Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2013

Hoàng Thành Thăng Long

HOÀNG THÀNH THĂNG LONG 
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VĂN HOÁ VIỆT
 

Phát lộ di tích Hoàng Thành năm 2003 đã gây nên một chấn động lớn trong dư luận xã hội và nhận được sự quan tâm sâu sắc của nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Nhiều báo chí coi phát hiện khảo cổ này là một trong những sự kiện văn hóa trọng đại năm 2003. Một số di vật được trưng bày tại Văn Miếu  Quốc Tử Giám ở Hà Nội và sau đó chuyển vào trưng bày tại Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh được khách tham quan trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Trong Thư chúc Tết năm Giáp Thân năm 2004, chủ tịch nước Trần Đức Lương có đoạn viết: “... tiến hành khảo cổ ở khu vực Ba Đình Hà Nội làm xuất lộ nhiều di tích lịch sử - văn hóa vô giá về kinh thành Thăng Long cổ xưa. Những thành tựu đó đang tiếp tục khích lệ, cổ vũ lòng tự hào dân tộc và ý chí vươn lên của nhân dân ta...”
Trên cơ sở nhận thức giá trị của khu di tích lịch sử văn hoá do khảo cổ học phát hiện, ngày 24/9/2003 Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã trân trọng đề nghị các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ cho phép giới khảo cổ học tiếp tục mở rộng diện khai quật để có cơ sở khoa học đầy đủ hơn trong đánh giá cũng như trong các giải pháp bảo tồn. Hai cuộc hội thảo khoa học do Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia và do Bộ Văn hoá thông tin tổ chức, tuy có một số ý kiến khác nhau trong thảo luận những vấn đề cụ thể, nhưng không ai có thể phủ nhận được giá trị lớn lao của di sản văn hoá này và nguyện vọng của hầu hết các nhà khoa học là mong muốn được bảo tồn lâu dài.
Bộ Chính trị đã có một phiên họp sáng ngày 1/11/2003 để bàn về sự phát hiện di sản văn hoá được giới khoa học và cả xã hội đặc biệt quan tâm này. Theo thông báo số 126-TB/TW ngày 5/11/2003, Bộ Chính trị đã quyết định cho phép tiếp tục khai quật khảo cổ học trên diện tích được Chính phủ phê duyệt để có cơ sở khoa học định giá và kết luận đầy đủ hơn về quần thể di tích này, trên cơ sở đó xây dựng phương án bảo tồn và phát huy ý nghĩa lịch sử của di tích. Thông báo cũng cho biết Hội trường Ba Đình mới sẽ chuyển đến một địa điểm khác với tên mới là Trung tâm Hội nghị quốc gia. Còn Hội trường Ba Đình hiện nay sẽ được lưu giữ như một di tích lịch sử và Nhà quốc hội sẽ được xem xét, quyết định sau khi có báo cáo kết quả khai quật khảo cổ học.
Hiện nay Viện Khảo cổ học đang tiếp tục công việc khai quật khảo cổ học và với diện tích khai quật được mở rộng, chắc chắn nhiều di tích và di vật mới sẽ được phát lộ và nhận thức về giá trị khu di tích sẽ được nâng cao hơn. Tuy nhiên công việc khai quật cũng như bảo quản trước mắt và bảo tồn lâu dài đang đặt ra không ít nhiệm vụ nặng nề mà dư luận hết sức quan tâm. Công việc bảo quản những di vật thu thập cần được thực hiện với những kho hiện vật có đủ tiện nghi bảo vệ theo từng loại chất liệu và sắp xếp khoa học. UBND Hà Nội đã chọn địa điểm để xây dựng một kho bảo quản hiện vật như vậy. Đặc biệt khó khăn là công việc bảo tồn tạm thời những di tích ngoài trời trong điều kiện đất đai, khí hậu vùng này, nhất là khi mùa mưa đến, để tiến tới một kế hoạch bảo tồn lâu dài toàn bộ khu di tích. Chính phủ đã  giao cho các cơ quan chức năng và chuyên môn tập hợp lực lượng chuyên gia trong nước và tranh thủ sự hợp tác quốc tế để nghiên cứu và đề xuất những giải pháp khoa học và công nghệ phù hợp, hữu hiệu nhằm bảo tồn di sản văn hoá này.
Một di sản văn hoá vô giá mà bao nhiêu thế hệ tổ tiên đã sáng tạo nên và lòng đất này đã gìn giữ chúng được cho đến hôm nay, vì thế chúng ta phải gánh vác trách nhiệm này tiếp tục bảo tồn, phát huy rồi chuyển giao lại cho các thế hệ mai sau  với  nhiệm vụ cao cả là GÌN GIỮ BẢO TỒN MỘT DI SẢN VĂN HOÁ VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM. 
 
  HOÀNG THÀNH THĂNG LONG – NHỮNG  PHÁT HIỆN KHẢO CỔ HỌC
Bản đồ Thăng Long thời Hồng Đức (1490)
Vòng thành này vừa làm chức năng thành luỹ bảo vệ, vừa là đê ngăn lũ lụt. Thành được đắp mới và có tận dụng, tu bổ một phần thành Đại La cũ đời Đường. Thành Đại La phía đông chạy dọc theo hữu ngạn sông Nhị như một đoạn đê của sông này từ Bến Nứa đến Ô Đống Mác, phía bắc dựa theo hữu ngạn sông Tô Lịch phía nam Hồ Tây từ Bưởi đến Hàng Buồm ngày nay, phía tây theo tả ngạn sông Tô Lịch từ Bưởi đến Ô Cầu Giấy, phía nam theo sông Kim Ngưu qua Giảng Võ, Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, đến Ô Đống Mác. Thành Đại La đời Lý mở các cửa: Triều Đông (dốc Hòe Nhai), Tây Dương (Cầu Giấy), Trường Quảng (Ô Chợ Dừa), Cửa Nam (Ô Cầu Dền), Vạn Xuân (Ô Đống Mác). Thành Đại La được bao bọc mặt ngoài bởi ba con sông: sông Nhị, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và được tận dụng như những con hào tự nhiên. Một đặc điểm nổi bật của cảnh quan thiên nhiên của thành Thăng Long là nhiều sông hồ. Có thể nói Thăng Long - Hà Nội là một thành phố sông-hồ và ngay từ khi kiến lập, nhà Lý đã biết tận dụng địa thế tự nhiên này trong qui hoạch xây dựng nhằm biến những sông, hồ đó thành những con hào tự nhiên, những giao thông đường thuỷ tiện lợi và một hệ thống thoát nước, điều tiết môi trường, bảo vệ sinh thái. Vì vậy mặt bằng các vòng thành Thăng Long không coi trọng tính kỷ hà, đối xứng, vuông vắn mà uốn mình theo địa hình, thích nghi và tận dụng điều kiện thiên nhiên.
2. Phát lộ di tích Hoàng thành Thăng Long
Theo Luật di sản văn hoá, trước khi thực hiện dự án xây dựng Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình, trên khu vực nằm giữa các đường phố Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn, Chính phủ cho phép Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật trên diện rộng. Từ tháng 12/2002 đến nay, đã khai quật trên diện tích hơn 19.000 m2. Đây là quy mô khai quật khảo cổ học lớn nhất ở Việt Nam và cũng vào loại lớn nhất ở Đông Nam Á. Từ đó đã phát lộ một phức hệ di tích – di vật rất phong phú, đa dạng từ thành Đại La (thế kỷ VII - IX) đến thành Thăng Long (thế kỷ Xl -XVIII) và thành Hà Nội (thế kỷ XIX).

Trên cơ sở phát hiện khảo cổ học này, các nhà khảo cổ học còn phải dành nhiều thời gian để chỉnh lý hiện vật và hoàn chỉnh hồ sơ khoa học về các di tích, di vật. Về phương diện khoa học, các nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành liên quan như khảo cổ học, sử học, kiến trúc, văn hoá, địa lý, địa chất, môi trường,,, cũng cần có nhiều thời gian để nghiên cứu, thảo luận hàng loạt vấn đề như cảnh quan tự nhiên, cấu tạo của các sông, hồ, quan hệ giữa các lớp đất; tên gọi, chức năng, niên đại của các di tích kiến trúc; cấu trúc của khu di tích và sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử; phân loại và xác định nguồn gốc, niên đại các di vật. Vì vậy không có gì ngạc nhiên, trong một vài hội thảo khoa học hay trên báo chí, xuất hiện một số ý kiến khác nhau về những vấn đề khoa học cụ thể này. Tuy nhiên, trên tổng thể đã có đủ cơ sở khoa học để đưa ra những đánh giá khái quát về giá trị lịch sử văn hoá của khu di tích đã phát hiện.
 
Khu vực khai quật hiện nay nằm về phía tây của điện Kính Thiên trong Hoàng Thành thời Lê sơ. Rõ ràng đây là di tích của một phần phía tây Hoàng Thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng thế kỷ XI - XVIII, ngược lên thành Đại La thế kỷ VII - IX và kéo dài đến thành Hà Nội thế kỷ XIX. Khu di tích bộc lộ một bề dày lịch sử từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIX gồm thời tiền Thăng Long, thời Thăng Long và Hà Nội. Các di tích và tầng văn hóa chồng xếp lên nhau qua nhiều thời kỳ lịch sử một cách khá liên tục. Thật hiếm có một khu di tích lịch sử-văn hoá trải dài qua nhiều thời kỳ lịch sử như vậy giữa vùng đất trung tâm của thủ đô và cũng thật hiếm có thủ đô một nước có lịch sử lâu đời lại phát hiện một quần thể di tích chảy dài suốt bề dày lịch sử như vậy.
Các di tích kiến trúc và một khối lượng rất lớn di vật cho thấy một phần qui mô và diện mạo của Hoàng Thành cùng đời sống cung đình của vua quan, quý tộc qua các thời kỳ lịch sử. Tầng tầng lớp lớp di tích - di vật hiện lên như một bộ sử nghìn năm văn hiến của Thăng Long – Hà Nội phản chiếu trình độ và bản sắc dân tộc của một trung tâm văn hóa lớn nhất và lâu đời nhất của đất nước.
Về phương diện lịch sử, phát hiện khảo cổ học này cung cấp nhiều cứ liệu khoa học để xác định vị trí trung tâm của thành Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh, để hiểu thêm mối quan hệ giữa thành Đại La với thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội thời Nguyễn. Thành Đại La qua nhiều lần xây dựng, từ Tử Thành do Khâu Hoà xây năm 618 chỉ 900 bộ (khoảng 1,65 km), La Thành do Trương Bá Nghi xây năm 767 rồi Triệu Xương đắp thêm năm 791, thành Đại La do Trương Chu xây năm 808 mà La Thành bên ngoài dài 2000 bộ (khoảng 3,70 km) rồi Lý Nguyên Gia dời thành và Cao Biền mở rộng thêm thành 1982 trượng (khoảng 6,5 km), ngoài có đê dài 2125 trượng (khoảng 7 km). Đó là toà thành có qui mô lớn nhất trong thời Bắc thuộc. Tại khu vực khai quật, đã tìm thấy dấu tích thành Đại La trên cả bốn khu A, B, C, D, chứng tỏ vùng này nằm trong thành Đại La. Bên trên dấu tích Đại La là di tích kiến trúc và các di vật thời Lý. Điều đó chứng tỏ vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về đô cũ của Cao Vương ở thành Đại La đúng như Chiếu dời đô, đổi tên là thành Thăng Long và buổi đầu đã sử dụng toà thành này cùng một số kiến trúc có sẵn rồi sửa sang, xây dựng thêm những cung điện mới. Phạm vi của Hoàng Thành từ thời Lý, Trần sang Lê sơ thay đổi như thế nào còn phải nghiên cứu thêm, nhưng qua phát hiện khảo cổ học ở Ba Đình thì rõ ràng khu vực này là một bộ phận phía tây của Hoàng Thành xưa và không thay đổi. Hơn nữa, theo bản đồ thành Đông Kinh thời Hồng Đức thì khu vực khai quật này nằm trong phạm vi cấm thành của Hoàng Thành. Kết quả khai quật khảo cổ học kết hợp với tư liệu thư tịch và bản đồ cổ cho phép hình dung khu trung tâm của Hoàng Thành rõ nét hơn.
Phát hiện này còn cung cấp thông tin cho biết trong lòng đất Hoàng thành Thăng Long xưa còn bảo tồn nhiều di tích di vật quý. Từ đây có thể đưa ra khả năng mở rộng diện điều tra và khai quật, xây dựng quy hoạch bảo tồn một khu vực di tích lịch sử  văn hoá của kinh thành Thăng Long, thành Hà Nội cổ và mở rộng đến các di tích cách mạng và kháng chiến thời đại Hồ Chí Minh như Hội trường Ba Đình, Lăng và Nhà sàn Bác Hồ, Tổng hành dinh Quân đội nhân dân Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ, Hội trường Ba Đình, kéo dài từ thế kỷ thứ VII (hi vọng có thể phát hiện những di tích, di vật sớm hơn) đến thế kỷ XX. Đây là một di sản văn hóa vô giá của dân tộc nằm giữa thủ đô Hà Nội và nếu nghiên cứu, bảo tồn tốt, có thể được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Một di sản văn hoá như vậy sẽ tăng thêm vị thế của thủ đô Hà Nội, phát huy tác dụng sâu sắc trong giáo dục truyền thống dân tộc cũng như trong các hoạt động giao lưu văn hoá và du lịch. Chỉ một bộ phận di sản đã được phát hiện ở Ba Đình hiện nay đã làm xúc động biết bao những người có dịp đến tham quan, chiêm ngưỡng và cả những người chỉ mới được nghe tin và xem ảnh qua các phương tiện thông tin đại chúng.
 3. Sự thăng trầm của Hoàng thành
Tô Lịch - Nùng Sơn theo phong thủy xưa là hai biểu tượng của nước non Thăng Long - Hà Nội. Nói theo sinh thái học nhân văn thì Thăng Long - Hà Nội là một đô thị sông - hồ được bao bọc bởi một “tứ giác nước” 30 km “đường đê La Thành”:
 Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này.
Tô Lịch tách ra khỏi Nhị Hà ở khoảng chợ Gạo, chảy qua giữa Ngõ Gạch - Hàng Buồm, luồn qua Cầu Đông - Hàng Đường - Hàng Cá - Cống Chéo Hàng Lược, ngoằn ngoèo theo đường Quán Thánh rồi chảy xuống Thụy Khuê - Hồ Khẩu...
Kim Ngưu mở cửa vào Hồ Tây (cũng có tên khác là hồ Kim Ngưu), chảy theo chiều bắc – nam thành Ngọc Hà, dọc dài đường Ông Ích Khiêm - Lê Trực (nay là cống ngầm) luồn qua đường Cát Linh mà chảy xuống Hào Nam

 Nhà Trần thay ngôi nhà Lý một cách hòa bình cũng sử dụng lại Hoàng thành Thăng Long và có xây dựng, sửa chữa thêm, nhất là sau những cơn binh hỏa chống Mông - Nguyên. Nhà Hồ dựng Tây Đô ở xứ Thanh, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô và có dỡ một vài cung điện ở Thăng Long đưa vào Tây Đô. Sau 20 năm Minh thuộc và chống Minh, tháng 4/1428, Lê Lợi, người sáng nghiệp triều Lê vào yên vị ở Đông Đô (1430 đổi là Đông Kinh, nhưng cái tên tuyệt đẹp Thăng Long vẫn tồn tại dài dài). Nhà Mạc xây Dương Kinh ở quê nhà gần biển, ít xây dựng ở Đông Kinh ngoài việc đắp thêm nhiều lũy thành ở phía nam kinh thành để chống Trịnh. Thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh xây Vương phủ riêng bên bờ tả - hữu Vọng Hồ (Hồ Hoàn Kiếm). Vua Lê vẫn ngồi trên ngôi hư vị ở hoàng thành cũ, có đổ nát đi hơn là xây dựng thêm.
Rồi Gia Long và Minh Mạng phá Hoàng Thành cũ, xây Bắc Thành, tỉnh thành Hà Nội mới theo kiểu Vauban. Thi hào Nguyễn Du than thở:
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung.
Tạm dịch:
Cung điện ngàn năm thành đường cái
Một tòa thành mới mất cung xưa.
Bà Huyện Thanh Quan hoài cổ Thăng Long Thành:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam - Hà Nội rơi vào tay thực dân Pháp. Pháp phá thành Hà Nội để xây “khu phố Tây”, khu nhà binh Pháp, sân vận động Mangin (nay là Trung tâm Thể dục thể thao quân đội)... Cái thiêng “Nùng Sơn chính khí” với tòa điện Kính Thiên xây bên trên đã bị giải thiêng.
Kính Thiên ngai ngự thếp vàng
Tây ngồi đánh chén cùng đoàn thanh lâu.
Điện Kính Thiên còn 4 bệ 9 bậc (cửu trùng) Rồng đá thời đầu Lê. “Cô Tư Hồng” đấu thầu phá thành, chỉ dùng gạch của thành cũ đã xây được vài khu phố mới ở đường Nguyễn Biểu - Đặng Dung nay, sau khi dùng phế tích lấp hồ Cổ Ngựa - cái hồ kéo dài Hồ Tây - hồ Trúc Bạch với hồ Hàng Đậu - hồ Hàng Khoai - hồ Hàng Đào nối với hồ Hoàn Kiếm qua Cầu Gỗ (cái cầu gỗ ấy năm 1901 vẫn còn - nay thì chỉ còn cái tên “Phố Cầu Gỗ”).
  Những dấu vết còn lại
Ở phía bắc thì còn Chính Bắc Môn với một vết đạn chưa mờ trên Cửa Bắc. Vết tích trận giặc 1882 và việc ngài Hoàng Diệu tử tiết. Lùi vào một chút thì còn Hậu Lâu, Pháp gọi là “Lầu Công Chúa” mà kiến trúc đã bị làm biến dạng, lai căng đi rất nhiều rồi.
Năm 2001, giới khảo cổ học được phép đào ở khu vực quanh Hậu Lâu và Cửa Bắc. Phía dưới Cửa Bắc hiện tồn, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một Cửa Bắc khác thời Lê, rộng hơn, chìm sâu hơn, đang rải nylon lấp cát vùi lại, chờ công cuộc khai quật quy mô lớn hơn. Còn ở quanh Hậu Lâu, đã tìm thấy tảng đá kê chân cột chạm hoa sen thời Lý cùng nhiều hiện vật khác thời Lê, nhưng đã được “dùng lại” với công năng khác. Khảo cổ học xác định đây có thể là một cái bến đợi ở Hoàng Thành bắc, thông với sông Tô Lịch (đường Quán Thánh - Thụy Khuê). Cũng đã giăng nylon vùi cát lấp lại chờ khai quật tiếp.
Quảng Minh đình đời Minh Mạng, là nơi hàng tháng có quan tới giảng “Thập điều” (10 điều trung hiếu tiết nghĩa) bắt dân đi nghe.
Quảng Minh đình, như sử chép là xây dựng trên nền Quảng Văn đình đời Lê Thánh Tông, là nơi dán bố cáo, mệnh lệnh của vua quan, cho dân biết mà thi hành.
Nếu được phép khai quật vườn hoa Cửa Nam, nhà khảo cổ có thể tìm thấy nền cũ Quảng Minh đình rồi Quảng Văn đình. Sẽ cũng là điều lý thú.
Ở phía đông, thì trên mặt đất còn di tích Đông Môn đình (Đình Cửa Đông) nay đeo biển số nhà 10 Hàng Cân và Đông Môn tự (Chùa Cửa Đông), nay đeo biển số nhà 38b Hàng Đường mà nhiều tấm bia cổ còn giữ được ở trong chùa có niên đại Lê - Nguyễn khẳng định là chùa được xây dựng ngay phía ngoài cửa Đông Hoa, Hoàng Thành Lê. Cuộc điền dã khảo cổ - nhân học văn hóa cuối năm 2002 đã xác định được cửa Đông Hoa giữa số 4 (Đông Cung) và số 5 (Càn (Kiền) điện trên bản đồ, nay đánh số 4b) là ở nền nhà Hội quán Phúc Kiến phố Lãn Ông hiện nay. Các bia Gia Long, Tự Đức còn giữ trong nhà hội quán nói là “Mân thuyền” (thuyền đất Mân Phúc Kiến) đến Thăng Long buôn bán, mua được khu đất hoang, thuộc cửa Đông Hoa thời Lê cũ, xây nhà hội quán.
 
Tượng đầu chim phượng và lá đề trang trí đôi chim phượng tìm thấy ở hố A2,A3
Chi tiết di vật đầu phượng
Một dải đồ gốm sứ thời Lê dùng trong hoàng triều tìm thấy bên dòng sông cổ ở hố A11 
Về phía tây Hoàng Thành Lê, thì còn chứng cứ: Khán Sơn. Toàn thư chép là ở góc tây bắc Hoàng Thành, nơi vua Lê Thánh Tông và các đại quan ngự xem (khán) quân sĩ tập trận (số 11 trên bản đồ). Thời Pháp thuộc, chính quyền Pháp sai san phẳng Khán Sơn làm nền, trên đó xây dựng trường trung học mang tên viên toàn quyền Albert Sarraut, nay được cải tạo, sửa thành trụ sở TƯ Đảng CSVN.
Chùa Một Cột (tên chữ là chùa Diên Hựu), vẫn theo sử chép là được xây dựng thời Lý Thánh Tông (1049) cầu cho vua sống lâu. Tấm bia Thiên phù duệ vũ (1 121) trên chùa Đọi (Hà Nam - “Sùng thiện diên linh tháp bi ký”) nói chùa Diên Hựu được xây dựng lại hoành tráng vào thời Lý Nhân Tông.
Hướng tây cấm chi danh viên,
Quyết Diên Hựu chi ngự tự
(Hướng về khu vườn nổi tiếng phía tây cấm thành
Xây dựng ngôi chùa ngự (của vua sai xây - Diên Hựu).
Chùa Một Cột nay, trải bao lần tàn phá, xây dựng lại (cái hiện thể chùa Một Cột là được dựng lại tháng 4/1955) nhưng vẫn ở địa điểm nguyên sơ.
Vậy chùa Một Cột là một điểm mốc ghi dấu Cấm thành thời Lý.
Chùa Am Cây Đề (Thanh Ninh tự) hiện còn ở cuối đường Ông Ích Khiêm, đầu đường Sơn Tây. Hai tấm bia Gia Long còn giữ lại được trong chùa cho ta biết: Chùa ở ngay sát phía ngoài hành lang phía tây của Hoàng Thành Thăng Long thời Lê. Thời đầu Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786) có một vị cư sĩ ở Bắc Giang tới đây, xây một cái am dưới cây đề trong chùa để thờ và giải hóa đám cô hồn không nơi nương tựa. Cuối năm 2002, giới khảo cổ đã đến tận nơi (nay trong lãnh thổ xí nghiệp may Chiến Thắng). Cây đề vẫn còn đó, cổ thụ mấy trăm năm, rễ gốc ôm vào lòng một cái am diện tích khoảng 9m2, xây hoàn toàn bằng gạch vồ Lê Cảnh Hưng. Công nhân xí nghiệp may vẫn giữ nguyên vẹn cái am (thời chống Mỹ dùng làm nơi trú ẩn máy bay Mỹ ném bom), có ban thờ đèn nhang liên tục...
Dấu tích dưới lòng đất 
Thế là rõ! Căn cứ vào sách vở, bi ký, bản đồ, lời truyền miệng, một số di tích trên mặt đất, giới khảo cổ đã xác định được quy mô Hoàng Thành Thăng Long Lý - Trần - Lê khoảng 400ha. Đông là ở khoảng phố Lãn Ông, tây ở khoảng Ngọc Hà, nam ở khoảng Chợ Cửa Nam - Hàng Đẫy (Nguyễn Thái Học), bắc ở khoảng tiếp gần đường Quán Thánh.

Giếng cổ thời Đại La và dấu vết cung điện thời Lý Trần ở hố B9-B5
Gạch "Đại Việt quốc quân thành chuyền" (gạch xây thành nước  Đại Việt) thời  Đinh - Lê, thế kỷ 10, tìm thấy ở hố A1  
Gạch "Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo"  (chế tạo năm Long Thụy Thái Bình 4 (1057) thời vua Lý Thánh Tông tìm thấy ở hố B1
 
Thấy một vài cái giếng xây bằng gạch ''Giang Tây quân'' (chữ in trên gạch, niên đại thuộc Đường thế kỷ VII - IX), có gạch in chữ ''Lý gia đệ tam đế Long Thụy thái bình tứ niên tạo'' (làm năm Long Thụy thái bình thứ tư, đời vua thứ 3 nhà Lý - 1057) v.v... (thời ấy phải nghiêm ngặt tuân thủ định chế của công trường: Không được mang vào và mang ra bất cứ hiện vật gì, không được hỏi, được nói bất cứ cái gì mình biết và không biết, không được đi ra khỏi nơi quy định...)
Với công trường Lăng Bác (cũng như việc tìm thấy bộ xương voi ở 42 Trần Phú khi sửa đường), chưa thể nói là đã có một nền khảo cổ học đô thị Việt Nam (khảo cổ học mới Việt Nam được phát sinh và phát triển từ cuối thập niên 50 và thập niên 60 của thế kỷ XX, song chủ yếu là khảo cổ ở vùng thôn dã - hang động - đồi gò (Hòa Bình, Bắc Sơn, Phùng Nguyên, Đông Sơn v.v... Có khảo cổ ở Cổ Loa, cố đô Âu Lạc, nhưng Cổ Loa đã trở thành làng - xã, chưa thể coi là khảo cổ học đô thị).
Phải chờ đến cuối năm 2002 và năm 2003, với việc Nhà nước cho mở công trường khảo cổ khu vực định xây dựng Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình (mới) với diện tích khai quật lớn nhất từ trước đến nay, giữa trung tâm Hà Nội hiện thời (hàng chục nghìn mét vuông), ta mới có thể nói là bắt đầu có một nền khảo cổ học đô thị Việt Nam (Có làm khảo cổ ở Hội An nhưng chủ yếu vẫn chỉ là khảo cổ vùng động cát ở khu vực rìa thị xã và ở Cù Lao Chàm).
Với tư cách là người tư vấn của công trường của Ban chủ nhiệm dự án khảo cổ, chỉ xin nhấn mạnh mấy điều mà tôi cho là chủ chốt như sau:
       Chưa từng có một công trường khảo cổ nào ở nước ta (và khu vực) mang một tầm cỡ lớn như vậy, không chỉ về quy mô (hàng vạn mét vuông) mà cả về tầm quan trọng: Ta đã đụng đến và, nói như ngôn ngữ khảo cổ học, nhìn thấy được, sờ mó được, sở hữu được một di sản văn hiến ngàn năm và trên cả ngàn năm của một Thủ đô - Kinh thành - Đất nước.
·         Mấy triệu hiện vật lịch sử tìm thấy - trên một diện tích còn quá nhỏ so với qui mô Hoàng Thành - Kinh Thành Thăng Long - Hà Nội.
·         Nay được phép của Bộ Chính trị cho giới khảo cổ tiếp tục đào tìm trên một diện tích lớn hơn nữa (khoảng trên 20.000m2 nữa), vẫn trong khu vực tây Hoàng Thành thì tôi cả quyết rằng giới khảo cổ - với Viện Khảo cổ là trung tâm - sẽ nhất định tìm thấy nhiều di tích - di vật hiếm quý hơn nữa để góp phần làm sáng tỏ hơn cái sáng giá của nền văn hiến nhiều ngàn năm của đất nước.
Nó sẽ là cái khôn lường nếu ta muốn dùng một khái niệm Phật giáo: Vô lượng và vô biên. Vì như viện sĩ Nga Anutrin đã nói từ lâu, di vật, di tích khảo cổ chỉ không tìm thấy ở nơi nào nhà khảo cổ không chịu đến và không chịu - hay không đủ kinh phí để khai quật.
·         Cái quý nhất, cái quan trọng nhất, phát hiện có ý nghĩa nhất của cuộc khai quật này là các phế tích kiến trúc (cùng với các di vật - hiện vật có liên quan đến các kiến trúc) của các thời, từ Bắc thuộc (Tùy - Đường thế kỷ VII - IX) qua Lý - Trần - Lê, đến Nguyễn.
Khảo cổ học lịch sử việt Nam - nói rộng, và khảo cổ học kiến trúc, nói hẹp, trước - nay mới chỉ khẳng định được kiến trúc cổ truyền Việt là các kiến trúc thuộc “dòng” chịu lực bằng khung gỗ liên kết (chứ không phải bằng tường chịu lực như truyền thống kiến trúc Tây Âu, châu Âu). Xương sống của hệ khung chịu lực ấy là hệ thống cột. Tất cả sức nặng của công trình, của ngôi nhà dồn xuống các cây cột. Và, người Việt đã kê dưới chân các cây cột ấy những tảng đá lớn. Những chân tảng đá ấy vừa chịu lực vừa chống lún, chống nghiêng cho kiến trúc.
Cuộc khai quật này đã tìm thấy những chân tảng bằng đá. Nhưng, ở khu vực này nền đất yếu (vì rất gần sông) nên bên dưới các chân tảng đã được gia cố rất cẩn thận bằng các hố/cột sỏi, được lèn - đầm chặt. Một số chân tảng còn nằm đúng vị trí trên các hố sỏi gia cố. Rất nhiều chân tảng khác đã mất, đã được tận dụng lại ở công trình khác nên chúng ta chỉ còn thấy các “trụ sỏi”. Chỉ biết rằng, quy mô các kiến trúc ở đây là lớn. Hầu như các kiến trúc còn tồn tại trên mặt đất hiện nay không có bước gian, chiều dài, chiều rộng lớn đến như thế.
Do vậy, ta có thể kết luận rằng: Công trình khảo cổ ở khu vực Ba Đình đã thành công rực rỡ, đã lấy ra từ lòng đất các di tích và di vật vô giá.

II. NHẬN ĐỊNH BAN ĐẦU VỀ MỘT SỐ PHẾ TÍCH KIẾN TRÚC

Khu A trong công trường khai quật khu vực xây dựng Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình mới có chiều dài theo hướng Bắc – Nam 140,14m, chiều rộng theo hướng Đông Tây 37,85m, gồm các hố được ký hiệu từ A1 đến A22. Đây là khu vực có nhiều phế tích kiến trúc tiêu biểu đáng cho chúng ta lưu ý.
Một kiến trúc nhiều gian
 
 
Chân tảng đá kê cột đặt trên trụ sỏi ở kiến trúc thời Lý hố A20
Đoạn đuờng lát gạch ở phía Đông khu A 
Chi tiết "trụ móng sỏi" kê chân cột của kiến trúc nhỏ "lầu lục giác"
Giai đoạn đầu, tại các hố A1, A1MR, A2, A2MR, A3, A4, A9, A10, A11, A12, A13 trong các lớp đất ở độ sâu trung bình trên dưới – 1,50m so với “cốt” cao độ của mặt bậc thềm đá Đoan Môn, (được lấy làm “cốt” chuẩn 0.00 cho cả khu vực khai quật) xuất lộ những ô sỏi trộn lẫn đất sét. Sỏi ở đây khá thống nhất về kích thước, chỉ khoảng bằng hoặc to hơn đầu ngón chân cái, chứng tỏ đã được chọn lọc. Hiện vật thu được trong các lớp đất này được xác định có niên đại thời Lý. Các ô sỏi này thường có hình gần vuông, mỗi cạnh khoảng 1,30m và ăn sâu xuống các lớp dưới, dày trên dưới 1,00m. Điều này chứng tỏ đây là các hố đào có chủ đích để đầm - nhồi sỏi cuộn với đất sét. Đáy của các hố sỏi này nằm trong lớp đất chứa các hiện vật được xác định có niên đại Đinh - Tiền Lê.

 
Cửa và hệ thống cống thoát nước phía Đông kiến trúc lớn phía Bắc khu A
 Dấu vết con đường trải sỏi và hệ thống cống thoát nước của cung điện thời Lý - Trần ở hố B5
 Toàn cảnh di tích kiến trúc cung điện khu A1
Các ô sỏi nói trên xuất hiện trong các hố từ A1 đến A18. Tổng cộng có tất cả 40 ô sỏi, xếp thành 04 hàng dọc (hai hàng phía đông có 10 ô trong một hàng, hai hàng phía tây mỗi hàng chỉ có 09 ô). Chúng tôi cho rằng đây chính lá các hố sỏi gia cố dưới các chân tảng đá kê dưới chân các cột. Nói chính xác, theo ngôn ngữ kiến trúc – xây dựng, đó là các móng trụ. Kết quả đo đạc đã giúp khẳng định đây là phế tích của một kiến trúc có bộ khung chịu lực bằng gỗ có 04 hàng chân cột. Khoảng cách giữa các cột Quân với các cột Cái là khoảng 3,00m. Khoảng cách giữa các cột Cái là khoảng 6,00m. Từ Bắc xuống Nam đã xác định được 10 vì, nghĩa là ít nhất kiến trúc này có 09 gian. (Chúng tôi chưa thể khẳng định về số gian bởi dấu vết của kiến trúc này còn phát triển kéo dài về phía Bắc, ngoài khu vực khai quật).
Bước gian (khoảng cách giữa hai vì) của kiến trúc này rất lớn, khoảng 5,80m – 6,00m. Trên thực tế, bước gian của các di tích kiến trúc bằng gỗ cổ truyền hiện còn đứng vững trên mặt đất thường nhỏ hơn. Tuy nhiên, theo PGS. Trần Lâm Biền hai di tích chùa Thầy (Hà Tây) và đền Lê (Thanh Hoá) cũng có bước gian 6,00m.

 
Dấu tích kiến trúc lớn nhiều gian ở Bắc khu A. Hình người đứng giả định cho các cột của kiến trúc
 Toàn cảnh dấu tích kiến trúc thời Lý - Trần - Lê ở hố D2
 
 Chi tiết đoạn cống thoát nước lớn thời Trần ở hố D7
Chưa lý giải được nguyên nhân của sự chênh lệch về số lượng các móng trụ của các hàng móng trụ phía Tây nhưng theo chúng tôi ở đây chắc chắn đã có 04 móng trụ sỏi gia cố cho 01 chân tảng cột Cái và 03 chân tảng cột Quân. Khoảng cách giữa hai hàng móng trụ sỏi cuối cùng chỉ là 4,1m chứng tỏ đây chính là không gian của chái phía Nam.
Cách tim của các móng trụ gia cố chân tảng cột Quân phía Đông khoảng 4,5m và chạy dài suốt chiều rộng của “toà nhà nhiều gian” nói trên còn thấy xuất lộ một cống thoát nước được xây-xếp bằng gạch (hoàn toàn không thấy dấu vết của chất kết dính dạng vôi vữa), lòng cống rộng 0,17m – sâu 0,20m. Ngoài lớp gạch đặt nằm làm đáy, hai bên thành của rãnh thoát nước này được xếp nghiêng hai lớp gạch. Kích thước trung bình của gạch ở đây là 0,36m x 0,20m x 0,05m). Về phía Đông, sát cạnh cống thoát nước này là một thềm gạch rộng 0,76m chạy dọc suốt chiều dài đường cống. Gạch lát thềm là gạch vuông 0,38m x 0,38m x 0,07m. Có chỗ còn lát lẫn cả gạch in hoa.
Cách tim của các móng trụ gia cố chân tảng cột Quân phía tây khoảng 2,5m cũng xuất lộ một cống thoát nước khác. Dấu vết của cống phía tây bị đứt quãng ở góc Tây Nam “toà nhà nhiều gian”, khu vực bị mất 04 móng trụ gia cố chân tảng. Gạch xây-xếp cống thoát nước này là loại chuyên dụng, được sản xuất chỉ để dùng làm cống-rãnh. Các viên dùng lát đáy có mặt cắt hình thang cân (cạnh ngắn 0,16m - cạnh dài 0,22m - dầy 0,08). Những viên dựng hai bên thành có hình bình hành (cạnh ngắn 0,07m, cạnh dài 2,44m). Với hình dáng đặc biệt như vậy nên chỉ cần đào rãnh, đặt các viên gạch chuyên dụng này xuống là thành cống (đáy rộng 0,22m - miệng rộng 0,32m – sâu 0,30m).
Cách tim của các hố sỏi gia cố chân tảng cột Quân phía nam khoảng 4,5m lại cũng xuất lộ một đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên dụng tương tự. Các đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên dụng phía tây và phía nam “toà nhà nhiều gian” nếu còn nguyên vẹn sẽ “bắt” vuông góc chái Tây Nam.
Theo chúng tôi, các đường cống này chính là các rãnh thoát nước mưa của “toà nhà nhiều gian”. Các cống này đều không có nắp để có thể hứng nước mưa rơi thẳng xuống từ hàng ngói lợp cuối cùng của mái (dân gian thường gọi là giọt gianh). Nghĩa là các rãnh thoát nước mưa này chính là giới hạn của mặt bằng mái. Nói cách khác, số đo giữa các rãnh thoát nước này cho biết về chiều rộng và chiều dài của công trình kiến trúc. Khoảng cách từ tim rãnh thoát nước phía Tây đến tim rãnh thoát nước phía Đông là 17,65m. Đó chính là kích thước chiều rộng của “toà nhà nhiều gian” này. Chiều dài của kiến trúc này hiện chưa khẳng định được. Nhưng nếu giả định “toà nhà nhiều gian” có 09 gian thì kích thước này sẽ là khoảng 67m.
Theo số đo, phế tích này cho thấy một công trình kiến trúc to lớn theo đúng nghĩa đen. Tuy nhiên chưa thể xác định công năng của kiến trúc này. Chỉ biết rằng “toà nhà nhiều gian” này chạy dài theo trục Bắc – Nam, mở cửa ra cả hai hướng Đông và Tây.
Các kiến trúc kiểu “ lầu lục giác”
Về phía Tây của ''toà nhà nhiều gian'', cách tim các móng trụ sỏi gia cố hàng chân tảng cột Quân phía tây 4,90m, đã tìm thấy những móng trụ gia cố chân tảng khác. Vật liệu gia cố có phần đa dạng hơn, ngoài sỏi (tương tự như sỏi ở các hố đã nêu trên) còn có cả ngói vỡ vụn, được nhồi đầm theo chu kỳ 1 lớp sỏi lại 1 lớp ngói vụn. Hình dạng của các hố đào cũng khác, có hố tròn (đường kính từ 1,10m đến 1,30m), có hố vuông (1,20m x 1,20m). Bố cục của các móng trụ chân tảng này khá đặc biệt: 06 trụ móng tròn quây quanh một số trụ móng ở chính giữa. Khoảng cách trung bình giữa tim của các móng trụ tròn (làm thành một hình lục giác gần đều) là khoảng 1,30m. Tim móng trụ vuông trùng với tâm của đường tròn ngoại tiếp hình lục giác, cách tim các móng trụ tròn một khoảng 1,30m
Các cụm móng trụ gia cố chân tảng này trải dài suốt mặt phía tây của ''toà nhà nhiều gian''. Khoảng cách giữa các cụm (đếm được tất cả 11 cụm), không thật đều, xê xích từ 8,00m đến 12,00m. Chúng tôi cho rằng một cụm móng trụ gia cố chân tảng như vậy là phế tích của một kiểu ''lầu lục giác'' nhỏ, được dựng nhằm phục vụ nhu cầu thưởng ngoạn.
Theo GS. Trần Quốc Vượng, Việt Sử lược có ghi nhận về loại hình kiến trúc này, gọi là các Trà đình.
Phế tích kiến trúc trong các hố thước phía nam khu A
Chi tiết viên gạch trang trí in hoa mẫu đơn trong đoạn đường lát gạch phía đông khu A
Chi tiết một cửa cống thoát nước phía Đông
 
Trong các hố A19, A20, A20MR và A21 cũng xuất lộ nhiều móng trụ sỏi.
Ngay gần chái phía Nam của ''toà nhà nhiều gian'' thuộc phạm vi hố A19 có một số móng chân tảng nhưng kết quả đo đạc không xác định được thật rõ ràng về kiến trúc từng tồn tại ở đây. Phía Bắc hố A20 xuất lộ hai hàng móng trụ sỏi gia cố, mỗi hàng 05 móng trụ, khoảng cách giữa tim hai hàng là 3,40m. Hiện trạng và số đo cho phép giả định đây là một kiến trúc có hướng chạy dài theo trục Đông - Tây (vuông góc với ''toà nhà nhiều gian''). Số đo bước gian đo được của kiến trúc này theo chiều từ Đông sang Tây là: 3,30m - 5,45m - 5,30m. Các khoảng cách khác chưa khẳng định được vì một số móng trụ sỏi đã bị mất và vì kiến trúc này còn tiếp tục kéo dài về phía Đông, ra ngoài khu vực khai quật. Theo chúng tôi, đây có lẽ là phế tích của một toà nhà có 3 gian hai chái.
Ở phía Nam hố A20 đã xuất lộ một cụm phế tích rõ ràng hơn.
Khác với các phế tích vừa mô tả, cụm phế tích này còn cả chân tảng đá đặt nguyên vị trí (in situ) trên hố gia cố. Thực tế này đã khẳng định chính xác về công năng của các hố sỏi. Hố gia cố chân tảng ở đây hình vuông (1,30m x 1,30m). Vật liệu gia cố hỗn hợp cả sỏi nhỏ, gạch, đá vụn. Tất cả còn 09 chân tảng, xếp hành 04 hàng. Theo trục Đông - Tây, các chân tảng cách đều nhau một khoảng 5,75m.
 
Chi tiết sân gạch nằm giữa hai thềm kiến trúc thời Lý ở hố A20
 Chi tiết gạch lát sân của kiến trúc hố A20
Hệ thống chân tảng đá kê cột của kiến trúc thời Lý ở hố A20
Các chân tảng đều được làm bằng sa thạch (grès) màu xám. Mặt chân tảng chạm cánh sen mang phong cách nghệ thuật Lý. Đường kính trong của vành hoa sen này là 0,49m. Trên mặt nhiều chân tảng còn rất rõ dấu vết cho biết cột gỗ dựng trên đó có đường kính 0,43m. Tuy nhiên ở vị trí sẽ đặt xà ngưỡng, mặt tảng để trơn, không chạm cánh sen. Nối dài hai bên (đông, tây) một số chân tảng cũng còn giữ nguyên một số viên gạch (0,38m x 0,15m x 0,11m) của hàng gạch đỡ dưới xà ngưỡng. Với dấu vết của các xà ngưỡng này, chúng tôi cho rằng đây là hai kiến trúc dạng hành lang, chạy dài theo Đông - Tây. Đặc biệt, cụm phế tích này còn giữ nguyên vẹn một số đoạn thềm hiên lát gạch ở phía ngoài xà ngưỡng, rộng trên dưới 1,00m tính từ tim chân tảng. Thềm gạch này được xây xếp bởi 8 hàng gạch (0,39m x 0,20m x 0,05m) cao hơn mặt sân 0,36m. Sân gạch chạy giữa hai hành lang này được lát gạch vuông (0,38m x 0,38m x 0,06m).
Nhận dạng di tích
Theo các nhận định ban đầu cho rằng các phế tích kiến trúc ở phía Bắc khu A là của một tổ hợp kiến trúc có liên quan mật thiết với nhau, bao gồm: một ''tòa nhà nhiều gian'' có chiều rộng 17,65m, chạy dài ít nhất 09 gian (khoảng 67m) và một dãy các ''lầu lục giác''. Điều đáng quan tâm là sự liên hệ, tiếp nối giữa các kiến trúc này. Hiện trường còn rất rõ một số mảng nền lát gạch vuông (0,38m x 0,38m x 0,08m), nối liền từ mép rãnh thoát nước phía Tây ''tòa nhà nhiều gian'' với các ''lầu lục giác''.

 Đồng thời tại khu vực hố A20 có khá nhiều các di vật lá đề và gốm sứ thời Lý. Các loại gạch có thềm hiên nhà đều còn nguyên vẹn và dáng hình, sắc màu đều giống hệt như các viên gạch xây các tháp Lý vừa dẫn. Từ các dẫn liệu trên đây chúng tôi tin rằng đây là dấu tích kiến trúc của thời Lý. Niên đại này được củng cố khi so sánh mặt bằng của hai kiến trúc này là tương đương với địa tầng chuẩn Lý - Trần ở Đoan Môn đều ở độ sâu khoảng 2m. Khi đó có các móng trụ có niên đại tương đối ta có thể so sánh tìm hiểu niên đại của các móng trụ khác. Ta sẽ thấy, móng trụ sỏi ở ''kiến trúc nhiều gian'', ở ''lầu lục giác'' giống hệt về kỹ thuật, vật liệu, kích thước với các trụ móng sỏi Lý ở khu A20.
Về địa tầng các trụ móng đó cùng độ sâu 1,80m - 2,20m với các kiến trúc ở A20, tức là đều nằm trong khoảng niên đại khoảng thời Lý.
Hơn nữa xét về mặt kỹ thuật xây dựng, các móng trụ ở đây cũng đều thuộc kỹ thuật của thời Lý và thời Trần. Trong thời Lý, kỹ thuật gia cố sỏi đặc biệt thấy rõ ở chùa Lạng (Hưng Yên), tháp Chương Sơn (Nam Định), tháp Phổ Minh (Nam Định).
Các trụ móng sỏi ở thời Lý thường được gia cố rất chặt chẽ. Điều này khác với các trụ móng sỏi thời muộn hơn (có thể là thời Lê), có gia cố sỏi nhưng sơ sài hơn rất nhiều và ở độ sâu cao hơn. Nói cách khác các trụ móng sỏi Lê nằm ở mặt bằng cao hơn mặt bằng Lý - Trần.
Hơn nữa, như đã nói trên, phủ trên mặt bằng của khu vực của các trụ móng thời Lý là một lớp di vật có niên đại Lý nên có thế tin rằng hầu hết các trụ móng ở đây đều thuộc thời Lý.
Điều này còn được khẳng định thêm khi phát hiện một hồ nước cổ hình chữ nhật phía Nam khu ''kiến trúc nhiều gian'' bị lấp đầy vật liệu Lý, Trần. Điều này chứng tỏ hồ nước này đã bị lấp trong thời Trần. Hồ nước này đã phá vào móng kiến trúc ''lầu lục giác'' và một phần móng trụ của 'kiến trúc nhiều gian''. Chúng tôi cho rằng hồ này được đào vào đầu thời Trần và bỏ đi vào khoảng cuối thời Trần. Do đó ta cũng thấy các trụ móng sỏi đã xuất lộ ở cùng mặt bằng đều thuộc thời Lý.
Kiến trúc cổ truyền Việt là các công trình có hệ chịu lực bằng khung gỗ, với cấu kiện cơ bản là hệ thống cột. Vì vậy, người Việt chỉ chú trọng gia cố nền mà không cần đến móng. Sức nặng của công trình được phân tán qua hệ cột nên chân các cột đá được gia cố bằng các chân tảng đá có kích thước lớn gấp nhiều lần đường kính cột.
Hiện trạng khảo cổ học (tầng văn hoá, hiện vật) và kết quả khảo sát địa chất khu vực này cho phép khẳng định có một dòng chảy cổ (theo hướng Bắc - Nam) ở phía Tây các phế tích nói trên. Nền đất tự nhiên chịu tải kém nên các công trình kiến trúc ở đây đều có hệ thống hố gia cố chân tảng. Đây là một thành tựu, một tiến bộ kỹ thuật của người Việt trong xây dựng. Với khảo cổ học kiến trúc (hay khảo cổ học đô thị), các phế tích nói trên còn cung cấp những hiểu biết mới, có tính chất lý thuyết về việc gia cố chân tảng, về cách thức xác định kích thước - quy mô của một kiến trúc qua các dấu vết của phế tích. Kỹ thuật này đã được thấy ở cố đô Hoa Lư thời Đinh - Lê. Ở kỹ thuật xây trụ móng được thực hiện bằng các móng bè bằng gỗ lim cao 5 lớp kết hợp với lớp móng trụ đá ở bên trên. Đến thời Lý và thời Trần, kỹ thuật này bây giờ xử lý hoàn toàn bằng sỏi và gạch vụn, sành vụn. Móng trụ bằng sỏi thời Lý và thời Trần có quy mô và chắc chắn nhất trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.
Các phế tích kiến trúc ở khu A còn cần được nghiên cứu kỹ hơn. Kiến giải của chúng tôi về một số phế tích chỉ là những nhận định ban đầu. Tuy chưa thể khẳng định về quy mô và công năng của tất cả các công trình nhưng rõ ràng các phế tích này cho thấy một quần thể kiến trúc toà ngang dãy dọc khá phong phú. Dung mạo của một bộ phận Hoàng Thành Thăng Long xưa đã hiển hiện qua dấu vết vật chất chứ không chỉ là hình ảnh của sách vở, chữ nghĩa.
Cùng những phát hiện quan trọng về các dấu tích kiến trúc, một số lượng lớn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong Hoàng cung qua nhiều thời kỳ cũng được tìm thấy. Những khám phá này đã thực sự mở ra một cánh cửa mới cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua các triều đại.

  Đồ gốm trong Hoàng thành Thăng Long - Gốm thời Trần

 
 
 
 
Liễn gốm men xanh ngọc, thời Trần. Cao 24cm; ĐKM 23cm
 
Tước gốm men nâu, thời Trần cao 10cm
Gốm thời Trần tìm được khá nhiều trong các hố khai quật và thường được tìm thấy cùng với những đồ gốm trang trí kiến trúc cùng thời. Gốm thời kỳ này có rất nhiều loại, gồm các dòng gốm: men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam.
 
Chậu hoa nâu trang trí văn cành lá, thời Trần. Cao 10,5cm; ĐKM 23,3cm
 
Thạp gốm hoa nâu lớn trang trí văn hoa sen, thời Trần, cao 65cm
Do phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và hoa văn trang trí. Cũng chính vì đặc thù này nên việc phân tách giữa gốm thời Lý và gốm thời Trần là điều không phải dễ dàng. Tuy nhiên, dựa vào một số kết quả nghiên cứu kỹ thuật tạo chân đế, hiện nay chúng tôi bước đầu đã có thể phân biệt được sự khác nhau giữa gốm Lý và gốm Trần. Nhìn chung, kỹ thuật tạo chân đế của gốm thời Trần thường không được làm kỹ như gốm thời Lý. Về hoa văn trang trí cũng vậy, mặc dù có cách bố cục hoa văn như thời Lý, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ như gốm thời Lý. Đặc biệt đối với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn khắc chìm, thời Trần còn phổ biến loại gốm có hoa văn in khuôn trong. Dường như đây là loại hoa văn rất phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về hình mẫu so với gốm thời Lý. Tại hố đào ở khu D cũng đã tìm thấy mảnh khuôn in gốm thời kỳ này cùng nhiều mảnh bao nung, con kê và đồ gốm phế thải.
 
Chậu hoa nâu trang trí chim và hoa sen, thời Trần. Cao 14,5cm; ĐKM 35m
 
Đĩa đài lớn men xanh ngọc nhạt, thời Trần. Cao 14cm; ĐKM 40cm.
Bên cạnh sự phong phú các loại hình đồ gốm độc sắc (men trắng, men ngọc, men nâu) tại khu vực khai quật đã tìm được khá nhiều đồ gốm hoa nâu có chất lượng cao. Trong đó, đáng chú ý nhất là chiếc thạp lớn có nắp trang trí hoa sen và những chiếc vò, chậu trang trí hoa văn dây lá. Đặc biệt, tại hố D5 còn tìm thấy một chiếc chậu trang trí hình bốn con chim đang đi kiếm mồi trong bốn tư thế khác nhau, xen giữa là cành lá sen và hoa sen nhỏ. Theo tư liệu hiện vật có trong tay thì đây là một trong những tiêu bản gốm hoa nâu thời Trần đặc sắc ở Việt Nam.
 
Những mảnh đáy bát đĩa vẽ cành hoa cúc bằng màu xanh coba It, thời Trần
 
Chồng đĩa lớn vẽ cành hoa cúc màu nâu sắt, thời Trần
Nét mới riêng biệt và rất đáng lưu ý về gốm thời Trần là sự xuất hiện dòng gốm hoa lam. Loại gốm này được tìm thấy khá nhièu trong các hố khai quật và phổ biến là bát, đĩa vẽ cành hoa cúc màu nâu sắt và xanh cobalt giống như những đồ gốm đã được xuất khẩu sang Đông Nam Á, Trung Đông và Nhật Bản vào khoảng giữa thế kỷ XIV. Đáng lưu ý là tại các hố ở khu D đã tìm thấy chồng đĩa lớn vẽ cành hoa cúc cùng nhiều chồng dính của loại gốm men độc sắc trang trí văn mây hình khánh, chim phượng và hoa lá. Tư liệu này góp phần khẳng định thêm rằng, ngoài những dấu hiệu vè lò gốm thời Lý nói trên khả năng ở đây còn có những lò gốm thời Trần.

Đồ gốm trong Hoàng thành Thăng Long - Gốm thời Lê

 

Cùng những phát hiện quan trọng về các dấu tích kiến trúc, một số lượng lớn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong Hoàng cung qua nhiều thời kỳ cũng được tìm thấy. Những khám phá này đã thực sự mở ra một cánh cửa mới cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua các triều đại.
Đồ gốm sứ thời Lê tìm được tại các hố khai quật có số lượng lớn, nhưng tập trung nhiều nhất là ở khu vực ven triền sông cổ nằm giữa Khu A và B.
Để nhận diện về chất lượng gốm dùng trong Hoàng thành, tôi phân định gốm thời Lê theo ba thời kỳ: Gốm thời Lê Sơ (thế kỷ XV), Gốm thời Lê-Mạc (thế kỷ XVI) và Gốm thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII - XVIII). Nhìn chung, gốm thời Lê - Mạc và Lê Trung Hưng có chất lượng thấp, hoa văn trang trí đơn giản và phát triển mạnh theo xu hướng dân gian. Những sưu tập đồ gốm tìm được từ các hố khai quật phần nhiều là sản phẩm của các lò gốm vùng Hải Dương và Bát Tràng. Tình hình này có sự khác biệt lớn so với gốm thời Lê Sơ.
Đĩa hoa lam lớn vẽ rồng và mây thời Lê Sơ Tk 15. ĐKM 37,7cm
Bát nhỏ trang trí văn in bông hoa cúc. Gốm Hải Dương thời Lê, TK 17. Cao 5,2cm; ĐKM 14,4cm
Hình này cho thấy độ mỏng (thấu quang)
 
Gốm thời Lê Sơ có bước phát triển đột biến với sự bùng nổ các trung tâm sản xuất gốm lớn, nhất là vùng Hải Dương. Thời kỳ này gốm hoa lam, gốm men trắng và gốm vẽ nhiều màu đạt đến đỉnh cao của sự tinh mỹ. Bằng chứng từ những phát hiện trên các con tàu đắm ở Hội An (Quảng Nam), Pandanan (Philippin)... cho thấy những đồ gốm này đã từng là mặt hàng chủ đạo trong việc xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Trong công trình nghiên cứu trước, khi bàn về gốm ngoại thương Việt Nam, tôi đã đưa ra nhận xét rằng: nhiều đồ gốm cao cấp trong lô hàng trên con tàu đắm Hội An có những sản phẩm của lò gốm Thăng Long. Nhận xét này nay đã có đủ cơ sở khi tại dải gốm ven sông Khu A chúng tôi tìm thấy nhiều loại gốm hoa lam cao cấp, có hình dáng và hoa văn tương tự như những đồ gốm trên tàu đắm Hội An, ví dụ như loại bát vẽ rồng 4 móng, dưới đáy khắc chữ Trù (bếp), giữa lòng viết chữ Kính hay loại đĩa lớn vẽ rồng có bút pháp tinh tế như trên bản đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Phát hiện có ý nghĩa này cho phép một lần nữa khẳng định về sự góp mặt quan trọng của gốm Thăng Long trong mối giao lưu kinh tế, văn hoá với quốc tế trong lịch sử.

Bát hoa lam vẽ cành lá, thời Lê Sơ, Tk 16. Cao 6,5cm; ĐKM 12,7cm

 
Bát sứ trắng mỏng trang trí in nổi hình rồng có chân 5 móng, lòng in chữ Quan. Đồ ngự dụng, thời Lê Sơ TK 15. Cao 6,5cm; ĐKM 12,5cm
Điếu bát vẽ lam. Gốm Hải Dương thời Lê, Tk 17 - 18, cao 9,0cm 
 
Một phát hiện khác đem lại sự cảm phục của giới chuyên môn và những người say mê cổ ngoạn là loại gốm trắng mỏng trang trí in nổi hình rồng có chân 5 móng (cũng có loại rồng có 4 móng), giữa lòng ghi chữ Quan hay chữ Kính. Nghiên cứu so sánh với gốm Hải Dương, tôi cho rằng đây là những sản phẩm của lò quan Thăng Long.

Nhóm bình, lọ men trắng thời Lê Sơ, TK 15
Nhóm đồ sứ hoa lam cao cấp trang trí rồng, phượng. Đồ ngự dụng, thời Lê Sơ TK 15
Cách đây vài năm trước, tại di chỉ gốm Ngói, Chu Đậu (Hải Dương) và Kim Lan (Gia Lâm) tôi đã tìm thấy bằng chứng sản xuất gốm của lò quan ở đây. Sản phẩm chính của những lò quan này được khẳng định rõ qua những đồ gốm sứ men trắng, trang trí in khuôn văn sóng nước hình vảy cá, giữa lòng in nổi chữ Quan như gốm Thăng Long. Nhưng so với gốm Thăng Long thì gốm lò quan Hải Dương có xương gốm dày, nặng và độ trắng của xương và men kém hơn gốm Thăng Long. Gốm Thăng Long cũng có loại xương gốm mỏng và loại xương gốm dày, nhưng về cơ bản xương gốm Thăng Long có chất lượng tốt hơn gốm Hải Dương. Gốm trắng mỏng Thăng Long chủ yếu là các loại bát, đĩa cỡ nhỏ, có xương mỏng như vỏ trứng (dạng sứ thấu quang), thành trong in nổi hình hai con rồng chân có 5 móng, giữa lòng in chữ Quan. Loại gốm trắng mỏng này chưa từng tìm được ở đâu ngoài khu lăng mộ vua nhà Lê ở Lam Kinh (Thanh Hoá). Đặc điểm đáng lưu ý về loại gốm mỏng này là được nung đơn chiếc và men thường phủ kín đáy và mép vành chân đế. Chân đế được tạo rất mỏng và mép vành chân vê tròn chứ không cắt vát và cạo men ở mép vành chân như gốm Hải Dương. Đây là đặc điểm kỹ thuật rất khác biệt giữa gốm Thăng Long và gốm Hải Dương hay gốm Kim Lan. Bên cạnh loại gốm trang trí rồng, ở Thăng Long còn có loại gốm trắng trang trí văn in hoa cúc dây, giữa lòng cũng in nổi hay viết chữ Quan, nhưng phổ biến hơn là in hình một bông hoa nhỏ có 5 hoặc 6 cánh. Tại hố A10 cũng tìm được một khuôn in loại hoa văn này với đường nét tinh xảo.
Lư hương  men trắng có 3 chân, thân trang trí nổi quẻ "bát quái". Thời Lê Sơ, TK 15, cao 19,5; Đkm 25,5
Bát hoa lam cao cấp vẽ rồng có chân 5 móng. Đồ ngự dụng thời Lê Sơ, Tk 15, cao 9,5cm; Đkm 16,1cm
Mảnh bát, đĩa vẽ rồng, phượng. Đồ ngự dụng thời Lê Sơ, TK 15
Ngoài ra, loại gốm men trắng vẽ chỉ lam cũng tìm được khá nhiều, nhưng ở loại cao cấp giữa lòng thường viết chữ Quan bằng màu xanh cobalt. Trong số lượng phong phú các loại bình, vò men trắng tìm thấy trong dải gốm ven sông Khu A cũng có khá nhiều tiêu bản dưới đáy viết chữ Quan bằng màu son nâu. Chữ Quan ở đây được hiểu theo hai nghĩa: quan diêu (sản phẩm của lò quan) và quan dụng (đồ dùng dành cho vua quan).
Cùng với chữ Quan, sự tinh mỹ đến mức ngạc nhiên của loại sứ trắng mỏng và gốm hoa lam cao cấp được trang trí các đồ án mang tính biểu trưng của vương quyền (rồng có chân 5 móng và hình chim phượng) cho thấy rõ đây là những đồ ngự dụng trong Hoàng cung.
Nhận định trên được củng cố thêm khi ở đây khi tìm thấy nhiều đồ gốm sứ có ghi chữ Hán ''Trường Lạc'' hay ''Trường Lạc khó''. Theo ghi chép của sử cũ thì Trường Lạc là cung của bà Trường Lạc Thánh Từ Hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng vợ của vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Như vậy những đồ sứ này được hiểu đó là những vật dụng của cung Trường Lạc.
Bên cạnh số lượng lớn và đa dạng các loại hình đồ gốm nói trên, tại khu vực khai quật còn tìm được một sưu tập phong phú các loại đĩa đèn dầu lạc nhỏ men trắng và các loại bình vôi còn khá nguyên vẹn. Trong sưu tập bình vôi có khá nhiều tiêu bản đẹp, phần quai tạo hình tua cau và những quả cau nhỏ đã được dùng đựng vôi để ăn trầu.
Cùng với loại hình bình vôi, ở dải gốm ven sông còn tìm thấy những chiếc bình đựng bã trầu bằng gốm men (hay còn gọi là ống nhổ) và một số chuôi dao cau làm bằng nanh, vuốt thú hay bằng loại gỗ quý. Xung quanh một số chuôi dao còn được bọc kim loại màu vàng và bên trên được chạm khắc hoa văn rất đẹp. Nhóm di vật này có niên đại vào khoảng thời Trần và thời Lê. Những tư liệu này là bằng chứng thuyết phục cho ta biết rằng, trong Hoàng cung xưa, tục ăn trầu cũng rất phổ biến.
Rõ ràng, những khám phá của khảo cổ học về Hoàng thành Thăng Long đã mở ra một chương mới rất quan trọng cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long. Những đồ gốm tìm được ở đây phần lớn là những vật dụng dùng trong Hoàng cung.
Bên cạnh những loại hình đồ gốm ngoại nhập, bằng chứng về việc sản xuất tại chỗ của những đồ gốm sứ cao cấp thời Lý, Trần, Lê cũng đã có nhiều cơ sở khẳng định. Dựa vào những đồ gốm phế thải và các công cụ sản xuất, tôi nghĩ rằng ngay từ thời Lý, Thăng Long đã có lò quan chuyên sản xuất gốm sứ cung đình. Những lò gốm ấy tiếp tục hoạt động kéo dài cho đến thời Lê và sản xuất nhiều loại hình đồ gốm sứ cao cấp.
Nhóm bình vôi men trắng thời Trần và  thời Lê Sơ
Nhóm đĩa đèn dầu lạc thời Trần và thời Lê
Bằng chứng là những đồ gốm sứ thời Lê Sơ trang trí rồng 5 móng, lòng ghi chữ Quan hay chữ Kính. Như vậy có thể tạm kết luận rằng: việc tìm thấy những đồ ngự dụng trong khu vực khai quật không những cung cấp nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long, mà còn góp thêm bằng chứng tin cậy để củng cố ý kiến cho rằng: các dấu tích kiến trúc lớn ở đây là những cung, điện của trung tâm Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê.

HOÀNG THÀNH THĂNG LONG - GÓC NHÌN NGƯỜI TRONG CUỘC

 
    Cấm Thành trước những lựa chọn mang tính lịch sử
 
Nếu quyết định xây trong khu Cấm Thành, thì đó là quyết định sai lầm mang tính lịch sử, không cách nào chữa được. Trong phạm vi Cấm Thành thì dù xây ở đâu thì khi đào lên cũng sẽ lại thấy dày đặc di tích và khi đó theo Luật Di sản, chúng ta phải ngưng lại.  
Sau khi Bộ Quốc phòng chính thức bàn giao 9.395 mét vuông thuộc khu di tích Thành cổ Hà Nội (phần diện tích thuộc Cục Nhà trường và Trung tâm Thông tin D75 trước đây) cho thành phố Hà Nội, Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội ngay lập tức lên kế hoạch phá dỡ 58 công trình kiến trúc mới không có giá trị để trả lại không gian kiến trúc cổ cho trục Thần đạo: Bắc Môn - Hậu Lâu - Kính Thiên- Đoan Môn.
Ông Trần Quang Dũng, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội thông báo: Chúng tôi đã kết hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành lập hồ sơ công nhận Hoàng thành Thăng Long là Di tích đặc biệt cấp quốc gia và sẽ phát triển hồ sơ này thành hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di tích này là Di sản văn hóa thế giới. 

Đường viền đỏ là giới hạn của Cấm Thành Thăng Long. Khu vực nằm trong hình vuông viền xanh là số 18 Hoàng Diệu, chỉ cách trục Thần Đạo 87m - Ảnh chụp từ cuốn Hoàng Thành Thăng Long - Quà tặng các đại biểu quốc tế dự APEC 2006.
Trục trung tâm của Cấm Thành: Bắc Môn - Hậu Lâu- Kính Thiên- Đoan Môn- Cột cờ.Đường viền đỏ là phạm vi trung tâm của Cấm Thành còn sót lại.
 Như vậy là khu Thành cổ với trục Thần đạo (trục chính của Cấm Thành) đã thông suốt. Những công trình kiến trúc nổi hiếm hoi như Bắc Môn, Hậu Lâu, điện Kính Thiên, Đoan Môn...dù chúng ta cố gắng gìn giữ thì cũng chưa đủ sức thuyết phục cho sự tồn tại của một kinh thành cổ tồn tại qua 1000 năm với các lớp văn hóa rực rỡ kế tiếp nhau. Việc phát lộ những dấu vết kiến trúc thuộc trung tâm Cấm Thành, khu 18 Hoàng Diệu, đã bổ sung hoàn hảo cho sự khuyết thiếu này.
Nếu coi đường Hoàng Diệu như gáy một cuốn quốc sử thì trục Thần đạo với các công trình kiến trúc nổi giống như trang bìa cứng bằng vàng còn khu 18 Hoàng Diệu như những trang sách được mở ra với rất nhiều thông tin chính xác, đặc biệt quan trọng mà chúng ta chưa đủ sức hiểu ngay hết giá trị của chúng.
Ý thức rõ giá trị của cả Di tích Thành cổ Hà Nội, đặc biệt là khu 18 Hoàng Diệu, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã gửi kiến nghị số 52/HSH tới các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước về ý định xây Nhà Quốc hội mới trên di tich đặc biệt quý hiếm này, trong đó có đoạn:
"Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân và đại biểu quốc hội là những người đại diện cho quyền lợi, ý chí và nguyện vọng của nhân dân, hoàn toàn không nên xây dựng Nhà Quốc hội trên khu di tích mang ý nghĩa thiêng liêng mà kiến trúc hiện đại chắc chắn sẽ phá vỡ không gian văn hoá-lịch sử và dù thu hẹp đến đâu cũng xâm hại một di sản văn hoá vô giá của dân tộc được các tầng lớp nhân dân rất quan tâm và mong muốn được bảo tồn toàn bộ. Chúng tôi tin rằng các đại biểu Quốc hội ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mình, sẽ có quyết định sáng suốt, hợp lòng dân."
 
GS sử học Đinh Xuân Lâm- Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam:

Lâu nay tôi cứ đinh ninh đã có quyết định chính thức sẽ xây nhà Quốc hội ở ngoài khu vực Cấm Thành, còn vấn đề tranh cãi của di tích 18 Hoàng Diệu chỉ là cách thức bảo tồn, giữ gìn cho tốt nhất để có thể nghiên cứu dần dần. Bây giờ lại có ý kiến muốn xây nhà Quốc hội trong Cấm Thành, khiến những người làm sử chúng tôi quá băn khoăn, lo lắng. Dù với lý do tâm linh thì không phải chỉ trong Cấm Thành mới là đất thiêng, ngày xưa xây Lăng Bác chúng ta cũng không chọn vị trí ở trong phạm vi Cấm Thành.
 
Nếu xây Nhà Quốc hội mới trong Cấm Thành, kể cả có giữ lại khu A, B thì với một công trường lớn cả ngàn người, với những kỹ thuật xây dựng hiện đại thì di sản Cấm Thành- vốn mong manh, còn nguyên vẹn là do được bảo vệ dưới lòng đất- sẽ bị phá hủy. Nghĩa là ta tàn phá một di sản quý giá độc nhất vô nhị của dân tộc Việt Nam.
Di tích này đã nhận được sự đánh giá rất cao của giới khoa học quốc tế. Các chuyên gia Nhật Bản khi so sánh với di sản thế giới, cố đô Nara của họ, cũng cho rằng Hoàng Thành của ta có nhiều giá trị hơn. Chính các chuyên gia quốc tế hiểu được chân giá trị của Hoàng Thành và chủ động gợi ý ta làm hồ sơ để được công nhận di sản thế giới, đây là chuyện xưa nay hiếm. Trong khi đó ta lại quá chần chừ, để di tích dãi dầu sương gió nhiều, mãi gần đây mới có mái che bảo vệ. Vậy là ta chưa có sự trân trọng đúng mức với di tích. Với một gia tài quý giá như thế- nằm ở trung tâm của Cấm thành, chỉ cách điện Kính Thiên có 87m, đòi hỏi sự nghiên cứu sâu để hiểu hết những giá trị đích thực.
Chọn xây nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu thì sẽ rất hạn chế về quy mô, lại nằm trong một không gian chật hẹp. Quan trọng hơn là chúng ta sẽ hủy hoại di sản quý giá, làm mất hoàn toàn khả năng có một di sản văn hóa thế giới, điều này sẽ khiến giới khoa học quốc tế rất bất ngờ. Nếu quyết định xây trong khu Cấm Thành, tôi cho đó là quyết định sai lầm mang tính lịch sử, không cách nào chữa được. Trong phạm vi Cấm Thành thì dù xây ở đâu thì khi đào lên cũng sẽ lại thấy dày đặc di tích tầng tầng lớp lớp mà thôi và khi đó theo Luật Di sản, chúng ta phải ngưng lại.  
Chúng ta xây Trung tâm Hội nghị quốc tế ở Mỹ Đình đã có được quy mô và vị trí xứng đáng, được các đại biểu quốc tế về dự APEC 2006 đánh giá rất cao. Còn nếu muốn ở trong khu chính trị Ba Đình thì vị trí cuối đường Hùng Vương (chỗ cắt đường Trần Phú) vẫn nằm trong Hoàng Thành nhưng ở ngoài Cấm Thành, lại sẽ rất cân đối, hài hòa trong cả quần thể với trục chính: Lăng Bác Hồ, tượng đài liệt sỹ Bắc Sơn và di tích Cấm Thành - Thành cổ Hà Nội sau này sẽ quy hoạch thành công viên lịch sử văn hóa).  

PGS.TS. Hà Văn Phùng - Quyền Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam:

 Vấn đề bức xúc đặt ra vẫn là chuyện giải phóng mặt bằng cho Cấm Thành. Lúc khai quật khu 18 Hoàng Diệu tôi có được sang Ý để học hỏi kinh nghiệm bảo tồn di sản. Nghe tôi trình bày Cấm Thành có sự bổ sung hoàn hảo giữa khu Thành cổ Hà Nội (phần kiến trúc nổi) và khu 18 Hoàng Diệu (phần kiến trúc chìm khuất), họ đã nói ngay: "Tình hình ở Việt Nam bây giờ cũng giống như nước Ý sau chiến tranh, chưa đủ ăn, đủ mặc nên có một vật đó gì đèm đẹp thì nghĩ ngay đến việc bán nó đi để giải quyết lúc đói. Lúc đã khấm khá, đã no đủ nếu muốn có lại cái vật kia thì đã muộn, nó mất rồi còn đâu?".
 Tôi cũng đã đi nhiều, nhiều nước như Ba Lan, Liên Xô, Ý, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… rõ ràng mỗi di tích của họ rất được trân trọng. Di chỉ, di vật được coi như bảo vật của quốc gia nên người ta bảo vệ và làm rất chu đáo. Ví dụ như Thành Rome, đấu trường La Mã,….
Đó là một bài học nhãn tiền! Nếu chúng ta xây Nhà Quốc hội mới lên trên khu di tích 18 Hoàng Diệu thì có thể được một công trình kiến trúc hiện đại nhưng sẽ mất đi vĩnh viễn một di sản đặc biệt quý hiếm của cả Việt Nam và thế giới. Những công trình xây dựng rồi cũng sẽ đến lúc lạc hậu. Đôi khi chưa chắc ta đã xây đẹp bằng những nước khác hoặc ở một vị trí khác.
Chúng ta mới mở một góc Thành cổ Hà Nội, dẫu chỉ còn một góc ở đường Nguyễn Tri Phương, dẫu chỉ còn hai con rồng đá ở điện Kính Thiên mà người dân cả nước và khách quốc tế đã nô nức kéo đến chiêm ngưỡng. Nếu quy hoạch cả khu Thành cổ Hà Nội và khu 18 Hoàng Diệu thành một quần thể lịch sử - văn hóa thì sức thu hút còn mạnh đến đâu.
Quan điểm của tôi là: Giữ và giữ đến cùng.

GS - TSKH Vũ Minh Giang - PGĐ. Đại học Quốc gia HN, nguyên Chủ nhiệm Khoa lịch sử - ĐHKHXH&NV Hà Nội:
thành hoàng Thăng Long
Mọi quyết định liên quan đến Cấm Thành đều có tính lịch sử và đòi hỏi tầm văn hoá rất cao, bởi nếu sai lầm sẽ không có hy vọng sửa chữa. Nếu chúng ta không thực sự biểu thị thái độ trân trọng đúng mức với di tích, làm phương hại đến tính nguyên gốc và toàn vẹn của di tích thì khả năng di tích được công nhận là di sản văn hoá thế giới đã nằm trong tầm tay có nguy cơ tuột mất.
Để hiểu hơn giá trị di tích Hoàng thành Thăng Long, có thể xem di tích kinh đô Nara của Nhật Bản, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, như một kinh nghiệm quý báu. Nara chỉ là kinh đô của Nhật Bản trong 74 năm (từ năm 710 đến 784), trong khi đó Thăng Long là kinh đô Đại Việt tới gần 1000 năm. Trên thế giới không có nhiều thủ đô có lịch sử lâu đời như vậy.
Những gì người Nhật tìm thấy ở Nara cũng chỉ là dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc, những cung điện đã biến mất. Thấy người Nhật và khách quốc tế nườm nượp xếp hàng vào thăm quan các nền cung điện với những lỗ chôn cột (chứ đâu có được tảng đá kê chân cột như ta) mới hiểu vì sao người ta đánh giá cao di tích Thăng Long của ta. Cung điện được xem là lớn nhất của họ có 18 hố chôn cột, trong khi đó dấu tích cung điện của ta có tới trên 40 tảng kê chân cột, nghĩa là quy mô to hơn rất nhiều. Hệ thống thoát nước của họ là những ống nối với nhau, còn ta đã xây cống, xây kè, trổ ngang, tầng trên tầng dưới, thể hiện trình độ rất cao.
Phần lớn những gì còn lại của Nara chỉ là phế tích, còn khi khách đi thăm, các chuyên gia sẽ thuyết minh, sẽ giúp cho họ tưởng tượng lại về thế hệ cha ông hơn 1000 năm về trước. Với những dấu tích chỉ còn lại vài bậc thềm, cả những vết gạch xô vẹo, họ cũng phác dựng lại mô hình các công trình kiến trúc mà các thế hệ con cháu có thể tìm cách phục dựng. Cũng phải nhắc lại người Nhật cũng đã từng phát hiện di tích Nara một cách tình cờ khi triển khai một công trình xây dựng. Khi đó vì khả năng tài chính và trình độ khoa học còn hạn chế, nhưng người Nhật hiểu được giá trị của di tích nên họ đã lấp lại để đến khi có điều kiện họ mới khai quật trở lại và giờ đây đã trở thành một di sản văn hoá thế giới nổi tiếng.
Nếu xây một công trình hiện đại ở di tích 18 Hoàng Diệu, cái được sẽ chỉ là vị trí của tòa nhà, chỉ thế thôi. Trong khi đó cái mất sẽ rất nhiều. Chiều cao, quy mô chắc chắn bị khống chế. Và quan trọng hơn cả là việc xây dựng sẽ xung đột với di tích. Quá trình thi công chắc chắn sẽ rất phức tạp, không ai dám chắc là di tích sẽ không bị xâm hại. Chắc gì trong qua trình đào móng sẽ không vướng di tích ở những vùng ta chưa động đến trước đây? Và nếu gặp di tích thi theo Luật di sản, việc xây dựng sẽ phải dừng lại.

 Bản đồ Cấm Thành qua sử liệu và dấu vết thực địa

Theo kết quả đã giám định thì khu khai quật 18 Hoàng Diệu chắc chắn nằm trong Cấm Thành, thậm chí nó chỉ cách điện Kính Thiên, trung tâm của Cấm Thành, đúng 87m! 

Sử liệu cũng như dấu vết thực địa phát lộ qua các cuộc đào thám sát khu Cột cờ, Đoan Môn; đặc biệt là cuộc khai quật khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu đã cho phép chúng ta xác định rõ vị trí Cấm Thành- khu trung tâm của Hoàng thành Thăng Long.
Về kiến trúc Cấm Thành, theo sử liệu cũng như các dấu vết tại thực địa cho thấy:
Thứ nhất, trung tâm của Cấm Thành là điện Kính Thiên thời Lê sơ; xưa là điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lý, Trần. Đó cung điện quan trọng bậc nhất, nơi tiến hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự. Nền điện Kính Thiên bây giờ còn đó với bậc thềm và lan can đá chạm rồng mang đặc trưng nghệ thuật trang trí thế kỷ XV.
Thứ hai là Đoan Môn, cửa Nam của Cấm Thành. Tài liệu sử sách cho biết  vị trí của Đoan Môn cũng không thay đổi qua các triều đại. Vừa rồi khảo cổ đã đào thám sát và xác định chắc chắn Đoan Môn còn lại hiện nay được xây dựng từ thời Lê, đến thời Nguyễn có sửa sang lại. Dưới chân Đoan Môn đã phát hiện dấu tích kiến trúc của thời Lý, Trần. Đoan Môn phải hiểu là cửa Nam phía trong trong cùng của Cấm Thành, bởi theo Phan Huy Chú và Nguyễn Văn Siêu thì phía nam Cấm Thành có ba lần cửa, nhìn trên bản đồ Hồng Đức cũng thấy điều đó. Theo một số tài liệu đời Nguyễn thì Cột cờ được xây dựng trên nền cửa Tam Môn là cửa Nam ngoài cùng của Cấm Thành.
Như vậy là Kính Thiên – Đoan Môn – Cột Cờ/Tam Môn là trục trung tâm của Cấm Thành.
Thứ ba là chùa Một Cột. Theo văn bia Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đọi, Duy Tiên, Hà Nam) do Nguyễn Công Bật soạn năm 1121 thời Lý thì chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột dựng ở phía tây Cấm thành. Vậy tường thành phía tây của Cấm thành không thể quá vị trí chùa Một Cột. Theo bản đồ Hồng Đức và nhiều tài liệu địa lý, lịch sử thì ở phía Tây Bắc của Cấm Thành có cửa Tây (Tây Môn) và phía ngoài có núi Khán Sơn và chùa Khán Sơn là nơi vua Lê Thánh Tông lên duyệt binh. Đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng lại thành Thăng Long, từ năm 1831 đổi tên là thành Hà Nội, thì Khán Sơn nằm bên trong, ở về phía Tây Bắc của thành Hà Nội, nghĩa là nằm ở khoảng cuối Hùng Vương gần Phan Đình Phùng, trước mặt Chủ tịch phủ và Thủ tướng phủ hiện nay. Từ đó, có thể phỏng đoán tường thành phía tây Cấm Thành ở vào khoảng đường Độc Lập đến giữa Quảng trường Ba Đình.
Vậy là ta đã xác định được vị trí trung tâm, trục trung tâm cùng giới hạn phía nam và phía tây của Cấm Thành.
Theo bản đồ Hồng Đức, Cấm Thành có hình chữ nhật, nhưng Đông cung và Thái miếu ở phía đông - theo Nguyễn Văn Siêu - dù nằm trong tường thành bảo vệ nhưng vẫn không được coi là trong Cấm Thành. Như vậy, Cấm Thành gần như hình vuông. Điều này cũng rất phù hợp với việc nhà Nguyễn xây dựng thành Hà Nội  trên cơ sở mở rộng Cấm Thành. Trong chỉ dụ của vua Gia Long có nói thành Thăng Long (Cấm thành) chật hẹp, cho nên phải mở rộng thêm. Thành Hà Nội của nhà Nguyễn vì thế rộng hơn Cấm Thành, nhưng nhỏ hơn Hoàng thành.
Theo kết quả xác định trên thì khu khai quật chắc chắn nằm trong Cấm Thành và chỉ cách điện Kính Thiên chưa đầy 100 m tức gần vùng trung tâm của Cấm Thành. Trong lịch sử thành Thăng Long, La thành (hay Đại La thành), Hoàng Thành trải qua khá nhiều thay đổi, nhưng trung tâm của Hoàng thành, đặc biệt là vị trí, qui mô của Cấm Thành (còn gọi là Cung thành) thì gần như không thay đổi. Chỉ có kiến trúc bên trong thì dĩ nhiên qua nhiều lần xây dựng, tu sửa. Chính đặc điểm này giải thích tại sao trên khu di tích 18 Hoàng Diệu, các lớp di tích kiến trúc và di vật chồng lên nhau qua các thời kỳ lịch sử.  

PGS-TS Tống Trung Tín-Phó Viện trưởng, Viện Khảo cổ học Việt Nam:
Chính sử ba thời kỳ lớn Lý, Trần, Lê đều ghi rất rõ: xung quanh điện Kính Thiên thời Lê (chính là xung quanh điện Thiên An thời Lý, Trần) dày đặc các cung điện. Vị trí khai quật của di tích 18 Hoàng Diệu cách điện Kính Thiên đúng 87m, xuất lộ dày đặc các dấu tích cung điện rất phù hợp với sử liệu Lý, Trần, Lê.
Từ trung tâm của điện Kính Thiên cho đến Đoan Môn (trên trục chính của Cấm Thành), ta đã thăm dò khảo cổ học ở vị trí trước Đoan Môn, tìm thấy dấu vết Ngự đạo. Nhiều người cho rằng cứ tiếp tục tìm ở quanh đó thì sẽ thấy các cung điện, nhưng suy luận theo các tài liệu lịch sử thì sẽ thấy ở đó chỉ có điện Kính Thiên, Đoan Môn, điện Thị Triều, còn lại sẽ là đường vua đi (ngự đạo) và sân rồng.
Trong khi đó, khi khai quật hố A20 (khu A), các nhà khảo cổ học Việt Nam cũng như Nhật Bản khi nghiên cứu kiến trúc phân bố của các trụ móng cột cũng như kỹ thuật bó nền của nó thấy dấu vết còn ăn sâu vào đường Hoàng Diệu thì thấy rõ đây là những kiến trúc rất lớn, chạy từ Hố A20 vắt qua đường Hàng Diệu sang phía khu thành cổ Hà Nội hiện nay.
Những kiến trúc này đều được gia cố bằng hệ thống móng trục bằng sỏi, gạch, ngói vụn nhồi với kích thước rất lớn, hình dáng gần hình vuông mà mỗi cạnh 1.2 m, chiều sâu 1m. Các chuyên gia nghiên cứu kiến trúc cổ các nước đến đây giúp ta đều nhận định đó phải là những hệ thống móng trụ để đỡ một hệ thống khung cột, mái nhà bên trên rất lớn, phải là những kiến trúc quan trọng của khu vực này.
Ở khu B, khu D cũng tìm thấy những dấu vết kiến trúc như thế. Riêng khu C chỉ mới khai quật thăm dò, nhưng đã thấy nhiều dấu vết kiến trúc quan trọng, lại nằm giữa hai khu B và D.
Rồi ta tìm thấy dấu vết của những cung điện đã ghi trong lịch sử là nằm trong Cấm Thành, như khu A thì tìm thấy dấu vết của Trường Lạc cung, là cung của hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng, vợ vua Lê Thánh Tông, sau là Hoàng thái hậu thời vua Lê Hiển Tông. Ta tìm thấy những đồ dùng có ghi rõ Trường Lạc khố (đồ ở cung Trường Lạc) hoặc ghi là Trường Lạc cung (đồ của cung Trường Lạc). Cung của Hoàng hậu, Hoàng thái hậu  là cung cấm, không thể không nằm trong Cấm thành.
Ở khu D (sát đường Độc Lập), ta tìm thấy 2 dấu vết quan trọng. Thứ nhất là ngói thời Trần có ghi Hoàng Môn Thự, cơ quan đầu não gần vua nhất, giúp mọi việc cho các vị vua thời Trần nằm trong Cấm Thành. Ta còn thấy dấu vết của điện Kim Quang thời Lê qua những viên ngói ghi rõ "Kim Quang điện", rồi gạch của hàng chục phiên hiệu quân đội thời Lê ở đây.
Nghiên cứu chi tiết các di vật tìm được ở đây lại càng tìm thấy nhiều bằng chứng của khu trung tâm Cấm Thành. Hàng vạn viên gạch tìm được của rất nhiều thời kỳ, trong đó sớm nhất là gạch "Giang Tây quân" từ thời thành Đại La (thế kỷ VII đến IX), rồi gạch Long Thụy Thái Bình từ năm 1057... hệ thống trang trí toàn là những biểu trưng của nhà vua như rồng, hoa sen, hoa cúc. 
Kèm theo đó là một hệ thống di vật những đồ dùng trong hoàng cung như bát, đĩa, chum, vại đều ở trình độ cao. Như đồ gốm sứ cao cấp thời Lý, Trần, gốm mỏng thời Lê trình độ không kém gì Trung Quốc, hoa văn rất đẹp, biểu trưng cho các quyền uy của hoàng gia. Đặc biệt tìm thấy ở khu D những lá kim loại màu vàng của thời Lý có chạm khắc hình rồng - theo các chuyên gia trong và ngoài nước thì những chiếc lá kim loại bằng vàng, màu vàng chỉ tượng trưng cho vua)
Những bằng chứng này đã đủ khẳng định di tích 18 Hoàng Diệu thuộc Cấm Thành, thậm chí là trung tâm của Cấm Thành.
Ở Bắc Kinh, mấy chục năm trước dân phá lớp thành ngoài cùng (tương đương thành Đại La của ta) để lấy gạch xây nhà, vài năm gần đây Chính phủ Trung Quốc có chủ trương tôn tạo lại toàn bộ vòng thành ngoài (tương đương những con đường như Đê La Thành, Hoàng Hoa Thám), người dân đã dỡ toàn bộ gạch cổ của nhà mình ra để góp sức tôn tạo đúng như nguyên bản.
    GS sử học Phan Huy Lê   - Vẫn còn giải pháp hay cho Cấm Thành

Nếu xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu tức trong không gian của khu di tích Hoàng Thành Thăng Long vừa phát lộ thì theo tôi, gặp rất nhiều hạn chế. Chiều cao sẽ bị khống chế bởi gần Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh. Diện tích xây dựng bị thu hẹp vì phải bảo tồn di tích Hoàng Thành, chí ít là khu A, B (theo sơ đồ khai quật khảo cổ học).  
Trên phần còn lại là khu C, D, qua những hố khai quật cũng tìm thấy nhiều di tích, di vật không kém gì khu A, B và vì thế phải tìm những giải pháp bảo tồn trong nền Nhà Quốc hội không đơn giản, lại bị khống chế về chiều sâu. Theo tính toán sơ bộ thì diện tích xây dựng chỉ còn khoảng 7000-8000 mét vuông. Đó là chưa nói tới việc xây dựng Nhà Quốc hội ở đây sẽ được gì, mất gì. Trong thư kiến nghị của Hội Khoa học lịch sử, chúng tôi cũng đã bước đầu cảnh báo những hệ quả có thể xảy ra.  

Điều cần quan tâm nhất là xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu, dù với phương án nào, qui mô nào cũng phá vỡ không gian lịch sử văn hoá của khu di tích và không bảo đảm được tính toàn vẹn của di tích, tức tự làm mất khả năng được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới. Tôi cũng muốn nói rõ là tính toàn vẹn của khu di tích ở đây không phải là sự toàn vẹn của Cấm Thành hay Hoàng Thành mà thực tế là đã bị thu hẹp và xáo trộn, một phần bị huỷ hoại.  
Nhưng khu di tích đã phát lộ và cả phần còn lại của di tích Hoàng Thành hay Cấm Thành chưa bị các kiến trúc hiện đại phá huỷ, thì cần được bảo vệ nghiêm ngặt trong một qui hoạch do chúng ta đề xuất theo đúng tiêu chí Di sản văn hoá thế giới của UNESCO. Nếu xây Nhà Quốc hội ở đây thì theo tôi hiểu, chắc chắn UNESCO sẽ không chấp nhận hồ sơ đăng ký Di sản văn hoá thế giới của chúng ta. 
Nhiều người cho rằng chỉ cần bảo tồn khu A, B trong di tích Hoàng Thành Thăng Long (18 Hoàng Diệu) thôi, còn khu C, D thì có thể xây dựng Nhà Quốc hội trên đó....
- Khu C thì ta chưa khai quật bao nhiêu nên tôi không dám khẳng định, còn khu D dù chỉ mới khai quật mấy hố, nhưng đã thấy dày đặc di tích. Như Hoàng Môn Thự ở đây, Kim Quang điện ở đây, rồi nhiều gạch của thời Lý, Trần và cả của thời thành Đại La cũng thấy ở đây. Nếu xây nhà Quốc hội thì sẽ phải dành thời gian khai quật, mà khai quật thì sẽ phát hiện thêm rất nhiều di tích. 
Khi xây Nhà Quốc hội ở đây, cũng đã nghĩ đến giải pháp là các di tích phát hiện sẽ bảo tồn tại chỗ ngay dưới nền nhà Quốc hội, có kính để nhìn xuống, có đường hầm xuống để tham quan. Còn nếu di tích dày đặc quá thì sau khi khai quật và nghiên cứu, sẽ dùng các giải pháp làm cứng hóa các di tích-di vật rồi lấy ra và xây dựng xong lại đưa vào vị trí cũ.  
Với công nghệ hiện đại thì trên lý thuyết có thể xây nhà ở trên mà bảo tồn di tích ở dưới, và nhiều nơi đã thực hiện. Gần đây tôi thăm Osaka ở Nhật Bản, có một di tích khảo cổ học  phát hiện bên cạnh thành cổ Osaka, bộ phận di tích lớn thì họ bảo vệ toàn bộ, còn bộ phận nhỏ tách ra thì họ xây dựng một tòa nhà cao tầng lên trên, bảo tồn nguyên trạng bên dưới (không phải lấy ra rồi chuyển vào), có kính để xem, có đường xuống tham quan bên dưới.  
Nhưng các chuyên gia Nhật có nói với tôi là làm thế vẫn là chuyện vạn bất đắc dĩ, và với công nghệ xây dựng hiện đại, họ cũng chỉ có thể làm dầm thép dài tối đa là 80m, nhiều lắm cũng chỉ 100m, nghĩa là chỉ có thể bảo tồn nguyên vẹn dưới nhà di tích nhỏ mà không phải đào móng phá huỷ di tích. Tuy cố gắng như vậy, công trình vẫn bị dư luận Nhật lên án. Còn khu D của ta lớn hơn nhiều và công việc bảo tồn nguyên trạng dưới nền nhà không đơn giản và rất tốn kém.  
Dù đó là giải pháp tối ưu trong trường hợp quyết định xây dựng Nhà Quốc hội ở đây, nhưng sẽ không tránh khỏi những hệ quả. Thứ nhất, về mặt cảnh quan thì Nhà Quốc hội rất hiện đại bên cạnh di tích cổ xưa rất đơn sơ nhưng rất quý giá và linh thiêng của tổ tiên để lại, đó sẽ là sự đối chọi mang tính phản cảm, phá vỡ không gian lịch sử văn hóa, kiến trúc hiện đại sẽ che khuất các di tích lịch sử ngàn năm. Thứ hai, việc bảo tồn bên dưới trên lý thuyết thì dễ, nhưng trên thực tế thì không đơn giản chút nào. Bảo tồn y nguyên đã khó, đưa ra khỏi tầng văn hoá rồi chuyển vào chỗ cũ lại còn khó hơn nhiều, có làm được thì di tích cũng mất đi phần quan trọng giá trị của nó, đâu còn tính nguyên trạng. Cái giá ta phải trả đắt nhất khi xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu là làm mất khả năng được công nhận khu di tích là Di sản văn hóa thế giới.  
Hội Khoa học lịch sử cũng như cá nhân tôi, tự xác định trách nhiệm của mình là phải cảnh báo tất cả những hệ quả có thể xảy ra và cung cấp những ý kiến tư vấn cho lãnh đạo. Đây là một quyết định rất hệ trọng và nhạy cảm, dĩ nhiên người ra quyết định xây dựng sẽ phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước công luận trong nước và thế giới, và chịu trách nhiệm trước sự phán xét của lịch sử. Trong trường hợp cấp trên vẫn quyết định xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu thì phải chấp hành nhưng dứng trên phương diện  cá nhân tôi vẫn bảo lưu ý kiến của mình vì tôi cho rằng quyết định như thế là sai lầm.  
- Tôi và giáo sư Phan Khanh đã từng suy nghĩ về địa điểm xây dựng Nhà Quốc hội trong khu Trung tâm chính trị Ba Đình. Sau đó một số cơ quan có trách nhiệm cũng đã đề xuất những vị trí có thể lựa chọn như lô H6, H7 nằm hai bên đường Hùng Vương, giữa phố Trần Phú và Lê Hồng Phong, có diện tích gần 4 hecta hay lô A7 nằm đối diện với Bảo tàng Hồ Chí Minh có diện tích khoảng 3,5 hecta. Lô H6, H7 chỉ có những kiến trúc của nhà nước, có thể nghiên cứu một qui hoạch vừa giữ một số công trình làm cơ quan của Quốc hội, vừa phá dỡ một số nhà để làm diện tích xây dựng Nhà Quốc hội.  
Lô A7 nếu chọn làm địa điểm xây Nhà Quốc hội thì phải giải tỏa một số nhà dân, tôi tin rằng người dân sẽ hoàn toàn ủng hộ nếu biết vận động và đền bù thỏa đáng. Quốc hội vận động giải toả thành công có khi còn tạo ra mô hình mẫu mực trong công việc giải phóng mặt bằng đang gặp nhiều khó khăn hiện nay. Còn việc phá một số nhà đã xây dựng hay chi phí một khoản đền bù cho dân, để xây dựng Nhà Quốc hội theo tôi không nên coi là lý do để biện hộ cho việc xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu làm xâm hại đến một di sản vô giá có tầm cỡ thế giới của cả dân tộc. Trong trường hợp cần thiết, có thể nghĩ đến khả năng xây dựng Nhà Quốc hội trên qui mô lớn gồm cả lô H6, H7, A7 và mở một con đường hầm trang hoàng đẹp dưới đường Hùng Vương. 
Theo tôi xây dựng Nhà Quốc hội tại lô H6, H7, A7 sẽ tạo nên một cấu trúc rất đẹp cho Trung tâm chính trị Ba Đình. Chúng ta hình dung, ở giữa là Lăng Bác Hồ, nhà sàn Bác Hồ, Bảo tàng Hồ Chí Minh, bên phải tức phía bắc là Đảng (Nguyễn Cảnh Chân), Nhà nước (Chủ tịch phủ), Chính phủ (Thủ tướng phủ), bên trái tức phía nam là Nhà Quốc hội, mặt trước tức phía đông là Nghìn năm Thăng long-Hà Nội. Một qui hoạch và mô hình như vậy là vừa bảo tồn được toàn bộ khu di tích Hoàng Thành Thăng Long gắn kết với thành cổ Hà Nội và phần còn lại của Cấm Thành, lập thành Công viên lịch sử-văn hoá Thăng Long-Hà Nội rồi đây sẽ được tôn vinh là Di sản văn hoá thế giới, vừa có một toà Nhà Quốc hội bề thế xứng đáng với vai trò cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân. 
Còn cách suy nghĩ xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu là tự đặt mình vào thế bí, vào bài toán mà đáp số sẽ loại trừ lẫn nhau, được cái toàn vẹn của khu di tích thì không có nhà Quốc hội, còn có nhà Quốc hội thì xâm hại di tích, tước đi khả năng có một Di sản văn hoá thế giới trong lòng Hà Nội. Chỉ cần một tư duy cởi mở hơn thì sẽ giải quyết được một cách trọn vẹn mọi vấn đề. Giữa thủ đô Hà Nội có một Di sản văn hóa thế giới sẽ nâng vị thế của Hà Nội, là điều mọi người dân Hà Nội và cả nước đều mong chờ. Đó sẽ là sự kết hợp hoàn hảo của truyền thống và hiện đại, là bài tính trọn vẹn, được mọi mặt.

GS sử học Phan Huy Lê  - Hoàng Thành Thăng Long trong tương quan với các kinh đô cổ

Việc phát hiện di chỉ 18 Hoàng Diệu đã đủ chứng tỏ những giá trị vô giá của kinh thành Thăng Long từ nghìn năm trước còn lại trong lòng đất, đủ khiến ta thấy may mắn khi nhờ sự bảo tồn của lòng đất mà ta, và các thế hệ con cháu, sẽ còn nhiều cơ hội nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử.
Giá trị của khu di tích Hoàng thành Thăng Long (được phát lộ năm 2003) đã được các nhà khoa học trong nước cũng như các chuyên gia quốc tế, kể cả ông tổng giám đốc UNESCO đánh giá rất cao, hoàn toàn xứng đáng để được công nhận là di sản văn hóa nhân loại.
Mỗi cố đô có một hệ giá trị riêng mà chỉ mình nó có, việc so sánh Hoàng thành Thăng Long với các cố đô Cổ Loa, Hoa Lư và Huế chỉ nhằm khẳng định thêm những giá trị cực kỳ quý hiếm của di chỉ Hoàng Thành, cố đô Thăng Long 1000 năm văn hiến. Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và GS Phan Khanh đã rất thống nhất khi đưa ra những góc nhìn thú vị trong sự so sánh này. 
Theo GS Phan Huy Lê, các chứng tích và các công trình nghiên cứu khảo cổ học đã cho phép khẳng định chắc chắn Cổ Loa là kinh đô cổ nhất, là tòa thành sớm nhất của toàn khu vực Đông Nam Á. Ngay từ thế kỷ thứ III trước công nguyên (cách nay khoảng 2300 năm), một kinh thành với quy mô lớn có đủ ba vòng thành tổng cộng trên 16 km như Cổ Loa là cực hiếm. Kinh thành Cổ Loa còn tận dụng thiên nhiên triệt để khi sông Hoàng Giang nối vào trong thành thành hệ thống hào, để từ đó có thể xuôi ngược khắp đồng bằng Bắc Bộ, qua sông Hồng, sông Thái Bình, sang Lục Đầu Giang, lên cả sông Cầu, sông Thương, sông Lục Ngạn. Giá trị của di chỉ Cổ Loa nằm ở chỗ: là kinh thành cổ xưa nhất Đông Nam Á. 
Trải qua mấy nghìn năm biến đổi, dấu vết của ba vòng thành trên mặt đất hiện chẳng còn được bao nhiêu, lại đang bị xâm hại nặng nề. Những nỗ lực "cứu" Cổ Loa dường như lại làm "hại" tới những dấu vết còn sót lại kia nhiều hơn. Cũng may vì còn trong lòng đất Cổ Loa cả một kho tàng, theo lời GS Phan Khanh. Trống đồng đã tìm được ở đây, rồi chỉ một hố khảo cổ mà tìm thấy vài vạn mũi tên đồng, mới năm 2005 còn phát hiện dưới lòng đất cả một cơ sở sản xuất vũ khí, có lò nấu đồng, có khuôn đúc giáo, khuôn đúc mũi tên đồng giống hệt những mũi tên ta đã phát hiện ở đây.
May mắn cho Cổ Loa, vì dù chỉ là kinh đô trong vài chục năm, sau đó trải qua hơn 2000 năm thăng trầm, qua bao sự biến thiên, thì những dấu tích, và nhất là cái hồn của cố đô vẫn còn đó, vẫn thúc giục những thế hệ hậu sinh nâng niu gìn giữ giá trị lịch sử. 

Mộ cổ thời Lý tìm thấy ở Hố A4
Giếng nước cổ thời Đại La - hố B9

Kinh đô Hoa Lư lại có một vai trò lịch sử đặc biệt, dù chỉ tồn tại trong non nửa thể kỷ (từ 968 đến 1010, đến khi Lý Thái Tổ, vị vua đầu tiên của triều Lý, quyết định dời đô về Thăng Long). Theo lời GS Phan Khanh, vị vua đầu tiên của nước Việt thống nhất “đã xây dựng kinh đô Hoa Lư dựa trên địa thế hiểm trở, tận dụng điều kiện tự nhiên với các vách núi đá vôi và hệ thống sông ngòi làm thành quách”, tạo một “quân thành” mang nặng tính phòng ngự. GS Phan Huy Lê cũng nhấn mạnh nhiều đến yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của kinh cố đô Hoa Lư. Về thực chất, kinh đô Hoa Lư mang tính quân thành nhiều hơn kinh thành, thích hợp trong "chiến đấu" nhiều hơn việc ổn định chính trị, phát huy văn hiến, mở mang kinh tế.   
Cố đô Huế là di sản văn hóa thế giới đầu tiên của nước Việt ta được UNESCO công nhận. GS Phan Huy Lê đánh giá cao kiến trúc của cố đô Huế, bởi đó là kết quả của sự giao lưu văn hóa, có tiếp thu di sản phương Tây. Chẳng thế mà dù thời gian là kinh đô không thật dài, chỉ non một thế kỷ rưỡi (từ 1802 đến 1945), lại còn rất trẻ so với tuổi đời của các cố đô, Huế vẫn được sự công nhận rất trân trọng của thế giới. “Chẳng cần nói nhiều về Huế, vì ai đến đó cũng tự cảm nhận được những giá trị”, GS Phan Khanh đã nói như thế về kinh thành cuối cùng của Việt Nam.  
Lùi về quá khứ, nhắc về Cổ Loa, Hoa Lư, hay cố đô Huế, ta càng hiểu rõ hơn giá trị quý giá của Hoàng thành Thăng Long, của “tầm cỡ vượt trội, nhất là về bề dày thời gian và tính liên tục. Khai quật khảo cổ đã xác định được dấu vết của thành Đại La hơn 1000 năm về trước. Rồi những nền cung điện, những kiến trúc kinh thành cổ... Quả thật, khó tìm trên thế giới một kinh đô có bề dày lịch sử nghìn năm, giờ vẫn là “kinh đô” của nước Việt Nam hiện đại.  
Nhắc đến Hoàng thành Thăng Long là nhắc đến tính liên tục của các lớp văn hóa Lý - Trần - Lê  được giấu kỹ dưới lòng đất, mà nếu không có cuộc khai quật bất ngờ năm 2003 tại số 18 Hoàng Diệu thì vẫn là bí mật, vẫn chỉ là những lời văn trong sử liệu, qua những bản đồ khá sơ lược. GS Phan Huy Lê gọi di tích này là “bộ sử bằng di vật” của kinh thành Thăng Long, để từ đó ta hiểu được rất nhiều về kiến trúc, về bản sắc văn hóa, về sự kết hợp thiên nhiên (thích nghi và tận dụng), kết hợp triệt để giao thông đường thủy, xử lý không gian…
Về các công trình kiến trúc nổi thì Hoàng Thành Thăng Long không còn được bao nhiêu (nghĩa là thua xa Huế), quý nhất và xưa nhất đến giờ chỉ có nền điện Kính Thiên và Đoan Môn của thời Lê Mạc (hậu Lê), Cấm Thành cũng không còn mấy, Hoàng Thành chỉ còn mấy đoạn, cửa ô duy nhất chỉ còn ô Quan Chưởng… Nhưng việc phát hiện số 18 Hoàng Diệu đã đủ chứng tỏ những giá trị vô giá của kinh thành Thăng Long từ nghìn năm trước còn lại trong lòng đất, đủ khiến ta thấy may mắn khi nhờ sự bảo tồn của lòng đất mà ta, và các thế hệ con cháu, sẽ còn nhiều cơ hội nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử.   
Theo GS Phan Huy Lê, nhờ vị trí của Cấm Thành không thay đổi qua các triều đại, nhờ ngày xưa chủ yếu là san nền rồi xây lên, có đào móng trụ cũng chỉ trên dưới 1m cho các chân cột nên các nền kiến trúc cũ được lấp đi, vì thế dù là “phế tích” nhưng giá trị còn rất rõ, các chuyên gia quốc tế quý Hoàng Thành Thăng Long bởi qua bề dày cả ngàn năm mà còn bảo tồn được như vậy là rất hiếm.  
Di tích Hoàng Thành Thăng Long cũng thể hiện nét đặc sắc của bề dày văn hóa biểu thị trong các kiến trúc, di vật, cách xử lý xây dựng cấu trúc đô thành, cách ứng xử quan hệ với thiên nhiên (qua các di chỉ khảo cổ dòng sông, con thuyền). Hay từ câu chuyện những viên gạch có tên đại phương, phiên hiệu quân đội mà cảm phục tính tổ chức và trách nhiệm cao của các thế hệ cha ông. Nhờ khảo cổ học, ta có thể tìm hiểu về cuộc sống cung đình, thấy sự hội tụ của kiến trúc tiêu biểu nhất, di vật tiêu biểu nhất của bề dày văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là việc của thế hệ này, mà của cả những thế hệ sau.

Hệ thống cống thoát nước phía Đông của kiến trúc nhiều gian ở khu A
Giếng thời Lê - Hố A6
Con đường lát gạch hoa chanh - Di tích Đoan Môn

Kết quả nhiều năm nghiên cứu về cấu trúc thành Thăng Long kết hợp với 2 năm nghiên cứu khảo cvừa rồi đã hội đủ những căn cứ khoa học cho phép khẳng định khu di tích 18 Hoàng Diệu nằm trong Cấm Thành. Ngay từ khi mới phát lộ năm 2003, các nhà sử học, khảo cổ học đã xác định khu di tích nằm trong Hoàng Thành, nay tiến lên một bước xác định khu di tích nằm trong Cấm Thành tức trung tâm của Hoàng Thành. Chúng ta có một số vật chuẩn quan trọng để định vị Cấm Thành.  
Thứ nhất, trung tâm của Cấm Thành là Điện Kính Thiên thời Lê sơ, xưa là điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lý, thời Trần. Đó là cung điện quan trọng bậc nhất, nơi tiến hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự. Nền điện Kính Thiên bây giờ còn đó với bậc thềm và lan can đá chạm rồng mang đặc trưng nghệ thuật trang trí thế kỷ XV. Kiến trúc này xây dựng trên núi Nùng tức Long Đỗ (Rốn Rồng) nơi tụ hội khí thiêng của non sông theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền. 
Thứ hai là Đoan Môn là cửa Nam của Cấm Thành. Tài liệu sử sách cho biết  vị trí của Đoan Môn cũng không thay đổi qua các triều đại. Vừa rồi khảo cổ đã đào thám sát và xác định chắc chắn Đoan Môn còn lại hiện nay được xây dựng từ thời Lê, đến thời Nguyễn có sửa sang. Dưới chân Đoan Môn đã phát hiện dấu tích kiến trúc của thời Lý, thời Trần. Đoan Môn phải hiểu là cửa Nam phía trong trong cùng của Cấm Thành, bởi theo Phan Huy Chú và Nguyễn Văn Siêu thì phía nam Cấm Thành có ba lần cửa, nhìn trên bản đồ Hồng Đức cũng thấy điều đó. Theo một số tài liệu đời Nguyễn thì Cột Cờ được xây dựng trên nền cửa Tam Môn là cửa Nam ngoài cùng của Cấm Thành. Như vậy là Kính Thiên – Đoan Môn – Cột Cờ/Tam Môn là trục trung tâm của Cấm Thành.  
Bản đồ thành Thăng Long
Thứ ba là chùa Một Cột. Theo văn bia Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đọi, Duy Tiên, Hà Nam) do Nguyễn Công Bật soạn năm 1121 thời Lý thì chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột dựng ở phía tây Cấm Thành. Vậy tường thành phía tây của Cấm Thành không thể quá vị trí Chùa Một Cột. Theo bản đồ Hồng Đức và nhiều tài liệu địa lý học lịch sử, ở phía tây bắc của Cấm Thành có cửa Tây (Tây Môn) và phía ngoài có núi Khán Sơn và chùa Khán Sơn là nơi vua Lê Thánh Tông lên duyệt binh. Đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng lại thành Thăng Long, từ năm 1831 đổi tên là thành Hà Nội, thì Khán Sơn nằm bên trong, ở về phía tây bắc của thành Hà Nội, nghĩa là nằm ở khoảng cuối Hùng Vương gần Phan Đình Phùng, trước mặt Phủ Chủ tịch và Thủ tướng phủ hiện nay. Từ đó, tôi phỏng đoán tường thành phía tây Cấm Thành ở vào khoảng đường Độc Lập đến giữa Quảng trường Ba Đình.  
Vậy là ta đã xác định được vị trí trung tâm, trục trung tâm cùng giới hạn phía nam và phía tây của Cấm Thành. Theo bản đồ Hồng Đức, Cấm Thành có hình chữ nhật, nhưng Đông cung và Thái miếu ở phía đông - theo Nguyễn Văn Siêu - dù nằm trong tường thành bảo vệ nhưng không coi là trong Cấm Thành, và như thế Cấm Thành gần như hình vuông. Điều này cũng rất phù hợp với việc nhà Nguyễn xây dựng thành Hà Nội  trên cơ sở mở rộng Cấm Thành, vì trong chỉ dụ của vua Gia Long có nói thành Thăng Long (Cấm Thành) chật hẹp, cho nên phải mở rộng thêm. Thành Hà Nội của nhà Nguyễn vì thế rộng hơn Cấm Thành, nhưng nhỏ hơn Hoàng Thành.  
Những dấu vết kiến trúc mới phát lộ tại khu di tích 18 Hoàng Diệu được giới khoa học trong và ngoài nước đánh giá là cực quý hiếm - Theo kết quả xác định trên thì khu khai quật chắc chắn nằm trong Cấm Thành và chỉ cách điện Kính Thiên chưa đầy 100m, tức gần vùng trung tâm của Cấm Thành. Các kết quả khai quật khảo cổ thời gian qua càng khẳng định điều đó. Ở đây đã tìm thấy dấu vết của cung Trường Lạc, là cung của hoàng hậu vua Lê Thánh Tông và là Hoàng thái hậu của vua Lê Hiển Tông. Rồi còn có Hoàng Môn Thự thời Trần, gần đây lại có dấu tích của Kim Quang điện thời Lê Thánh Tông. Đây là những cung điện nằm trong phạm vi Cấm Thành. Khảo cổ học còn tìm thấy những "đồ ngự dụng" chỉ dành cho nhà vua như bát có hình rồng 5 móng. 
Trong các di tích đã phát lộ còn có giếng Đại La, nhưng trên đó lại có lớp gạch xây thêm thời Lý. Điều đó cho thấy khi vua Lý Thái Tổ dời đô về đây, đúng như nhà vua nói trong "Chiếu dời đô" là dời đô về "thành Đại La" của Cao Vương. Buổi đầu, nhà vua sử dụng thành Đại La cùng một số cung điện, kiến trúc có sẵn rồi cải tạo và mở mang thêm. Đồng thời, Lý Thái Tổ cho kiến thiết rất nhiều, ngay từ năm đầu tiên đã xây dựng thêm 8 điện 3 cung, xây một lớp thành bảo vệ bên ngoài.
Trong thời Lý, thành Thăng Long với cấu trúc ba lớp thành đã được kiến tạo. Từ đời Lý sang đời Trần, qua các biến cố cuối thời Lý, một số kiến trúc cung đình bị phá huỷ và nhà Trần lại tiếp tục công việc dinh tạo, mở mang và xây dựng thêm. Trong thời Trần, ba lần kháng chiến chống Mông-Nguyên, kinh thành lại bị tàn phá và sau đó lại xây dựng.  
Còn từ thời Trần sang thời Lê, qua 20 năm Minh thuộc, kinh thành có nhiều thay đổi. Thời Lê Thánh Tông, Hoàng Thành được mở rộng về phía tây nam và Cấm Thành cũng có nhiều kiến trúc mới. Tại khu di tích Hoàng Thành phát lộ ở 18 Hoàng Diệu, dấu vết của các đời Lý – Trần – Lê Sơ rõ nét nhất và đó cũng là những thời kỳ hoàng kim nhất của Thăng Long, thời kỳ của kỷ nguyên Văn minh Đại Việt. 
Trong lịch sử thành Thăng Long, La thành (hay Đại La thành), Hoàng Thành trải qua khá nhiều thay đổi, nhưng trung tâm của Hoàng Thành, đặc biệt là vị trí, qui mô của Cấm Thành (còn gọi là Cung thành) thì gần như không thay đổi, chỉ có kiến trúc bên trong thì dĩ nhiên qua nhiều lần xây dựng, tu sửa. Chính đặc điểm này giải thích tại sao trên khu di tích 18 Hoàng Diệu, các lớp di tích kiến trúc và di vật chồng lên nhau qua các thời kỳ lịch sử.  

Không có nhận xét nào: