biết, việc Lý Thường Kiệt là hoạn quan nhưng vẫn có râu là chuyện hết sức bình thường. Lý do ông Ngô Vui có ý kiến như vậy là vì Lý Thường Kiệt không phải hoạn quan từ bé như nhiều hoạn quan khác trong các triều đình phong kiến. Những hoạn quan tiến hành thủ tục cắt bỏ một phần bộ phận sinh dục từ lúc nhỏ tuổi thì các nội tiết tố nam sẽ không còn phát triển bình thường nữa. Ở trường hợp của Lý Thường Kiệt, ông đã "tự yêm" (tự hoạn) vào năm 1042 tức là khi ông đã 23 tuổi. Vì thế, việc phát triển râu của Lý Thường Kiệt vẫn có thể diễn biến bình thường. Trong phả hệ họ Ngô Việt Nam cũng ghi: "Ngô Tuấn sinh ra và lớn lên ở phường Thái Hoà (Thăng Long), từ nhỏ đã tỏ ra có chí lớn, đêm ngày chăm chỉ học hành....Năm 16 tuổi lấy vợ, sau vợ chết vì sinh nở. Năm 20 tuổi lấy vợ khác...".

Ngô Tuấn được vua Lý Thái Tông tin yêu. Để có thể hằng ngày ở trong cung cấm, Vua Lý khuyên ông “tự yêm".

Chính bởi những yếu tố lạ và nhiều điểm còn chưa rõ ràng nên dòng họ Ngô Việt Nam vẫn đặt niềm tin tưởng lớn vào ngôi mộ ở thôn Ngọc Quỳnh chính là mộ của danh nhân Lý Thường Kiệt. Họ vẫn đang tìm mọi cách chứng minh điều đó. Tuy nhiên, dòng họ cho biết, vẫn mong muốn các nhà khoa học cũng như các cơ quan chức năng cùng vào cuộc để sự việc được rõ ràng.
Theo Giadinh.net.vn

Không có nhận xét nào: