Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2012

Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm Và J.F.Kennedy - Phần 2

14. Những kẻ vô danh
Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu
- EXODUS 23:1

Đến đây có lẽ bạn đang nghĩ: “Chờ chút xem, tôi nghĩ cuốn sách này có liên quan đến chuyện chính quyền Nam Việt Nam dính líu vào vụ ám sát JFK chứ”.
Đúng vậy. Nhưng hãy cố một tí. Ta cần xây dựng thêm cơ sở sự kiện.
Chương vừa rồi có vẻ hơi ra bên lề, nhưng thật ra thì không. Chúng tôi nói ra thông tin này để trình bày chu đáo một luận điểm cho độc giả về điều sắp nói tới. Ơû trước, chúng tôi đã trình bày về Jean Rene Souetre, thành viên cao cấp của nhóm khủng bố Pháp có tên gọi OAS, và chúng tôi đã nói tới sự kiện rằng hắn ta đã có mặt ở Dallas, Texas, vào cùng buổi chiều mà JFK bị bắn chết, và chúng tôi còn trình bày làm sao mà Souetre không bị bắt và câu lưu, mà lại được mau chóng và lặng lẽ đưa ra khỏi đất Mỹ bởi phần tử nào đó trong chính quyền Mỹ trong vòng chưa đầy hai ngày sau vụ ám sát. Chúng tôi đã cho các bạn thấy các hồ sơ chính thức của chính quyền chứng minh điều này, và chúng tôi cũng trình bày những hồ sơ và các cuộc phỏng vấn chính thức khác chứng tỏ rằng Souetre đã bị FBI điều tra bảy tháng trước khi Kennedy bị giết.
Thông tin này – chùm sự kiện này – tiêu biểu cho một khác biệt nghiêm trọng với những gì mà chính phủ Mỹ, trong gần bốn thập niên qua, đã cố nhồi nhét vào đầu công chúng. Chùm những sự kiện được chính thức lưu trữ này (mà nó chưa từng được báo cáo cho Uỷ ban Warren và cũng chưa từng được Tiểu ban Hạ viện về Những vụ ám sát thừa nhận) cho chúng ta thấy rõ ràng một tay khủng bố trung thành với một nhóm sát nhân cánh hữu (một nhóm thường xuyên ám sát những đối thủ của họ) đã ở rất gần JFK khi ông ta bị ám sát. Chúng tôi cũng đã chứng minh, qua lịch sử của OAS, rằng nhóm võ trang này có mọi lý do chính trị để giết Kennedy (chính Kennedy đã thúc giục DeGaulle trả độc lập trọn vẹn cho quốc gia mà OAS đang chiến đấu để giữ nó trong vòng thuộc địa của Pháp: Algeria). OAS đã nhiều lần mưu ám sát DeGaulle, kẻ thù hàng đầu của họ. Kennedy là kẻ thù thứ nhì của họ… Nên tại sao lại không thể có chuyện OAS cũng mưu ám sát JFK luôn?
Bất kỳ ai có lý trí cũng có thể thấy rằng điều đó hoàn toàn có thể. Nó rất có thể. Và ai có khả năng trong việc hoàn tất một chiến công khủng bố như thế hơn OAS, một băng nhóm gồm những tên bạo loạn, sát nhân và bắn tỉa được huấn luyện kỹ? Chuyện đã quá rõ.
Nhưng bây giờ hãy nhìn lại dòng đầu của hồ sơ 632-796.
8. Jean SOUETRE còn gọi là Michel ROUX còn gọi là Michel MERTZ
Chúng ta có được hai tên giả của nhân vật này. Hai người với tên Michel, một người mang họ Roux và người kia họ Mertz. Chuyện những tên giả này làm sao xuất hiện được trong một hồ sơ CIA thì ta chỉ có thể ước đoán, nhưng cũng hợp lý luận khi cho rằng thông tin này là do nhân viên SDECE cung cấp, người đã tới hỏi thăm FBI về việc trục xuất Souetre. SDECE – cơ quan tình báo Pháp – hẳn biết rõ hơn ai hết về mọi bí danh hay tên giả của các thành viên OAS. Nên nhớ, trong quãng thời gian này, SDECE vừa đánh gục phong trào OAS nhờ những chiến dịch phản gián khôn ranh dựa vào đám giang hồ – những barbouze – xâm nhập vào cơ sở hạ tầng của OAS. OAS chẳng kịp hiểu ra sao, và kết quả là họ tan rã, chứng kiến chậm rãi nhưng chắc chắn các đầu lĩnh từng một thời rất hiệu năng của mình bị chính quyền Pháp bắt giữ và tống giam. Cách làm của SDECE là sử dụng một chiến thuật phổ biến của CIA và các cơ quan tình báo phương Tây khác, đánh đổi một số ưu đãi cho thế giới ngầm của bọn tội phạm để lấy tin tình báo về các phong trào cộng sản địa phương. Chuyện ở đây cũng vậy, có điều lần này SDECE không đối đầu với phong trào cộng sản mà là những tay cánh hữu cực đoan. Còn mấy điều nên nhớ khác đã nói trong chương về SDECE: OAS và chủ trương khủng bố của họ đã đe doạ nghiêm trọng sự tồn tại của chính phủ DeGaulle (chưa kể tới những âm mưu ám sát chính DeGaulle), nên khi DeGaulle ra lệnh cho Frey và Foccart giải quyết vấn đề OAS thì nó được coi như chuyện ưu tiên của quốc gia. Sử dụng SDECE, Frey, Foccart và thuộc hạ đã hoàn thành được nhiệm vụ (nhưng cũng chịu những hậu quả tai hại mà chúng ta sẽ bàn sau) và trong quá trình đó họ đã thu thập được một khối lượng tin tình báo đáng kể về các thành viên OAS mà sau này họ bắt giữ được. Và chúng ta biết rằng bản thân Souetre là một trong những kẻ đã bị bắt đó vì theo hồ sơ CSCI – 3/776.742 của CIA, “Các nguồn tin của Pháp cho thấy Souetre là tên của một cựu đại uý quân đội Pháp đã trốn khỏi một trại giam năm 1961”. Không những SDECE tiếp cận được kho hồ sơ quân nhân Pháp (điều này rất quan trọng, vì hầu hết thành viên OAS trước đó là lính Pháp) mà họ còn dần tích tụ được tin tình báo về những người đó sau khi họ đã đào ngũ và gia nhập OAS. SDECE làm được điều này thông qua các phương cách rất tiêu chuẩn: những mật báo viên đáng tin cậy, nghe lén, những tồ theo dõi, và những cách tương tự(139){( Porch)}. (Và cũng đừng quên biện pháp tra tấn, một trong những trò ưa thích của SDECE). Một chuyện rất đáng nhớ khác là chuyện bắt giữ một liên lạc viên của OAS vào tháng 9.1961 và việc tịch thu một cái cặp đựng đầy hồ sơ cá nhân của OAS(140){( Porch)}. Bên cạnh đó, chúng ta còn có bọn barbouze (xuất thân là dân giang hồ Marseille) đã xâm nhập vào OAS và thu nhặt nhiều tin tình báo và dữ liệu nhân sự cho SDECE.
Do đó, thật hợp lý khi SDECE hoàn toàn có khả năng nhận ra các tên giả của nhiều thành viên OAS, trong đó có các tên của Souetre.
Bây giờ ta hãy xem tên giả thứ nhất của Souetre ghi trong 632-796: Michel Roux.
Michel tương đương với tên Michael của người Mỹ, và Roux là một họ phổ biến của người Pháp. Bây giờ, như chúng ta đã xác định trước, rằng có một số phần tử trong FBI đã biết về Souetre trước khi hồ sơ 632-796 ra đời và trước cả cái chết của JFK, chúng ta có thể giả định rằng hầu hết những phần tử còn lại trong FBI không biết những chuyện này. Điều này cũng hợp lý vì ngay sau khi hồ sơ 632-796 ra đời – thậm chí là trong cùng ngày đó, 5.3.1964 – nhân viên FBI và INS ở Texas đã bắt đầu đi tìm dấu vết của một Jean Rene Souetre, Michel Roux, hoặc một Michel Mertz có mặt ở Dallas trong hoặc gần ngày xảy ra vụ ám sát, hoặc bất kỳ bằng chứng nào về bất kỳ ai có tên như thế đã bị trục xuất. Cả ba cái tên ấy đều không dẫn tới dấu vết gì. Kỳ lạ thay, người ta lại tìm thấy một cặp mang tên Roux (Dominique P. và Vivian H.) bay từ Houston, Texas, đi Mexico City ngày 22.11.1963 bằng máy bay của hãng Pan America. Ngoài ra, việc lục soát các hồ sơ còn cho thấy có ba người tên Mertz (John P., Irma Rio de, và Sara) cũng bay từ Houston đi Mexico City ngày 23 tháng 11(141){( Tài liệu FBI 105-128529, ngày 5.3.1964)}. Đây là sự trùng hợp kỳ lạ, nhưng mặc cho sự thất vọng của các nhà nghiên cứu tận tụy về JFK, người ta không tìm thêm được gì nữa. Những người có tên trên không hề bị trục xuất; họ chỉ là những hành khách bình thường, có mua vé tử tế.
Điều này có thể khiến chúng ta nghi rằng những tên giả của Souetre là do người ta bịa ra. Không có một bằng chứng từ hồ sơ nào cho thấy trong khoảng thời gian đó, cái tên Michel Mertz đã xuất hiện ở bất cứ đâu trong cuộc điều tra của Bộ Tư pháp.
Nhưng vài ngày sau thì cái tên Michel Roux xuất hiện.
Qua một báo cáo viễn ký của FBI từ Dallas gửi về Washington DC ngày 11.3.1964, chúng ta biết được rằng cuộc điều tra đã tìm thấy dấu vết của một người Pháp tên là Michel Roux có mặt ở Texas ngày 22.11.1963. Giống Souetre, ông này nói lưu loát cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh và Đức, và hơn nữa, Michel Roux có phát biểu rằng ông ta đã ở trong quân đội Pháp và phục vụ tại Algeria!
Vậy… liệu FBI có bắt người này không?
Rất tiếc là không. Cho dù trùng hợp như thế nhưng hoá ra Roux, một nhân viên khách sạn đang theo học nghề quản lý nhà hàng ở Paris, đang trong chuyến viếng thăm bạn bè Mỹ vào cuối tháng 11 năm 1963. Ơû đâu? Fort Worth, Texas – không xa Dallas lắm.
Một doanh nhân thành đạt và nghiêm túc, Leon Gachman, và gia đình của ông ta, đã đón tiếp Roux trong chuyến du lịch đến Fort Worth này. Họ trở thành bạn của nhau hồi tháng trước khi Gachman sang Paris vì công việc kinh doanh; và Roux làm hướng dẫn du lịch cho ông ta. Sau đó, Roux nhận lời mời của Gachman để đến Fort Worth chơi. Có lẽ Gachman còn thu xếp một công việc trong nghề nhà hàng cho Roux. Nói tóm lại, Roux đã sống gần trọn chuyến du lịch với vài người hay toàn gia đình Gachman. Ngày 22.11.1963, từ 10 giờ đến 12 giờ trưa, Roux ngồi cùng lớp học với con trai của Gachman là Arnold, cùng vô số người khác có thể làm chứng cho việc này, và 30 phút sau, khi JFK bị ám sát ở Dallas, Roux và Arnold đang ăn trưa tại một quán ở Fort Worth, chung quanh cũng có cả đống người làm chứng nữa. Chính tại quán này Roux và Arnold đã nghe được tin về vụ ám sát(142){( Tài liệu FBI 105-128529-3, ngày 11.3.1964)}.
Nhưng những điểm tương đồng giữa Roux và những điều ta đã biết về Souetre là gì?
1) Cả hai đều thạo nhiều thứ tiếng. Đúng vậy, nhưng có hàng triệu người Pháp như thế vì nền giáo dục Pháp khuyến khích học sinh học ngoại ngữ.
2) Cả hai đều từng đi lính và phục vụ tại Algeria. Đúng, nhưng cũng có hơn 500.000 người Pháp khác đã ở trong quân đội và phục vụ tại Algeria
3) Cả hai đều có tóc sẫm. Đúng thế.
Chỉ sự khác biệt thể chất thôi cũng đủ chứng tỏ Michel Roux không thể là Souetre cải trang. Năm 1963, Souetre đã 33 tuổi, trong khi theo mô tả của Gachman thì Roux mới khoảng 25. Souetre cao 1,90 mét và nặng khoảng 82kg vào năm 1953; mười nămsau đó, Roux chỉ cao khoảng 1,70 mét và nặng từ 70 đến 75kg. Cho dù Souetre có sụt hơn 20kg trong khoảng từ 1953 đến 1963, thì cũng khó tin rằng hắn sụt cả hai tấc chiều cao thân thể.
Sau cùng, tuy viễn tượng có vẻ hấp dẫn thế, nhưng chúng ta cũng biết ra rằng Michel Roux, nhờ Leon Gachman giới thiệu việc làm, đã rời Mỹ ngày 6.12.1963 “tại Laredo, Texas, để đi Mexico”(143){( Tài liệu FBI 105-128529-15, ngày 12.3.1964)}. Bây giờ chúng ta rõ được lý do thuyết phục nhất để tin rằng Roux không phải là Souetre: Michel Roux không bị trục xuất khỏi Mỹ trong vòng 48 tiếng sau cái chết của JFK; mà anh ta đã rời Mỹ hợp pháp và có thể chứng minh được vào ngày 6 tháng 12.
Do đó, Roux không phải là nhân vật của chúng ta. Hắn đã mất dấu, và ngày 13.3.1964, tám ngày sau khi hồ sơ 632-796 gióng tiếng chuông cảnh báo, FBI hài lòng thấy rằng Roux vô can, và đã thôi không điều tra về anh này nữa(144){( Tài liệu FBI 105-128529-12, ngày 13.3.1964)}. Chuyện Michel Roux chỉ có thế. Nên rất có thể Souetre đã chọn tên gọi này làm tên giả chỉ vì nó quá phổ biến.
Nhưng còn cái tên giả thứ nhì của hắn thì sao?

15. Mertz
“Một kẻ sát nhân hữu hiệu…”
(145){( The Heroin Trail)}

Một đã xong, một còn tiếp. Nhưng với tất cả những hồ sơ của chính phủ mà chúng tôi được đọc trong vài năm qua, nhất là mớ hồ sơ được giải mật và công bố ồ ạt trong khoảng từ tháng 2.1997 đến tháng 10.1998, chúng tôi không tìm được dấu vết nào về tên gọi Mertz trong mớ hồ sơ đó, ngoại trừ việc nêu nó ra như tên giả của Souetre. Cũng khá kỳ lạ khi Bộ Tư pháp có thể tìm ra và điều tra lập tức về một người có thật, tên là Michel Roux, ngay sau khi cái tên ấy xuất hiện trên 632-796… nhưng lại chẳng hề tìm được gì về một cái tên không kém phần phổ biến là Michel Mertz. Có lẽ điều này nghĩa là chẳng có ai tên thật là Mertz có mặt ở Dallas trong và sau ngày JFK bị ám sát.
Có thể lắm.
Nhưng vì người Pháp, mà cụ thể là SDECE, đã tiến hành hỏi thăm thông tin ở phía Mỹ và đã biết rõ các tên giả của Souetre, nên thật vô lý khi giả định rằng SDECE đã lục lọi hồ sơ của chính họ để tìm bất kỳ ai đó có tên là Mertz, đúng chưa? Dù gì thì SDECE cũng đã biết rằng Souetre dùng Mertz như một tên giả. Nên cũng hợp lý khi giả định rằng SDECE đã làm thế này: họ đã lục lọi hồ sơ của họ để tìm xem có ai tên Mertz mà có thể có liên quan tới Souetre không, và họ chẳng tìm thấy gì cả. Nói cách khác, Bộ Tư pháp Mỹ chẳng tìm được gì về Mertz, và SDECE cũng vậy.
Đó là điều ta có thể giả định.
Nhưng sẽ ra sao nếu chúng tôi nói với bạn, dựa theo tất cả những điều nói trên, rằng SDECE không những có Mertz trong hồ sơ của họ, mà Mertz còn làm việc cho SDECE nữa?
Mertz chắc chắn không phải là một cái tên tưởng tượng. Đó là một con người thực và có cái tên bị Jean Souetre chọn để dùng trong khi đi xa làm việc cho OAS… vì một mục đích sâu xa.
Chúng tôi không chắc tại sao một người như Souetre lại muốn dùng một cái tên quá đỗi hiền lành như Michel Roux, nhưng chúng tôi có thể biết chắc tại sao hắn ta dùng một cái tên giả là Mertz.
Mertz và Souetre đã biết nhau .
Quan trọng hơn, Mertz và Souetre lại là kẻ thù riêng của nhau.
Sự thực, nếu một trong hai sẽ bị coi là có tai tiếng hơn, thì đó sẽ không phải là chiến sĩ Jean Souetre của OAS. Đó phải là Mertz.
Michael (Michel) Victor Mertz, giống như Souetre, là quân nhân Pháp, nhưng đó là 10 năm trước khi Souetre nhập ngũ. Cụ thể là trong Thế chiến 2.
Nhưng trước khi Mertz gia nhập quân đội Pháp năm 1941, ông ta đã được nhận vào quân đội Đức. Mertz sinh năm 1920 tại Moselle/Lorraine miền đông bắc nước Pháp, không xa biên giới Pháp – Đức. Toàn bộ quân đội Pháp đã bị đánh tan trong khoảng một tháng bởi quân đội của Hitler và đến tháng 6.1940, chính phủ Pháp là do Henri Phillipe Petain lãnh đạo. Petain là hình tượng anh hùng do xuất sắc khi đánh bại Đức trong Thế chiến 1 tại trận Verdun, nhưng lúc này ông ta lại cộng tác với người Đức, kẻ thù lịch sử của nước Pháp. Chính ông ta đã trao đất nước cho người Đức, và kêu gọi dân Pháp ngừng chiến đấu và tham gia chế độ bảo hộ của Đức quốc xã.
Chẳng bao lâu, guồng máy chiến tranh Đức bắt đầu tuyển mộ người Pháp để tiếp tục chinh phục cả Châu Aâu. Michael Victor Mertz là một trong những thanh niên được tuyển mộ đó, ở tuổi 21, một năm sau khi Pháp đầu hàng. Nên nhớ, đây không phải là đội quân tình nguyện. Dân Pháp, cũng như dân ở những nước khác bị Đức chiếm đóng, được “tuyển” vào lính bằng đe doạ và vũ lực. Mọi kháng cự đối với ý muốn của người Đức sẽ gặp phải những đe doạ cho gia đình người đó. Nếu có ai đó nói với bạn, “Chiến đấu cho chúng tôi hoặc gia đình anh sẽ chết”, thì bạn sẽ làm gì? Chồng bạn, vợ bạn, con cái và cha mẹ của bạn? Tất cả sẽ chết nếu bạn không mặc bộ quân phục này, cầm khẩu súng kia và chiến đấu chống lại những người mà họ muốn bạn chiến đấu.
Nhưng cũng như nhiều thanh niên Pháp yêu nước thời đó, Mertz cũng gia nhập quân đội Đức, rồi đào ngũ ngay khi gặp cơ hội đầu tiên và gia nhập lực lượng Pháp tự do, lực lượng kháng chiến đã thề tiếp tục chống Hitler bằng mọi giá cho dù Petain đã vội vàng ký hoà ước ngừng bắn với Đức.
Lực lượng kháng chiến Pháp là do tướng Charles DeGaulle lãnh đạo.
Mertz hoạt động ở quận Haute – Vienne và Limousin, dọc sông Vienne, phía tây nam Paris. Vào lúc đó, đây là một điểm nóng và còn hơn thế nữa. Nền thủ công nghiệp với những lò gốm sứ và lò gạch ở đây đã bị biến cải để phục vụ chiến tranh của Đức quốc xã, và quan trọng hơn, những tuyến đường xe lửa và đầu mối giao thông ở đây chính là điều Hitler cần để duy trì con đường tiếp tế cho đến lúc kết thúc cuộc chiến.
Không hề quá đáng khi nói rằng Michael Mertz đã thích ứng rất tốt với môi trường mới. Chính tại khu Limousin màông ta học được tay nghề thực sự đầu tiên: kỹ thuật giết người.
Ông ta học môn này rất giỏi.
Thực vậy, Mertz đã gây thiệt hại lớn cho quân Đức đi vào hay rút khỏi lãnh thổ của ông ta đến độ ông lên chức rất nhanh và được giao chỉ huy đơn vị của mình. Không có tài liệu gì nhiều về tài lãnh đạo của Mertz tại mặt trận Pháp, nhưng ta hoàn toàn có thể cho rằng ông ta thăng tiến nhanh và làm đổ nhiều máu quân Đức. Mertz và đơn vị sát thủ của mình đã trở thành huyền thoại trong lực lượng Pháp kháng chiến, và khi chiến tranh kết thúc và những lá cờ Đệ tam Reich của Hitler bị bỏ xó, Michael Victor Mertz đã nổi lên như một anh hùng kháng chiến. Ông ta được thưởng rất nhiều anh dũng bội tinh.
Một người có tài năng và tầm nhìn như Mertz thì không thể bị bỏ quên. Ít lâu sau khi thế chiến 2 chấm dứt, guồng máy tình báo Pháp lập tức chiêu mộ ông ta, sau đó ông ta trở thành một chỉ huy sau nhiều lớp vỏ. Bây giờ thì Pháp đã thoát ách Quốc xã, họ trở lại mô hình đế quốc của chính mình. Việt Nam lại là của họ, được các nước đồng minh trao lại, và cũng đừng quên những xứ bảo hộ khác của họ: Algeria, Morocco và Congo. Nói cách khác, nước Pháp đã sống sót một cách kỳ diệu qua Thế chiến 2 và những cái túi rỗng của họ bây giờ đầy tiền viện trợ tái thiết của Mỹ qua kế hoạch Marshall, họ muốn lấy lại miếng bánh đế quốc mà họ đã hưởng thụ được cả một thế kỷ qua. Hai tỉ đô la viện trợ bổ sung được Tổng thống Harry S. Truman dành cho họ để chống lại cộng sản ở Đông Dương, nhưng ngân sách cho những kế hoạch khác nhằm khôi phục đế quốc thì hầu như không có. Do đó, SDECE cần những nhân viên giỏi có vỏ bọc kín để tiến hành công việc tình báo tại một số nơi trên thế giới, và chúng ta biết Michael Victor Mertz là một trong những người đó. Một trong những nhiệm sở đầu tiên sau thế chiến của ông ta là Morocco, nơi ông đóng vai một sĩ quan quân đội. Mertz làm việc tốt tại đây, tiềm năng của ông đã được chứng tỏ với tổ chức bí mật đã chiêu mộ ông. Những công tác khác của ông có việc phụ trách địa bàn ở Thổ và Đức, nơi mà các lực lượng khởi nghĩa cộng sản đang phát triển (và nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, vào cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950 đã là nguồn cung cấp thuốc phiện chủ yếu cho các tập đoàn ma tuý Pháp).
Đến đây thì ta biết một anh hùng lực lượng Pháp kháng chiến lại làm việc cho SDECE – điều đó không có gì bất thường, vì các cơ quan tình báo thường tuyển mộ các nhân viên có kinh nghiệm quân sự (Lucien Conein chẳng hạn, ban đầu cũng chiến đấu trong lực lượng Pháp kháng chiến, rồi gia nhập quân đội Mỹ, sau đó được CIA tuyển mộ). Nhưng trường hợp Mertz đặc biệt giúp chúng ta nhìn rõ những vùng xám lờ mờ hình thành giữa hai khối trắng và đen trong giai đoạn ấy
Vì trong khi làm nhân viên SDECE cao cấp, Mertz đã dính vào việc buôn bán ma tuý.
Chúng ta không biết chắc điều gì đã khiến ông ta lao vào buôn bán ma tuý. Tuy nhiên có bằng chứng cho thấy nhiều nhân viên SDECE cũng dính líu vào việc buôn lậu bạch phiến, và giàu có lên nhờ nó. Người ta cũng biết được rằng Mertz đã lấy con gái của một người tên là Charles Martel, một chủ nhà chứa người Pháp sau này cũng cùng buôn bạch phiến với Mertz. SDECE, hay Martel, đã đưa Mertz vào hoạt động rất phi pháp này?
Ta hoàn toàn có thể nói rằng có lẽ là cả hai. Tuy nhiên, đến 1960, Mertz không còn hoạt động tích cực cho SDECE nữa. Thay vào đó, ông ta trở thành một trong những trùm buôn lậu bạch phiến từ Marseille sang Mỹ. Thực tế, Mertz đích thân làm việc với những tay khác trong đường dây bạch phiến mà họ cũng là thành viên SDECE từ rất lâu. (Cũng thú vị khi nêu rõ rằng vào cuối thập niên 1940 đầu thập niên 1950, phần lớn thuốc phiện đã được chế biến thành bạch phiến tại Marseille là có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ, và chúng ta biết rằng ở đâu đó trong thời gian đó, Mertz làm việc cho SDECE tại Thổ. Nhưng trong thời Tổng thống Eisenhower, nguồn cung cấp thuốc phiện từ Thổ sang Marseille đã bị cắt vì sự can thiệp của các cơ quan công quyền. Chuyện này gây khó khăn lớn cho giới giang hồ Marseille; không có nguồn cung thuốc phiện ổn định, họ không thể điều hành một đường dây buôn bạch phiến ổn định. Lạ thay, chính Ngô Đình Nhu ở Nam Việt Nam là người, vào năm 1958, đã cho mở lại hoạt động buôn bán thuốc phiện ở miền Nam và trở thành nhà cung cấp thuốc phiện số một cho Marseille). Hệ thống buôn lậu bạch phiến cho Mafia Mỹ của Mertz thật tuyệt hảo. Ông ta điều hành mọi công việc tài chính phức tạp tỉ mỉ (thanh toán tiền bạc, rửa tiền, chuyển tiền bằng điện báo, mở tài khoản mật ở ngân hàng Thụy Sĩ), thuê mướn và huấn luyện và giám sát các nhân viên vận chuyển ma tuý (chính Mertz cũng vận chuyển một số lượng khá lớn trong đời mình), và lập chương trình cho các tuyến buôn lậu (chuyện này đặc biệt quan trọng vì nó không những dính tới chuyện chuyển bạch phiến từ Marseille sang Mỹ mà còn quyết định chuyện lên thời biểu và hẹn giờ giao hàng cho trùm ma tuý bên phía Mỹ nữa). Mertz hoàn tất những công việc này không chút sai sót, và khỏi cần phải nói chuyện những tay trùm bên trên ông ta – anh em nhà Guerini, những kẻ thống trị giới giang hồ Marseille và tập đoàn bạch phiến toàn cầu của họ vào đầu thập niên 1960 – đều rất hài lòng về Mertz.
Mertz mau chóng trở nên giàu có.
Rất nhiều hoạt động của ông ta có dính líu tới việc chuyên chở xe hơi Pháp (chủ yếu là Citroen) từ Pháp sang Mỹ bằng tàu biển. Bên trong những xe này, những chuyên viên của Mertz đã giấu một khối lượng lên đến 220 cân Anh bạch phiến (khoảng hơn 100 kg). Những xe hơi này được tay chân của Guerini trên đất Mỹ mua một cách hợp pháp và rồi chuyển cho những cơ sở thành viên do Mafia Mỹ kiểm soát. Từ những cơ sở đó, bạch phiến nguyên chất được trộn thêm các thứ phụ gia rồi bán ra khắp nước Mỹ – với mức lãi khủng khiếp – cho vô vàn con nghiện Mỹ. Hoạt động của Mertz cũng giấu những lượng bạch phiến khổng lồ trong những động cơ xe hơi đã được thiết kế lại và những máy móc gia dụng cồng kềnh như tủ lạnh chẳng hạn. Sự thực, Mertz đã thành công đến nỗi tổng kết lại ông ta đã chuyển qua Mỹ số bạch phiến trị giá tới nửa tỉ đô la(146){( Một mô tả ngắn về Michael (Michel) Victor Mertz có thể tìm thấy trong The Heroin Trail, tr.109-121. Một sách khác (JFK: Autopsie d’un Crime D’Etat, Flammarion, 1998, của William Reymond) có vẻ cũng là một tường thuật về Mertz; tuy nhiên, chúng tôi không đọc được nó vì chỉ có bản tiếng Pháp)}

Nhưng vào lúc đó, đầu mùa xuân 1961, Mertz đã tạm ngưng công việc buôn bán bạch phiến. Tổ quốc của ông ta lại cần đến ông ta, và Mertz đã tuân lệnh một cách rất sung sướng.
SDECE có một công việc khác cho ông ta.

16. Khủng hoảng
“…một cuộc xả láng của thói bạo dâm
và tàn ác không cần thiết”
(147)[(Porch)].

Xin nhớ cho, vào ngày 22.4.1961, khủng hoảng ở Algeria đã lên tới đỉnh điểm. Đó là lúc viên tướng anh hùng thời chiến Raoul Salan của Pháp, với OAS hậu thuẫn, đã phát động trận đầu tiên của cuộc bạo loạn chống lại điều mà họ xem là sự phản bội của một con người họ từng cống hiến mạng sống của mình: Tổng thống Charles DeGaulle. Bằng vũ lực, họ tiến hành âm mưu đảo chính và chiếm thủ đô Algeria. Aâm mưu này thất bại khi lực lượng quân đội Pháp trung thành với DeGaulle tiến hành phản công và chiếm lại thủ đô. Nhưng đây mới chỉ là bước đầu cho Salan và OAS, và cũng là khởi đầu của một thời khủng bố bắt đầu ngay sau đó, đẩy DeGaulle cùng chính phủ của ông ta tới sát bờ vực sụp đổ. Hệ quả là, DeGaulle nhờ đến những phụ tá tin cậy Roger Frey và Jacques Foccart để chống lại cuộc khủng hoảng này. Hai người đó (tương đương với các cố vấn thuộc bộ ngoại giao cho tổng thống Kennedy khi đối phó với cuộc khủng hoảng Ngô Đình Diệm) bèn kêu gọi sự giúp đỡ của các chuyên gia khác trong chính phủ để soạn ra kế hoạch đánh bại OAS và mối đe doạ của nó.
SDECE có vẻ rất giỏi trong việc đương đầu với vấn đề này, nhưng ở thời điểm đó, ngay cả những giám đốc của SDECE cũng không biết có thể tin ai trong tổ chức của mình. Nhiều nhân viên chỉ huy của SDECE cũng như nhiều sĩ quan quân đội Pháp đã đồng tình với OAS và mục tiêu đấu tranh của nó.
Nên SDECE, ở vào thế phải tự xoay xở để giải quyết vấn đề OAS, đã quyết định nhờ cậy những đồng minh trước đây họ có thể tin tưởng. Những người như Michael Victor Mertz từng làm việc cho SDECE trước đây nhưng nay lại làm cho tập đoàn bạch phiến Marseille. Cũng có thể rằng chính DeGaulle đã phê chuẩn việc chiêu mộ thế giới ngầm Marseille để giải quyết vấn đề của ông ta(148){( The Heroin Trail)}.
Và khi SDECE ngỏ lời yêu cầu, Mertz hoan hỉ nhận lời, nhưng ở đây nảy sinh một câu hỏi đặc biệt: tại sao một người như Michael Victor Mertz lại chịu tạm thời rời bỏ việc buôn bán bạch phiến rất béo bở để đồng ý tham dự một chiến dịch đầy nguy hiểm của SDECE?
Có rất nhiều câu trả lời. Thứ nhất, có một yếu tố thúc đẩy. SDECE biết quá rành việc buôn bán bạch phiến của Mertz, và đã chẳng có ý kiến gì bao năm qua. Hơn nữa, rất nhiều đồng sự trong thế giới ngầm của Mertz cũng từng làm việc cho SDECE trước đó. SDECE đã dành một ưu ái đặc biệt cho những người như họ trong quá khứ – bằng cách đơn giản là để yên cho họ buôn bán bạch phiến – và bây giờ SDECE muốn họ trả lễ. Một lý do hợp lý nữa khiến Mertz mau mắn đáp ứng yêu cầu của SDECE là bởi vì những quan hệ cũ ấy vẫn còn là chỗ bạn bè và đồng loã với Mertz bao năm qua. Khi bạn bè nhờ giúp thì mình giúp. Nhưng vẫn còn một động cơ khác cho sự hợp tác của Mertz, động cơ mạnh hơn tất cả.
OAS đang đe doạ nghiêm trọng an ninh của chính phủ Pháp ở thời điểm đó, và chính phủ Pháp này đã làm ngơ trước trò kinh doanh bạch phiến của tập đoàn Marseille bao lâu nay(149){( The Heroin Trail)}. Những người như Mertz – và thực tế là toàn bộ tập đoàn bạch phiến của anh em Guerini – cần giữ vững chính phủ hiện tại bởi vì nhờ đó công việc của họ mới đứng vững. Nếu phong trào OAS thắng lợi, thì một chính phủ mới sẽ lên nắm quyền ở Pháp, và như thế rất có thể chính phủ mới sẽ không chấp nhận một đường dây bạch phiến quốc tế lại đóng trụ sở trên lãnh thổ của họ. Rõ ràng, chính SDECE và địa vị của nó trong chính phủ DeGaulle đã tạo ra vỏ bọc che chở cho mafia Marseille; chính sự bao bọc này đã giúp những lò chế biến bạch phiến ở Marseille hoạt động hết cỡ trong hai thập niên mà không bị cơ quan công quyền địa phương can thiệp(150){( McCoy)}.
Tài liệu cũng ghi nhận rằng nhiều thành viên của tập đoàn bạch phiến Marseille cũng làm việc cho SDECE, và ở đây có thể liệt kê ra một ít:
Joseph Attia: đầu lĩnh ma tuý Pháp trong nhiều năm, và cũng là tay ám sát của SDECE
Christan David: một cái tên quen thuộc với giới nghiên cứu JFK, cụ thể là qua cuộn băng tài liệu của Nigel Turner, The Men Who Killed Kennedy (“Kẻ đã giết Kennedy”) (ta sẽ bàn sau về những dính líu của David). David từng ở tù vì buôn bán bạch phiến, ông ta cũng được SDECE tuyển mộ để chống lại những lãnh tụ cộng sản khởi nghĩa ở Morocco. Sự thực, David đã khai rằng ông ta nhận khoảng 150.000 USD cho việc tham gia ám sát một lãnh tụ phe tả ở Morocco, rồi đốt và chôn xác ông này.
Andre LaBay: từng ở tù vì buôn bán bạch phiến và qua những đầu mối SDECE, ông ta cũng được tuyển mộ cho những chiến dịch chống OAS.
Ange Simonpieri: cũng bị tù vì ma tuý và cũng làm việc cho SDECE chống lại OAS
Roger Delouette: cũng bị tù vì ma tuý và cũng làm việc cho SDECE ở Algeria.
Achille Cecchini: trùm ma tuý quan trọng ở Pháp. Ông ta làm việc cho SDECE và là đối tác lớn của Michael Mertz. Cecchini là tay phụ trách nhập khẩu thuốc phiện cho cơ sở chế biến bạch phiến của Guerini(151){( The Heroin Trail)}.
Như một bè lũ phục vụ cho SDECE, những con người này đã góp mặt vào một thứ mà Douglas Porch, trong tác phẩm The French Secret Services (“Mật vụ Pháp”), đã gọi là “…một cuộc xả láng của thói bạo dâm và tàn ác không cần thiết”. Nói cách khác, họ không thích giỡn chơi. Họ làm thật.
Dù thế nào, khi đồng ý chiến đấu chống OAS, Mertz cùng các đồng sự cũng thực sự chiến đấu bảo vệ chuyện làm ăn đã từng – và sẽ còn – giúp họ trở nên giàu có và thế lực.
Mertz chiến đấu cho quyền lợi của riêng ông ta. Và ông ta đã chiến đấu rất giỏi.
Mertz là mật viên để kết liễu mọi mật viên khác, với kế hoạch cực kỳ kín đáo. SDECE phái ông ta sang Algeria với giấy tờ chứng minh ông ta là một đại uý nhảy dù. Từ đây ông ta mau chóng len vào hàng ngũ OAS và được coi là cảm tình viên thực sự của OAS. Đó chỉ là trò đóng kịch và hơn nữa Mertz đã làm việc này với tài ba của một kịch sĩ Hy Lạp. Đến mùa hè 1961, Mertz đã qua mặt những kẻ thù OAS xuất sắc đến nỗi chính những kẻ thù này quyết định chiêu mộ ông ta vào hàng ngũ và cử ông ta đi làm nhiệm vụ không chỉ ở Algeria mà còn ở chính quốc Pháp. Thế là Michael Mertz, một tay buôn bạch phiến và nhân viên SDECE, đã thi triển tài năng của mình đến mức được kẻ thù kết nạp vào hàng ngũ. Một công việc quá tuyệt vời.
Nhưng sau cùng, công việc của Mertz không chỉ là xâm nhập vào OAS và trở nên một trong những thành viên đáng tin cậy – điều này ông ta đã làm được – mà còn là cung cấp, bất cứ khi nào có thể, tin tình báo về OAS và chuyển về cho SDECE. Đây là công tác khó khăn và nguy hiểm nhất cho Mertz. Một sơ suất có thể trở thành đại họa. Chỉ một lỗi lầm rất nhỏ thôi, Mertz cũng biết rõ mình sẽ kết thúc với cuống họng bị cắt toạc từ tai bên này sang tai bên kia.
Nhưng Mertz không phạm một sai lầm nào.
Thay vào đó, cách ông ta làm là dàn xếp cho mình bị bắt cùng với một số sĩ quan OAS khác, những sĩ quan tuyệt đối tin tưởng ông ta. Họ chưa bao giờ nghi ngờ lòng trung thành của Mertz đối với sự nghiệp chống DeGaulle. Khi cả bọn bị bắt – vì tội phổ biến những tài liệu tuyên truyền OAS tại Paris – Mertz dàn xếp cho mình bị đưa vào một trại giam OAS cùng với các sĩ quan OAS kia. Lúc đó là tháng 7.1961, và từ chổ đó, trong trại giam nhốt đầy thành viên OAS, Mertz trở nên cực kỳ hữu ích cho SDECE. Ông ta trở thành tai mắt cho những người đã tin cậy mình.
Mertz là con ruồi trên tường, và con ruồi này biết rất nhiều chuyện.
Ông ta đã xâm nhập vào nhóm sĩ quan thân tín nhất của OAS đến độ ông ta trở thành người được biết về các kế hoạch chiến thuật và chiến lược của OAS.
Một trong những kế hoạch ấy là một chiến dịch tinh vi nhằm ám sát Charles DeGaulle.
Thực vậy, OAS đã tìm cách giết DeGaulle nhiều lần trước đó, nhưng tất cả đều thất bại và những vụ đó đều được giữ kín không cho báo chí và công chúng biết. Một số vụ trong đó cũng được nhắc đến nhưng không được triển khai rộng rãi. Chỉ là những mẩu tin nhỏ chen giữa những bài báo lớn hơn. Chính phủ DeGaulle vẫn còn kiểm soát được báo chí rất chặt chẽ, và họ biết rằng không thể chấp nhận chuyện để cho dân chúng cử tri biết được bè lũ khủng bố có tên là OAS đã nhiều lần suýt hạ sát được tổng thống của họ. (Cảm tưởng này trong tương lai lại hoá ra sai – thực tế nó có thể là vũ khí hữu hiệu nhất cho DeGaulle và chính phủ của ông ta – nhưng chúng ta sẽ bàn chuyện đó sau).
Mertz, trong việc xâm nhập thành công vào hàng ngũ chóp bu OAS bị giam chung với mình, đã biết được âm mưu ám sát DeGaulle bằng một cuộc đánh bom cho nổ tung xe của ông ta trên con đường ông vẫn thường về nhà qua một nơi gọi là Pont-sur-Seine.
Qua những đầu mối liên lạc trong tù, Mertz đã báo được cho SDECE về vụ mưu sát sắp tới này. Foccart và thuộc viên bèn dựng một kịch bản để đưa Mertz ra khỏi trại giam mà không làm cho các sĩ quan OAS sinh nghi. Rồi Mertz có thể trình bày lại toàn bộ các chi tiết của âm mưu cho SDECE, và lập tức sau đó, Mertz được trả về trại để duy trì lớp vỏ bọc đáng tin cậy của mình. Thực ra, Mertz chưa hề bị lộ vỏ bọc. Trong khi đó, SDECE đã chuẩn bị tốt để đối phó với âm mưu của OAS. Kế hoạch này bị ngăn chặn và những tay mưu sát bị bắt giữ.
Mertz một lần nữa lại trở thành anh hùng. Ông ta đã nhận nhiều huân chương trong khi tham gia lực lượng Pháp kháng chiến hồi Thế chiến 2, và bây giờ lại có công trong việc cứu mạng DeGaulle nhờ xâm nhập thành công vào OAS.
Nhưng Mertz còn làm hơn thế nữa.
Chính nhờ những nỗ lực “ái quốc” của bọn barbouze, bọn giang hồ Marseille và đảo Corse, mà SDECE mau chóng thu lượm được đủ tin tức tình báo về OAS và bắt giữ được những thành viên chỉ huy cao nhất của tổ chức này. Trong số đó, tướng Salan, thủ lãnh của họ, đã bị bắt giữ và tống giam cùng nhiều thành viên sáng lập quan trọng nhất. Tuy không ai biết đích xác đã có bao nhiêu thành viên OAS đã bị tống giam nhờ nỗ lực của dân barbouze, nhưng cũng có thể ước đoán, dựa theo nhiều tài liệu, rằng những chiến dịch của Mertz và bọn đồng sự buôn bán ma tuý đã cung cấp tin tình báo để chính phủ Pháp nắm được khoảng 600 kẻ tình nghi thành viên OAS và số người này sau đó đã bị bắt và tống giam. Đáng chú ý hơn là chuyện có 69 người trong số bị kết án và tống giam này từng là dân ám sát thực sự(152){( Porch)}.
Sau đó, Mertz được cấp trên SDECE khen thưởng. Hơn tất cả những người khác thuộc lớp barbouze, Mertz là kẻ thành công nhất. Ông ta cứu mạng DeGaulle và đem về vô số tin tình báo quí giá cho SDECE, dẫn đến việc bắt giữ được hàng trăm thành viên của tổ chức khủng bố này. Rút lại là thế này: điều DeGaulle cần nhất thì barbouze đem lại được. Một phần tử của thế giới ngầm tội phạm lại một lần nữa liên minh với tổ chức tình báo hàng đầu của chính phủ Pháp, và làm việc đáng đồng tiền bát gạo. Những tay giang hồ đó đã làm được điều mà quân đội Pháp không làm được. Những tên “buôn bán bạch phiến” này đã đạt được những điều mà bằng sức mình SDECE không bao giờ hy vọng đạt được.
Một bè lũ buôn bán ma tuý đã góp phần cứu nền Đệ ngũ Cộng hoà của DeGaulle.

17. QI/WIN
“Những tài liệu của Pháp cho thấy Souetre
là tên của một cựu đại uý quân đội Pháp
từng trốn thoát khỏi một trại giam năm 1961”
- HỒ SƠ CSCI – 3/776.742 CỦA CIA

Việc các cơ quan tình báo của chính phủ tuyển mộ những tay tội phạm hay thành viên tội phạm có tổ chức để làm một số công tác gì đó, nhất là những công tác không được phê chuẩn (nghĩa là không được chính quyền chính thức bảo trợ) mà cơ quan tình báo đó không thể trực tiếp can dự, cũng không phải là phương pháp hoạt động khác thường gì. Chúng tôi cũng đã nói tới trường hợp CIA sử dụng phương pháp này, thí dụ như trả tiền mặt cho giang hồ Marseille gốc đảo Corse để phá vỡ hàng rào của những công nhân bãi công ở các bến tàu(153) [(McCoy)]. Ta cũng quá biết chuyện các đầu mối liên lạc của CIA cũng từng chiêu mộ những tay Mafia Mỹ như John Roselli, Santos Trafficante, Jr., và Sam Giancana để tổ chức ít nhất là một âm mưu ám sát Fidel Castro(154) [(Roberts)]. Hơn nữa, tài liệu cũng chứng tỏ rằng CIA đã dung túng cho, và thậm chí còn liên kết với, những hoạt động của những tổ chức chống Liên Xô tại Afghanistan chuyên bán thuốc phiện để có tiền dành cho cuộc chiến chống Liên Xô(155) ([McCoy (McCoy cũng nói tới những liên minh của CIA với các tay buôn bạch phiến Lào và giới buôn thuốc phiện người Hoa tại Miến Điện)].
Nhưng xét về SDECE, việc họ liên kết với dân giang hồ bản xứ và dân buôn bán bạch phiến đã đạt được mục tiêu một cách gần như hoàn hảo. Dùng bọn anh chị thâm nhập vào OAS hoá ra là một thủ pháp khôn ngoan. Nhưng phải chăng do tình cờ mà Michael Mertz và Jean Souetre lại ở cùng trại giam OAS năm 1961? Chúng tôi không nghĩ thế. Chúng tôi tin rằng hai người này đã gặp nhau, rằng họ đã biết nhau. Và lý do khiến chúng tôi tin như thế không dựa trên võ đoán. Nhân vật Jean Souetre thực đã thừa nhận điều này với một phóng viên Pháp tên là Jacques Chambaz năm 1983, và với Monique Lajournade (một trong những nhân viên nghiên cứu của O’Leary, đồng tác giả cuốn sách này) vào ngày 9.6.1999(156) [(Hurt; Chambaz, Jacques, “French Terrorist Accused of Murdering Kennedy”, Le Quotidien de Paris, 1.1.1984 (Đây là cuộc phỏng vấn Souetre duy nhất lục tìm được suốt nhiều năm. Tuy nhiên, cuộc phỏng vấn Souetre của chính chúng tôi ngày 9.6.1999 là cuộc phỏng vấn gần đây nhất và bao quát nhất tính cho đến nay)].
Souetre, như chúng ta biết qua hồ sơ CSCI – 3/776.742 của CIA, đã trốn thoát khỏi trại giam đó. Nhưhg chúng ta cũng biết rằng Souetre, sau khi trốn thoát, vẫn là một sĩ quan cao cấp của OAS. Hắn được tin cậy trong công tác tình báo của OAS đến độ được chọn là người tiếp xúc với CIA để xin giúp đỡ cho các hoạt động chống DeGaulle. Souetre được nêu tên như một thành viên tham gia một âm mưu ám sát DeGaulle trước đó. Trong khuôn khổ OAS, Souetre là một nhân vật quan trọng.
Nhưng khi đã biết rằng Souetre và Mertz đã biết nhau (và nhất là khi biết rằng Mertz đã góp phần phá tan OAS bằng cách xâm nhập vào nội bộ) thì có vô lý không khi cho rằng Souetre cũng là một trong những người bị Mertz lừa? Nếu cả hai ở trong cùng trại giam vào cùng một quãng thời gian – điều này rất có thể – thì cũng không khó gì khi tưởng tượng ra Mertz đã thu được thông tin về một âm mưu mới nhằm ám sát DeGaulle ở đâu ra: chính là từ Mertz, một trong những tay có dính líu tới lần ám sát hụt trước đó. Và cho dù chuyện không phải như thế, thì Mertz và Souetre vẫn ở hai phía đối địch – họ là kẻ thù của nhau. Souetre chiến đấu để phục hồi chủ nghĩa đế quốc Pháp và kết liễu chính phủ DeGaulle. Mertz chiến đấu vì sự sống còn của chính phủ vì nó bảo đảm tài sản và quyền lực cho ông ta, cũng như quyền lực của hoạt động buôn lậu bạch phiến của Marseille.
Sau khi ghi nhớ điều này, ta hãy trở lui lại một chút. Một số tài liệu đáng tin cậy quanh vụ ám sát JFK đã nối Jean Souetre với một dãy mẫu tự sau: QI/WIN.
Rõ ràng đây là một mã danh gì đó của CIA (ta có thể nghĩ nó như một mật danh, tuy gọi là mật danh thì không đúng thuật ngữ)(157) [(Final Repot of the Assassination Records Review Board (Báo cáo chung quyết của Tiểu ban tái thẩm hồ sơ về vụ ám sát), ch.5, tháng 9.1998)]. Đôi khi những mã danh này không liên quan tới một cá nhân đơn lẻ mà tới một điệp vụ gì đó. Nói cách khác, có thể nhiều người dùng chung một mã danh, hoặc đôi khi mã danh chẳng liên quan tới một cá nhân nào, mà tới một chiến dịch của CIA. Thí dụ, mã danh MH/CHAOS vào thập niên 1960 không phải là một cá nhân mà là một chiến dịch liên quan đến những người phản chiến (158) [(Becket)]. Một thí dụ khác, mã danh ZR/RIFLE không dùng cho một nhân viên cấp chỉ huy của CIA mà là một chương trình tuyển mộ những con người hoặc tội phạm nước ngoài có thể sử dụng cho những vụ ám sát chính trị ở nước ngoài(159) [(Duffy)]. (Chính là chương trình trong đó CIA hợp đồng thuê trùm mafia Florida là Santos Trafficante tìm tay bắn tỉa để giết Castro)(160) [(Roberts)]. Ngược lại, và thường thấy hơn, mã danh theo kiểu này cũng được dùng cho một cá nhân, hoặc là cấp chỉ huy trong CIA, hoặc điệp viên, cơ sở hay kẻ tình nghi (GP/FLOOR chẳng hạn được CIA dùng để chỉ Lee Harvey Oswald trong cuộc điều tra sau vụ ám sát)(161) [(Final Repot of the Assassination Records Review Board, ch.5, tháng 9.1998)].
Và trong lĩnh vực nghiên cứu về vụ ám sát Kennedy, mã danh trên – QI/WIN – xuất hiện với một tần số gợi tò mò. Một số chuyên gia về JFK tin rằng Jean Rene Souetre và QI/WIN là một người. Và những chuyên gia này khẳng định rằng QI/WIN là một người nước ngoài có liên lạc với dân giang hồ Mỹ và có dính líu vào chương trình hoạt động của CIA(162) [(Duffy)]. Hãy khảo sát chuyện này một lát. Chúng ta đã biết rằng Souetre ít nhất cũng là một tay ám sát tiềm năng (qua mối liên hệ của hắn với âm mưu ám sát DeGaulle của OAS, đó là chưa nói tới việc OAS từng chủ động ám sát nhiều người chống đối hoạt động của họ); chắc chắn quá trình huấn luyện chiến đấu trong quân đội, kinh nghiệm trận mạc ở Algeria, và những kinh nghiệm trong hoạt động khủng bố với OAS, có thể bày ra những kỹ năng mà CIA tìm kiếm ở những ứng viên cho chương trình ZR/RIFLE. Ngoài ra, chúng ta biết rằng Souetre có liên lạc trực tiếp với các nhân viên CIA ở Lisbon, khi hắn ta yêu cầu CIA ủng hộ OAS chống DeGaulle. Ba dữ kiện nêu trên có thể tạo ra nền tảng vững chắc cho việc suy đoán Souetre là QI/WIN. Tuy nhiên, chúng tôi không nghĩ thế.
Những tài liệu nói về việc Souetre tiếp xúc với CIA để xin giúp đỡ cũng ghi nhận rằng các đại diện CIA đã từ chối Souetre. Họ đã cự tuyệt thẳng thừng. Và điều này hợp lý vì, như hồ sơ CSCI-3/776.742 hàm ý, CIA chẳng có lý do gì để ủng hộ bất kỳ hoạt động nào chống DeGaulle và chính phủ của ông ta. Trong chừng mực liên quan tới Mỹ, DeGaulle và chính phủ Pháp là đồng minh quý giá và đáng tin cậy. Mỹ chẳng có lý do gì để ủng hộ một nhóm khủng bố cánh hữu lật đổ DeGaulle nhằm giữ chặt Algeria dưới chế độ thuộc địa Pháp, nhất là khi chính John Kennedy là người thúc giục DeGaulle trả độc lập trọn vẹn cho Algeria và triệt thoái mọi ảnh hưởng của Pháp ở xứ sở này.
Phải, nên nếu đó không phải Souetre, thì có lẽ đó là Mertz, người có cái tên thường bị lẫn lộn với tên của Souetre. Dù sao, Mertz cũng có những liên hệ rõ rệt với Mafia Mỹ vốn là khách hàng ma tuý tốt nhất của ông ta. Và tuy không thể chứng minh được rằng chính Mertz đã có liên lạc trực tiếp nào đó với CIA, nhưng chúng ta cũng biết rằng những ông trùm bên trên ông ta – anh em Guerini, những kẻ kiểm soát toàn tập đoàn bạch phiến Marseille – cũng có quan hệ khi CIA tuyển mộ họ để giải tán những cuộc bãi công của công nhân bến tàu tại Marseille năm 1947 và năm 1950. Thực vậy, điều này được coi như một “quan hệ” với CIA, nhưng chúng ta đang nói về điều đã xảy ra hơn 30 năm trước so với thời điểm 1963, và lúc đó CIA đã rời khỏi Marseille từ lâu. Đến lúc này, được SDECE bảo vệ kỹ lưỡng, có thể có lý do gì khiến băng Guerini tái lập lại những liên hệ với CIA, nhất là khi ông chủ của CIA – chính phủ Mỹ – lại là một trong những chính quyền phê phán gay gắt nhất về thị trường bạch phiến Marseille? Sau cùng, chính phủ Mỹ thời Kennedy là một kẻ thù cay đắng đối với tập đoàn Marseille, vì tập đoàn này đang chuyển bạch phiến sang cho Mafia Mỹ, mà chính phủ Kennedy đang ra sức chống lại bọn này. Do đó chúng tôi không tin QI/WIN là Mertz. Sự thực, chẳng có gì đủ thuyết phục để ủng hộ ý niệm rằng mã danh QI/WIN của CIA là có liên quan tới Mertz hoặc Souetre. Chúng tôi có thể sai, nhưng chúng tôi không thể hiểu rốt ráo chuyện này.
Khởi đầu phần tham chiếu có vẻ xuất phát từ một điều tưởng như không liên quan nhưng vẫn rất thú vị. Nó dính đến một kẻ lôi thôi có tên là Thomas Eli Davis III, người cùng với Jack Ruby buôn lậu vũ khí vào Cuba(163) [(Benson)]. Davis cũng bị nghi từng là một đầu mối của CIA(164) [(Roberts, Craig và John Armstrong, JFK: The Dead Witnesses (Consolidated Press International, 1995)]. Ly kỳ hơn, Davis đã bị tù ở Tangier, và bị nhà cầm quyền Morocco câu lưu vì sở hữu một lá thư trong đó có nói tới Lee Harvey Oswald và vụ ám sát JFK (Vụ này chưa tới một tháng sau khi JFK chết). Trong tác phẩm Conspiracy (“Aâm mưu”) của Anthony Summers, chúng ta biết được phần lớn về giai đoạn rối rắm này. Các hồ sơ FBI xác định Davis là một tay cướp ngân hàng có quan hệ với CIA và có biết Jack Ruby. Davis hoá ra lại là một trong những kẻ đã bị chết một cách mờ ám sau khi người ta thấy hắn có thể có thông tin về vụ ám sát Kennedy. (Hắn bị điện giật trong khi đang cắt dây điện. Hay thật). Nhưng mối liên hệ của Davis với mã danh QI/WIN có nguồn gốc từ hồi hắn bị tù lần đầu ở Tangier. Davis được thả nhờ sự vận động của một nhân viên CIA được biết dưới mã danh QI/WIN. Năm 1975, Uỷ ban tình báo thượng viện xác nhận rằng QI/WIN thực sự là một thành viên CIA có những quan hệ với bọn tội phạm và được CIA tuyển mộ đâu đó tại châu Aâu(165) [(Summers)]. Cái này là chút bằng chứng quý báu cho thấy rằng QI/WIN có thể là Souetre hoặc Mertz. Peter Dale Scott, trong cuốn Deep Politics and the Death of JFK (“Nền chính trị ngầm và cái chết của JFK”) đưa ra luận điểm rất hay rằng QI/WIN có thể là một điệp viên có liên quan đến chương trình ZR/RIFLE có tên là Charles Siragusa(166) [(Scott, Peter Dale, Deep Politics and The Death of JFK (University of California Press, 1993)].
.
Nhưng vì nhiều hàm ý đã xuất hiện trong giả thuyết về vụ ám sát JFK cho rằng Souetre và QI/WIN là cùng một người, nên chúng tôi cảm thấy nên đề cập tới giả thuyết đó ở đâu và trình bày những nghi ngờ của chúng tôi. Chúng tôi không quan tâm lắm đến lai lịch đích thực của mã danh bí hiểm này của CIA; điều chúng tôi quan tâm là mối liên quan trực tiếp của Souetre và/hoặc Mertz đối với chuyện đã xảy ra ở Dallas ngày 22.11.1963. Chúng tôi đã trưng dẫn hầu như mọi điều đã được chính thức thừa nhận về Jean Rene Souetre, nên bây giờ chúng tôi tập trung hơn vào nhân vật Mertz – cái tên được nêu trong 632-796 như một tên giả của Souetre. Cần có những điều gì khác về Michael Victor Mertz để ráp xong các mẫu trong bức hình của ông ta?
Sự kiện ông ta biết Souetre – và là một kẻ thù của Souetre – là cực kỳ quan trọng và chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về chuyện này sau. Nhưng xin nhớ, chính Mertz đã đích thân xâm nhập vào trại giam và moi được các chi tiết về âm mưu ám sát DeGaulle kế đó, và việc làm của ông ta đã đem lại cho SDECE những thông tin cần thiết để phá tan âm mưu này. Thông tin này không những cứu mạng DeGaulle mà còn góp phần lớn hơn bất cứ gì khác vào việc làm sụp đổ OAS. Không như những vụ mưu sát trước đó, kế hoạch lần này – ở Pont-sur-Seine – được báo chí tường thuật chi tiết, và khi dân chúng biết chuyện này, họ thật sự kinh hoàng. Chút thiện cảm của họ dành cho sự nghiệp của OAS, nếu có, cũng trôi theo dòng nước cống. Sự ủng hộ của công chúng bây giờ hướng về DeGaulle và nền Đệ ngũ Cộng hoà, và OAS từng một thời hùng mạnh bây giờ hoàn toàn sụp đổ.
Từ đó về sau, SDECE rất được DeGaulle ưu đãi. Nhưng chuyện này còn để lại một vấn đề nhỏ.
Khi SDECE đã đạt được mục tiêu vô hiệu hoá OAS, họ thấy mình mắc nợ quá nặng đối với Mertz và những tay giang hồ tham gia chiến dịch này. Giới tội phạm Marseille đã cứu SDECE ra khỏi thế bí…
Bây giờ đã đến lúc phải trả lễ.
Trong khi đi làm công tác mật cho SDECE, Mertz đã bỏ ngang chuyện buôn bán bạch phiến với Mafia Mỹ thông qua những đầu mối ở Montreal và New York City. Nhưng để trả món nợ đó, SDECE thuyết phục Bộ Nội vụ Pháp lo mọi chi phí để chuyển Mertz và vợ sang Canada nơi ông ta có thể tái lập lại đường dây bạch phiến vào New York City với Mafia Mỹ.
Trong vòng một tháng, Mertz đã giàu có trở lại, và đến tháng 1.1962, các đầu mối của ông ta đã được củng cố lại, và ông ta trở về Pháp để điều hành đường dây bạch phiến này ở phía châu Aâu cho tập đoàn ma tuý của anh em Guerini. Công việc phát đạt trở lại.
Đến lúc này, Mertz đã có những tài khoản khổng lồ trong ngân hàng Thụy Sĩ để gửi những khoản lợi nhuận kếch xù. Hãy nhớ rằng, trên danh nghĩa ông ta vẫn sống bằng lương hưu của một đại uý, vậy mà Mertz, năm 1969, đã sở hữu một khu đất săn bắn hơn một ngàn mẫu thuộc loại tốt, một sân bay riêng, nhiều căn hộ đắt tiền ở Paris và Metz, những điền trang ở quê nhà Moselle, nhà nghỉ ở Corsica, biệt thự riêng gần Paris và máy bay riêng.
Mertz là một chục lần triệu phú, và ta có thể thấy SDECE trả công phục vụ cho ông ta như thế nào. Họ cho phép ông ta duy trì chuyện buôn bán ma tuý, cũng như cho phép tất cả những tay giang hồ khác từng tham gia chống OAS. Họ giúp đỡ bằng cách tiếp tục bao che các lò chế biến bạch phiến ở Marseille và giữ cho đường dây phân phối toàn cầu không bị bất kỳ cơ quan công quyền nào cản trở. Làm khác đi là có nguy cơ gặp tai hoạ lớn không thể tưởng tượng được. Nếu bộ phận khác nào đó trong chính phủ – độc lập với SDECE – khởi sự tấn công vào đường dây ma tuý Marseille và bắt giữ những thành viên trong đó, những tay buôn ma tuý nổi giận lên sẽ bắt đầu khai ra SDECE đã chiêu mộ giới tội phạm cho những chiến dịch của chính phủ như thế nào (một số chiến dịch cũng dính đến chuyện ám sát và tra tấn người Pháp). Chuyện này sẽ huỷ diệt không những uy tín của SDECE đối với cộng đồng các cơ quan tình báo quốc tế mà còn bôi đen lên toàn cấu trúc và bộ mặt của chính phủ Pháp.
Không thể để chuyện này xảy ra được, và đó là lý do tại sao SDECE đã cố hết sức mình để bảo vệ quyền lợi của nghành bạch phiến Marseille. (Cũng có thể cho rằng một phần lợi nhuận từ ma tuý cũng rơi vào tay một số quan chức SDECE để trả ơn họ cộng tác).
Trong khi đó, về phía Mỹ, Cục ma túy liên bang (tiền thân của DEA ngày nay) bắt đầu bắt giữ được nhiều tay chuyển hàng của Mertz, và một số tên trong đó đã thừa nhận rằng Mertz là tay điều hành đường dây. Sau đó, Cục ma tuý liên bang lập tức kiến nigh phản đối với giới chức Pháp rằng Michael Mertz đã cầm đầu một mạng lưới đã buôn lậu hơn ¼ tấn bạch phiến mỗi năm vào đất Mỹ(167) [(Tư liệu về những dàn xếp trực tiếp của SDECE cho Mertz sau những nhiệm vụ trong OAS đã được hoàn tất; tư liệu về các tài khoản trong ngân hàng Thụy Sĩ của Mertz và tài liệu và các sở hữu bất động sản đều dựa trên lương đại uý; và những ngụ ý rằng SDECE từ chối bắt giam Mertz vì tội buôn bán bạch phiến sau nhiều phản đối của Cục ma tuý Mỹ; và những ngụ ý khác cho rằng Mertz đã ngồi tù ở mức tối thiểu cho những trọng tội; The Heroin Trail, tr.113-119 (Ý kiến cho rằng SDECE nhận tiền từ tập đoàn bạch phiến này mà nó bảo vệ không được nêu trong The Heroin Trail nhưng đó là bản kết luận hợp logic của các tác giả sách này)].
Dĩ nhiên, SDECE cũng có một số ảnh hưởng đáng kể đối với các giới chức Pháp này. Thí dụ, chi nhánh Paris của Cục quản lý ma tuý và các thuốc nguy hiểm tại châu Aâu chẳng bao giờ nghe nói tới Michael Mertz(168) [(The Heroin Trail)]. Họ không có khả năng tìm ra bất kỳ thông tin nào về Mertz, một kẻ chắc chắn có hồ sơ quân nhân. Rõ ràng, SDECE đã giấu những hồ sơ này, và thêm những hồ sơ quan trọng hơn thế nữa. Mọi hồ sơ ghi nhận sự tồn tại của Mertz đã biến mất một cách đơn giản và tiện lợi.
Tóm lược lại, Cục ma tuý Mỹ khiếu nại về Mertz với giới chức Pháp suốt bốn năm và họ không có hành động gì cả. Trong thời gian đó, Mertz và tập đoàn Marseille (nhất là Cecchini) tiếp tục đưa những lượng bạch phiến lớn sang đất Mỹ(169) [(The Heroin Trail)]. Còn Cục ma tuý Mỹ cứ tiếp tục khiếu nại còn phía Pháp cứ làm như chẳng có chuyện gì. Họ không chịu làm bất cứ gì dính tới Mertz, cho dù cả đống bằng chứng đã được ném xuống bàn của họ.
Tại sao? Đơn giản thôi. Nếu SDECE để cho những người như Mertz bị bắt và tống giam vì tội ma tuý thì SDECE, cũng như chính DeGaulle, sẽ gặp nguy cơ rất lớn. Nhưng khi DeGaulle từ chức năm 1969 (ông ta chết một năm sau đó), tổng thống kế nhiệm, George Pompidou, đã tìm cách khống chế SDECE bằng cách bổ nhiệm một giám đốc mới không có quan hệ chính trị gì cả. Nên khã năng bao che cho tập đoàn Marseille của SDECE sút giảm đáng kể, hoặc ít nhất nó cũng suy giảm đến mức SDECE không còn đủ sức giữ cho Mertz và những người như ông ta không bị bắt giữ nữa.
Rút cuộc, sau nhiều năm Cục ma tuý kiên trì gây áp lực, Mertz đã bị bắt và xử vì tội buôn bán ma tuý. Công lý sau cùng đã được thực thi… phải vậy không? Mertz lãnh một bản án năm năm – một bản án nhẹ nếu xét tới việc ông ta đã phân phối nhiều tấn (không phải gram, bịch, hay bánh – mà là tấn) bạch phiến tinh chế sang đất Mỹ. Tại hầu hết các nước, kể cả Mỹ, án dành cho buôn bán ma tuý với lượng lớn như vậy sẽ lập tức là tù chung thân không phóng thích trước thời hạn… nhưng Mertz chỉ lãnh án năm năm. Cộng sự đắc lực của Mertz, Achille Cecchini, cũng lãnh một mức án như vậy nhưng không ngồi tù ngày nào vì một bác sĩ “do toà chỉ định” xác định rằng hắn ta quá yếu không thể sống được trong môi trường nhà tù. Quá yếu không đủ sức ngồi tù nhưng vẫn đủ sức lui tới những hộp đêm tại Marseille và tiếp tục đi lại với những trùm ma tuý thời hậu Guerini(170) [(The Heroin Trail)].
Còn Mertz thì sao? Ông ta được phóng thích sau khi ngồi tù tám tháng cho bản án năm năm ấy, và ta có thể dễ dàng hiểu ra tại sao.

18. Những điều lụn vụn và lặt vặt
“Bộ não (Kennedy) đã được giao cho
Phó Đô đốc Burkley trong một cái xô …”
- BÁC SĨ THORNTON BOSWELL(172) [(Horne, Douglas ARRB MEMORANDUM FOR FILE: “Questions Regarding Supplementary Brain Examinations Following the Autopsy of President John F.Kennedy”, 28.8.1996 (trích bút lục cuộc phỏng vấn bác sĩ J. Thornton Boswell)]

Trong một lúc – hoặc một đoạn khá dài – ý nghĩ cuối cùng của chương trước và một số phần thuộc các chương khác đã quanh quẩn với những điều vốn không nhất thiết liên quan đến những yếu tố cốt tuỷ của cuốn sách này nhưng vẫn thú vị như thường – những điều mà bạn có lẽ không được biết, và những khía cạnh khác của cuộc tranh luận về việc sát hại JFK mà gần đây đã xuất hiện những tia sáng mới.
Nonsenko và KGB
Từ lâu đã có một lực lượng những người luôn tin rằng Kennedy bị giết trong một âm mưu do Liên Xô và Nikita Khruschev sắp đặt. Cơ sở bằng chứng cho giả thuyết này nằm trong lời tuyên bố rằng công dân Xô-viết vượt tuyến đầy tai tiếng Yuri Nonsenko chẳng phải là kẻ vượt tuyến sang hàng ngũ địch gì cả, mà y chỉ là nhân viên KGB được phái đi để gỡ mối nghi ngờ đối với Moscow quanh vụ ám sát JFK. Những người theo thuyết này cho rằng, Nonsenko trước đây đã tạo dựng uy tín với CIA bằng cách bán cho họ những tin tức tình báo trong khi đang giữ một chức vụ cao trong KGB. Hai tháng sau khi Kennedy bị giết, Nonsenko thông báo với CIA rằng anh ta muốn đảo ngũ và thời điểm đảo ngũ phải là ngay lúc đó vì thượng cấp của anh ta đang nghi ngờ anh ta.
Do đó, CIA chộp ngay lấy anh này.
Điều chủ yếu trong những thông tin mà Nosenko trao cho những người Mỹ đã cứu giúp mình là lời tuyên bố rằng anh ta chính là người giám sát hồ sơ KGB về Lee Harvey Oswald. Anh ta tuyên bố rằng, cho dù KGB có một hồ sơ Oswald, họ chưa hề tỏ ra quan tâm tới tay này khi cần tuyển nhân viên, chưa hề sử dụng tay này trong bất kỳ hoạt động dưới vỏ bọc hay những hoạt động khác, và đã lập tức loại bỏ ông ta ra như một mẫu giấy vụn. Tất cả những điều này khiến CIA suy ra rằng Oswald không liên hệ gì với KGB khi ông ta giết Kennedy và do đó Liên Xô không liên quan gì tới vụ ám sát này(173) [(Benson)].
Tất cả các thông tin trên chủ yếu là đúng sự thật , tuy nhóm theo giả thiết Liên Xô vẫn cho rằng đó là một trò lừa, và thông tin của Nosenko về Oswald thực ra chỉ là thông tin giả, một lời nói dối nhằm làm lạc hướng nghi ngờ đối với Liên Xô. Sau này người ta khám phá ra rằng Nosenko đã nói dối vài điều quanh vai trò của anh ta trong KGB, và nhóm theo giả thuyết Liên Xô tin rằng nếu anh ta đã nói dối về những điều đó thì anh ta cũng nói dối về chuyện KGB chẳng quan tâm gì tới Oswald, có nghĩa là Oswald đã giết Kennedy như một phần trong âm mưu của Khruschev/ Liên Xô.
Từ 1995, một số những hồ sơ của chính phủ Mỹ đã được giải mật và công bố toàn văn, và tài liệu nhiều tiết lộ nhất trong số đó cho chúng ta biết rằng Liên Xô đã trao toàn bộ hồ sơ KGB về Oswald cho chính phủ Mỹ hai ngày sau vụ ám sát – Đại sứ Liên Xô Anatoli Dobynin đã đích thân trao hồ sơ này cho Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk ngay sau đám tang của JFK. Và đoán thử coi có chuyện gì? Thông tin trong hồ sơ đó tiết lộ hầu như cùng những điều mà Nosenko đã nói với CIA mấy tháng trước đó. Như thế, khi Nosenko kể rằng KGB không hề quan tâm tới Oswald và đã loại bỏ ông này như một mẩu giấy vụn thì ông ta đã nói thật. Kể từ đó, nhất là sau khi Liên Xô tan rã, nhiều quan chức cao cấp của KGB cũng đã xác định tương tự.
Đại tá Oleg Maximovich Nechphrenko, thành viên của Ban giám đốc thứ nhất của KGB, trong tác phẩm Passport to Assassination, trích dẫn một thông tin của chính Giám đốc KG Vladimir Semichastny, trong đó Giám đốc xác nhận KGB không quan tâm gì tới Oswald(174) [(Nechiphrenko, Oleg Maximovich, Passport to Assassination (Birch Lane Press, 1993)]. Vào tháng 10.1998, một nhân vật lớn khác của KGB, Oleg Kalugin đã xác nhận thêm về điều đó. Khi xảy ra vụ ám sát Kennedy, Kalugin đang làm việc cho KGB dưới vỏ bọc một sinh viên tại Đại học Columbia, và ông ta chứng thực rằng Nosenko đã nói dối một số điều quanh địa vị của anh ta nhưng quả thực anh ta có phụ trách hồ sơ của KGB về Oswald, và quả Oswald đã bị gạt qua một bên vì không sử dụng được cho bất kỳ lợi ích nào của KGB. Lý do chính để KGB theo dõi Oswald là nhằm xác định xem ông ta có phải điệp viên được cài qua phía địch hay không(175) [(Phỏng vấn Kalugin, từ phim video The Secret KGB/JFK Assassination Files (1998), Associated Television)]. Không ai tranh luận chuyện KGB theo dõi Oswald vì lý do muốn tìm khả năng chiêu mộ khi ông ta sang Liên Xô lần đầu, nhưng bây giờ chúng ta cũng biết rằng ông ta đã mau chóng bị KGB loại bỏ và xem như vô dụng khi KGB xem ông ta như một “tay loạn thần kinh không trung thành với tổ quốc của mình và mọi thứ khác…”(176) [(Tài liệu FBI 124-10144-10086, tài liệu CIA 62-109060-4321, ngày 1.12.1966; tr 4, giải mật ngày 15.8.1995)].
Trong tài liệu đặc biệt này (Hồ sơ lưu FBI số 124-10144-10086, nếu như bạn không thích lật tới phần chú thích ở cuối sách), chúng ta cũng biết tìm hiểu thêm được vài điều chứng tỏ rằng Liên Xô không dính dáng vào vụ ám sát JFK. Thực vậy, họ đã rất lo lắng Mỹ có thể nghi ngờ họ có thông đồng dự mưu (cả Mỹ lẫn Liên Xô đều đã đặt quân đội vào tình trạng báo động vài giờ sau khi JFK chết)(177) [(Tài liệu dẫn trên, tr 1; và Tài liệu Nhà Trắng, 4.12.1963, Memorandum For Bromely Smith, về: “Changes in defense Readiness Conditions as a Result of the Assassination of President Kennedy”; O.S.Hallet ký, giải mật ngày 7.4.1998 với số hiệu JFK 177-10001-10000)]. Quả là Liên Xô đã lo ngại một sự hiểu lầm có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân đến nỗi họ đã tiến hành một cuộc điều tra riêng(178) [(Tài liệu FBI 124-10144-10086, tài liệu CIA 62-109060-4321, ngày 1.12.1966)], thứ nhất, để bảo đảm rằng không có “tổ hành động” nào của KGB có dính dáng vào vụ này, và thứ nhì, để xác định, nếu có thể được, chính xác điều gì đã xảy ra tại Dallas vào ngày 22 tháng 11 đó.
Chúng ta đã nghe nói rất nhiều lần về tài liệu nói rằng sau cái chết của JFK, các tay súng FBI đã nhiều lần cố gắng tái hiện lại kỹ năng thao tác bắn mà Oswald phải có để làm được công việc ấy nếu ông ta là tay súng duy nhất – và những tay thiện xạ FBI đó đã không làm được. KGB và những quân nhân thiện xạ tại Liên Xô cũng thực hành bài kiểm tra ấy và cũng thất bại như vậy(179) [(The KGB/Oswald Files, phim tài liệu video (Associated Television) tháng 11.1998)]. Kết luận của họ là gì?
Nó cũng giống như kết luận của hầu hết mọi người ngày nay thôi.
Đại táBoris Ivanov, giám đốc văn phòng KGB tại New York – và là một trong những người đã ra lệnh tiến hành những điều tra ban đầu của KGB – kết luận rằng “cái chết của Kennedy hiển nhiên đã được dàn xếp bởi một nhóm có tổ chức lớn hơn là hành động giết người của một cá nhân đơn lẻ”(180) [(Tài liệu FBI 124-10144-10086, tài liệu CIA 62-109060-4321, ngày 1.12.1966)].
Chúng ta có hàm ý rằng KGB là một nhóm những tay cự phách không? Dĩ nhiên là không. Nhưng trong một ghi chú cuối cùng, hồ sơ này cho chúng ta thấy lý do đích thực cho “cú sốc” của Nga trước cái chết của Kennedy. “Liên Xô có lẽ thích có Kennedy đứng đầu chính phủ Mỹ hơn” bởi vì ông ta có “sự hiểu biết lẫn nhau với Liên Xô, và đã cố hết sức để cải thiện những quan hêcủa Kennedy. “Liên Xô có lẽ thích có Kennedy đứng đầu chính phủ Mỹ hơn” bởi vì ông ta có “sự hiểu biết lẫn nhau với Liên Xô, và đã cố hết sức để cải thiện những quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô”(181) [(Tài liệu dẫn trên)]. Nói cách khác, Liên Xô rất muốn JFK tiếp tục nắm quyền bởi vì ít nhất họ cũng biết JFK xuất phát từ quan điểm gì và thậm chí còn ký một hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân với Liên Xô. Người mà Liên Xô ưu tư nhất lại là vị kế nhiệm Kennedy, Lyndon Johnson. Nikolai Fedorenko, đại diện thường trực trong Phái bộ Liên Xô tại Liên hiệp quốc, có nói rằng “Chính phủ Liên Xô không biết hoặc biết rất ít về Tổng thống Lyndon Johnson và do đó, chính phủ Liên Xô không biết Tổng thống Johnson trong tương lai sẽ có chính sách nào đối với Liên Xô”(182) [(Tài liệu dẫn trên)].
Johnson, tân tổng thống, sau khi Kennedy chết, đã trở thành ưu tư lớn nhất của Liên Xô; Johnson là một ẩn số chính trị vì họ không biết chút gì về ông ta. Thực vậy, chính Ivanov là người sau này đã chỉ thị KGB làm một cuộc điều tra rốt ráo về Johnson!(183) [(Tài liệu dẫn trên)].
Dù sao đi nữa, chúng tôi hy vọng rằng điều này sẽ xoá được một số những luận điểm sai lầm hiện diện trong các giả thuyết qui kết về Liên Xô/ Khrushchev/ KGB.
Tấm Chắn Sáng Và Cây Vĩ Cầm: Tài Thiện Xạ
Của Oswald
Để so sánh, chúng ta có thể nói một cách chắc chắn là những người như Michael Mertz và Jean Souetre là những tay sát nhân thiện nghệ, cả hai đều có tay nghề được hình thành và rèn luyện trong chiến đấu thực sự. Mertz từng được thưởng anh dũng bội tinh trong Thế chiến 2 khi phục vụ trong lực lượng Pháp kháng chiến, một lực lượng bán quân sự với những tay bắn tỉa xuất chúng thường ám sát các sĩ quan Đức và chính khách trong chính phủ Vichy. Và mặc dù chiến đấu vì một mục tiêu hoàn toàn khác hẳn, OAS về mặt hoạt động vẫn tương tự như lực lượng Pháp kháng chiến ở chỗ nó cũng hoạt động ngầm, và cũng thường sử dụng những tay bắn tỉa tầm xa để ám sát kẻ thù.
Nhưng còn Lee Harvey Oswald?
So với những người như Mertz và Souetre, Oswald chỉ là một thứ tay mơ. Y chưa từng tham dự cuộc chiến nào, chưa từng kinh nghiệm trận mạc, chưa từng xuất sắc trong bất kỳ lĩnh vực nào khi là lính thuỷ quân lục chiến, thường bị những bạn lính khác chế giễu, thường xuyên bị phạt và ra toà án binh vì bất cẩn hoặc sai phạm kỷ luật, và bị cho giải ngũ sớm hai năm vì một lý do không ai muốn có(184) [(Benson)]. Nói cách khác, Oswald hoàn toàn thất bại trong vai trò một thủy quân lục chiến Mỹ – đơn giản là y chẳng làm gì ra trò.
Tuy nhiên, nhiều tài liệu về vụ ám sát JFK đã khiến độc giả tin rằng Oswald là một tay súng trường thiện xạ. Gerald Posner chẳng hạn, nói với chúng ta rằng vào tháng 12.1956, Oswald bắn súng đạt “212 điểm, hai điểm cao hơn mức yêu cầu đối với loại ‘thiện xạ’, bậc xếp loại cao thứ nhì trong lực lượng Thuỷ quân lục chiến”. Và vào tháng 5.1959, Oswald “cố gắng đạt được 191 điểm, vừa đủ để được xếp loại ‘bắn giỏi’”(185) [(Posner, Case Closed)].
Thiện xạ! Bắn giỏi! Những tên gọi ấy rõ ràng được dùng để chỉ chuyên gia sử dụng vũ khí, đúng không?
Không, tuyệt đối không, nhất là trong chuyện Oswald được huấn luyện tác xạ trong quân đội.
Sự thật, Oswald chưa bao giờ vượt qua kiểm tra bắn súng trường với số điểm cao trong Thuỷ quân lục chiến; sự thực, mức chính xác của y giảm dần theo thời gian(186) [(Fetzer)]. Sự thực, trong lần bắn kiểm tra cuối cùng của Oswald trong Thuỷ quân lục chiến, kết quả bắn của y tệ đến độ chỉ cao hơn mức điểm liệt được một điểm(187) [(Warren Commisison Report (“Báo cáo Warren”)].
Ơû đây chúng ta gặp vấn đề về thuật ngữ chuyên môn, hoặc sự chỉ rõ và hàm ý. Nhiều nhà nghiên cứu về JFK biết điều này nhưng không bao giờ đề cập tới vì muốn bảo vệ những giả thiết đang hái ra tiền của mình. Có một sự khác biệt rất lớn giữa thuật ngữ “bắn giỏi” (marksman) trong quân đội với “bắn giỏi” trong ngôn ngữ thông thường. Những nhà nghiên cứu ủng hộ Uỷ ban Warren đã cố tình và nhất quán không cho độc giả biết rằng tuy Oswald đạt loại “bắn giỏi” theo thuật ngữ quân sự, nhưng thực ra “bắn giỏi” là tiêu chuẩn THẤP NHẤT trong quân đội. Trong quân đội Mỹ, nếu bạn không đạt loại “marksman” trong môn huấn luyện súng trường cơ bản, bạn sẽ bị rớt. Hoặc bạn sẽ bị đưa ra khỏi quân đội hoặc bạn phải học lại. Hãy xem một thí dụ khác cho rõ hơn. Khi đồng tác giả Lee của sách này còn trong quân đội, ông ta được chứng nhận đạt loại “chuyên gia” (expert) với súng M1911Á 12 ly (một đẳng cấp trên trung bình trong quân đội) và đạt loại “thiện xạ” với súng M-16 (một đẳng cấp trung bình theo tiêu chuẩn quân đội). Ông Lee nói, “Về mặt kỹ thuật, kết quả lần bắn súng trường tệ nhất của tôi thì cũng cao hơn lần bắn tốt nhất của Oswald tới vài ba điểm. Và đó là những mục tiêu cố định, chứ không phải di động. Nhưng tôi có thể nói với ông rằng với một vũ khí tốt hơn khẩu Mannlicher- Carcano, ngay cả với một khẩu súng trường bán tự động thay vì một khẩu bắn từng phát, thì cũng không có cách nào mà tôi bắn trúng đầu một người ngồi trên xe đang chạy ở cùng cự ly đó. Không một ai với tài bắn cỡ tôi hay Oswald lại làm được chuyện đó”.
Vậy mà có nhiều tác giả tiếp tục bóp méo sự thực cho hợp với các giả thuyết của họ. Thực vậy, Oswald đạt loại thiện xạ theo thuật ngữ quân đội, rồi Posner nói với độc giả của ông ta rằng đây là “bậc xếp loại cao thứ nhì trong lực lượng Thuỷ quân lục chiến”. Bậc cao thứ nhì nghe cũng khá cao chứ, phải không? Nhưng chính điều Posner không nói với độc giả mới là điều làm phiền chúng ta. Trong quân đội Mỹ, chỉ có ba bậc xếp loại, marksman (bắn giỏi) là bậc thấp nhất, sharpshooter (thiện xạ) là bậc trung bình, và expert (chuyên gia) là bậc cao nhất. Phải, Posner nói với độc giả của ông ta rằng “sharpshooter” là bậc xếp loại hạng nhì trong thi bắn súng của Thuỷ quân lục chiến, như ông ta đã che dấu khi không nói với độc giả rằng đây chỉ là bậc nhì trong ba bậc. Nên “sharpshooter” ở đây chỉ có nghĩa là “trung bình”.
Rồi Posner cũng nói với chúng ta rằng việc đạt loại “sharpshooter” này “cho thấy ở tư thế đứng, ông ta {Oswald}có thể bắn trúng tâm điểm có đường kính 10 inch (cỡ 25cm) ở cự ly 200 thước, mười lần trúng tám”(188) [(Posner, Case Closed)], và ông ta nêu nhận định này dựa trên chứng thực của Uỷ ban Warren(189) [(Posner, Case Closed)], cái bộ phận điều tra đã bị nghi là nói dối suốt ba thập niên qua!
Sau cùng, lời chứng của Uỷ ban Warren chỉ là ý kiến của một người và chúng tôi không xác tín ý kiến đó. Để làm như thế, chúng tôi sẽ trưng dẫn một ý kiến không liên quan đến Uỷ ban Warren tai tiếng đó và ý kiến này gần đây hơn thông tin trên từ 1964. Trong một buổi phỏng vấn Randy Martin, cựu binh chiến tranh Việt Nam và là chuyên gia bắn tỉa, vào tháng 12.1998, ông này đã nói với chúng tôi rằng ông ta đã trải qua huấn luyện tác xạ căn bản y như Oswald trước khi vào trường huấn luyện bắn tỉa (là chuyên gia bắn tỉa trên mặt trận, ông ta đã mười lần hạ gọn mục tiêu ở tầm xa trên trận địa) “tám lần trong 10 lần bắn trúng một mục tiêu 25cm cố định ở cự ly tối thiểu 200 thước là vượt xa tiêu chuẩn của một sharpshooter, cho dù không bị giới hạn về thời gian. Trong huấn luyện tác xạ của quân đội, các điểm số của Oswald cho thấy đó là một tay không có khả năng chọi cây đàn violon trúng vào tấm chắn sáng trước cái đèn rọi sân khấu nữa”(190) [(Phỏng vấn “Randy Martin”, 1.12.1998. Người được phỏng vấn yêu cầu không nêu rõ tên thật vì anh ta làm lính bắn tỉa hồi ở Việt Nam)].
Dĩ nhiên, đến đây, rõ ràng ta phải thừa nhận chuyện phát súng giết chết Kennedy và làm bị thương John Connally không thể là công trình một xạ thủ loại “trung bình”.
Và cũng không cần phải nhắc lại rằng, vào năm 1964, những tay bắn tỉa của FBI cũng không thực hiện nỗi công trình tác xạ mà Posner và các tác giả khác cứ nói với chúng ta là Oswald đã làm được(191) [(Summers)]. Nếu một số tay bắn tỉa loại giỏi nhất của FBI còn không làm nổi, thì làm sao Oswald – tối đa cũng chỉ là xạ thủ trung bình – thực hiện được?
Hơn nữa, còn có khẩu súng trường hung khí mà người ta cho rằng Oswald đã dùng để thực hiện được một chiến công bắn tỉa vượt ngoài khả năng của y.
Khẩu Mannlicher – Carcano 6,5 là một khẩu carbine, không phải súng trường của dân bắn tỉa. Nó là thứ vũ khí nhẹ của bộ binh với nòng ngắn được thiết kế cho tầm bắn ngắn, dễ kiểm soát trên trận địa. Sự thực, khẩu súng trường cảnh sát thu hồi được từ tầng sáu của kho sách giáo khoa là một loại vũ khí đã bị rút khỏi sử dụng cho quân đội từ năm 1918 vì cỡ nòng 6,5 ly của nó được coi như không thoả đáp được những mụch đích chiến trận hiện đại(192) [(Hogg, Ian và Rob Adam, Jane’s Guns Recognition Guide (Harper & Collins, 1996)] (mà năm 1918 thì hiện đại cỡ nào?) Nói một cách đơn giản, thứ vũ khí này không được thiết kế để dùng làm súng bắn tỉa, giống như lý do khiến súng carbine M-1 không được thiết kế làm súng bắn tỉa. Nếu Lee Harvey Oswald muốn giết JFK thì y có thể dễ dàng kiếm được cả chục thứ vũ khí hữu hiệu khác. Chuyện Oswald dùng khẩu Mannlicher – Carcano để giết Kennedy thì cũng khác chi chuyện dùng cái muỗng để đào huyệt hoặc lợp mái nhà bằng những tấm bìa carton. Làm thế không được.
Oswald, vào năm 1963, hẳn có thể mua nhiều loại súng trường chính xác hơn tại các cửa hàng ở Dallas với giá cũng không đắt hơn. Thay vào đó, những người ủng hộ Uỷ ban Warren lại nói với chúng ta rằng Oswald đã đặt mua bằng thư một loại vũ khí xoàng cho công việc này trong khi y có thể đi bộ tới một tiệm bán súng gần nhất và mua một khẩu tốt hơn nhiều. Posner và Uỷ ban Warren hy vọng chúng ta sẽ tin rằng Oswald sẵn sàng chọn một cái xẻng để làm công việc của một xe xúc đất. Đó là chưa kể tới lời chứng khác cho rằng khẩu Mannlicher – Carcano tìm được trong kho sách đã bị lắp ráp sai, cơ bấm không đúng chỗ và không được thiết kế để dùng với ống ngắm. Sự thực, các chuyên gia trong quân đội khẳng định rằng sử dụng một ống ngắm với loại vũ khí này sẽ làm cho nó kém chính xác hơn trong điều kiện tác xạ tại quảng trường Dealey, bởi vì súng này sau khi bắn một phát, phải kéo cơ bẩm để chuẩn bị cho phát kế tiếp, và khi làm như thế thì ống nhắm không còn nhắm vào mục tiêu nữa(193) [(Summers)]. Điều này chỉ làm đổ thêm dầu cho một ngọn lữa đã cháy gần 40 năm nay rồi. Rõ ràng Lee Harvey Oswald không có tài thiện xạ cũng như vũ khí thích hợp để làm được điều mà Uỷ ban Warren và các tác giả theo thuyết tay súng đơn độc cố gắng chứng minh.
Bộ Não Của Tổng Thống Đã Thất Lạc
Trong bảng dẫn phương pháp luận trị giá 8 triệu đô la vốn chẳng xác định cụ thể hồ sơ nào, hay các mã hồ sơ mà công chúng cần biết, Tiểu ban tái thẩm các hồ sơ về vụ ám sát ít nhất cũng làm được chuyện công bố rất nhiều hồ sơ mới về vụ JFK – chính việc tìm ra những hồ sơ này mới là chuyện gay go. Tuy nhiên, Gerald Posner (tác giả cuốn Case Closed – “Vụ án đã khép lại” – gây nhiều tranh cãi) hiển nhiên cũng đã tìm ra một số hồ sơ, trong đó đặc biệt có một hồ sơ ghi bằng chứng liên quan đến vụ kỳ án đã làm nát óc công chúng suốt 35 năm qua. Khi các bác sĩ khám nghiệm thi thể JFK tại Phòng cấp cứu I của Bệnh viện Parkland ở Dallas, họ đã báo cáo rằng từ 1/5 đến 1/4 bộ não của Kennedy đã bị viên đạn bắn văng ra khỏi đầu ông ta. Do đó, phần lớn bộ não này vẫn còn nằm trong sọ ông ta khi thi thể ông được đem đi khỏi Dallas. Nhưng khi thi thể này tới bệnh viện Hải quân Bethesda, điều đầu tiên mà nhiều nhân chứng nhận thấy là bộ não của JFK đã biến mất. Cái sọ rỗng không trong khi vài giờ trước đó nó còn chứa ít nhất 75% bộ não của ông ta(194) [(Tuy vấn đề bộ não mất tích của JFK đã được nhiều tác phẩm xuất sắc tường thuật, nhưng chúng tôi thấy nó được trình bày rõ nhất là trong phim video của Nigel Turner: The Men Who Kill Kennedy)]. Nhưng bây giờ, nhờ nỗ lực tận tình của Tiểu ban tái thẩm các hồ sơ về vụ ám sát vốn nuốt sạch 8 triệu đô la tiền của dân đóng thuế, chúng ta sau cùng cũng biết được điều gì đã xảy ra cho bộ não Kennedy.
Chúng ta biết được không?
Trong bài báo trên Newsweek tháng 10.1998, Gerald Posner viết: “Tiểu ban có vẻ như đã giải quyết được một trong những bí ẩn kinh hoàng của vụ ám sát này”, rồi ông nói với chúng ta rằng Tiểu ban tái thẩm đã tìm được một bằng chứng cho thấy một trong những bác sĩ trong vụ này, Phó Đô đốc George Burkley, đã mang bộ não của Kennedy ra khỏi bệnh viện Bethesda trong một cái xô(195) [(Posner, “Cracks in the Wall of Silence”, Newsweek, 4.10.1998)]. Tại sao Đô đốc Burkley làm như thế?
Để giao bộ não đó cho Robert Kennedy, Posner nói như thế, nhưng sau đó ông ta nói rằng người ta chưa xác định được hiện bộ não đang ở đâu và “được coi như” là đã an táng chung với thi thể JFK. Thực tế, ông Posner hoàn toàn không chính xác khi nói rằng điều bí ẩn này đã được giải quyết. Tất cả những gì chúng ta biết hiện nay là người nào đã mang bộ não Kennedy đi, và chúng ta chỉ có thể “coi như” nó được chôn chung với thi hài. Thế này thì khó mà giải quyết được bất kỳ cái gì.
Phó Đô đốc Burkley bây giờ thì đã chết, nhưng nếu như ông ta còn sống, thì hoàn toàn có thể truy tố ông ta về tội cản trở công lý và giấu diếm bằng chứng quan trọng của một vụ sát nhân tày trời. Việc khám nghiệm đạn đạo và tế bào của bộ não có thể chứng minh viên đạn gây tử vong đã xuất phát từ hướng nào và hơn nữa còn làm sáng tỏ vấn đề vẫn còn tranh luận hiện nay là liệu Oswald có phải là tay súng duy nhất trong Kho sách giáo khoa Texas hay còn có những tay súng khác đã bắn vào Kennedy (hoặc chuyện phải chăng Oswald chẳng dính líu gì vào vụ này). Đây là bằng chứng khá quan trọng đáng để bỏ vào một cái xô và mang đi khơi khơi vào quên lãng bởi một tay đô đốc nào đó.
Một mô tả rõ hơn về các sự kiện quanh bộ não của JFK có thể tìm thấy trong cuốn Live by the Sword (“Sống nhờ lưỡi kiếm”) in năm 1998 của Gus Russo. Trong tác phẩm nghiên cứu kỹ lưỡng này, Russo đã truy xét việc lưu giữ bộ não của tổng thống cặn kẽ hơn bất cứ tác phẩm nào khác đã viết về đề tài này. Russo khẳng định rằng bộ não đã được giao cho Phó Đô đốc Burkley, ông này đem gởi vào một hầm của Cục mật vụ, giao cho Cục này chăm sóc. Bộ não, lúc đó được bảo quản trong một cái bình, nằm trong hầm ấy khoảng hai năm rưỡi cho đến khi Robert Kennedy chỉ thị cho Burkley giao nó cho thư ký của Kennedy là Evelyn Lincoln. Robert Kennedy nhất quyết đòi nắm được bộ não và những hồ sơ khám nghiệm tử thi “bước đầu”, không một thứ nào được công bố để nghiên cứu mà không có văn bản cho phép.
Từ đó, “tài liệu bước đầu” này được cất kỹ, và về mặt chính thức ta vẫn không biết cụ thể chuyện gì đã xảy ra với chúng sau đó. Nhiều người trực tiếp liên quan đến những tài liệu ấy đã không hở môi điều gì với Russo khi ông ta phỏng vấn họ(196) [(Russo, Guy, Live by the Sword (Bancroft Press, 1998)].
Thế bộ não ấy ở đâu?
Có lẽ chúng ta chẳng bao giờ biết được, và hầu hết những người có biết (như Robert Kennedy, Evelyn Lincoln và Phó Đô đốc chôm não George Burkley) cũng sẽ không nói gì với chúng ta cả vì tất cả bọn họ đã chết.
Nhưng giống như vô số những câu hỏi khác liên quan đến vụ ám sát Kennedy, câu hỏi về chuyện gì đã xảy ra với bộ não của ông ta sẽ là một vấn đề luôn được nêu ra.
Và câu hỏi này, vào cuối thập niên 1990, đã phanh phui nhiều thông tin hơn về một trò dấu giếm của chính phủ. Sau đây là mấy điều có thể bạn chưa biết:
Không phải một, mà có hai bộ não đã được khám nghiệm…
Câu Chuyện Hai Bộ Não…
Và Hai Báo Cáo Khám Nghiệm Tử Thi
Các nhà phản bác hài lòng rằng không có ai quan tâm đến vụ ám sát Kennedy nữa. Oà, phải? Nếu vậy, tại sao lại có ồ ạt nhiều bài báo mang tính phát giác vào cuối năm 1998?
Ta hãy nêu một bài trên Washington Post số ra ngày 10.11.1998. Tựa đề bài báo là:
ẢNH CHỤP LƯU TRONG VĂN KHỐ KHÔNG PHẢI NÃO CỦA JFK
TRỢ LÝ CỦA UỶ BAN TÁI THẨM KẾT LUẬN
Rồi bài báo giải thích làm sao một trong những nhà nghiên cứu của Tiểu ban tái thẩm hồ sơ về vụ ám sát truy ra được bằng chứng cho thấy rằng đã có hai bộ não khác nhau được khám nghiệm trong vụ khám nghiệm tử thi JFK. Hai bộ não à? Làm sao có chuyện ấy được?
Sự thực, chuyên viên phân tích của Tiểu ban tái thẩm hồ sơ về vụ ám sát đã nói trong bài báo Washington Post này rằng, “Tôi chắc từ 90% đến 95% là các ảnh chụp lưu trong Văn khố không phải ảnh chụp bộ não của Tổng thống Kennedy”(197) [(Lardner, George Jr., The Washington Post, “Archive Photos Not of JFK’s Brain, Concludes Aide to Review Board”, 10.11.1998)].
Lời tuyên bố này, và thông tin gây chấn động trong bài báo, được dựa trên sự phân tích của chuyên viên này đối với lời chứng của mấy bác sĩ đã tham gia khám nghiệm bộ não (hay các bộ não) của JFK, một thợ chụp hình của hải quân, và cả một nhân viên FBI nữa, tất cả là từ những tàn dư bằng chứng đã bị giấu nhẹm hơn 35 năm qua.
Chúng tôi đã giải thích rằng Tiểu ban tái thẩm hồ sơ về vụ ám sát không có nhiệm vụ chuyên tìm kiếm những hồ sơ có liên quan đến JFK mà chúng có thể đem lại manh mối mới về vụ ám sát. Tiểu ban chỉ được giao việc xem xét công bố các hồ sơ có liên quan đến JFK trong một thời biểu cụ thể. Và các tác giả của sách này đã nhận định về đủ mặt của Tiểu ban đó rồi. Những nhận định phê phán đó không hề mang tính cá nhân; Tiểu ban không có lỗi khi khả năng truy tìm sự kiện của họ bị cản trở vì guồng máy quan liêu và một mớ bòng bong những chỉ thị.
Nhưng ít nhất cũng có một thành viên trong Tiểu ban cần được tuyên dương, đó là Douglas Horne, Phân tích trưởng về hồ sơ quân đội thuộc Tiểu ban này, và chính những phát hiện của ông ta đã được tường thuật trong bài báo Washington Post hồi cuối năm 1998 nói trên.
Horne, sau khi có được những phát hiện trong khi làm nhiệm vụ khảo sát với Tiểu ban, đã viết một tường trình 30 trang mô tả chi tiết khả năng có tới hai bộ não khác nhau đã được khám nghiệm bởi các bác sĩ sau khi JFK chết. Một trong hai bộ não ấy là của Kennedy.
Bộ còn lại là thứ đánh tráo.
Sau đây là một mẫu thú vị trong những điều mà Horne viết trong bản tường trình:
“Một cuộc tái thẩm các hồ sơ của Tiểu ban Hạ viện về Những vụ ám sát, cộng với các nỗ lực của Tiểu ban tái thẩm hồ sơ về vụ ám sát để làm sáng tỏ hồ sơ khám nghiệm tử thi JFK… đã phát hiện một kiểu bằng chứng giàu chi tiết cho thấy rằng có thể có hai bộ não đã được khám nghiệm sau khi kết thúc khám nghiệm tử thi JFK… Các hàm ý về hai sự kiện như vậy đã xảy ra (và đặc biệt, theo một cách thức mà một trong hai khám nghiệm hẳn là dành cho một bộ não không phải của Tổng thống Kennedy nhưng đã được cố tình đưa ra như là của ông ấy) là có tầm quan trọng hiển nhiên, và khó mà cường điệu được”.
Bạn không đùa chuyện nó khó mà cường điệu được. Những gì Horse đưa ra là khoảng một tuần sau khi chôn Kennedy, một cuộc khám nghiệm thứ nhì cho bộ não của ông ta đã được tiền hành.
Làm sao có thể như vậy được?
Qua nghiên cứu và điều tra cực nhọc, Horne xác quyết rằng bộ não của Kennedy ban đầu đã được các bác sĩ khám nghiệm ngay ngày JFK chết, rồi nó được khám nghiệm lại vào sáng thứ hai, 25.11.1963, sau đó bộ não lập tức được giao cho Phó Đô đốc Burkley, theo yêu cầu chính thức của Burkley.
Aùi chà, từ ngày 27 tháng 11 đến 2 tháng 12, một bộ não khác – được nói là của JFK – đã được khám nghiệm. Nhưng bộ não này, theo các nhân chứng, là cái khác. Bộ não thứ nhất bị cắt xẻ, còn bộ não thứ hai thì không. Và bộ não thứ hai – rõ ràng không phải của JFK – là bộ với các kết quả khám nghiệm được báo cáo cho Uỷ ban Warren!
Làm sao bộ não thứ nhất “có cắt xẻ” được khám nghiệm ngày 25 tháng 11 và rồi được khám nghiệm lại một tuần sau đó và trong tình trạng “không bị cắt xẻ”? (“Bị cắt xẻ”, trong trường hợp này, là nói về một bộ não đã bị phẫu thuật cắt lát ra như một tảng thịt)
Tại sao? Horne đã xuất sắc đưa ra câu trả lời hiển nhiên nhất:
“Động cơ có thể tin được nhất của việc tiến hành khám nghiệm não lần hai (“trễ”) hẳn là để ém nhẹm bản chất thực của vết thương trên đầu Tổng thống bằng cách ghi vào hồ sơ một kiểu vết thương khác (trên một mẫu khám nghiệm khác)…”
và hơn nữa, thông tin này:
“… hàm ý rõ ràng rằng các ảnh chụp bộ não trong Văn khố không phải là những ảnh chụp bộ não của Tổng thống John F.Kennedy(198) [(Horne, Douglas ARRB MEMORANDUM FOR FILE: “Questions Regarding Supplementary Brain Examinations Following the Autopsy of President John F.Kennedy”, 28.8.1996)]”.
Thế là đủ, phải không? Khả năng rõ ràng là bộ não của ai đó đã được xét nghiệm để dùng trong công bố chính thức của chính phủ về cái chết của Kennedy, và những ảnh chụp bộ não JFK lưu trong Văn khố là đồ ngụy tạo?
Bạn tin đó là âm mưu chưa?
Horne không phải một kẻ kỳ quái hay một nhà nghiên cứu JFK bình thường nào đó – ông ta là nhà phân tích chuyên nghiệp làm cho chính phủ. Và bản tường trình ông viết về những khám nghiệm “chính thức” hai bộ não khác nhau được dựa trên sự phân tích chuyên môn, khách quan và tập trung cao độ các lời khai, các phỏng vấn nhân chứng và những sự kiện rõ ràng.
Nhưng đây chưa phải thông tin duy nhất mà nghiên cứu của Horne mang lại. Trong một tờ trình khác ông ta viết dựa trên những phát hiện của mình gửi cho Tiểu ban tái thẩm những hồ sơ về vụ ám sát, Horne đã mô tả cái khả năng tương tự rằng không chỉ có hai bộ não được khám nghiệm, mà có thể đã có hai báo cáo khám nghiệm tử thi khác nhau đã được soạn ra. Nên ở đây, để tránh làm cho cuốn sách này bị sa lầy vào các chi tiết, chúng tôi sẽ làm một tham khảo nhanh như sau:
“Việc nghiên cứu hồ sơ kỹ hơn đã phát hiện nhiều dấu hiệu rõ rệt cho thấy có khả năng rằng biên bản khám nghiệm tử thi ban đầu được chuyển đi bởi Burkley cùng các món khác… là một biên bản khác (sớm hơn) với biên bản khám nghiệm tử thi được Uỷ ban Warren công bố(199) [(Horne, Douglas ARRB MEMORANDUM: “Chain – of – Custody Discrepancy Re: Original Copy of President John F. Kdennedy’s Autopsy Protocol”, 2.8.1996)]”.
Và:
“Tuyên bố này… nếu không vướng nhầm lẫn, là bằng chứng giàu chi tiết về một báo cáo khám nghiệm tử thi khác ngoài báo cáo đang được giữ làm bằng chứng hiện nay(200) [(Tài liệu dẫn trên)]”.
Ông Horne phải được tuyên dương vì đã bỏ nhiều công phu hơn trong nhiệm vụ của mình với Tiểu ban tái thẩm các hồ sơ về vụ ám sát qua việc cung cấp những phân tích quan trọng và gây chấn động trong những phát hiện của mình.
Sau cùng, đối với hồ sơ khám nghiệm tử thi JFK nói chung, Tiểu ban tái thẩm đã viết đoạn dẫn nhập này vào ngày 31.7.1998:
“Những cuộc khám nghiệm pháp y là không thể thiếu trong những cuộc điều tra án sát nhân được tiến hành đúng cách thức. Một cách lý tưởng, một bác sĩ tiến hành khám nghiệm pháp y cho một nạn nhân bị bắn chết {như Tổng thống Kennedy} sẽ xem xét mọi bằng chứng về đạn đạo, trao đổi với các bác sĩ cứu chữa nạn nhân trước khi nạn nhân chết, khám nghiệm chu đáo y phục nạn nhân mặc lúc bị bắn, tiến hành việc khám nghiệm tử thi một cách chu đáo và có lương tâm, và lập báo cáo về nguyên nhân cái chết có kèm hồ sơ đầy đủ, chi tiết và cụ thể. Trong trường hợp có người tình nghi sau đó bị đưa ra toà vì vụ sát hại đó, người bác sĩ tiến hành khám nghiệm tử thi thường được khảo chứng và chất vấn trước toà đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất liên quan đến nguyên nhân cái chết. Việc khám nghiệm tử thi và các hồ sơ của toà trở thành bằng chứng có thể được khảo sát và thẩm tra tường tận bởi các chuyên gia pháp y(201) [(“Draft: Assassination Records Review Board, Staff Report to Accompany Release of Medical and Autopsy Records” của ARRB, 31.7.1998)]”.
Hấp dẫn chứ?
Và đây thêm một ít nữa:
“Một trong nhiều bi kịch của vụ ám sát Tổng thống Kennedy chính là sự thiếu chu toàn của hồ sơ khám nghiệm tử thi và mối nghi ngờ gây ra bởi màn bí mật bao quanh các hồ sơ hiện có. Tuy các nhà chuyên môn đã tham gia vào việc xác lập và xử lý bằng chứng y học có thể đã có thiện ý không công khai tiết lộ thông tin – nhằm bảo vệ sự riêng tư và các tình cảm của gia đình tổng thống – nhưng di sản của sự bí mật như vậy rốt cục đã gây hoài nghi và mất mát niềm tin. Những điều này hiện là những lý do nghiêm trọng và hợp pháp cho việc đặt dấu hỏi không những đối với sự thiếu chu toàn trong các hồ sơ khám nghiệm tử thi, mà còn đối với sự thiếu phân tích lập tức và thấu đáo các hồ sơ đó bởi Uỷ ban Warren nữa(202) [(Tài liệu dẫn trên)]”.
Hãy suy nghĩ về chuyện đó.
Những Điều Không Bao Giờ Thay Đổi:
Những Aûnh Chụp Khám Nghiệm Tử Thi
Thật lý thú – và phấn khởi nữa – khi sự quan tâm của công chúng đối với cái chết của John Kennedy không hề có vẻ tàn lụi đi; thực vậy, nó chưa hề có vẻ trở nên cũ đi. Nhiều năm qua, chúng ta đã nghe tranh cãi suy diễn quanh những ảnh chụp khám nghiệm tử thi JFK chẳng hạn. Chúng ta đã nghe rằng chúng đã bị thiêu huỷ, chúng ta nghe nói rằng chúng đã bị thay đổi, chúng ta nghe nói rằng chúng đã bị biến cải, chúng ta nghe nói chúng đã bị nguỵ tạo hoàn toàn. Và bây giờ, nhờ nghiên cứu chuyên môn của Douglas Horne, chúng ta có thêm bằng chứng để hậu thuẫn cho điều này: các ảnh chụp bộ não JFK thực ra là ảnh chụp bộ não người khác. (Thế thì chính xác đó có thể là bộ não của ai? Một gã ăn mày nào đó? Bộ não đánh cắp được từ một xác dùng để thực tập y khoa? Chính phủ sẽ đi đâu khi cần một bộ não thế chỗ cho bộ não của tổng thống?)
Sự thực, cuộc tranh cãi quanh các ảnh chụp khám nghiệm tử thi JFK là điều gì đó không đơn giản biến mất đi được (và chúng ta cho rằng nó có một lý do). Bản tổng kết nêu trên của Tiểu ban tái thẩm đã mạnh dạn nói đến mục đích nằm sau trò trí trá mà dân Mỹ đã phải chấp nhận hơn 35 năm qua. Phần tồi tệ duy nhất là ở chỗ người công dân bình thường muốn đọc được điều này và các báo cáo khác của Tiểu ban tái thẩm phải vượt qua cả một mê cung thủ tục hành chính thì mới tiếp cận được.
Chúng tôi đã nói về điều này nhiều lần và đã phê phán Tiểu ban tái thẩm đến hết sức, nhưng chúng tôi phải khen ngợi mục tiêu ban đầu của họ (xác định những hồ sơ liên quan đến JFK và xem xét để công bố cho dân chúng). Nhưng cho đến mùa thu 1998, có hay không có sự giúp đỡ của Tiểu ban tái thẩm, chúng ta vẫn thấy các bài báo về vụ JFK trên toàn quốc không tìm ra lối thoát.
Nếu không ai quan tâm về vụ ám sát JFK nữa, thì hãy xem bài báo sau của hãng tin AP vào cuối 1998 với tựa là “Những bức ảnh mới làm sống dậy cuộc tranh luận về vụ khám nghiệm tử thi JFK”:
“Lời chứng mới công bố hôm thứ sáu về vụ khám nghiệm tử thi Tổng thống John F.Kennedy nói rằng có một bộ ảnh chụp thứ nhì về những vết đạn của Kennedy nhưng chúng chưa từng được công bố cho dân chúng biết”(203) [(Associated Press, “Photos Renew Dispute About JFK Autopsy”, 1998)].
Lại như thế nữa. Ít nhà điều tra án sát nhân nào có thể phủ nhận rằng công cụ tốt nhất để nhận ra cơ chế một vụ sát nhân chính là khám nghiệm tử thi. Trong trường hợp bị chết vì súng bắn, các ảnh chụp khám nghiệm tử thi trở nên một bộ phận cực kỳ quan trọng của việc điều tra.
Và chúng ta có cái gì?
Ngay từ đầu, chúng ta có hết nhân chứng này đến nhân chứng khác, hết chuyên gia này đến chuyên gia khác, cứ nhất định rằng có một trò gian trá nào đó quanh các bức ảnh khám nghiệm tử thi JFK.
Tuy vậy, sau ba thập niên, những điểm phản đối ấy bắt đầu nghe như một đĩa nhạc rè; chúng tiếp thêm nhiên liệu cho những tác giả ủng hộ Uỷ ban Warren như Gerald Posner vốn có thái độ thản nhiên đối với một hoạt động có tính toán trước mà bất kỳ quan toà nào cũng coi như việc che giấu bằng chứng. Posner xác định rằng tất cả những ảnh chụp X – quang và ảnh khám nghiệm tử thi JFK đều không được công bố vì gia đình Kennedy “từ chối” không cho công bố(204) [(Posner, Case Closed)].
Nhưng trừ phi những ảnh đó được chụp bởi một thợ ảnh tự do gia đình Kennedy thuê mướn (mà chuyện này không có), nếu không thì gia đình Kennedy KHÔNG THỂ từ chối công bố chúng vì chúng KHÔNG thuộc quyền sở hữu của gia đình Kennedy.
Chúng thuộc quyền sở hữu của mọi người dân đóng thuế cho nước Mỹ, và không gia đình nào, dù hoàng gia quý tộc hay thứ dân, được quyền từ chối không bố chúng.
Nhưng 35 năm sau, cuối 1998, chúng ta biết rằng có “một bộ ảnh chụp thứ nhì” chụp lúc khám nghiệm tử thi, và những ảnh chụp ấy “chưa từng được công bố cho dân chúng biết”. Phải, bây giờ chúng ta biết rằng lại thêm những bằng chứng nữa về vụ ám sát JFK đã bị giấu nhẹm.
Saundra K. Spencer, một kỹ thuật viên làm việc tại Trung tâm nhiếp ảnh hải quân (NPC) vào thời điểm JFK chết, làm chứng rằng các ảnh chụp khám nghiệm tử thi JFK được lưu trong Văn khố là khác với những ảnh chụp mà cô đã góp phần phóng rửa(205) [(Associated Press, “Photos Renew Dispute About JFK Autopsy”, 1998)]. Điều này chứng minh rõ ràng rằng những bức ảnh bổ sung ấy đã bị cố ý giấu nhẹm không cho công chúng biết. Khi một người nào đó có thế lực – bất kỳ ai đó có thế lực – tìm cách ngăn cản không cho công chúng có được đánh giá toàn diện về một biến cố mà họ có quyền được biết, thì việc đó gọi là “che giấu trái phép”. Nhưng Posner thậm chí còn giở trò biện minh cho gia đình Kennedy để bỏ qua phát hiện mới này. Vì những bức ảnh mà bà Spencer góp phần phóng rửa cho thấy “không có máu hoặc các lỗ mở”, nên Posner đã viết trong bài báo trên Newsweek tháng 10.1998: “Điều này hàm ý rằng gia đình Kennedy chỉ muốn có những bức ảnh không gây chấn động để có thể công bố cho dân chúng”(206) [(Posner, “Cracks in the Wall of Silence”, Newsweek, 4.10.1998)].
Một lần nữa, xin lỗi ông Posner, nhưng những điều gia đình Kennedy “chỉ muốn” đều không thành vấn đề. Những quan sát của bà Spencer thực sự rất đáng báo động. Bà đã thấy những ảnh chụp “không có các lỗ mở”. Làm sao lại “không có các lỗ mở” trên một cái sọ đã bị trúng đạn súng trường trừ khi cái sọ đó đã bị thay đổi bằng phẩu thuật? Từ lâu người ta đã nghi rằng những vết đạn trên đầu JFK đã bị cố ý sửa đổi để hậu thuẫn cho điều khẳng định trong báo cáo Warren rằng chỉ có một người – Oswald – bắn vào JFK. Bây giờ chúng ta lại có thêm lời chứng chuyên môn để củng cố thêm mối nghi ngờ ấy, nhưng Posner đã gạt bỏ điều này đi như một trò tưởng tượng của “kẻ mê chuyện âm mưu”.
Posner cũng đối xử tương tự với thông tin còn quan trọng hơn mà ông ta nhắc tới trong bài báo nói trên: đó là chuyện Đô đốc Burkley biến đi với bộ não JFK trong một cái xô. Posner viết: “Sự thực, có lẽ cảm xúc của gia đình {Kennedy}, chứ không phải sai trái về phía viên chức, mới là các giải thích đáng tin hơn cho các câu hỏi quanh biến cố Dallas”.
Nếu một quân nhân lấy đi bộ não của Tổng thống mà không được coi như một sai trái của viên chức, thì chúng ta phải nghiêm túc chất vấn những khái niệm của ông Posner về qui trình pháp định. Thực tế, Posner trong cuốn sách của mình và trong bài báo trên Newsweek, liên tục gọi những người nghiên cứu vụ JFK là “những người nhiệt tình” và “những người am hiểu” – chủ yếu là để cười cợt nỗ lực tìm biết điều gì đã thực sự xảy ra cho tổng thống Kennedy. Ông ta tiếp tục biện minh rằng ít nhiều thì các ý nguyện của gia đình Kennedy vẫn quan trọng hơn quyền được biết sự thật của công chúng.
Hãy nhìn thẳng vào điều đó, có lẽ ở đất nước này, số người tin rằng trái đất phẳng còn nhiều hơn số người tin rằng JFK bị một mình Lee Harvey Oswald bắn chết. Cuốn sách của Posner đầy những châm chích đối với những nhà nghiên cứu có các phát hiện không giống với của ông ta; thực vậy, Posner đã dành cả một chương trong tác phẩm vòng vo của mình cho việc bôi bác các nhà nghiên cứu với những người ông ta phản đối(207) [(Posner, Case Closed, tr 402-420; Posner còn có nhiều phê phán gay gắt với các tác giả khác trong những trang từ 460 đến 470; trong khi nhiều công kích khác rải khắp tác phẩm nhiều không đếm xuể và cũng chẳng đáng để đếm)]. Về cuốn Reasonable Doubt của Henry Hurt, Posner nói, “Hurt đã bày ra những chi tiết ly kỳ của một âm mưu dính dáng đến Oswald, CIA, những kiều dân Cuba chống Castro, chủ yếu dựa trên những lời không được kiểm chứng của Robert Easterling, một kẻ đã bị đưa vào bệnh viện tâm thần”(208) [(Posner, Case Closed)].
Sự thực, tác phẩm được viết rất tốt của Hurt hoàn toàn không có chuyện “chủ yếu” dựa trên “những lời không được kiểm chứng” của Robert Easterling. Thay vì thế, nó dựa trên công phu nghiên cứu xuất sắc vốn chứng tỏ được những liên quan rất thú vị và trình bày một giả thuyết có sức thuyết phục và gợi nhiều suy nghĩ. Hurt nói rất thẳng thắn về sự không đáng tin cậy của Easterling: “Robert Wilfred Easterling là… một kẻ được chẩn đoán là bị bệnh thần kinh và chứng tâm thần phân liệt”(209) [(Hurt)]. Với những ai đã đọc sách của Hurt thì rõ ràng sự kỳ quái trong lời khai của Easterling được đưa vào vì những phần trong lời khai ấy chứng minh những sự kiện có liên quan – chứ không phải “những lời không được kiểm chứng” mà Posner đã nói một cách sai lầm với độc giả của mình. Hung hăng hơn, Posner còn công kích tác giả Mark Lane, kết tội Lane là “chỉ sử dụng bằng chứng hậu thuẫn cho luận điểm của mình…”
Posner còn viết nhiều đoạn thẳng thắn nói rằng các nỗ lực của Lane bị thúc đẩy bởi việc kiếm tiền và rước danh mình lên(210) [(Posner, Case Closed)].
Đây là một trò công kích phi chuyên môn và đáng xấu hổ đối với các tác giả khác trong lĩnh vực này. Ơû đất nước này có một thứ gọi là tự do diễn đạt. Các tác giả của sách này chẳng hạn, không đồng ý với một số ý kiến của các ông Lane và Hurt, và ý kiến của những tác giả khác, và chúng tôi cũng phản đối ý kiến của đạo diễn đoạt Oscar Oliver Stone. Đó chỉ là quyền bất đồng ý kiến của chúng tôi. Nhưng chúng tôi tôn trọng tất cả những tác giả đó, tài năng của họ và ý kiến của họ. Chúng tôi không bôi bác họ; chúng tôi chỉ bất đồng ý kiến với họ.
Nhưng ông Posner đã bôi bác nhiều nhà nghiên cứu như vậy. Được rồi, sau đây là một số phương thuốc cho chính Posner. “Posner liệt kê bất cứ gì có thể biến một lựa chọn ngốc nghếch thành đáng tin cậy hơn và bỏ qua hoặc bóp méo những bằng chứng bất lợi”.
Câu này là của Giáo sư James H. Fetzer, người biên tập cuốn Assassination Science (“Khoa học ám sát”) năm 1998(211) [(Fetzer, James H., Assassination Science (Catfeet Press – Chicago, 1998)]. Đây là cuốn sách bao hàm những dữ kiện khoa học cụ thể được viết bởi nhiều chuyên gia với năng lực không thể phủ nhận, tập trung vào các bằng chứng cụ thể về đạn đạo, nhiếp ảnh, và khoa học nói chung mà Posner đã khôn khéo bỏ qua hoặc bẻ cong để giữ vững giả thuyết của mình hơn.
Sự thực, cuốn sách của Posner thì đầy những lỗ hổng, những dữ kiện và lời chứng bị bỏ qua, và những diễn giải vô lý, đến nỗi bố già trong nghiên cứu về JFK, Barold Weisberg (cựu điều tra viên của thượng viện và tác giả cuốn sách đầu tiên chỉ ra được những sai sót trong báo cáo của Uỷ ban Warren) thấy rằng đáng để viết hẳn một cuốn sách khác – Case Open (“Vụ án còn mở ngỏ”) – để phản bác các dữ liệu đáng nghi trong cuốn Case Closed của Posner. Cuốn sách tuyệt vời của Weisberg nêu rõ những bằng chứng đã bị bóp méo, ém nhẹm và bỏ sót, những nguồn tư liệu bị bỏ sót, và những tuyên bố gây lầm lạc cho độc giả. Nếu các bạn đã đọc Case Closed của Posner thì xin hãy đọc Case Open của Weisberg. Các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết ra những thói quen nghề báo của Posner(212) [(Wiesberg, Harold, Case Open (Carol & Graf, 1994))].
Nên ý kiến của chúng tôi là, nếu có bất kỳ ai “chỉ sử dụng bằng chứng hậu thuẫn cho luận điểm của mình” thì đó chính là Posner. Posner vẽ ra bức tranh dễ dàng nhất về những nhận xét của Saundra Spencer về những ảnh chụp bổ sung việc khám nghiệm tử thi JFK, mà không hề khách quan thừa nhận ý nghĩa tiềm tàng của chúng trong một âm mưu che giấu sự thật. Posner vẽ ra bức tranh dễ dàng về chuyện Đô đốc Burkley chuyển bộ não của JFK, mà không khách quan thừa nhận ý nghĩa tiềm tàng của nó trong một âm mưu che giấu sự thật
Sự thực, trong cuốn sách 600 trang của mình, Posner hầu như không có một nhận xét đáng kể về hồ sơ 632-796. Điều này có thể so sánh với việc thuyền trưởng tàu Titanic nhún vai khi biết về tảng băng đang trôi lại gần tàu.
Bọn giang hồ
Mafia Mỹ đã luôn luôn xuất hiện trong những giả thuyết phổ biến nhất về vụ ám sát JFK, và những giả thuyết đó được hậu thuẫn bởi một khối bằng chứng quá hiển nhiên. Đi đầu trong số những kẻ tình nghi lớn là Jack Ruby, Sam Giancana, Santos Trafficante và đặc biệt là Carlos Marcello.
Về Ruby, kẻ giết Oswald, Uỷ ban Warren nhất định rằng không có bằng chứng nào nối kết Ruby với hoạt động tội phạm có tổ chức(213) [T(he Warren Commission Report)] trong khi rất nhiều nhà nghiên cứu uy tín về vụ JFK đã khám phá ra cả núi bằng chứng chứng tỏ điều ngược lại(214) [(Các độc giả quan tâm đến sự dính líu của Ruby với tội phạm có tổ chức nên xem những tài liệu tiêu biểu sau: Reasonable Doubt của Hurt (chương 8), Conspiracy của Summers (chương 23), Mafia Kingfish của Davis (chương 24)].
Mùa hè 1999, đồng tác giả Brad O’Leary của sách này đã gặp Bill Bonanno tại Santa Monica. Bonanno đã viết cuốn Bound by Honor (“Ràng buộc vì danh dự”), một tường thuật tiêu biểu về cuộc đời của ông ta trong giới giang hồ. Bonanno là con trai của Joe Bonanno, một trong những trùm mafia thế lực nhất của thập niên 1960. Bill kể với O’Leary những chuyện mà sau này được xuất bản thành Bound by Honor, rằng các gia đình băng đảng bên ngoài nhóm Marcello-Trafficante-Giancana lập tức biết giới giang hồ đã dính líu vào vụ JFK khi truyền hình quay được cảnh Jack Ruby giết chết Lee Harvey Oswald. “Trong giới chúng tôi ai cũng biết Jack Ruby”, Bonanno nói trong sách của mình như thế. Khi Bonanno gọi vài cú điện, ông ta đã có thể liên lạc được với một đồng sự của Santos Trafficante (ông trùm Florida), người này bảo với ông ta rằng đó là một “chuyện địa phương”, nghĩa là nó không dính đến những gia đình ngoài nhóm và những gia đình ngoài nhóm sẽ được cách ly khỏi các vấn đề có thể nẩy sinh. Về Ruby, Bonanno nói : “Anh ta là của Sam Giancana y như cái nhẫn trên tay lão vậy”. (Thú vị hơn, Bonanno nói với O’Leary rằng ông ta mong được biết về cuốn sách này của chúng tôi trước khi sách của ông ta được in bởi vì nó sẽ bổ sung vài khiếm khuyết trong sách của ông ấy). Cuốn sách của Bonanno cũng đã xác minh mấy điều mà các nhà nghiên cứu đã tin từ lâu, rằng một số thành viên trong Sở cảnh sát Dallas có nhận lương từ trùm Carlos Marcello, nhất là sĩ quan J.D. Tippit. “Cớm Tippit được dự trù là sẽ giết y {Oswald}, nhưng Oswald biết được. Do vậy nên họ xài tới Ruby”. Smitty D’Angelo, một đầu dây liên lạc của Trafficante đã nói như thế với Bonanno ngày 25.11.1963(215) [(Bonanno, Bill, Bound by Honor (St. Martin’s Press, 1999)].
Còn gì nữa về Ruby không?
Theo tác giả John H. Davis (người có những phát hiện về Carlos Marcello mà chúng ta sẽ bàn sau), một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Jack Ruby tại Dallas là tìm cách mua chuộc rồi chiêu mộ những sĩ quan cảnh sát Dallas tham nhũng để họ giúp đỡ giới giang hồ; hắn sẽ đưa tiền mặt cho các cảnh sát và cung cấp gái điếm cho họ. Sự thực, Ruby đã giao du thân mật được với cả chục cảnh sát Dallas. Cả nhóm sĩ quan cảnh sát chân chính đã đi lại với nhưng trung gian giang hồ như Ruby là gì? Trả lời: Họ không chân chính; họ nhận hối lộ từ một tay băng đảng làm việc dưới trướng Carlos Marcello. Điều ly kỳ nhất là vào cái đêm trước ngày xảy ra vụ ám sát, một số nhân viên Mật vụ Mỹ đi uống rượu ở một quán tại Dallas. Khi Ruby hay tin này, hắn lập tức phái một số vũ nữ thoát y tới quán đó nhằm lôi kéo các nhân viên đó ở lại chơi lâu hơn và phục rượu cho họ. Đặc biệt, những nhân viên Mật vụ ấy lại nằm trong nhóm bảo vệ cá nhân JFK(216) [(Benson)].
Bản thân Ruby cũng là trường hợp đáng nghiên cứu, nhưng đáng kể hơn lại là những người hắn quen biết và làm việc cho họ: Santos Trafficante, Sam Giancana và Carlos Marcello. Ba người này không chỉ dính líu đến tội phạm có tổ chức, họ chính là tội phạm có tổ chức, các “ông trùm” tại thành phố của họ, các “bố già”, và ba người hợp lại thành một hệ thống phân phối ma tuý toàn quốc, rửa tiền, tổ chức mại dâm, cờ bạc, và mọi hoạt động khác có thể đem tới bóp nặn tiền bạc. Trafficante là trùm băng đảng ở Florida, Giancana là ông chủ của Chicago, và Marcello là trùm ở New Orleans và Dallas. Họ có quan hệ với nhau, và từ lâu đã bị nghi là dính líu đến vụ ám sát Kennedy (Ở đây, Posner lại là người bất đồng với sự nhất trí hầu như trọn vẹn này… nhưng chúng ta cứ để như thế).
Sam Giancana chẳng hạn, cộng tác với CIA, sử dụng những đầu mối Cuba của hắn trong ít nhất một âm mưu ám sát Castro(217) [(Duffy)]. Một số họ hàng của Giancana khẳng định rằng Giancana là nhân vật chính trong vụ ám sát JFK(218) [(Benson)], và hắn ta có một số động cơ mạnh mẽ để muốn Kennedy bị chết, là động cơ thú vị nhất trong đó là điều khẳng định lâu nay rằng chính Giancana và mạng lưới Mafia Chicago đã giả mạo những phiếu bầu trễ ở Illinois có tác dụng đẩy phiếu của Kennedy lên cao trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1960(219) [(Roberts, Kill Zone)] trong đó ông ta chỉ thắng cách biệt 118.000 phiếu (một cách biệt rất mong manh trong quy mô bầu cử tổng thống trên toàn quốc). Cảm giác phản bội mà Giancana hẳn đã cảm thấy thì cũng dễ tưởng tượng: sau khi giúp Kennedy đắc cử, Giancana (và các trùm băng đảng khác) đã bị em trai của Kennedy, Bộ trưởng tư pháp Robert Kennedy, liên tục tấn công. Robert quyết biến cuộc sống của Giancana thành cơn ác mộng bằng cách chỉ thị cho FBI thường xuyên giám sát nhân vật này đến mức độ những bạn bè và nhân vật trong thế giới ngầm cảm thấy ngại không muốn đi đâu gần hắn ta nữa(220) [(Duffy)]. (Một phụ chú thú vị: Giancana bị hạ sát khi nằm dưới sự bảo vệ của cảnh sát ngay trước khi hắn ta được đề nigh ra làm chứng trước Uỷ ban tình báo Thượng viện năm 1975)(221) [(Benson)].
Người kế tiếp trong danh sách các trùm băng đảng bị nghi là có tham gia tích cực vào vụ ám sát Kennedy là trùm Miami Santos Trafficante. Trafficante cũng dính líu với CIA trong các âm mưu ám sát Castro(222) [(Benson)]. Trafficante được ghi nhận là đã nhiều lần nói miệng rằng hắn có dính vào âm mưu sát hại JFK(223) [(Benson)]. Lý thú hơn, sáu ngày sau khi JFK chết, một tờ trình được CIA chuyển đến cho Mac Bundy, trợ lý an ninh quốc gia cho Tổng thống Johnson, trong đó xác nhận rằng khi Trafficante bị Castro cầm tù năm 1959, hắn ta đã có người tới thăm và người đó không là ai khác hơn Jack Ruby(224) [(Benson)], điều này rõ ràng xác định mối liên hệ chặt chẽ giữa Jack Ruby với tội ác có tổ chức nói chung, và Trafficante nói riêng (một điều mà Uỷ ban Warren do Johnson thành lập tuyên bố là không tìm ra bằng chứng!). Trên giường bệnh lúc sắp chết, người ta nói Trafficante đã thừa nhận với luật sư của hắn – Frank Ragano – rằng hắn có dính líu vào vụ ám sát JFK cùng với Carlos Marcello(225) [(Benson)]. Điều này đem chúng ta tới điểm kế tiếp…
Lời Thú Tội Của Marcello
Có lẽ hơn hẳn mọi trùm Mafia khác, Marcello đã bị trực tiếp tình nghi là có dính líu tích cực vào vụ ám sát JFK ngay khi bi kịch này xảy ra. Giám đốc FBI J. Edgar Hoover, trong toàn bộ sự nghiệp, đã công khai phủ nhận sự tồn tại của Mafia, nhưng trong bí mật ông ta lại tiến hành một cuộc chiến lớn chống lại Mafia(226) [(Davis)]. Nhưng tại sao phải bí mật? Tại sao không công khai thừa nhận cuộc chiến chống Mafia của mình theo kiểu Robert Kennedy đã làm và được công chúng rất ủng hộ? Có lẽ vì chính Hoover cũng có liên hệ gì đó với giới băng đảng chăng? Có thể vì Mafia biết được chứng đồng tính luyến ái của Hoover và thậm chí chụp được nhiều hình về ông ta chăng? Một giám đốc FBI mà lại phủ nhận sự tồn tại của Mafia thì cũng phi thực tế như một sở cảnh sát phủ nhận sự tồn tại của tội phạm vậy. Tuy nhiên Hoover làm thế nhưng chưa từng bị sa thải, những đơn xin từ chức của ông ta đã bị Tổng thống Johnson bác bỏ, điều này cho phép Hoover giữ chức giám đốc cho đến cuối đời. Về mặt công khai, Hoover nhắc tới Marcello như chẳng là gì khác hơn một người buôn bán cà chua!
Nhưng thực sự, Carlos Marcello hoàn toàn khác xa điều đó. Hắn là đầu não của gia đình Mafia lâu đời nhất nước Mỹ. Hắn là một thiên tài bí hiểm và là tay có máu sát nhân. Cùng với Santos Trafficante và Sam Giancana, hắn cai trị thế giới ngầm đầy tiền của và tất cả nguồn lợi từ buôn bán bạch phiến và đủ trò làm tiền khác. Marcello, Trafficante và Giancana ngồi trên ngai vàng của thế giới tội phạm có tổ chức. Cả ba tên đều ghét Kennedy và đều có động cơ muốn ông ta chết: vì em trai Robert của ông này đã dùng Bộ tư pháp Mỹ (với FBI, Cục Ma tuý Mỹ và văn phòng Bộ trưởng Tư pháp) trong một nỗ lực kiên trì nhằm tiêu diệt Mafia và xoá sạch tàn dư của nó.
Nhiều độc giả đã biết điều này, nhưng với những người không am tường, chúng tôi sẽ tóm lược lại kịch bản. Robert Kennedy đã tấn công Mafia Mỹ mạnh mẽ y như Đức Quốc Xã tấn công Liên Xô… và kết quả phần lớn cũng tương tự như vậy. Đức Quốc Xã thua, Robert Kennedy cũng vậy. Tuy nhiên, thật kỳ lạ là tại sao Robert phát động một chiến dịch không khoan nhượng chống lại tội phạm có tổ chức khi lẽ ra ông ta phải biết rằng tài sản – cũng như thế lực nảy sinh từ đó – của chính gia đình ông ta cũng rút từ những nguồn tương tự. Tài sản của gia đình Kennedy được xây dựng trên việc phân phối rượu lậu trong giai đoạn mà việc sở hữu, tiêu thụ và phân phối các thức uống có cồn là phi pháp trên toàn nước Mỹ theo qui định của Đạo luật Volstead 1919. Đây là sự nghiệp của Joseph Kennedy, cha của John và Robert. Ông này đã tạo dựng được tài sản từ nghề buôn rượu lậu bằng cách liên kết với những đồng sự có quan hệ trực tiếp với những nhân vật trong thế giới tội phạm có tổ chức như Meyer Lansky, Dutch Schultz và Lucky Luciano.
Do đó, Robert Kennedy hẳn phải biết rằng chính gia đình của ông ta cũng mang nợ nặng nề đối với những mạng lưới tội phạm đã từng biến gia đình ông thành một triều đại của tiền tài và xa hoa (cũng chính là những hệ thống tội phạm mà ông ta đang tấn công vào đầu thập niên 1960), và ít nhất ông ta hẳn phải biết chuyện Giancana xào nấu những thùng phiếu Illinois đến mức biến anh ông ta thành tổng thống kế đó của nước Mỹ và nhờ đó Robert mới trở thành Bộ trưởng Tư pháp kế đó. Hãy nói về chuyện ăn đâu “xả” đó. Chúng ta chỉ có thể giả định rằng cuộc tấn công trực diện của Robert vào chính lực lượng Mafia ấy (mà lợi nhuận của chúng đã giúp ông ta theo học trường luật) là kết quả của những quan điểm của một thanh niên lý tưởng gạt bỏ quá khứ và mưu tìm sự ủng hộ của quần chúng. Đừng lo chuyện trận tấn công này có thể làm tan rã “Hoàng Gia” Mỹ. Không, nó không đứng vững lắm về mặt lý luận, nhưng dứt khoát nó đã xảy ra, và các bạn có thể đọc thấy điều đó trong nhiều tác phẩm, như Mafia Kingfish (“Cá mặt trăng Mafia”) của John H. Davis, The Sins of the Father (“Những tội của người cha”) của Ronald Kessler, The Kennedy Men (“Những người trong nhà Kennedy”) của Nellie Bly, và nhiều cuốn khác. Robert Kennedy không những đã quá liều lĩnh cái mạng của chính mình mà cả mạng sống của toàn gia đình bằng cuộc tấn công hai mặt, tráo trở và mâu thuẫn nhắm vào giới giang hồ. Chúng tôi không phê phán ông ta về chuyện này; chúng tôi hoan hô bất kỳ bộ trưởng tư pháp nào tìm cách chống lại tội phạm. Nhưng thật là lạ vì tại sao Robert – không hẳn là một con người đạo đức (cứ xem các chuyện lăng nhăng của ông ta thì rõ) – lại quyết liệt tấn công giới băng đảng đến thế trong khi ông ta hẳn phải biết rằng có bao nhiêu đạn dược mà giới giang hồ đang nhắm vào ông ta và gia đình của ông ta.
Tuy thế, Robert đã tiến hành tấn công, và những ông trùm băng đảng bị ông ta tấn công quyết liệt hơn cả không phải là Giancana hay Trafficante, mà là Carlos Marcello.
Ra đời ở Bắc Phi trong một gia đình người Sicily, Marcello đã di cư sang Louisiana năm 1910 khi chưa thôi nôi. Gia đình hắn khai khẩn một nông trại gần New Orleans, và tay thanh niên Carlos (tên khai sinh của hắn là Calogero Minacore) được nuôi lớn lên trong môi trường lao động cực nhọc và những giá trị lương thiện. Khi đủ lớn, hắn giữ nhiệm vụ chuyên chở hàng hoá của gia đình – bằng ngựa và xe ngựa – đến những khu chợ đông đúc ở New Orleans. Tuy nhiên, những chợ này lại do Mafia kiểm soát, và cũng chẳng bao lâu sau anh chàng Carlos đã có tiếp xúc với bọn đầu gấu và tội phạm địa phương để hiểu ra rằng có nhiều cách kiếm tiền thú vị hơn làm ruộng.
Sau đó, chính hắn cũng trở thành du côn đường phố và khám phá ra thế giới mới rất hào hứng của những trò trộm cắp, trấn lột, cờ bạc, cảnh sát và thối nát chính trị. Đây là môi trường rèn luyện cho Carlos, và hắn học tập rất giỏi. Gần 20 tuổi, hắn đã trộm cắp nhà riêng và cửa hàng. Cướp ngân hàng; sau đó hắn lao vào những máy đánh bạc, buôn bán rượu lậu, cờ bạc, ma túy, và đến lúc 37 tuổi, Carlos Marcello đã nghiễm nhiên là ông trùm Mafia tại New Orleans.
Không ai dám thách thức Marcello vì lúc đó hắn nắm được cả lực lượng cảnh sát cần thiết và các chính khách, và bằng cách sử dụng khôn khéo lòng tham và nỗi sợ hãi bây giờ hắn trở thành ông trùm thế lực nhất của gia đình Mafia lâu đời nhất nước Mỹ.
Marcello là một người lạc quan – thấp, săn chắc, vạm vỡ – và cung cách hắn ta điều hành tội phạm có tổ chức rất hợp với bề ngoài của hắn. Bỏ học năm 14 tuổi, khả năng tiếng Anh của hắn chỉ vượt quá một chút so với trình độ đường phố và kho tiếng lóng. Nhưng bên dưới lớp vỏ du côn ấy, Marcello chứng tỏ một khả năng đáng ngạc nhiên về toán học và một tư duy kinh doanh ngang tầm Wall Street. Bây giờ quyền lực của hắn bao trùm không chỉ Louisiana mà còn lan sang Oklahoma, Arkansas và Texas và một số hoạt động còn lan tới tận California và Trung Mỹ. Marcello là Al Capone ở miền Nam; thực tế, hắn còn mướn đầu bếp riêng của Al Capone về nấu cho mình(231) [(Davis)].
Tổng hành dinh riêng của Marcello nằm trong một quán rượu hẻo lánh gần những đầm lầy – một phần của điền sản rộng hàng ngàn mẫu của ông ta – và mỗi chủ nhật, chính ở quán rượu này mà ông trùm Louisiana sắp xếp công việc với các đầu lĩnh địa phương coi sóc đủ thứ hoạt động cho ông ta. Tính sổ cá cược, mại dâm, số đề, cờ bạc và dĩ nhiên là có cả buôn bán bạch phiến nữa. Các chính khách tham nhũng cũng có mặt, bên cạnh những cảnh sát trưởng địa phương, và ngay cả những thị trưởng và các sĩ quan cảnh sát cao cấp nữa. Đây là một chính quyền khác của miền Nam, và Marcello là thủ trưởng ngành hành pháp.
Việc chọn xây dựng điền trang trong vùng đầm lầy phục vụ cho một mục đích hai mặt. Marcello yêu cảnh đẹp sâu thẳm của miền đất này: miền nam của những nhánh sông lờ lững, những cây bách cây du phủ rêu, những con sếu và hải âu bay vọt lên trong nắng. Nhưng miền đất này không chỉ phục vụ để thoả mãn lòng yêu tất cả những gì đẹp đẽ của Marcello, mà nó còn dùng làm bãi thủ tiêu xác lúc cần thiết. Khi những tay thu tiền bảo kê giấu diếm thu hoạch, hoặc các thủ xạ quên “thủ tục phải quấy”, Marcello chỉ đơn giản là ra lệnh cho siết cổ trong khi hắn chứng giám, sau đó xác của kẻ đắc tội sẽ được hoá giải trong những thùng cường toan và toàn bộ sẽ được tống xuống đầm lầy(232) [(Davis)]. Hiệu quả, không thể truy dấu vết, và lại ly kỳ nữa.
Nhưng chuyện ly kỳ nhất trong cuộc đời Marcello lại dính đến một trong những câu hắn đề cập tới John và Robert Kennedy. Nhiều độc giả đã quen thuộc với câu chuyện này nhưng một số thì chưa biết, nên chúng tôi kể sơ lược lại ở đây, nêu thêm những phát hiện trong cuốn Mafia Kingfish của John H. Davis, tác phẩm bao quát và hay nhất từng được viết về Carlos Marcello.
Năm 1962, trong một toà nhà thuộc điền trang, Marcello gặp gỡ một cặp thủ hạ, Edward Becker và Carlo Roppolo, về một vụ phân phối dầu nhờn. Backer lỡ vô ý nhắc tới Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy, lập tức Marcello nổi cơn quát tháo một hồi. “Nhổ cái gai trước mắt giùm tao đi!” hắn gầm lên, dĩ nhiên là nói tới Robert, rồi kế đó hắn nói rằng cách duy nhất để nhổ cái gai Robert là giết người anh của ông ta đi, một ý niệm hợp lý. Giết Robert sẽ chỉ thúc đẩy JFK tấn công tội phạm mạnh hơn, nhưng nếu JFK bị chết, Robert sẽ lập tức bị Johnson đưa ra khỏi chức Bộ trưởng Tư pháp, vì Johnson vốn ghét Robert.
(Marcello cảm thấy chắc chắn về điều này vì nó là một kết luận khách quan hợp lý, nhưng chúng tôi cũng phải đưa ra mấy lý lẽ chủ quan nữa. Trong hơn một thập niên, Johnson đã nhận đóng góp vận động tranh cử từ một “nhà tài chính” tên là Jack Halfen, kẻ cũng từng làm việc thu tiền số đề cho Marcello, cho thấy rất có khả năng những khoản đóng góp đó xuất phát từ những nguồn thu phi pháp của Marcello. Sau đó ta có thể suy ra rằng mối liên hệ mờ ám này có thể giải thích tại sao Lyndon Johnson, khi còn là Thượng nigh sĩ, đã tích cực ủng hộ việc kết liễu các đạo luật chống các hình thức bóp nặn tiền bạc (bảo kê, số đề…) vốn có thể làm mất đi nguồn lợi của Marcello trong khu vực Texas của Mafia. Nhiều người sau này cũng suy ra rằng một mối nghi ngờ tương tự như vậy có thể đã ảnh hưởng đến Johnson theo một cách thức khiến ông ta quyết định cho điều tra vụ ám sát John F. Kennedy, cụ thể là một bộ phận tư pháp chuyên trách mà ông ta sẽ đích thân bổ nhiệm, một bộ phận sau này được gọi là Uỷ ban Warren)(233) [(Davis)].
Nhưng hãy trở lại với câu chuyện ly kỳ của Becker, trong đó Marcello cho rằng chiến lược hữu hiệu nhất để kết thúc cuộc chiến chống Mafia của Robert Kennedy là giết anh của ông này.
Nhất trí với điều này là một việc quá dễ dàng. Nhưng ngay cả Mafia, với tất cả quyền lực của nó, cũng không thể đơn độc hoàn thành một công việc như thế được. Giết một tổng thống à?
Cách duy nhất để làm việc đó, Marcello đã nói với Becker tối hôm đó, phải là đi thuê những tay ám sát không dính líu gì tới Mafia Mỹ, rồi kiếm ra một thằng “khùng” để tế thần. Theo đúng kiểu họ đã từng làm hồi xưa ở Sicily(234) [(Davis)].
Marcello rất quyết tâm trong chuyện này, thậm chí còn đến mức bệnh hoạn. Chỉ cần nhắc tới tên Kennedy thôi là đủ khiến hắn nổ thành một thứ như giận dữ điên khùng. Mọi khả năng lý trí đều biến mất, mọi tính thuần lý đều tan biến như hơi nước và biến ông trùm thế giới ngầm New Orleans sắc sảo, đầy tính toán ấy thành một tên khùng mặt đỏ gay, nắm tay đập bàn ầm ầm và chỉ chút xíu nữa là bị đột quị tim mạch. Mà không chỉ là chuyện Robert tấn công vào giới tội phạm; lòng thù ghét của Marcello đối với Robert Kennedy mang một dấu ấn cá nhân. Sự thực, dấu vết của Robert Kennedy luôn ám ảnh tâm trí Marcello, vì chính Robert là người đã gây phiền toái lớn nhất cho cuộc đời Marcello.
Tháng 4.1961, Robert cho bắt cóc Marcello, dưới chiêu bài trục xuất, và cho chở đến Guatemala City nơi một giấy khai sinh giả mang tên Marcello đã được “tìm ra” một cách rất tiện lợi. Marcello bị tước quyền gặp luật sư, bị bác bỏ yêu cầu được gọi điện về cho gia đình hoặc thậm chí lâý chút tiền bạc hoặc thay quần áo. Hắn ta đơn giản là bị các nhân viên INS còng tay, tống vào một máy bay không có hành khách nào khác, và sau khi vượt 1.200 dặm, hắn bị tống xuống một phi trường quân sự tại Guatemala City mà không có một xu dính túi(235) [(Davis)].
Nhiều tháng sau, với rất nhiều thời gian lần mò trong rừng rậm Marcello mới tìm được đường trở về Louisiana thông qua một phi công có dính tới giới giang hồ tên là David Ferrie(236) [(Benson)], hoá ra chỉ để đối mặt với một hoá đơn tính thuế 800.000 USD do Sở Thuế vụ nội địa dưới quyền Robert gửi tới.
Nên nỗi căm hờn sôi máu của Marcello đối với Robert Kennedy là quá dễ hiểu. Tuy Robert tấn công các ông trùm Mafia Mỹ, nhưng ông ta đã chọn riêng Marcello để quấy phá, điều này làm mất mặt Marcello ở qui mô toàn quốc. Nên có một điều đừng nên làm với một trùm Mafia, thì đó là quấy rầy hắn trước mặt các ông trùm khác.
Với Robert, chúng ta xem đó là công việc làm tốt; chúng ta hoan nghênh cuộc chiến toàn lực chống tội phạm có tổ chức. Nên sẽ ra sao nếu việc trục xuất Marcello là phi pháp về mặt chuyên môn? Chúng ta chẳng thương xót gì nếu như Robert trục xuất Marcello tới Nam Cực. Nhưng tất cả những tay Mafia đều tự xem mình là “những người đáng kính”; đó là một phần trong qui ước của chúng. Làm mất mặt một trong những ông trùm này có nghĩa là đùa với lửa, và khi làm thế, nhất là với Marcello, Robert lúc đó không hề hiểu rằng ngọn lữa sẽ bạt trở lại và đốt cháy ông ta thê thảm tới mức nào…
Trong những thập kỷ sắp tới, rất lâu sau khi cả John lẫn Robert Kennedy đều đã chết, Marcello sẽ còn bị nối kết, gắn liền, qui kết và thậm chí kết tội thẳng thừng là có trực tiếp dự mưu vào vụ ám sát JFK. Những người xuyên tác các mối liên hệ Mafia khẳng định rằng đó chỉ là bằng chứng nghe nói. Về việc Frank Rgano, luật sư của Trafficante, tuyên bố rằng trafficante đã thừa nhận với ông ta việc y và Marcello có dính líu sâu xa vào vụ ám sát, Gerald Posner cho rằng Ragano đã nói dối bởi vì ông này rất tức giận với Trafficante từ 1976(237) [(Posner, Case Closed)]. Oà có thể lắm; những tay giang hồ băng đảng không hề nổi tiếng nhờ sự lương thiện. Khái quát hơn, Posner còn nói với chúng ta rằng Trafficante và Marcello đã từ chối “đánh” ông trùm nghành vận tải Frank Fitsimmons bởi vì tay này được bảo vệ quá kỹ; rồi Posner khinh khỉnh: “Cũng chính những trùm Mafia từng tránh né một hợp đồng thanh toán một tay kiểm soát ngành vận tải nặng lại được tin là rất quan tâm tới một mục tiêu khó ăn nhất nước, một tổng thống”(238) [(Sđd)]. Aø, trước hết, rất ít giả thuyết khẳng định rằng chỉ một mình Mafia cho ám sát JFK. Thứ nhì, điều này dựa trên một lời kể khác của Frank Ragano, mà Posner dùng lời kể này để hậu thuẫn cho ý niệm rằng Mafia không dính líu vào vụ ám sát, trong khi ở cùng một trang sách Posner lại nói với chúng ta rằng Ragano là không đáng tin cậy. Thế là thế nào, ông Posner? Khi Ragano nói điều gì hậu thuẫn cho giả thuyết ‘không có âm mưu’ của ông, ông bèn sử dụng nó. Khi Ragano nói điều gì không hậu thuẫn cho giả thuyết của ông, ông liền nói y là không đáng tin cậy.
Dĩ nhiên, Posner nói với chúng ta rằng Edward Becker cũng không đáng tin cậy, và Tiểu ban Hạ viện về Những vụ ám sát đã không tin lời chứng của y(239) [(Posner, Case Closed)]. Tác giả Michael Benson, ngược lại, có một cách lý giải khác, nói rằng “Năm 1978, Becker đã lập lại câu chuyện với Tiểu ban Hạ viện về Những vụ ám sát, và họ thấy y đáng tin cậy”(240) [(Benson)] điều này xem ra có lý hơn nhiều so với những gì Posner nói, vì Tiểu ban Hạ viện về Những vụ ám sát kết luận rằng “…tội phạm có tổ chức, như một tập thể, đã không dính líu vào vụ ám sát Kennedy, nhưng bằng chứng có sẵn không loại trừ khả năng rằng các thành viên đơn lẽ có thể có dính líu”(241) [(Report on the House Select Committee On Assassinations)].
Điều đó hoàn toàn khác hẳn những gì Uỷ ban Warren nói với chúng ta. Và sau đây là mấy điều mà Tiểu ban Hạ viện về Những vụ ám sát nhận định riêng về Marcello: “Marcello có động cơ, phương tiện và cơ hội để thuê người ám sát John F. Kennedy…”(242) [(Benson)].
Điều đó hoàn toàn khác xa những gì Posner nói với chúng ta(243) [(Trong cước chú ở trang 459-460 của Case Closed, Posner nói rằng điều duy nhất khiến Chủ tịch Blakey của Uỷ ban Hạ viện về những vụ ám sát nghi ngờ Marcello là một cuộn băng theo dõi của FBI, trong đó Marcello có vẻ như e rằng phòng đã bị cài thiết bị nghe trộm. Ơû trang kế tiếp, Posner trích nội dung cuộc phỏng vấn một nhân viên FBI, người này nói rằng “Giancana và thuộc hạ hoàn toàn trong trắng nếu dựa theo kết quả theo dõi bằng điện tử”)].
Lý do khiến Marcello lúc đó không bị tích cực truy đuổi hơn là vì Tiểu ban Hạ viện về Những vụ ám sát lúc ấy không có bằng chứng để nối Oswald và Ruby với Marcello hoặc các đồng mưu của Marcello(244) [(Benson)]. Đó là chuyện năm 1978. Từ đó đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đã xác lập được những mối dây liên kết ấy.
Ruby làm việc cho Joe Civello, đầu lĩnh của Marcello ở Dallas(245) [(Davis)]. Ruby cũng đã gặp mặt nhiều thuộc hạ không phủ nhận được của Marcello như Frank Caracci, Cleeve Dugas, Nick Giaffagnini và Harold Tannenbaum(246) [(Davis)].
Còn về mối quan hệ giữa Oswald với Marcello? Ông chú của Oswald, Dutz Murret đã làm nhân viên kế toán cho Marcello(247) [(Benson)], còn Oswald là kẻ buôn lậu và tiêu thụ hàng gian trong cùng khu vực với ông chú(248) [(Davis)]. Ngay cả mẹ của Oswald cũng có quan hệ với Marcello: bà ta hẹn hò với một số tay em của Marcello(249) [(Benson)]. (Có lẽ “hẹn hò” là một từ rất lịch sự so với những gì bà ta đã làm) Một tay em khác của Marcello là Nofio Pecora, thậm chí đã có lần đóng tiền tại ngoại cho Oswald(250) [(Davis)]!
Đến đây, nói cách khác, không thiếu gì những thông tin nối kết Ruby với Marcello và nối Oswald với Marcello. Chúng ta thảy đều nghe tới những cáo buộc cho rằng một số vũ nữ thoát y của Jack Ruby còn tận mắt thấy chính Ruby gặp gỡ Oswald. Nhưng ai mà tin được mấy cô vũ nữ thoát y, phải không, ông Posner?
Nhưng còn một tài liệu năm 1967 của FBI báo cáo về lời khai của những con người “bình thường” thì sao? Bà Dwight E. Baily báo cáo cho FBI rằng bà biết nhiều nhân viên của Khách sạn Adolphus – ngay đối diện một trong những câu lạc bộ của Ruby – họ đã nhiều lần thấy Jack Ruby và Lee Harvey Oswald đi chung với nhau. Sự thực, mẹ của bà Dailey đã từng phục vụ bàn cho cả Ruby lẫn Oswald tại quán cà phê của khách sạn(251) [(Hồ sơ FBI 62-109060-4391; Hồ sơ lưu trữ 124-10057-10273, ngày 9.1.1967)].
Khi nghiên cứu sâu hơn, ta nghĩ sao về một tài liệu của chính phủ ghi nhận rằng không những Marcello có quan hệ với Ruby và Oswald mà Marcello còn đích thân gặp cả hai tên đó nữa?
Tài liệu CR 137A-5467-69 của FBI, đề ngày 9.6.1988, đã bị biên tập rất nhiều (những phần chính bị bôi đen) và nó ghi chép lời khai của một mật báo viên với tên tuổi không được tiết lộ vì lý do giữ an toàn cho người đó. Mật viên này báo với FBI rằng:
“Marcello có nói chuyện về nhà Kennedy. Hắn ta bảo tôi và một người bạn nữa về cuộc gặp mặt với Oswald. Hắn ta biết được Oswald qua một người tên là Ferris, phi công của Marcello {rõ ràng chổ này muốn nói tới David Ferrie} Hắn ta nói rằng cuộc gặp gỡ đã xảy ra trong nhà hàng của người em trai… (Nhà hàng La Louisiana(252) [(Davis)]). Hắn nói rằng Ruby là một thằng chó đẻ đồng tính nhưng lại hữu dụng khi y ở gần bên để nói cho hắn biết đã có gì xảy ra trong thành phố. Hắn nổi cơn giận dữ dội, chửi rủa anh em Kennedy. Hắn nói ừ tao đã cho thịt một thằng chó rồi, và tao sẽ làm thêm một cú nữa…”(253) [(Hồ sơ FBI CR 137A-5467-69, 70, 72; Hồ sơ lưu trữ 124-10182-10430, ngày 9.6.1988; công bố một phần ngày 27.3.1998)].
Tay mật báo viên bí ẩn này là ai? Chúng ta sẽ không biết được, ít nhất là cho đến khi người đó chết. Nhưng rõ ràng đó không phải là Edward Becker vì câu chuyện của Becker xảy ra trước khi Kennedy bị giết, trong khi lời khai này rõ ràng đề cập tới một cuộc trao đổi của Marcello sau vụ ám sát. Nhưng vì mật báo viên hiển nhiên là một tay giang hồ cần được bảo vệ, nên những tay phản biện sẽ nhất quyết rằng người này là “không đáng tin cậy”.
Tốt lắm. Nhưng nếu người đó không đáng tin cậy, điều đó có nghĩa là lời khai của người đó là không xác thực, và nếu lời khai ấy là không xác thực, thì tại sao FBI giữ kín bảy trang tài liệu đó(254) [(FBI Postponement Information Sheet (JFK Materials); đây là tờ bìa thứ nhì của Hồ sơ CR 137A-5467-69, 70, 72)]? Và tại sao có ba trang đã được công bố trong tình trạng bị bôi đen? Ơû dòng cuối cùng không bị bôi đen, mật báo viên vô danh ấy đồng ý ngồi vào máy phát hiện nói dối. Đó là năm 1988 mà! Nếu mật báo viên không qua được máy phát hiện nói dối, thế thì đâu có lý do gì mà FBI cho bảo mật biên bản buổi xét nghiệm nói dối ấy!
Nhưng họ đã làm thế.
Tại sao?
Chúng tôi chỉ có thể suy đoán, và các bạn cũng vậy. Nhưng còn một lô tài liệu FBI khác còn thú vị hơn. Trong tập hồ sơ nói trên, một nguồn thứ nhì cho ta biết rằng Marcello đã thừa nhận hắn có dính líu đến vụ ám sát.
Nhưng trong một hồ sơ FBI khác, đích thân Marcello thú nhận sự dính líu của mình, mà không phải với những tay giang hồ hay mật báo viên để những tay phản bác có thể gắn cho cái nhãn hiệu “không đáng tin cậy”.
Không, ở đây Marcello thú nhận cùng hai sĩ quan cải huấn liên bang. Marcello chết năm 1993. Nhưng năm 1981, luật pháp sau cùng cũng tóm được hắn, và Marcello bị kết án vi phạm luật RICO và âm mưu hối lộ thẩm phán liên bang, lĩnh án tổng cộng 17 năm tù khi hắn đã 72 tuổi(255) [(Davis)]. Sau khi kháng cáo bị bác, Marcello cũng đành ôm ca thiếc mà gõ vào cửa xà lim. Marcello phải gác bỏ danh hiệu Trùm Mafia và trở thành tù nhân số 16225-034-A, và được cấp một chỗ ở miễn phí trong Viện cải huấn liên bang Texarkana, bang Texas. Không đến nỗi bị xích thành chuỗi nhưng ở đó cũng chẳng tốt lành hơn bất kỳ chỗ nào khác trong khuôn khổ của ngành tư pháp. Và ít lâu sau, tuổi tác, cộng thêm bao năm tháng ăn nhậu vô độ, bắt đầu đè nặng lên hắn.
Những cơn xây xẩm, suy sụp thể lực và thần kinh, và nhịp tim không ổn đã khiến các nhân viên y tế trại giam e rằng Marcello rồi sẽ bị một cơn đột quị hoặc đau tim (hội chứng tổn thương não thứ cấp, thiếu máu cục bộ hoặc tăng huyết áp trước đột quị, nếu bạn quan tâm tới tiểu tiết). Cuối tháng 2.1929, Marcello được chuyển từ bệnh viện trại giam đến Trung tâm y khoa Wadley gần đó để xét nghiệm. Và trong thời gian xét nghiệm ấy hắn được các nhân viên cải huấn giám sát chặt chẽ(256) [(FBI AIRTEL từ Dallas SAC gửi Giám đốc FBI; Hồ sơ CIA 175A-DL-109-7; Hồ sơ lưu trữ 124-10267-10456; ngày 11.4.1989)].
Vào khuya ngày 28.2.1989, James Cates và Vincent Brown, sĩ quan cải huấn liên bang, là hai người đang làm nhiệm vụ canh giữ Marcello. Hắn ta đang ngủ, được ràng vào giường bệnh với đủ thứ dây truyền nối với các máy móc theo dõi bệnh tình, và lát sau hắn ta bắt đầu co giật và nói lảm nhảm. Có lúc Marcello lại ngỡ Cates và Brown và các vệ sĩ của mình, và nói rằng đã đến lúc phải trở về New Orleans thôi. Nhưng có điều gì khác lạ trong những câu lảm nhảm của Marcello mà Cates ghi nhận là “…cực kỳ rối rắm và lộn xộn, nhưng có lúc lại rõ ràng và súc tích”. (chuyện này không có gì khác thường với những bệnh nhân bị suy kiệt thể lực theo kiểu nào đó: lúc này họ chẳng biết mình đang ở đâu nhưng liền đó trí óc họ trở lại hoàn toàn minh mẫn và có thể kể chi tiết những chuyện nhiều chục năm về trước không chút sai sót).
Trong phiên trực của họ, Cates và Brown nhận thấy Marcello tiếp tục lầm bầm và cứ lúc tỉnh lúc thiếp đi. Nhưng rồi, khoảng 2 giờ 30 sáng, Marcello tỉnh dậy và nói câu này:
“Thằng Kennedy – Đ. M nó chứ. Tụi tao sẽ xử lý nó ở Dallas”
Đây không phải chuyện nghe nói; nó đã được ghi vào một tờ trình chính thức của FBI(257) [(Tài liệu kèm FBI AIRTEL; hồ sơ CIA 175A-DL-109-7; Tờ trình gửi J.D.Swinson, Jr.,Giám đốc trại giam; ngày 28.2.1989; một văn bản tường trình của sĩ quan James Cates)].
Marcello còn nói với Cates và Brown rằng hắn ta mệt vì mới lái xe rồi người khác lại chở hắn quay ngược từ New York về New Orleans(258) [(Tài liệu kèm FBI AIRTEL; hồ sơ CIA 175A-DL-109-7; bút lục ngày 13.3.1989 của cuộc phỏng vấn Sĩ quan cải huấn Vincent Earl Brown do FBI tiến hành. Điều tra ngày 2.3.1989; ngày ghi chép: 2.3.1989; Hồ sơ số DALLAS 175-109)]. Có lúc Marcello nói bằng tiếng Pháp(259) [(Tài liệu dẫn trên)]. Sau đó, vào hai lúc khác nhau, Marcello đã nói “Tụi tao sẽ tính cái thằng Đ. M. Kennedy đó ở Dallas”.
Cates lập tức báo cáo chuyện này với giám đốc trại giam, ông này báo về cho FBI. Một hồ sơ chính thức khác của FBI còn cho ta biết rằng Marcello được đưa ra khỏi Trung tâm Wadley ở Texarkana ngay ngày hôm sau và tức tốc đem về Trung tâm y khoa liên bang ở Rochester, Minnesota(260) [(Tài liệu kèm FBI AIRTEL; hồ sơ CIA 175A-DL-109-7; bút lục ngày 13.3.1989 của cuộc phỏng vấn bác sĩ Jerry Stringfellow do FBI tiến hành. Điều tra ngày 2.3.1989; ngày ghi chép: 2.3.1989; Hồ sơ số DALLAS 175-109)], tại đây FBI lập tức điều một nhóm nhân viên tới với mục đích rõ ràng là giám sát Marcello và xác định cho được “phương cách hữu hiệu nhất để khai thác thông tin từ tù nhân này”(261) [(Bản viễn ký FBI; Hồ sơ CIA 175A-DL-109-3; Hồ sơ lưu số 124-10267-10460, ngày 10.3.1989)]
Vậy là đến đây chúng ta đã biết được năm người từng nghe thấy Marcello thừa nhận có dính líu tích cực vào vụ ám sát JFK. Hai trong số năm người đó, Frank Rogano và Edward Becker, có quan hệ với giới băng đảng giang hồ. Cả hai đều không có lý do hợp lý nào để nói dối tuy nhiên một số nhà nghiên cứu vẫn coi họ là không đáng tin cậy chỉ vì họ có dính líu tới giới giang hồ. Chuyện cũng tương tự như vậy cho nhân chứng thứ ba – một nhân chứng vô danh – được ghi trong hồ sơ FBI. Có lẽ hắn ta cũng có liên quan tới giới giang hồ, cũng không có lý do gì để nói dối nhưng vẫn bị các nhà phản bác cho là không đáng tin cậy – tuy rằng ba trang đầy lời chứng của ông ta vẫn còn được FBI giữ kín, và hầu hết lời khai của nhân chứng này khi được công bố đều bị bôi đen.
Nếu những điều tay mật báo viên này phát biểu là không đáng tin cậy, thế thì vì lý do gì mà FBI giữ kín nó và không công bố cho dân chúng?
Chúng tôi sẽ không nín thở chờ đợi bất kỳ ai trả lời câu hỏi này. Vấn đề là chúng tôi còn hai nhân chứng nữa – không phải dân giang hồ, không phải mật báo viên, mà là hai sĩ quan cải huấn liên bang với thành tích công tác trong sáng và không hề có lý do gì để nói dối.
Chúng tôi để phần còn lại cho độc giả tuỳ nghi suy luận.
Cuộc Tranh Cãi Quanh Phát Đạn Vào Đầu
Nhờ phó đô đốc Burkley chu đáo dời chỗ bộ não của Kennedy, nên thế giới sẽ chẳng bao giờ biêt được phát đạn gây tử vong đó được bắn ra từ đâu. Tuy nhiên, đứng đầu trong danh sách suy đoán là giả thuyết cho rằng viên đạn trúng đầu được bắn từ phía trước Kennedy khi đoàn xe di chuyển theo phố Elm. Cuốn The Killing of a President (“Vụ giết một tổng thống”) của Robert Groden khẳng định điều này mà không kèm những chữ như nếu, và hoặc nhưng gì cả; ông ta còn vẽ hẳn sơ đồ mô tả đường đạn bắt đầu từ hàng rào bảo vệ phía sau “Grassy Knoll” và kết thúc ở đầu Kennedy trong chiếc xe. Groden viết trong sách: “Phát đạn thứ năm, bắn từ phía sau hàng rào bảo vệ chân đồi, găm trúng thái dương phải của tổng thống… Viên đạn trổ ra phía sau đầu…”(262) [(Groden, The Killing of a President)]
Sách của Groden là loại bìa giấy khổ lớn, nó bao gồm chủ yếu là các bức ảnh chen lẫn những đoạn văn bản, và đó là cuốn sách, có lẽ hơn mọi cuốn khác, nói được cho độc giả phổ thông tất cả những rối rắm của vụ ám sát JFK. Với những bức ảnh, Groden đã chỉ cho độc giả thấy, chứ không chỉ là kể cho độc giả biết, và nỗ lực này rất đáng biểu dương. Groden cũng là một cố vấn kỹ thuật cho bộ phim JFK của Oliver Stone và trong phim đó ta thấy sự mô tả hành động y như khẳng định của Groden: một tay súng phía sau hàng rào Grassy Knoll bắn phát đạn trúng đầu gây tử vong đó(263) [(Stone, Oliver, JFK, phần II, cảnh xử án)].
Tuy nhiên, để điều này là sự thực, người ta phải chấp nhận một điều bất thường về mặt đạn đạo học. Nếu một viên đạn súng trường có tốc độ cao hoặc trung bình bắn trúng thái dương bên phải của một người và trổ ra phía sau đầu, thì viên đạn đó đã đi một đường hơi khác thường. Nó vào thái dương phải rồi rẽ một góc 90 độ trong cái đầu, rồi trổ ra đằng sau. Tức là rẽ trái rất gắt. Và đó là điều bất thường về mặt đạn đạo…
Nhưng không phải là không thể xảy ra.
Các viên đạn chạy lung tung. Các viên đạn chạy dọc theo xương. Người ta từng biết các viên đạn di chuyển trong những điều kiện không hạn chế. Hoàn toàn có thể có chuyện một viên đạn tốc độ cao chui vào khuỷu tay một người và trổ ra ở đầu anh ta. Những chuyện đó vẫn xảy ra. Thí dụ, một phần trong thiết kế cơ bản của loại súng M-16, là tạo một viên đạn bất định về mặt đạn đạo trong khi chiến đấu. Nó có một đầu đạn cực mảnh (đường kính chỉ có 5,56mm) đàng sau một khối thuốc nổ thông thường cho một viên đạn súng trường. Khi va chạm mục tiêu, thiết kế này sẽ làm tăng khả năng chạy lung tung của viên đạn bên trong mục tiêu thay vì đơn thuần vào rồi ra theo một đường thẳng, như kiểu ta thường gặp với các loại đạn cỡ lớn hơn (7,62mm) thường dùng hiện nay. Viên đạn càng lớn và khối thuốc đạn càng nhiều, sức công phá càng mạnh, và thường nó sẽ vào và ra theo một đạn đạo thẳng. Nhưng khi bạn có viên đạn mỏng hơn, nó có thể làm đủ chuyện kỳ quái sau khi vào trong cơ thể của mục tiêu.
Khẩu súng trường mà người ta nói Oswald đã sữ dụng là một khẩu Mannlicher – Carcano nòng 6,5mm không mỏng như đạn của khẩu M-16, nhưng dứt khoát mỏng hơn những loại đạn súng trường thông thường (Nhưng dĩ nhiên, Oswald, nếu có bắn, thì không bắn từ Grassy Knoll). Dù thế nào thì cũng hợp lý khi khẳng định tính khả dĩ tin được trong kịch bản của Groden. Nó có vẻ khó xảy ra nhưng vẫn có thể xảy ra như thường. Thêm vào đó là hơn một chục nhân chứng tuyên bố rằng đã nhìn thấy một lỗ đạn lớn trổ ra phía sau đầu của Kennedy(264) [(Groden, The Killing of a President)].
Nhưng bây giờ ta hãy suy luận chút đỉnh bằng cách quan sát vật chứng duy nhất đúng sự thật hiện có cho đến nay: một đoạn phim 8 ly dài 26 giây được quay vào ngày 22.11.1963 bởi một tay chơi phim nghiệp dư vốn làm nghề thợ may tên là Abraham Zapruder. Tờ báo Life, cơ quan đã mua được đoạn phim này, đã định nghĩa rõ tầm quan trọng của nó: “Trong tất cả nhân chứng về bi kịch này, cái mà ta hoàn toàn không thể hồ nghi đó là đoạn phim 8 ly của Abraham Zapruder”(265) [(Image of an Assassination, phim tài liệu video của MPI Teleproductions, H.D.Motyl đạo diễn và sản xuất, 1998)]
Nhân chứng con người có thể phạm vô số sai lầm của con người. Một số nhân chứng có thể quên, một số lẫn lộn, và một số khác; một cách vô thức; đã để cho lời chứng của họ bị ảnh hưởng bởi những gợi ý khéo léo. Một số nhân chứng có thể nói dối (và trong vụ ám sát JFK, một số nhân chứng đáng kể có vẻ đã chết một cách hơi sớm). Nhưng một ống kính thì không biết nói dối, cũng không thể phạm những lầm lẫn của con người. Khi được chĩa vào đúng chỗ, ống kính sẽ chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc ghi nhận sự thật tuyệt đối, và trong ngày Kennedy bị giết, ống kính của Zapruder lại chĩa vào đúng chỗ. Nó ghi nhận ngay khoảnh khắc của cái có lẽ là biến cố gây tranh cãi nhất – và cũng kinh hoàng nhất – trong lịch sử nước Mỹ.
Bởi vì trong đoạn phim đó, người ta thấy đầu của Tổng thống John F. Kennedy nổ tung.
Nhưng trong vụ nổ đó, và trong nhiều thập niên sau biến cố đó, công chúng Mỹ đã bị chìm trong sự lẫn lộn. Hầu như rằng phát đạn thật sự giết chết Kennedy cũng chính là phát đạn bắt đầu cuộc chạy đua của những tay mê nghiên cứu vụ JFK để lao vào đủ thứ giả thuyết. Ngày nay, cho dù có những cuốn sách như Case Closed của Posner (vốn ủng hộ giả thuyết Oswald là tay súng đơn lẽ làm chuyện đó một mình) thì những đánh giá cá nhân phổ biến nhất có vẻ như ủng hộ lý thuyết chung cho rằng (1) JFK bị giết do một âm mưu; (2) Báo cáo của Uỷ ban Warren là một tập hợp những lời nói dối do chính phủ bịa ra; và (3) bằng chứng và những lời khai nhân chứng quan trọng mà chúng có thể dễ dàng bác bỏ Báo cáo Warren và những kết luận của các cuộc điều tra sau đó đều bị nguỵ tạo, biến cải, tiêu huỷ hoặc bỏ qua.
Các tác giả của sách này đồng ý với ba điểm nêu trên. Nhưng có lẽ còn một điểm thứ tư cũng còn được công chúng đánh giá cao: đó là chuyện phát đạn vào đầu gây tử vong đã được bắn từ Grassy Knoll.
Nhưng, chúng tôi không hoàn toàn tin vào điều đó.
Ta hãy trở lại những điều chúng tôi đã trình bày cách đây vài đoạn: ống kính không biết nói dối. Nếu sự thật có một con mắt, thì đó là ống kính và những gì nó ghi được vào phim, và trong đoạn phim của Zapruder, khung hình 313, chúng ta thật sự thấy cái đầu Kennedy nổ. Với những độc giả không được xem đoạn phim này, chúng tôi thành thực kêu gọi bạn hãy mua, mướn hay mượn một bản in thuộc loại tốt nhất, rõ nhất: đó là cuộn The Men Who Killed Kennedy (tập 1; “Người đã giết Kennedy”) của A&E Home Video sản xuất năm 1987, và bộ phim JFK của Oliver Stone năm 1991 (trong cảnh xử án ở gần cuối phim, Stone sử dụng một phần lớn của đoạn phim Zapruder), hoặc, gần đây hơn, vào tháng 6.1998, là phim Image of an Assassination (“Hình ảnh của một vụ ám sát”) của hãng MPI (ấn bản kỹ thuật số của đoạn phim nhựa gốc)
Hãy kiếm một bản và xem đi. Xem đi xem lại nhiều lần. Nếu trước đây bạn chưa từng xem, thì hãy chuẩn bị cho cú sốc của nó vì nó trông rất kinh, đoạn phim gây nhiều bối rối, và bạn sẽ thấy máu, những mớ não vung vãi, và những mẫu sọ bung ra từ thái dương bên phải của Kennedy.
Hãy xem hình ảnh thấp thoáng trong phim cho thật kỹ.
Với chúng tôi, những mẫu sọ từ thái dương bên phải của JFK trông giống một vết đạn trổ ra hơn, tuy những người theo giả thuyết phát đạn tử vong xuất phát từ Grassy Knoll vẫn cho rằng đây là vết thương đạn găm vào. Tuy quả thực rằng Grassy Knoll nằm ở phía trước – bên phải của chiếc xe chở JFK khi nó chạy dài gần hết phố Elm, vào thời điểm chiếc xe Lincoln mui trần vào đến vị trí ở đó đầu Kennedy bị nổ, một phát đạn từ Grassy Knoll hẳn đã gần như bắn thẳng góc vào đầu Kennedy. Giả thiết phổ biến nhất cho rằng một tay bắn tỉa đàng sau hàng rào gỗ quanh Grassy Knoll đã bắn gần như thẳng vào thái dương bên phải của Kennedy. Nhưng trong đoạn phim Zapruder, chúng ta lại thấy mẫu sọ rơi ra từ thái dương bên phải. Chúng ta thấy một vết đạn vào ở chổ hẳn phải là vết đạn ra nếu quả thực phát đạn tử vong được bắn từ phía Knoll. Nếu một tay bắn tỉa ở phía Knoll đã bắn trúng đầu JFK ở hướng xe chạy như vậy, viên đạn ắt phải đi vào thái dương phải của Kennedy, trong khi theo hầu hết những bài học đạn đạo, mẫu sọ rơi ra phải được thấy ở phía bên trái đầu Kennedy.
Chúng tôi không tranh luận về ý tưởng cho rằng không phải chỉ có một tay bắn tỉa tại quảng trường Dealey ngày hôm đó. Chúng tôi cũng không tranh luận chuyện có một tay bắn tỉa đứng sau hàng rào Grassy Knoll. Hàng chục nhân chứng, trong đó có cả cảnh sát(266) [(Duffy)] – thực tế, tám mươi phần trăm các nhân chứng tại quảng trường Dealey, theo nhà nghiên cứu Robert Groden(267) [(Groden, The Killing of a President)] – khai báo rằng các phát đạn được bắn ra từ khu Grassy Knoll. Gordon Arnold, vừa mới qua huấn luyện cơ bản, đã lao ngay xuống đất ở trước hàng rào Knoll khi ông ta nghe tiếng súng trường nổ sau lưng mình(268) [(Trong cuốn The Killing of a President của Robert Groden, những ảnh chụp thực cho thấy cảnh sát và ngừời dân chạy đổ về phía Knoll(269) [(Benson)] Groden, The Killing of a President)]. Chính Abraham Zapruder, khi quay những đoạn phim bất tử ấy, đang đứng trên một vỉa hè xi măng cạnh Grassy Knoll, và cho dù ông ta khai báo rằng những phát súng được bắn ra từ phía sau lưng ông ta, điều đó cũng đặt tiếng súng bắn từ phía sau hàng rào ở Knoll(270) [(Duffy)]. Các chuyên gia của quốc hội, qua phân tích bằng chứng âm học, đã xác định rằng có khả năng 95% là có ít nhất một phát đạn được bắn ra từ Grassy Knoll nhưng rồi chúng ta được nghe nói rằng một uỷ ban khác của chính phủ (Uỷ ban âm học đạn đạo) đã cho rằng các kết luận trước đó là không giá trị mà không giải thích tại sao(271) [(Hồ sơ FBI/Hồ sơ lưu sổ – 10006-10144/ Hồ sơ CIA 62-109060-2 ND NR 8235)]. Theo chúng tôi thì đó quả là một trò ngớ ngẩn; đó chỉ là một trò ma mãnh khác của chính phủ thôi. Làm thế nào mà “Uỷ ban âm học đạn đạo” (rồi tới gì nữa? Uỷ ban về dụng cụ giữ sống lưng của JFK chắc?) không chỉ phủ nhận một xác định về kỹ thuật của các chuyên viên thuộc quốc hội mà còn gạt bỏ lời khai của cả chục nhân chứng mà không thèm nói một lời để giải thích tại sao họ gạt bỏ lời chứng ấy. Cái gì đây? Không lẽ tất cả những người đó đã bịa đặt ra cùng một câu chuyện? Cả dân thường lẫn cảnh sát? Ngay cả thành viên của đội mô tô hộ tống cũng nói họ tin rằng những phát đạn là bắn ra từ Knoll(272) [(Duffy)].
Vậy đó, chúng tôi hy vọng độc giả thấy rõ rằng chúng tôi tin thật có những phát đạn được bắn ra từ sau hàng rào ở Grassy Knoll – nhưng không phải phát trúng đầu, và có thể thậm chí không có phát nào trúng ai cả. Thực vậy, nhiều người đã tuyên bố rằng phần đàng sau – bên phải của cái đầu Kennedy đã bị bắn tung(273) [(Groden, The Killing of a President)]. Nhưng đó không nhất thiết là điều chúng ta thấy trong đoạn phim Zapruder. Độ phân giải của mẫu phim cũ này, cho dù là bản dùng kỹ thuật số, không phải là toàn bích. Các chi tiết bị mất âm thanh, hình ảnh mờ, chuyển động, nên điều xảy ra trong tích tắc ghi được trong Khung hình 313 khiến ta hầu như không thể xác định điều đó một cách rõ ràng được. Do đó thật khó nói chắc rằng phần nào đó ở phía sau đầu JFK đã bị bắn tung hay không bắn tung. Với chúng tôi, có vẻ như thái dương bên phải bị bắn tung. Phải, Kennedy có vẻ như giật ra sau đúng lúc hoặc ngay sau khoảnh khắc trúng đạn nhưng điều này có thể giải thích dễ dàng là do lực quán tính khi xe tăng tốc. Từ quan điểm của chúng tôi, ít nhất, một phát đạn từ Grassy Knoll không thể tạo được cảnh mà chúng ta thấy trong đoạn phim Zapruder.
Để tạo được cảnh trên, viên đạn trúng đầu hẳn phải đến từ phía sau Kennedy, chứ không phải từ Knoll ở phía trước Kennedy. Hơn nữa, như cách chúng tôi lý giải đoạn phim này, phát đạn trúng đầu không những phải xuất phát từ phía sau Kennedy, và trong trường hợp này các vị trí khả thi nhất cho một tay bắn tỉa sẽ là toà nhà Kho sách giáo khoa Texas, Cao ốc Dal-Tex (cả hai đều ở lề trái phố của Elm), và Cao ốc Dallas Records hoặc Pháp đình hình sự (ở phía trái của phố Elm). (Ngay Robert Groden cũng thừa nhận khả năng có ít nhất một phát đạn được bắn từ nóc cao ốc Dallas Records)(274) [(Groden, The Killing of a President)]
Bây giờ, để thêm vào cuộc tranh luận, ta hãy bổ sung thêm vài nhân chứng nữa, ba người đã nhìn thấy xác Kennedy tại Bệnh viện Parkland.
Bác sĩ Marion Jenkins, bác sĩ Robert McClelland và cha cố Oscar Huber, người tiến hành những nghi lễ cho Kennedy. Cả ba người đều nhận thấy chỗ trông như vết đạn chui vào thái dương ở bên trái Kennedy(275) [(Duffy)] điều này sẽ xác định một vết đạn trổ ra ở thái dương bên phải, và khả năng này có vẽ có lý nhưng chỉ làm vấn đề thêm rắc rối khi nó mâu thuẫn với những nhân chứng khai rằng họ thấy một vết đạn trổ ra ở đàng sau bên phải của cái đầu Kennedy.
Như thế hết câu hỏi này đến câu hỏi khác, nhóm nhân chứng này mâu thuẫn với nhóm khác. Bác sĩ Ronald F. White trong bài viết sôi nổi cho tập Assassination Science (“Khoa học ám sát”), mộ tả vụ sát hại JFK như là “khởi đầu của một thời Hậu hiện đại tại Mỹ”, và nó là một “tiếng lao xao lảm nhảm của đủ thứ giọng đã tạo nên ngành sử học về ám sát”(276) [(Fetzer)]. Trong một nghĩa rộng, điều này không thể nào đúng hơn: có quá nhiều cái miệng láp báp, quá nhiều nhân chứng, qúa nhiều “cuộc điều tra” của những cơ quan điều tra kém cỏi, đã biến mọi khía cạnh của vụ ám sát JFK thành một hiện tượng giống như một kiểu phim X-files. Cho đến gần đây mới thấy có các chuyên gia đích thực, không thiên vị, khởi sự mở một hướng đi khoa học vào vụ nghi án này. Một thí dụ đáng được trân trọng giới thiệu là cuốn Assassination Science nói trên (đây là một cuốn sách tuyệt vời và thuộc loại phải-đọc cho bất kỳ ai quan tâm tới vụ ám sát JFK; không may, độc giả trung bình cần có bằng tiến sĩ vật lý, tội phạm học và giải phẩu học thì mới khai thác được tác phẩm này!) Nhưng những nỗ lực như vậy, mặc cho chi tiết về thuật ngữ chuyên môn, v.v… chính là điều mà độc giả cần có để phân biệt vàng thau, tức là: một phân tích khoa học về các bằng chứng và cả những suy đoán nữa.
Một thí dụ “dễ cho độc giả hơn” về sự khảo sát của các chuyên gia không thiên vị là một điều đã xảy ra gần đây cuối mùa hè 1998, và nó không dính gì đến những nhà khoa học trong một phòng thí nghiệm.
Phòng thí nghiệm ở đây chính là quãng trường Dealey.
Các nhà quản trị Associated Television (một công ty truyền hình có trụ sở chính ở Los Angeles) đã chi một khoản tiền lớn để thuê quảng trường Dealey của chính quyền Dallas trong một khoảng thời gian đủ để các chuyên gia đạn đạo tới đó làm một số việc mà lẽ ra phải được làm từ lâu. Với những trang bị đo lường hiện đại và tinh vi nhất, các chuyên gia này tiến hành khảo sát vấn đề viên đạn trúng đầu một cách tỉ mỉ – và khoa học – hơn bất kỳ cuộc khảo sát nào từng được làm trước đây. Nỗ lực này đã soi rọi những ánh sáng chưa từng có vào vấn đề này, và kết quả có lẽ đã chứng tỏ chính xác nơi xuất phát của viên đạn trúng đầu đó.
Và với đa số những nhà giả thuyết, nó cũng là một kết quả đầy ngạc nhiên.
Yù tưởng này nảy sinh khi đồng tác giả Brad O’Leary của sách này thuyết phục Associated Television sang Nga để quay một phim tài liệu dựa trên những hồ sơ KGB mới tìm được có liên quan đến Oswald và vụ ám sát Kennedy. Bộ phim này đã phát sóng nhiều lần trong chương trình The Learning Channel. Trong những cuộc phỏng vấn rốt ráo với nhiều cấp thẩm quyền kỹ thuật hàng đầu của Nga (cũng như các cấp chỉ huy của KGB trước đây), trung tá Nikolai Martinnikov, một chuyên gia đạn đạo hàng đầu làm việc ở Phòng thí nghiệm tội phạm liên bang Nga, đề xuất kỹ thuật hiện đại sử dụng tia laser thử nghiệm – chính xác như một phương cách để khảo sát “các giả thuyết về viên đạn trúng đầu” khác nhau để xác định chính xác nơi nào tại quảng trường Dealey là nơi bắn ra phát đạn gây tử vong ấy. Điều này dẫn tới tiểu mục kế tiếp của chúng tôi:
Tái Dựng Hiện Trường Quảng Trường Dealey
Ba mươi lăm năm sau cái chết của Kennedy, quảng trường Dealey được phong toả cho một cuộc nghiên cứu chưa từng có, và những chuyên gia uy tín được mời tham gia, những con người với khả năng chuyên môn không thể phủ nhận:
Anthony Larry Paul: một chuyên gia đạn đạo hiện trường với hơn 30 năm kinh nghiệm trong việc dựng lại hiện trường tội phạm; một giảng viên đạn đạo học cho FBI và sở cảnh sát của Los Angeles và Philadelphia.
Heinz Thummed: một chuyên gia về laser ứng dụng và một nhà tiền phong về vận hành laser; Thummed là nhà khoa học đầu tiên nghĩ ra cách nhìn bằng laser cho ngành chế tạo vũ khí trên ba thập niên qua.
Ronald L. Singer: Nhà tội phạm học hàng đầu của Phòng thí nghiệm tội phạm học Hat Tarrant.
Bác sĩ Vincent DiMaio: nhà bệnh lý học pháp y nổi danh toàn quốc với nhiều sách giáo khoa và bài viết kỹ thuật đã định ra một số tiêu chuẩn trong lĩnh vực này. DiMaro là trưởng ban khám nghiệm y học ở San Antonio, Texas.
Robert Groden: có lẽ là nhà nghiên cứu JFK nổi tiếng nhất. Groden đã viết một số sách bán rất chạy và, nhờ kỹ năng của một chuyên viên nhiếp ảnh, có lẽ ông đã cho độc giả thấy được rất nhiều điều gây tranh luận chung quanh vụ ám sát JFK.
Paul định nghĩa các mục đích căn bản, những thiết kế và động cơ tối hậu của việc tái dựng hiện trường này bằng cách giải thích, “chúng ta sẽ tái tạo lại kịch bản cảnh nổ súng – càng nhiều kịch bản càng tốt – bằng cách dùng công nghệ laser để xác lập các đường bắn của đạn”. Singer tăng thêm mối quan tâm đặc biệt của nhóm vào việc trắc nghiệm “một số giả thuyết khác, một số vị trí khác, và xem đích xác những gì chúng ta có thể loại bỏ – và tôi nghĩ đây thực sự là con đường các bạn phải đi – với bất kỳ nghiên cứu nào thuộc loại này – bạn loại bỏ những giả thuyết bấp bênh bên lề và càng loại bỏ được nhiều giả thuyết thì ta càng tới gần sự thật. Giống như Sherlock Holmes nói, một khi bạn loại trừ được tất cả những điều không thể xảy ra, thì cái còn lại chính là sự thực”. Với việc sử dụng mắt nhìn laser, dự án này sẽ có thể xác định giả thuyết nào trình bày rõ nhất chuyện đã xảy ra vào ngày 22.11.1963. Sau cùng, DiMaio tổng kết các mục tiêu của nhóm là “trình bày bằng chứng khách quan trong vụ này là gì, loại bỏ một số huyền thoại về bản chất của các vết đạn trên người Kennedy và các vũ khí, rồi để cho mọi người tự phán xét. Tôi chỉ quan tâm khía cạnh khoa học”. Ngay lập tức, các nhà khảo sát chuyên nghiệp được mang tới hiện trường để trắc nghiệm phương tiện, một công việc cực kỳ quan trọng. Ba vị trí trắc nghiệm được xác định để đánh dấu sự di chuyển của JFK dọc theo phố Elm, một trước lúc Tổng thống bị bắn, điểm thứ nhì đánh dấu phát đạn thứ nhất, và điểm thứ ba ở nơi trúng đạn vào đầu. Điều tối quan trọng là những vị trí trắc nghiệm ấy được chọn một cách độc lập, không dựa vào báo cáo Warren, nên nhóm thí nghiệm này đi thẳng tới tận nguồn: đoạn phim Zapruder. Dùng một máy phóng ảnh cho từng khung hình, từ vị trí chính xác nơi Abraham Zapruder đã đứng khi quay đoạn phim đó, nhóm này có thể đánh dấu chính xác từng bối cảnh quay. (Và sau đó, nhóm này so sánh những hình dạng sắp đặt của họ với những sắp đặt của Uỷ ban Warren – chúng giống nhau)
Nhưng ngay chính chiếc xe cũng có những đòi hỏi về độ chính xác, nên một chiếc xe thử nghiệm được đem tới, không chỉ tương tự mà là y hệt như chiếc Lincoln mui trần chở JFK trong ngày định mệnh ấy, cùng với những đặc điểm về trục thứ cấp, dàn treo và các bánh xe. Điều tối quan trọng là chiếc xe vận hành theo đúng kiểu của chiếc xe chở Kennedy hôm đó.
Kế tiếp, những hình nộm chính xác được dùng để thay cho Kennedy và Thống đốc Connally, những bộ khung đắt tiền có thể được dựng vào đúng vị trí tư thế của Kennedy và Connally trên xe khi bị bắn. Những vấn đề khác cũng được xem xét tỉ mỉ: những nhánh cây nay đã ngăn đường đạn bắn từ một số cửa sổ nào đó, việc tu sửa mặt đường và ngay cả tổng trọng lượng của sáu người có mặt trên xe hôm đó. Và sau khi tất cả những điều kiện này được thoả mãn, cảnh được diễn lại trên con đường – đó là phố Elm tại Dallas, Texas.
Các mắt nhìn laser đã bố trí vào chỗ, chiếc xe trắc nghiệm được đặt đúng vị trí, nhóm khởi sự làm việc, và từ sáng đến tối những việc đo đạc, tính toán và những phát bắn trắc nghiệm bằng laser đã lần lượt được tiến hành.
Rồi đến những kết quả đầy ngạc nhiên
Nhiều giả thuyết đã mau chóng bị loại bỏ. Một số nhà nghiên cứu từ lâu đã nghi rằng phát đạn trúng đầu có thể đã được bắn ra từ điểm tiếp giáp nơi hàng rào của Grassy Knoll gặp chân đế bê tông của chiếc cầu vượt, nằm xa phía trước chiếc xe chở JFK. Một cách lý tưởng, vị trí này sẽ là một chỗ ngắm bắn rất tốt cho một tay bắn tỉa… nhưng đường bắn lại không thẳng. Một phát đạn bắn từ đó không chỉ làm vỡ tung kính chắn gió của chiếc xe, mà nó cũng không thể bắn trúng đầu JFK theo một kiểu phù hợp với vết thương mà ta thấy trong đoạn phim Zapruder. Do đó, giả thuyết về đường bắn này bị loại bỏ.
Một giả thuyết khác cũng bị loại bỏ là giả thuyết cho rằng phát đạn vào đầu được bắn từ một máng xối ở phía trước chiếc xe. (Theo năm tháng giả thuyết này mất đi sức thuyết phục cho đến khi một tập trong bộ phim The X-Files được chiều gần đây miêu tả lại giả thuyết này). Nhưng một lần nữa, các kết luận khoa học của nhóm lại cho rằng phát đạn trúng đầu xuất phát từ vị trí đó là không thể có được.
Thứ ba (và có lẽ gây thất vọng cho nhiều người say mê tìm hiểu vụ JFK), các thành viên trong nhóm nhất trí loại bỏ giả thuyết nổi tiếng nhất trong các giả thuyết – Giả thuyết Grassy Knoll, vốn được trình bày xuất sắc trong phim của Oliver Stone. Nhưng giả thuyết này dễ dàng bị loại bỏ vì nó không ở vị trí xác lập được những đường bắn cần thiết giải thích được không những các vết thương của Kennedy mà cả những vết thương của Connally nữa. Có thể rằng đã có tay bắn tỉa nấp sau hàng rào Knoll… nhưng những kết quả trắc nghiệm của nhóm chứng tỏ rõ ràng rằng không phát đạn nào từ vị trí đó trúng được Tổng thống.
Vậy thì phát đạn chết người ấy đến từ đâu?
Sự thực, điều mà nhóm trắc nghiệm xác định ban đầu là tất cả mọi phát đạn bắn trúng Kennedy và Connally đều xuất phát từ phía sau chiếc xe. Một số trục laser từ phía sau được thiết lập, và vị trí bắn tốt nhất được tìm thấy là cửa sổ ngoài bìa tầng thứ sáu của kho sách giáo khoa, điều đó không làm gì ngoài việc chứng thực những kết luận của Uỷ ban Warren, ngoại trừ…
Vị trí bắn tốt thứ nhì cũng được xác lập. Tầng hai của cao ốc Dal-Tex.
Trong tổng kết phân tích cuộc nghiên cứu toàn diện này, Ronald Singer kết luận, “Điều thứ nhất tôi muốn nói là tôi rất hài lòng với những gì chúng tôi đã làm được. Tôi thực sự biết được nhiều hơn tôi mong đợi…Tôi nghĩ điều tốt nhất mà chúng tôi đã làm dựa trên những đường đạn thiết lập bằng laser từ khu Grassy Knoll cũng như từ cầu vượt, tôi nghĩ chúng tôi đã cho thấy rõ ràng rằng với bằng chứng khoa học chắc chắn, thì không thể có một phát đạn trúng đầu Tổng thống Kennedy từ những nơi đó”. Và tuy hầu hết những kết quả trắc nghiệm cho thấy rằng tất cả những phát đạn trúng được vào người JFK cũng như Connally có lẽ đều xuất phát từ kho sách giáo khoa, nhưng giả thuyết cao ốc Dal-Tex cũng không thể bị loại bỏ. Groden đã nói rõ nhất về tầm quan trọng của sự đáng tin dựa trên khoa học này: “Một trong những điều có ý nghĩa nhất mà chúng ta lấy được từ cuộc trắc nghiệm này là việc tìm ra rằng có một khẳng định bổ sung cho một điểm bắn tình nghi mà nó đã bị nghi ngờ từ hơn 30 năm qua, và đó là vị trí trên tầng hai của cao ốc Dal-Tex”.
Tóm lại, điều này rõ ràng gợi ý tới bằng chứng là có ít nhất hai tay bắn tỉa.
Sau đó, các kết luận của nhóm được trình bày cho chính nhân vật đã ban đầu đề nigh trắc nghiệm bằng tia laser, chuyên gia đạn đạo của Nga, Trung tá Nikolai Martinnikov thuộc cảnh sát liên bang Nga và ý kiến của ông ta một lần nữa khẳng định những phát hiện của nhóm đạn đạo học Mỹ. “Tôi muốn các bạn chú ý tới sự kiện rằng, dựa trên nghiên cứu này, điều có thể nói chắc chắn đó là các phát đạn đều xuất phát từ phía sau”, Martinnikov kết luận. Và ông ta cũng đồng ý rằng Cao ốc Dal-Tex là một vị trí “không thể loại bỏ ra khỏi cuộc nghiên cứu”. Và bây giờ chúng ta biết rằng những vị trí bắn khả thi từ phía sau là tầng sáu của kho sách giáo khoa và tầng hai của Cao ốc Dal-Tex(277) [(Mọi thông tin và tài liệu phỏng vấn liên quan đến việc dàn dựng lại Quảng trường Dealey lấy từ phim tài liệu video The Secret KGB/JFK Assassination Files (Associated Television, 1998)].
Lại thêm một khẳng định khoa học nữa cho rằng không có chuyện một tay súng đơn lẻ đã giết John F.Kennedy, mà phải là một âm mưu toa rập nhiều người.

19. Những quan hệ quá tầm
“…hắn ta được Antoine Guerini tiếp cận và
đề nigh “hợp đồng” giết Tổng thống Kennedy…”
- HỒ SƠ 62-109060-8260 của FBI(278) [(Tài liệu FBI, số lưu trữ 124-10001-10395; Loạt hồ sơ: HQ; Hồ sơ CIA số 62-109060-8260, đề ngày 19.2.1988)]

Giữa thập niên 1980, nhà báo Steve Rivele tìm ra một mẫu thông tin suýt nữa phá sụp các bức tường quanh giả thuyết về vụ ám sát JFK. Một số độc giả có thể đã nghe chuyện này nhưng với ai chưa biết, chúng tôi muốn kể lại ở đây và thêm vào đó một vài lý giải.
Trong quá trình nghiên cứu của mình, không rõ làm cách nào Rivele tìm ra một tay anh chị Marseille bị tù tên là Christan David. David là một tay buôn lậu bạch phiến làm việc cho Antoine Guerini, ông trùm bạch phiến Marseille. Theo Rivele, David đã dần dần tiết lộ điều mà y coi là hiểu biết của y về vụ ám sát Kennedy, để trả ơn Rivele đã tìm cho y một luật sư nhằm giữ cho y không bị trục xuất về Pháp, nơi y bị truy nã vì tội giết người.
David kể chi tiết một câu chuyện ly kỳ, dính đến các tay ám sát chuyên nghiệp, Mafia Mỹ và dân giang hồ Marseille, những mối liên hệ mà chúng tôi rất ủng hộ. Với Rivele, David kể rằng Antoine Guerini đã tới gặp y, vào tháng Năm hay Sáu gì đó năm 1963, và yêu cầu y nhận thực hiện hợp đồng ám sát Tổng thống Kennedy – đặc biệt, David còn được yêu cầu kết hợp với một “nhóm bắn thuê chuyên nghiệp” để làm vụ này. Nhưng David bảo với Rivele là y đã từ chối bởi vì vụ này rủi ro cao quá; việc giết Kennedy trên đất Mỹ đặt ra quá nhiều vấn đề tổ chức và thực hiện phải giải quyết cho dù có được chút lạc quan. Nên đã có người khác nhận đề nigh này của Guerini – chính xác là ai thì không rõ – nhưng David, trong những năm sau đó, có nghe ngóng được chút chi tiết, vì những bạn bè của y biết những thành viên của nhóm “bắn thuê” sau cùng đã được phái đi để giết Kennedy.
David khẳng định có bốn phát đạn đã được bắn vào JFK. Hai phát bắn từ phía sau (một trúng lưng Kennedy, một trúng Thống đốc Conally. Phát thứ ba được bắn từ phía trước xe – vị trí của Grassy Knoll – gây vết thương chí mạng trên đầu JFK, trong khi phát thứ tư bắn từ phía sau và hụt). David còn nói rằng người bắn từ Grassy Knoll là dân thế giới ngầm Marseille tên là Lucien Sarti, kẻ thường xuyên ăn mặc giả quân đội và cảnh sát địa phương khi thực hiện hợp đồng sát nhân. Ban đầu, chuyện này cực kỳ hấp dẫn vì nó có vẻ hậu thuẫn cho giả thuyết rất phổ biến của Oliver Stone vốn cho rằng phát đạn vào đầu là do một ai đó mặc đồng phục cảnh sát Dallas(279) [(Stone, Oliver, JFK, phần II cảnh xử án; Turner, Nigel, The Men Who Kill Kennedy (ghi chú: Mô tả tốt nhất cho giả thuyết của Rivele dựa trên những lần ông ta phỏng vấn Christian David là cuộc phỏng vấn chính Rivele, có trong chương “The Force of Darkness” trong The Men Who Kill Kennedy. Ngoài ra, một bản tóm lược có thể thấy trong Who’s Who in the JFK Assassination của Michael Benson (tr 100-101; 313 và 381); bản tóm lược của chính quyền nằm trong Tài liệu FBI, số lưu trữ 124-10001-10395; Loạt hồ sơ: HQ; Hồ sơ CIA số 62-109060-8260, đề ngày 19.2.1988. Một hồ sơ FBI khác cũng ghi chép thứ tự cuộc điều tra của Rivele về David và Nicoli: Hồ sơ FBI, số lưu trữ 124-10001-10391; Hồ sơ CIA số 62-109060-8264, đề ngày 14.12.1987)] bắn từ sau hàng rào gỗ của cơ sở Grassy Knoll.
Tay súng thứ hai được coi như có dính líu vào vụ này là một tay anh chị Marseille tên là Sauveur Pironti và kẻ thứ ba là một người Marseille nữa tên là Joseph Bocognani(280) [(UPI, bản tin quốc tế buổi chiều, 26.10.1988)]. Theo Rivele, David còn giải thích rằng ba người này, sau khi thoả thuận được hợp đồng, đã bay từ Marseille tới đâu đó gần Mexico City khoảng một tháng trước khi xảy ra vụ ám sát. Ba tay bắn thuê lưu lại Mexico City khoảng hai tuần, rồi họ đi xe hơi tới Brownsville, Texas, nơi họ sử dụng hộ chiếu Ý để qua biên giới Mexico-Mỹ. Từ Brownsville, họ được một thành viên Mafia Chicago đón (Sam Giancana lúc này đang làm trùm Mafia ở Chicago) rồi chuyển đến một “nhà an toàn” ở Dallas, Texas. Bây giờ tại Dallas, ba tay ám sát có thời gian để đánh giá về mặt chiến thuật khu vực Dallas mà xe chở JFK sẽ chạy qua; họ khảo sát kỹ lưỡng khu vực này và chụp hình những vị trí then chốt.
Sau vụ ám sát, Sarti, Pironti và Boccognani đáp máy bay riêng từng người từ Dallas tới Montreal, Canada, sau đó họ được đưa về cứ địa Marseille(281) [(Tài liệu FBI, số lưu trữ 124-10001-10395; Hồ sơ CIA số 62-109060-8260, đề ngày 19.2.1988)].
Suy nghĩ kỹ, những mối dây ám sát dính tới dân giang hồ Marseille nghe có vẻ hợp lý hơn những giả thuyết phổ biến khác vốn kết tội cho CIA và tập đoàn quân sự – công nghiệp. Những gì Christian David tiết lộ với Rivele còn trực tiếp hàm ý rằng Carlos Marcello có tham gia vào vụ này(282) [(Tài liệu dẫn trên)].
Khi kết hợp những mối dây suy diễn này cộng thêm thông tin đáng buồn mà David cung cấp, ta không ngạc nhiên khi thấy nền tảng cuộc nghiên cứu về vụ ám sát JFK bị chấn động dữ dội…
Nhưng không lâu.
Sau khi nhận được thông tin của David, Rivele đã khôn ngoan kiểm chứng lại, và anh ta yêu cầu David hợp tác chút đỉnh, vì chỉ riêng lời chứng của David thôi chắc chắn sẽ bị khai thác mổ xẻ vì chính David là một tay tội phạm, sát nhân và buôn bán bạch phiến. Nên David cho Rivele biết tên một người khác, một tay Marseille phân phối bạch phiến tên là Michel Nicoli. Nicoli hiện là mật báo viên và nằm trong Chương trình Bảo vệ nhân chứng của Mỹ; nhờ được miễn truy cứu tội lỗi Nicoli được cấp một lý lịch mới để đổi lại việc làm chứng cho DEA trong các vụ xử tội buôn bán bạch phiến. Hồ sơ có ghi rằng Nicoli được FBI và DEA coi như một nguồn thông tin đáng tin cậy. (Sau cùng, bây giờ thì ông ta chẳng có lý do gì để nói dối vì đã nằm trong Chương trình Bảo vệ nhân chứng; chính phủ Mỹ bây giờ là kẽ bảo vệ cho ông ta). Rivele tuyên bố rằng Nicoli đã thực sự khẳng định câu chuyện của David, sau đó Rivele báo cáo chuyện này với giới chức Mỹ, nhưng chính ở đây mà những phát hiện của Rivele bắt đầu mất đi sức mạnh của nó.
Ngày 8.2.1988, Nicoli được chính thức thẩm vấn về chuyện này bởi Michael Tobin, một nhân viên cao cấp thuộc Ban điều tra bạch phiến của DEA, và Donald Pierce, đặc viên giám sát của FBI. Bản tóm lược chính thức của cuộc thẩm vấn này nói như sau:
“Nicoli xác định một số trong những điều David nói nhưng chỉ ở mức độ chung chung… Nicoli còn nói thêm rằng vào cuối năm 1965, ông ta, Christian David, Roger Bocognani, Lucien Sarti, Sauveur Loule Pironti… ở trong một quán cà phê ở Buenos Aires. Họ nói chuyện bình thường nhưng loáng thoáng có ai đó nói điều gì, không phải ông ta hoặc David nói, khiến ông ta nghĩ rằng bọn họ (Bocognani và/hoặc Sarti) có dính líu vào vụ sát hại Tổng thống Kennedy”.
Nghe vẫn còn hấp dẫn hả, phải không? Nhưng ta hãy đọc tiếp tại sao DEA và FBI không còn hào hứng gì với sự “cộng tác” của Nicoli:
“Trong mức tối đa mà Nicoli có thể nhớ được thì ‘họ’ {ám chỉ Sarti, Bocognani và Pironti} có nói gì đó về việc đi Mexico năm 1963, rồi sang Mỹ, và họ có làm gì đó”(283) [(Tài liệu dẫn trên)].
Họ có làm gì đó à? Nếu ba tay “bắn thuê” này đã xâm nhập vào vụ ám sát rùm beng nhất trong lịch sử, thì không lẽ Nicoli không nhớ được chuyện đó? Chẳng lẽ ông ta không nhớ lại được điều gì chi tiết hơn chuyện “họ có làm gì đó” sao?
Họ đã làm gì? Hay họ đi xem phim One Step Beyond? Họ nối dải AND? Hay họ đã giết Kennedy?
Do đó, không khó gì việc hiểu ra tại sao giới chức Mỹ quyết định không phí thì giờ điều tra tiếp chuyện này. Việc Nicoli thừa nhận “họ đã làm gì đó” thì không phải là kiểu cộng tác tích cực. Uy tín một mật báo viên đáng tin cậy của Nicoli hôm đó đã bị sụt giảm vài nấc.
Nhưng khoan đã, coi nào. Vẫn còn cái gì đó để tìm hiểu tiếp, phải không? Chính ba người đó, ba tay ám sát mà Christian David tuyên bố là đã được thuê giết Kennedy. Tại sao không điều tra họ?
Sarti, Bocognani và Pironti thực ra đã bị điều tra ít lâu sau khi thông tin này được đưa lên truyền hình Anh. Hoá ra không ai trong số ba người đó được tiếng là dân ám sát chuyên nghiệp. Thay vì thế, họ chỉ là những tay du thủ du thực Marseille bán lẻ ma tuý. Hơn nữa, hai trong số họ còn dưới 20 tuổi vào lúc JFK bị ám sát. Hai trong ba còn dưới 20, nghĩa là cùng lắm họ mới mười chín. Trẻ ranh.
Thôi nào.
Làm sao tin được chuyện một tay trùm bạch phiến ranh ma và thế lực như Antoine Guerini lại hợp đồng mấy đứa dưới 20 để làm một vụ ám sát chính trị gay go nhất trong lịch sử? Nếu Kennedy còn sống, Guerini có nguy cơ mất sạch mọi thứ. Nhưng chúng ta có nên tin rằng hắn ta phái mấy cậu trai đi làm cái công việc đẫm máu ấy không? Chúng ta có nên tin rằng những thanh thiếu niên Pháp ấy đã theo dõi chu đáo Quảng trường Dealey như thế, cải trang thành cảnh sát Dallas như thế và sắp xếp một tam giác tuyệt hảo đan chéo các đường bắn để giết được Kennedy không? Khó tin lắm.
Ngoài ra, sau khi bị điều tra, cả ba người đó đều được chính quyền địa phương làm chứng là không hề có mặt ở bất kỳ đâu gần Dallas, Texas ngày 22.11.1963 cả. Sarti là công nhân bến tàu, Pironti đã đi quân dịch và đang cọ sàn trên một con tàu phá mìn của Pháp còn Bocognani thì đang ở tù(284) [(“Empty revealations over Kennedy’s assassination” Manchester Guardian Weekly, 6.11.1988)].
Và sau khi khảo sát kỹ hơn, chúng tôi tìm ra vài lỗ hổng trong câu chuyện của David. Một hồ sơ tóm tắt khác của FBI(285) [(Hồ sơ FBI, số lưu trữ 124-10001-10391; Hồ sơ CIA số 62-109060-8264, đề ngày 14.12.1987)] viết rằng David đã nói với Rivele rằng tình báo Pháp đã thuê David năm 1961 để ám sát Patrice Lumumba, thủ lĩnh quân sự của Congo thuộc Bỉ. David cũng tuyên bố rằng CIA đã thuê Lucien Sarti để làm cùng công việc đó! Nhưng chỉ cần nghiên cứu sơ qua các sự kiện là ta thấy ngay những tuyên bố này chỉ là trò ngốc nghếch.
Ngày 2.12.1960, Lumumbo bị lực lượng chống đối cầm tù, và ông bị sát hại một tháng rưỡi sau đó, ngày 17.1.1961(286) [(Encyclopedia Britannica, “Lumumba, Patrice (Hemery)”)]. Tại sao tình báo Pháp và CIA lại phái những tay ám sát đi giết một người đã bị cầm tù và lãnh án tử hình? David tuyên bố đã ký hợp đồng làm việc này năm 1961 sao? Lumumba chỉ còn sống được 17 ngày trong năm đó. Ông ta đang ở trong tù và đã bị kết án. Do đó, việc đặt hàng bí mật ám sát Lumumba thì cũng tựa như đào mồ John Wilkes Booth lên và tống giam cái xác ấy vì tội đã giết Lincoln.
Luật sư của David, Henri Juramy, còn làm thêm những trò ngớ ngẩn nữa. Juramy tuyên bố nắm được một lá thư viết tay trong đó David tiết lộ tỉ mỉ những điều y biết về vụ ám sát Kennedy. Lá thư này, chúng tôi được cho biết, là đã được niêm phong và cất kỹ, và chỉ thị của David cho Juramy là không được mở lá thư đó ra cho đến khi David được phóng thích.
Một thứ đơn giản được gọi là trát toà đòi có thể giải quyết được vấn đề này, và chúng tôi chỉ có thể đặt nghi vấn về tay nghề luật sư của Juramy thôi, bởi vì nếu có thông tin gì thực sự mới trong lá thư bí mật ấy, Juramy có thể dễ dàng dùng nó để thương lượng nhận tội và hưởng khoan hồng hoặc đạt một thoả thuận phóng thích sớm cho thân chủ của mình. Juramy hẳn là một trong những luật sư chỉ có thể tìm được khách hàng bằng cách quảng cáo giấc khuya trên truyền hình.
Không, bây giờ đã khá rõ ràng điều gì thực sự đã xảy ra liên quan đến những tiết lộ “động trời” của David. Bằng cách trộn lộn những lời nói dối với một ít sự thật, câu chuyện của David kể cho Rivele thoạt nghe thì có vẻ chân thật, và từ đây rõ ràng David đã lợi dụng tài điều tra và mối quan tâm của Rivele để đẩy ông ta vào cuộc tìm kiếm vô vọng. Tại sao David làm như thế? Bằng cách dẫn dụ Rivele với những lời nói dối pha chút sự thật, David chẳng có gì để mất và nếu được thì được tất cả trong ước muốn tuyệt vọng là không bị trục xuất về Pháp. Và bằng cách tuyên bố mình biết chuyện ám sát Kennedy, giới chức Mỹ có thể dễ dàng chấp thuận cho y điều đó. Trong các nhà tù Mỹ, David chẳng phải lo gì cho mạng sống của mình, nhưng chuyện sẽ không như vậy trong nhà tù Pháp nơi chắc chắn đã có vài hợp đồng muốn thanh toán David. Đó là trò xưa như trái đất trong lịch sử loài người. Trộn lẫn sự thật và dối trá để nghe dễ tin hơn. Không phải những lời dối trá trộn lẫn với sự thật đã dành được sự ủng hộ của công chúng đối với cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam đó sao? Dối trá không trộn lẫn với sự thật trong báo cáo của Uỷ ban Warren để thuyết phục công chúng Mỹ rằng chỉ có một thằng điên thân Cuba đã giết Kennedy đó sao?
Bây giờ những lời nói dối của Christian David đã bị phơi bày. Nhưng cái lõi sự thật y trộn vào đó là gì?
Chúng tôi tin rằng David đã nói thật khi ám chỉ rằng trùm ma tuý Marseille Antoine Guerini đã thuê người ám sát JFK. David chẳng phải lo gì lắm chuyện trả thù khi tiết lộ sự dính líu của Guerini. (Guerini đã chết năm 1967, em trai hắn ta đã bị tù, tập đoàn bạch phiến Marseille đã bị các kẻ thù của Guerini thôn tính, bọn này sẽ rất mừng khi thấy sự dính líu của Guerini bị tố cáo trước thế giới). Nhưng sự dính líu của Guerini mở ra con đường dẫn tới một mối liên hệ không chối cãi được của lý luận, động cơ và cơ hội. Mối quan hệ của Guerini với các trùm Mafia Mỹ Carlos Marcello, Santos Trafficante và Sam Giancana là cũng không thể phủ nhận được.
Nhưng Guerini còn có một mối liên hệ sinh tử hơn – mối liên hệ ảnh hưởng rất lớn đến quyền lực và lợi nhuận của hắn cũng như quyền lực và lợi nhuận của bè lũ Mafia Mỹ – và mối liên hệ đó là Ngô Đình Nhu ở Nam Việt Nam.

20. Âm mưu
“{Tổng thống Johnson} cho hay rằng
ông nghĩ âm mưu này có tính quốc tế…”
- WALTER CRONKITE(287) [(Tuyên bố của Cronkite với Associated Press năm 1992; Cronkite đang kể lại những gì Lyndon Johnson nói với ông ta trong cuộc phỏng vấn năm 1970 với hãng CBS, tuy rằng những ý kiến tham khảo đó phải được cắt khỏi nội dung được phát sóng; như tường thuật trong Benson.)]

Âm mưu .
Một từ nghe dữ dội và sặc mùi hội kín chính trị. Một từ sôi sục với sự bí ẩn và mờ ám. Một cách biểu trưng, nó được định nghĩa như một thoả thuận cùng nhau tiến hành một công việc phi pháp, xấu xa và phản trắc. Một sự kết hợp hoặc cùng nhau hành động, cứ như bởi những mưu đồ xấu xa.
Những mưu đồ xấu xa? Theo định nghĩa của đa số người, một nổ lực có tính toán trước bởi nhiều thành phần nhằm ám sát một nguyên thủ quốc gia có thể thích hợp với từ này. Thí dụ, ít có ai phản đối chuyện tội ác có tổ chức là một thực thể bao trùm của “cái xấu”. Kiếm lợi nhuận từ nỗi tuyệt vọng của người khác? Từ việc nghiện ma túy? Nghiện cờ bạc? Sách báo phim ảnh khiêu dâm và bán dâm nữ – và cả nam nữa – để thoả mãn những cơn nghiện của họ?
Chắc chắn rồi. Nếu trên đời này từng có một “mưu đồ xấu xa”, thì chính là đây. Nhưng ý định của chúng tôi không phải là thảo luận về những khái niệm đạo đức đó. Chúng ta đang bàn về một điều gì cụ thể hơn.
Công việc làm ăn.
Những giả thuyết phổ biến về vụ JFK có nói tới lợi nhuận kinh doanh – và nhất là thiệt hại lợi nhuận – như một động cơ sát hại Kennedy. Đó là một suy đoán rất thuyết phục: Kennedy bị giết do một âm mưu giữa CIA, thế giới ngầm và tập đoàn quân sự – công nghiệp, vì với ba thế lực này, việc Kennedy nắm quyền đã đe doạ quyền lợi kinh doanh của họ. Kennedy đe doạ CIA vì ông đã sa thải giám đốc CIA Allen Dulles và giám đốc kế hoạch Richard Bissell (người tham gia điều hành chiến dịch Vịnh Con Heo) cũng như nhiều nhân vật thế lực khác có quan hệ với CIA(288) [(Gorden, The Killing of a President.)]. (Và không kỳ lạ sao khi Dulles sau đó được bổ nhiệm vào Uỷ ban Warren?)
Nhưng các tác giả của sách này thấy khó mà tin được rằng có bất kỳ nhóm người nào của CIA – tổ chức có nhiệm vụ phục vụ tổng thống – lại thông đồng với nhau ở một mức nào đó để giết ông ta. Một “phần tử bất hảo”? một nhóm những nhân viên bất mãn toa rập với nhau? Có thể lắm. Những ý tưởng cho rằng những thành viên quan trọng của CIA cấu kết nhau để giết Kennedy thì không thuyết phục. Nếu có tổng thống nào đã khiến CIA trông như một tổ chức ô hợp của những thằng ngốc thì đó không phải Kennedy, mà đó là Johnson, người có sự tin cậy quá đáng vào tổ chức này đã góp phần dẫn đến những thất bại quân sự tồi tệ nhất và mức thương vong cao nhất cho quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nếu CIA là những bậc thầy về hoạt động bí mật trong cuộc chiến đó, thì cũng hợp lý khi vạch rõ rằng họ đã không làm tốt công việc của mình lắm. Cho dù các nhà nghiên cứu JFK có cần cù mở rộng các mối liên hệ và các động cơ có thể có thì CIA cũng không dính vào đó. Họ là những người yêu nước mạnh mẽ phục vụ cho quốc gia và tổng thống. Ít có bằng chứng nào gợi lên một điều ngược lại.
Chúng tôi cũng nghĩ như thế đối với cái được gọi là “tập đoàn công nghiệp – quân sự”. Chúng ta có nên tin rằng quân đội âm mưu giết JFK vì họ muốn tiếp tục cuộc chiến tranh Việt Nam không? Chúng tôi đã dẫn những hồ sơ cụ thể chống lại giả thuyết cho rằng JFK định rút lui khỏi cuộc chiến. Hay một nhóm quân nhân sẽ giết Kennedy để ngăn không cho những doanh nhân nào đó làm giàu nhờ những hợp đồng cung cấp quân dụng? Yù nghĩ này nghe vô lý khi bạn xét nó một cách khách quan. Các nền kinh tế dựa trên chiến tranh thường suy thoái dần; chúng là những lỗ rò làm thất thoát tiền đóng thuế của người dân và tăng thêm lạm phát và bất ổn xã hội. Suốt trong lịch sử, các nền kinh tế tiệm thoái đã dẫn đến cách mạng. Nước Mỹ chẳng thu được lợi lộc gì trong chiến tranh Việt Nam, mà chỉ tiêu phí ngày càng nhiều tiền thuế. Chắc chắn CIA và quân đội biết điều này, và lợi lộc duy nhât mà hai lực lượng này kiếm được là đảm bảo rằng cuộc chiến được chấm dứt càng nhanh càng tốt, nhưng hơn chục năm nay chúng ta cứ bị nhồi nhét ý tưởng rằng các lực lượng đó muốn tiếp tục một cuộc chiến vốn chỉ có thể dẫn đến – và thực sự đã dẫn đến – sự bất mãn của quần chúng, sự phẫn nộ và nổi loạn trên qui mô cả nước.
Nên với hai lực lượng này, nỗ lực muốn tiếp tục cuộc chiến tại Việt Nam quả là một mâu thuẫn của lý luận.
Tuy nhiên, bọn băng đảng Mỹ lại là chuyện khác. Chúng ta đã nghe rằng Mafia Mỹ giết Kennedy vì ông ta thất bại trong vụ Vịnh Con Heo, làm thiệt hại nhiều lợi nhuận từ cờ bạc của chúng. Chúng ta đã nghe Mafia Mỹ giết Kennedy để trả thù việc Robert Kennedy dùng Bộ Tư pháp để quấy rối chúng. Nhưng sự thực, việc Robert tấn công tội phạm chẳng đem lại được bao nhiêu án tù cho các đầu lĩnh Mafia. Chắc chắn, Mafia Mỹ ghét anh em Kennedy và chẳng thích trông thấy họ trên đời này. Họ xem anh em nhà Kennedy là những kẽ phản bội cùng cực, vì cha của họ – Joseph Kennedy – cũng từng là dân giang hồ, xây dựng sản nghiệp gia đình nhờ buôn rượu lậu. Và cũng quã là Mafia đã giúp JFK được đắc cử năm 1960 bằng cách can thiệp vào việc kiểm phiếu muộn ở Illinois. Nhưng một mình điều đó thì cũng chưa thành một lý do đủ mạnh để họ tiến hành một vụ ám sát rủi ro và phức tạp nhất trong lịch sử. Qua những yếu tố này, ta thấy khi mạo hiểm như vậy thì họ có nguy cơ là bị mất rất nhiều.
Anh em Kennedy là một con ruồi trâu đối với Mafia, một chuyện quấy rầy như bọn muỗi vo ve trong buổi picnic. Và còn thêm yếu tố nào tạo ra động cơ không? Chắc chắn là có rồi.
Nhưng chúng ta đồng ý rằng Mafia Mỹ có một lý do nặng ký hơn để góp phần trong âm mưu giết Kennedy.
Bạch phiến.
Hơn bất kỳ lý do nào liên quan đến Mafia, hơn bất kỳ lý do gì khiến Mafia muốn JFK chết, John Kennedy đã đe doạ mạnh mẽ con bò sữa lớn nhất của Mafia: sự an toàn cho việc buôn bán bạch phiến trị giá hàng tỉ tỉ đô la mỗi năm. Từ thập niên 1930, chuyện làm ăn với lợi nhuận phi mã nhất của Mafia là bạch phiến. Mỗi năm lợi nhuận lại càng tăng, theo đà tăng của số con nghiện tuyệt vọng sẵn sàng làm bất cứ gì để mua được món hàng đó. Và những lợi nhuận ấy đã khiến chuyện làm ăn ở Thị trường chứng khoán New York chỉ là trò vớ vẩn. Đến cuối thập niên 1950, việc phân phối bạch phiến là nguồn lợi lớn nhất của Mafia, và cũng là nguồn cội lớn nhất tạo ra quyền lực của thế giới ngầm. Cờ bạc, môi giới bán dâm, bảo kê ư? Tất cả những trò làm ăn luôn thắng lợi trước đây của Mafia này đã phải lui xuống hàng thứ yếu so với doanh số bạch phiến.
Trong hai chương trước, chúng tôi đã dành khá nhiều thời gian để định ra một số điểm quan trọng không trực tiếp liên quan đến giả thuyết của chúng tôi, và bàn về những điều tổng quát quanh JFK vốn đã trở nên chi tiết hơn nhờ có thông tin mới và những hồ sơ được công bố gần đây. Nhưng bây giờ ta hãy trở về với cốt lõi vấn đề…
Về trình tự thời gian, âm mưu giết Kennedy hẳn là có trước âm mưu của Kennedy nhằm lật đổ Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam, và chúng ta thấy mầm mống của âm mưu này đã được gieo trồng cẩn thận bởi một loạt những chính khách hàng đầu trong chính phủ Kennedy. Với những độc giả vẫn chưa tin rằng chính phủ Mỹ hậu thuẫn việc lật đổ một quốc gia đồng minh, thì sau đây là một vài minh chứng đã được ghi thành hồ sơ:
“Trong giai đoạn từ tháng 8 đến ngày 1 tháng 11, chính phủ Mỹ đã phê chuẩn và khuyến khích âm mưu lật đổ chính quyền Nam Việt Nam. Nước Mỹ, qua một loạt những hành động công khai, đã cự tuyệt chế độ Diệm và, thông qua việc ngưng viện trợ, đã khuyến khích các lãnh tụ phe đảo chính hành động chống lại chính phủ này. Chính phủ Mỹ duy trì liên lạc mật với các tướng lĩnh suốt từ lúc lên kế hoạch đến khi tiến hành và tìm cách cố vấn cho họ về những phương án khác nhau. Ngay sau cuộc đảo chính, Mỹ cố vấn cho các tướng lĩnh về việc xây dựng một chính phủ mới và dành cho nó sự công nhận tức thời”(289) [(Thượng nghị sĩ J. W. Fullbright, Chủ tịch Tiểu ban đối ngoại, viết trong lời nói đầu cho “U. S. Invilvement in the Overthrow of Diem, 1963” được biên soạn bởi ban đối ngoại Thượng viện, 20.7.1972.)].
Đoạn văn đó là của Thượng nghi sĩ J.W.Fulbright, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện.
Và đây là một tài liệu khác:
“Về cuộc đảo chính quân sự lật đổ Ngô Đình Diệm, Mỹ phải chịu hết phần trách nhiệm của mình. Bắt đầu từ tháng 8.1963 chúng ta đã cho phép, phê duyệt và khuyến khích những âm mưu đảo chính của các tướng lĩnh Việt Nam và chỉ thị ủng hộ trọn vẹn cho chính phủ kế nhiệm. Tháng 10, chúng ta đã cắt viện trợ cho Diệm bằng một từ chối thẳng thừng, bật đèn xanh cho các tướng lĩnh. Chúng ta đã duy trì liên lạc mật với họ suốt từ lúc lập kế hoạch đến lúc tiến hành đảo chính và tìm cách xem xét lại các kế hoạch hành động của họ và đề nghi về thành phần chính phủ mới. Như thế, khi chín năm cầm quyền của Diệm đi đến một kết thúc đẫm máu, sự thông đồng của chúng ta trong cuộc lật đổ này đã làm tăng thêm phần trách nhiệm và sự dính líu của chúng ta với một Việt Nam không người lãnh đạo”(290) [(The Pentagon Paper, tập II (Boston; Beacon Press, 1972)]
Đoạn này là của Thượng nghi sĩ Mike Gravel, bình luận về một công trình nghiên cứu về chính sách ngoại giao Mỹ. Không nhằm nhấn mạnh luận điểm quá mức, nhưng ngày 24.11.1998, lại thêm minh chứng nữa về sự thông đồng của JFK đã được đem ra ánh sáng khi 37 cuộn băng ghi âm của tổng thống được giải mật và công bố, và trong một cuộn băng trong số ấy, chính Kennedy đã nói “Chúng ta phải chịu rất nhiều trách nhiệm cho vụ này {vụ đảo chính}”(291) [(Dodds, Paisley, “37 JFK Tapes Made Public” (Associated Press, 25.11.1998)]. Đó là chính miệng Kennedy nói, thừa nhận trách nhiệm của Mỹ.
JFK còn nói gì nữa trong những cuộn băng ghi âm các buổi họp nội các ấy? Sau đây là một vài mẫu thông tin:
Ngày 29.10.1963 từ 4 giờ 25 đến 5 giờ 15 chiều, giám đốc phân cục CIA William Colby giải thích cho JFK rằng con số các lực lượng chống Diệm và thân Diệm thì tương đương nhau (mỗi bên khoảng 10.000 người). Robert Kennedy phản ứng trước thông tin này với sự nản lòng và nói “Diệm có đủ lực lượng để bảo vệ chính mình…”. Và Colby đồng ý. Nên điều chúng ta thu được ở đây thì không chỉ là chuyện một đầu não CIA khuyến cáo JFK hoãn cuộc đảo chính lại, mà cả em trai của JFK cũng có ý kiến như vậy. Và sau lần góp ý này, Tổng thống Kennedy đã trả lời ra sao?
Ông ta nói thế này: “Tôi chắc rằng cuộc đảo chính nào cũng có kiểu như vậy. Nó luôn luôn có vẻ cân bằng, cho đến khi có ai đó hành động”.
Thật khó mà tưởng tượng ra một câu trả lời vô trách nhiệm hơn của một tổng thống trước các ý kiến cố vấn. Sau đó, cũng trong phòng họp nội các, Robert Kennedy lại tiếp tục cố gắng và thuyết phục JFK huỷ bỏ hoặc tạm hoãn cuộc đảo chính ấy lại. “Tôi thấy chuyện này không có lý chút nào, nói thẳng là thế. Chúng ta đang đặt toàn bộ tương lai của đất nước đó – và cả Đông Nam Á nữa – vào bàn tay của một ai đó mà ta chưa hiểu rõ lắm {Dương Văn Minh}… Nếu vụ này thất bại, tôi nghĩ Diệm sẽ yêu cầu chúng ta rút khỏi đất nước của ông ta ngay… Ông ta sẽ có đủ, với guồng máy tình báo của mình, để biết rằng đã có những tiếp xúc này và những cuộc trao đổi này {giữa nhân viên CIA Lucien Conein và các tướng thuộc phe đảo chính} và ông ta sẽ bắt bớ nhiều người. Họ sẽ nói rằng Mỹ đứng sau vụ này. Tôi nghĩ mình sắp rơi tuột vào một thảm hoạ”.
Bộ trưởng ngoại giao Dean Rusk và tướng Maxwell Taylor cũng đồng ý. Nhưng sau khi được đại sứ Cabot Lodge bảo đảm rằng cuộc đảo chính có cơ may thành công rất lớn, JFK quyết định tiến tới đồng ý cuộc đảo chính. {Tất cả những thông tin trên, và nhiều hơn nữa, liên quan đến những băng ghi âm của Nhà Trắng mới được công bố đều có thể tìm thấy trong bài báo “The Tale of the Tapes: JFK and the Fall of Diem; Three Weeks Before His Own Assassination, President Kennedy Launched a Coverup in the Assassination of the President of South Vietnam”, của Ken Hughes trên tờ The Boston Globe, ngày 24.10.1999}
Được rồi, vậy ta hãy đi tiếp, dĩ nhiên mục tiêu chủ yếu của Kennedy trong vụ đảo chính này là anh em Diệm và Nhu – hai người có những hoạt động chống tín đồ Phật giáo một cách gay gắt đã đe doạ uy tín của JFK ở quốc nội cũng như quốc tế. Nhưng nếu có gì thì toàn gia đình Diệm có thể so sánh với một con bạch tuộc mà một cái vòi nhỏ nhất của nó cũng có thể làm hỏng hết kế hoạch.
Một trong những cái vòi đó là người em dâu của Diệm, thường được gọi là bà Nhu, theo ngôn ngữ bình dân thì gọi là “Bà Rồng cái” (Dragon Lady) và “Đệ nhất phu nhân Việt Nam”. Người phụ nữ này ăn nói phóng túng và gây nhiều tranh cãi đến độ các phóng viên thường nhầm lẫn nghĩ bà là vợ Ngô Đình Diệm, trong khi thực ra bà là vợ của Ngô Đình Nhu, em trai và cố vấn của Diệm, đồng thời là chỉ huy lực lượng phòng vệ dân sự {Thanh niên cộng hoà}, cảnh sát mật, và các mạng lưới tình báo và phản gián của Nam Việt Nam.
Tên hồi con gái của bà Nhu là Trần Lệ Xuân; bà sinh ra trong một gia đình Phật giáo giàu có nhờ cộng tác với Pháp. Cha của bà, Trần Văn Chương, là một luật sư uy tín; mẹ của bà có dòng dõi hoàng tộc – một kiểu gia đình Kennedy ở châu Á. Tất cả những điều tốt đẹp của cuộc đời đều dư thừa cho bà Nhu ngay từ khi lọt lòng, và cũng như mẹ, bà bước vào đời trong cảnh đài các trong khi cả nước còn quằn quại trong nghèo đói và sự áp bức của Pháp. Được biết tới vì nhan sắc hơn là trí thông minh, Lệ Xuân chưa bao giờ học giỏi và sau cùng bị đánh rớt khỏi một trường trung học tư thục có học phí rất cao, thậm chí chưa từng học viết tiếng Việt, nhưng bà lại trở thành phần thưởng cho cả gia đình khi được cưới gả vào nơi giàu có và quyền thế. Sự thực, chính mẹ của Lệ Xuân, bà Chương, có lẽ đã đưa nỗ lực này đến những cực điểm đáng ngạc nhiên. Người ta đồn bà có nhiều quan hệ lăng nhăng với những đàn ông trẻ – tức là tầng lớp ưu tú của giới quí tộc. Phải chăng bà ta săn tìm chàng rể tương lai cho con gái mình? Có thể như vậy lắm vì một trong nhiều tình nhân qua đường của bà sẽ cưới con gái bà, một tay trí thức tây học con nhà giàu. Tên ông ta là Ngô Đình Nhu.
Năm 1943, Lệ Xuân cải theo đạo Thiên chúa và kết hôn với Nhu trong một đám cưới linh đình. Bây giờ Lệ Xuân chính thức trở thành bà Nhu. Bà mau chóng đẻ cho Nhu bốn đứa con trong khi vợ chồng bà đứng ngoài cuộc chiến Pháp – Việt Minh, sống trong cảnh xa hoa, kẻ hầu người hạ, tại biệt thự của gia đình họ Ngô ở Đà Lạt. Nhưng năm 1955, họ chuyển ngay về dinh Tổng thống khi Diệm trở thành nguyên thủ quốc gia qua cuộc bầu cử do CIA sắp đặt. Nhu lập tức đứng bên anh trai mình, giúp ông ta tạo hình một quốc gia mới qua việc áp bức dân Phật giáo, sử dụng viện trợ Mỹ sai mục đích, và sau cùng biến thị trường thuốc phiện địa phương thành một cỗ máy lợi nhuận khổng lồ khi bắt được mối làm ăn với tập đoàn bạch phiến Marseille.
Nhưng bà Nhu, với bản tính năng động, không chịu ngồi yên và ăn kẹo trong dinh Tổng thống trong khi Diệm và chồng mình đang điều hành một quốc gia. Nên bà ta quyết định tạo dựng chỗ đứng cho mình. Một mặt, bà thành lập lực lượng thanh nữ cộng hoà; mặt khác bà dựng đài tưởng niệm Hai Bà Trưng. Nhưng bức tượng lại có nét mặt tương tự bà Nhu. Thỉnh thoảng để phô trương thanh thế bà lại phát động những phong trào bảo vệ đạo đức kiểu Thiên chúa giáo như cấm mở những viện thẩm mỹ, đóng cửa các quán rượu (tuy chính bà cũng là tay uống rượu giỏi và tự hào về sắc đẹp của mình). Bà ủng hộ những cuộc trưng cầu dân ý để chống phá thai, ngừa thai, ngoại tình và li dị.Dân chúng Việt Nam quen phản ứng dữ dội trước những trò này của bà,vì chính anh bà, Trần Văn Khiêm, cũng là tay ăn chơi nổi tiếng Sài Gòn, cặp với các cô gái, hoang phí tiền bạc trong các sòng bài, và sử dụng thế lực gia đình để bắt các chủ tiệm lớn ở ở Sài Gòn nộp tiền bảo kê. Sự thực, bà Nhu được gán cho biệt danh bà Rồng cái, nhưng cũng là Bà hoàng nước đôi.

Nên nhớ, chính người phụ nữ này đã gọi việc tự thiêu của tu sĩ Phật giáo là “nướng thịt” và gọi những cuộc phản đối của họ với chính phủ Diệm là hành động của đám dân bị “nhiễm độc” vì chủ nghĩa cộng sản, cũng người phụ nữ này đã phát biểu “Cứ để họ tự thiêu và chúng ta sẽ vỗ tay”.
Một người ngoại hạng, phải không?
Nhưng hơn bất cứ người khác, bà Nhu – vì nhất quyết can dự vào chuyện chính trị – đã xem đóng góp lớn nhất của bà ta cho đất nước là liên tục lên án chính phủ Mỹ, kẻ đã giúp chính phủ của bà ta chống lại Việt Cộng bằng tiền bạc, vật dụng và con người(292) [(Tóm lược cuộc đời, hôn nhân và hoạt động của bà Nhu được mô tả chi tiết rất tốt trong Vietnam: A History của Karnow.)].
Nên cũng không ngạc nhiên chuyện bà ta bị đánh rớt ở trường trung học.
Thực vậy, bà Nhu đã tiến hành một chiến dịch bôi bác nước Mỹ ngay từ ngày bà bước vào dinh Tổng thống. Nhưng chủ yếu, nhưng phê phán gay gắt của bà đối với Mỹ chẳng bao giờ vượt quá những tờ báo của chính quyền Nam Việt Nam.
Cho đến khi xảy ra sự đàn áp Phật giáo.
Mùa hè 1963, khi các tu sĩ Phật giáo bắt đầu tự thiêu để phản đối chế độ Diệm, sự phẫn nộ chung đã đánh động tới báo chí quốc tế, và cùng với nó là những tuyên bố bài Mỹ rất cay đắng của bà Nhu.
Đột nhiên Kennedy và Bộ ngoại giao của ông ta nhận ra bà Nhu cũng tai hại cho viễn tưởng tái đắc cử năm 1964 của Kennedy không kém gì Nhu và Diệm. Trong khi đó, để làm tình hình tồi tệ hơn, bà Nhu lại xin thông hành sang Mỹ để tiến hành một vòng diễn thuyết qua nhiều thành phố. Chuyện này cứ như trái bơm với Văn phòng bầu dục của Kennedy. Ban đầu chiến thuật là từ chối cấp chiếu khán... nhưng cái giá cao phải trả cho chuyện đó là những phê phán gay gắt hơn của bà Nhu trước các hãng tin quốc tế hoạt động tại Sài Gòn. Việc này lại càng gây khó cho Kennedy hơn nữa.
Rồi có ai đó nảy ra một ý nghĩa.
Vào tháng 6, nếu không nói là sớm hơn, Nhà trắng bắt đầu nghiêm túc xem xét về khả năng đảo chính Diệm, bắt nguồn từ thông tin về cuộc gặp gỡ giữa cố vấn Michael Forrestal trong Hội đồng an ninh quốc gia với Đại sứ Nam Việt Nam tại Mỹ, Trần Văn Chương (chính là bố của bà Nhu). Chương nói với Forrestal vào mùa xuân 1963 rằng chế độ áp bức của Diệm không thể thắng được cuộc chiến và đệ nghị rằng giải pháp duy nhất là dùng vũ trang lật đổ Diệm(293) [(FRUS, Vol. III)]. Điều này rõ ràng đã khiến Kennedy phải suy nghĩ, và sau đó, Nhà trắng bắt đầu lên kế hoạch với các tướng lĩnh chống Diệm nhằm đạt mục đích đó. Nhưng bà Nhu là một trở ngại hiển nhiên cho kế hoạch. Là kẻ lắm mồm nhất trong nhóm ba người nhà Diệm, cái chết của bà ta trong cuộc đảo chính có thể gây nghi ngờ cho những người chống đối Kennedy, nhất là những kẻ biết rõ ông ta có dính líu đến các âm mưu ámsát Castro sau vụ Vịnh Con Heo(294) [(Tài liệu của Hội đồng an ninh quốc gia (qua Ủy ban Rockefeller); Số lưu trữ 1781000210406; Hồ sơ CIA: ASSASSINATION MATERIAL MISC. ROCK/CIA.)]. Nhưng ở đâu đó trên đường dây, một bóng đèn tắt phụt và vấn đề được giải quyết.
Kennedy, Lodge, McNamara, các ông Bundy và những người còn lại của Bộ ngoại giao, đến cuối mùa hè 1963, đã biết rằng các tướng lĩnh Nam Việt Nam sắp tiến hành một cuộc đảo chính. Nhà trắng biết điều đó vì Nhà trắng tiếp tay khởi động chuyện này và phát tín hiệu đồng ý cho các tướng lĩnh. Nhưng một điều mà Nhà trắng không biết, đó là cuộc đảo chính sẽ nổ ra chính xác là vào ngày giờ nào. Lúc đó Kennedy và Bộ ngoại giao chỉ biết rằng nó sẽ xảy ra khoảng mùa thu 1963.
Phải chăng là sự tình cờ ngẫu nhiên khi chính phủ Mỹ, trước đó đã từ chối không cho bà Nhu nhập cảnh, đột nhiên lại cấp chiếu khán cho bà ta vào mùa thu 1963?
Ngày 7.10.1963 bà Nhu nổi tiếng bài Mỹ được nhập cảnh vào Mỹ và bắt đầu chuyến diễn thuyết ồn ào và gay gắt của mình, qua nhiều trường đại học lớn như georgetown, Princeton, Howard,... để vận động sự ủng hộ của ông chồng và ông Diệm (và tiếp tục chỉ trích chính phủ Kennedy); ngoài ra bà còn trả lời mấy cuộc phỏng vấn truyền thanh và thậm chí còn xuất hiện trong những chương trình truyền hình như Meet The Press, The Today Show, và chương trình của David Susskind. Nhà trắng biết rằng họ phải chịu đựng cảnh này một thời gian, nhưng họ biết rằng một khi cuộc đảo chính xảy ra, mọi chuyện bà Nhu nói sẽ hoàn toàn biến mất khỏi trang nhất các báo.
Chuyện xảy ra đúng như vậy.
Khi Diệm và Nhu chết trong cuộc đảo chính, bà Nhu làm rùm beng với báo chí Mỹ...nhưng lúc đó chẳng còn ai quan tâm nữa. Những lời đe doạ và khích bác của bà Rồng cái đối với Mỹ bị báo chí làm ngơ khi họ tập trung chú ý vào vụ đảo chính. Ít lâu sau, bà ta bị trục xuất khỏi Mỹ, để lại nhiều hoá đơn khổng lồ chưa thanh toán tại khách sạn Beverly Wilshire. Bà ta qua Paris, rồi sang Rome để sống với các con ở đó, và suốt từ đó, bà ta im lặng một cách kỳ lạ về cái chết của chồng và anh chồng, chỉ sống ẩn dật trong một biệt thự tối tăm mà người ta đồn là thuộc sở hữu của giáo hiệu Thiên chúa giáo.
Nhưng hồi 1963, nỗi e sợ của Kennedy đối với cái miệng tai hại của của bà Nhu đã được thu xếp ổn. Sau vụ đảo chính, bà ta không thốt ra một lời phản đối nào nữa.
Vậy là, Phần I của kế hoạch rất thành công, nhưng còn những phần khác cần thu xếp nốt, và một trong những phần đó là cha bà Nhu, ông Trần Văn Chương, Đại sứ Nam Việt Nam tại Mỹ. Kennedy rất cần sự ủng hộ của Chương cho cuộc đảo chính này (một điều Chương đã gợi ý hồi mùa xuân với cố vấn Michael Forrestal của Hội đồng an ninh quốc gia trong một cuộc họp được bảo mật). Không có bằng chứng tuyệt đối nhưng có thể nói rằng có rất nhiều lời đồn cho rằng Tổng thống Kennedy đã đích thân gặp Đại sứ Chương vào tháng 8 và yêu cầu ông ta từ nhiệm chức đại sứ, vì lợi ích quốc gia.
Đó là tin đồn.
Nhưng khônh kì lạ sao khi Đại sứ Chương đã từ chức ít lâu sau lần gặp mặt mà người ta đồn đại đó? Và kế đó, Chương cũng đi một vòng diễn thuyết, phản bác lại những phê phán của con gái mình đối với nước Mỹ.
Có vẻ hơi như...hơi kỳ quặc, phải không? Nhưng đó chính là chuyện đã xảy ra.
(Chuyện có lẽ còn kỳ lạ hơn là chuyện hai thập niên sau, Chương và vợ bị ám sát tại nhà riêng cua họ tại Washington DC,và kẻ sát nhân bị kết án là con trai của họ, em bà Nhu – Trần Văn Khiêm. Khiêm không hề bị chính thức xử hay kết án mà chỉ bị an trí vào bệnh viện tâm thần St. Elizabeth. Tuy nhiên,ông ta cứ nhất định mình vô tội, và tuyên bố rằng bố mẹ ông ta bị giết bởi vì họ biết được về “vụ ám sát Kennedy”(295) [(Howard, Alison, “Suspect in 2 Deaths Risist Drugs”, The Washington Post, 6.12.1991)]).
Hãy trở lại với năm 1963, hai trở ngại đối với kế hoạch lật đổ Diệm của Nhà trắng đã được giải quyết. Nhưng vẫn còn nhiều nữa, và trở ngại lớn là người anh trai lớn nhất và ảnh hưởng nhất của Diệm, Tổng giám mục Ngô Đình Thục, đại diện Vatican tại Nam Việt Nam.
Gọi ông Thục là người cấp tiến thì còn hơi nhẹ (cuối đời, ông ta bị Giáo hội Thiên chúa giáo cắt phép thông công không phải một mà tới hai lần, vì những hoạt động dị giáo(296) [(Associated Press, “Pope to Have Frist Meeting with Vietnamese Catholics”, 14.8.1993)], và gọi ông là kẻ tham nhũng thì hơi lịch sự (Thục bóp nặn tiền viện trợ quân sự Mỹ từ các tỉnh trưởng(297) [(FRUS, IV)].
Thục cũng là một khối cồng kệnh cản trở kế hoạch của Nhà trắng. Chuyện các bạo chúa chính trị bị giết trong lúc xảy ra đảo chính là một lẽ, nhưng Tổng giám mục Thục là nền tảng gia tộc của nhà họ Ngô, và ông cũng bị những kẻ chống đối thân Phật giáo thù ghét. Nói chính xác hơn, nếu Thục còn có mặt ở Nam Việt Nam khi đảo chính xảy ra, Kennedy sẽ gặp nhiều rủi ro hơn khi người ta khám phá rằng chính phủ của ông đã hỗ trợ cuộc đảo chính bằng tin tình báo, tiền bạc và vũ khí. Điều này sẽ gắn Kennedy – một Thiên chúa giáo – với một hành động chính trị đem lại cái chết cho một Tổng giám mục Thiên chúa giáo, một chuyện sẽ khó được dân Mỹ thiên chúa giáo chấp nhận.
Nên cũng không khó tưởng tưởng ra những gì Kennedy đã thảo luận với Giáo hoàng trong chuyến viếng thăm Vitican bất ngờ của ông vào đầu tháng 7. Đột nhiên người ta quyết định triệu tập Ngô Đình Thục đến Rome để dự một hội nghị giám mục trong quãng thời gian dự định nỗ ra cuộc đảo chính.
Thêm một vấn đề được giải quyết. Nói cách khác, Thục là một trở ngại cho kế hoạch lật đổ Diệm và Nhu, và vậy đó, tự nhiên trở ngại đó được dọn sạch. Tình cờ ngẫu nhiên chăng?
Dịêm có em trai thứ tư – một người em vô hại – đi xa giữ vị trí một sứ thần ngoại giao ở Anh. Kennedy không cần phải ưu tư về ông ta, và chúng tôi đã nói tới chuyện gì đã xảy ra với người em thứ năm, Cẩn, đại diện của chính phủ tại Trung phần: sau khi đảo chính nổ ra, Cẩn bị quân của Dương Văn Minh giết chết sau khi ông ta đã được Lodge hứa hẹn bảo vệ.
Trên đây, chúng tôi đã lược qua bằng chứng không thể phủ nhận về một âm mưu từ phía Nhà trắng của Kennedy nhằm lật đổ chính phủ Nam Việt Nam, hệ quả của nó là cái chết của tổng thống Diệm.
Chúng tôi ghi nhận rằng, hơn bất cứ gì khác, đây là mảnh đất màu mỡ trên đó âm mưu ngược lại đã được gieo hạt, đó là âm mưu đã dẫn đến cái chết của tổng thống Kennedy.

21. Những người trong bóng tối
“Họ {FBI} cảm thấy rằng Jean {Souetre} đã biết
ai hoặc chính hắn ta đã ám sát Kennedy”
- BÁC SĨ LAWRENCE ALDERSON(298) [(Phỏng vấn bác sĩ L.M.Alderson qua điện thoại của J.Gary Shaw – 1855.10.1977; 4:30 chiều)]

Bây giờ một số đầu mối lụn vụn lỏng lẻo đã được nối kết lại, và chúng ta đã tái khẳng định được âm mưu của chính JFK nhằm lật đổ nguyên thủ của một nước đồng minh, ta hãy trở lại với chương 17 và những tên gọi trực tiếp liên quan đến cái mà chúng ta tin là hồ sơ quan trọng nhất về vụ JFK đã từng được công bố cho đến nay: hồ sơ 632-796 của CIA
Chúng ta đã có Jean Rene Souetre, một tay OAS khủng bố, và là người có lẽ đã mượn tên của một cựu binh Pháp kháng chiến trong Thế chiến 2 nhưng đã trở thành đầu lĩnh buôn lậu bạch phiến cho Guerini và tập đoàn ma tuý Marseille.
Và, nhờ bằng chứng ấy, chúng ta biết được rằng Souetre đã ở Dallas, Texas vào buổi chiều Kennedy bị ám sát. Và chúng ta cũng biết rằng trong vòng 48 giờ sau vụ ám sát, Souetre đã được bộ phận nào đó của Bộ Tư pháp Mỹ đón đi và bí mật đưa ra khỏi nước Mỹ(299) [(Tài liệu CIA 632-796)].
Souetre có những động cơ mạnh mẽ nhất để mưu sát Kennedy. Hắn đào ngũ khỏi quân đội Pháp tại Algeria để tham gia tổ chức cánh hữu OAS. Đó là một tổ chức thù ghét Kennedy vì ông này gây áp lực buộc DeGaulle phải cho Algeria được độc lập trọn vẹn đối với khối Liên hiệp Pháp. Ngoài ra, OAS cũng không xa lạ với hành vi ám sát (đó là một phần trong tôn chỉ hoạt động của họ); họ đã ám sát nhiều cảnh sát, quân nhân và viên chức chính phủ trong chiến dịch khủng bố của họ, và những tay bắn tỉa thường xuyên được sử dụng để làm những việc này. Hơn nữa, OAS đã nhiều lần mưu ám sát Tổng thống Pháp DeGaulle, và chúng ta biết rằng chính CIA cũng cho rằng Souetre có dính líu đến ít nhất là một trong những lần mưu sát đó(300) [(Tài liệu CIA CSCI –3/776.742)]
Do đó, Souetre rõ ràng là một người có động cơ, phương tiện, kỹ năng và quá trình thụ huấn để đảm nhận công việc hạ sát Kennedy. Nhưng chúng ta cũng biết rằng Souetre và Mertz có biết lẫn nhau ở thời điểm nào đó (cuối thập niên 1950 đến đầu thập niên 1960) và làm sao chúng ta biết điều đó? Bởi vì Souetre đã thừa nhận điều đó trong hai cuộc phỏng vấn vào năm 1983 và 1999(301) [(Hurt, tr. 419; Phỏng vấn Souetre của Monique Lajournade, 9.6.1999)].
Như thế, là một tay khủng bố nên thật hợp lý về mặt thực tiễn khi Souetre sử dụng tên của kẻ thù Michael Mertz khi đi đây đi đó vì những mục đích mờ ám. Hắn sẽ để lại dấu vết mà nó sẽ dẫn ngược, không phải về tới chổ hắn, mà tới người mà hắn căm ghét.
Nhưng có một khả năng rất quan trọng mà 632-796 không xem xét tới.
Có thể Jean Rene Souetre không phải là người mà Bộ Tư pháp Mỹ bí mật trục xuất khỏi Dallas ngay sau cái chết của JFK. Có thể đó thực sự là Mertz, nhưng đội tên của Souetre.
Chúng tôi tin điều này.
Có ba lý do tại sao chúng tôi nêu luận điểm này ra để chúng ta xem xét. Thứ nhất, Michael Victor Mertz cũng có quá trình huấn luyện, kỹ năng và kinh nghiệm trận mạc như Souetre, nếu không muốn nói là nhiều hơn. Mertz là anh hùng trong lực lượng Pháp kháng chiến; trong hai năm ông ta đã giết nhiều lính Đức trong lãnh thổ Đức chiếm đóng. Lực lượng Pháp kháng chiến gồm những chiến binh du kích với những chiến thuật chủ yếu là phá hoại và ám sát. Phương pháp định vị tam giác giữa các tay bắn tỉa cũng thường được dùng để đối phó với những sĩ quan Đức trên trận địa. Và đây chính là cuộc sống của Mertz khi ông ta chỉ huy đơn vị kháng chiến tinh nhuệ của mình trong Thế chiến 2. Nói cách khác, Mertz rõ ràng có kỹ năng được trui rèn qua trận mạc và cần thiết cho việc ám sát một tổng thống.
Thứ nhì, ông ta cũng có động cơ vững chắc để muốn Kennedy phải chết. Kennedy – và Bộ Tư pháp do em trai Robert của ông ta chỉ đạo – đang tiến hành một cuộc chiến toàn diện chống Mafia, nhất là các ông trùm tội phạm có tổ chức Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos Trafficante, tất cả những kẻ điều hành hệ thống phân phối bạch phiến trên đất Mỹ, và tất cả những kẻ nhận hàng từ các lò bạch phiến Marseille của Antoine Guerini. Và chúng ta biết rằng Mertz đã trực tiếp làm việc cho tập đoàn bạch phiến đó. Cuộc tấn công của Kennedy nhắm vào các trùm Mafia Mỹ đã đe doạ sự ổn định của thị trường ma tuý, mà điều này lại đe doạ sự ổn định của thị trường bạch phiến Marseille của Guerini. Hầu như tất cả bạch phiến bán cho con nghiện Mỹ đều xuất phát từ Marseille sau khi nó được chế biến từ thuốc phiện do Ngô Đình Nhu cung cấp. Do đó, Guerini và tập đoàn của y sẽ thiệt hại rất lớn – mất thị trường lớn nhất của họ – nếu Kennedy có thể duy trì cuộc chiến chống Mafia Mỹ.
Mertz cũng sẽ thiệt hại rất nhiều: nguồn tiền bạc, lối sống, và quyền lực. Lý do thứ ba, và là lý do hàng đầu, khiến chúng ta nghĩ Mertz sử dụng tên của Souetre tại Dallas hơn là trường hợp ngược lại thì dựa trên một điều hoàn toàn khách quan.
Jean Rene Souetre đích thực đã được nhà báo Pháp Jacques Chambaz nhận diện và tìm ra tông tích năm 1983. Souetre không chỉ thừa nhận có biết Michael Mertz trong quá khứ, hắn ta còn hàm ý rằng họ còn là kẻ thù của nhau trong một thời gian dài, và quan trọng hơn nữa, hắn còn khẳng định Mertz đôi khi còn dùng tên Souetre khi đi đây đi đó(302) [(Hurt)].
Bây giờ ta hãy nhìn lại một số mẫu ghép còn chưa rõ cũng như cuộc phỏng vấn tường tận nhất từng được thực hiện với Jean Rene Souetre.

22. CUỘC PHỎNG VẤN SOUETRE NĂM 1999
“Người ta không thể nói rằng Mertz là một anh hùng
thời chiến, ông ta thực sự chỉ là một kẻ sát nhân”
- JEAN RENE SOUETRE

Chúng ta có nhiều chi tiết liên hoàn để suy diễn trong chương này: nhiều nhận xét kỳ lạ dựa trên những sự kiện rất thuyết phục có trước, “một điều bất hảo” trong lẫn lộn nhiều thứ, và trên hết là một cơ hội để nghe chính Jean Souetre phát biểu về vấn đề này.
Thật kỳ lạ khi ta nhìn kỹ hơn vào tập thể người Pháp cứ xuất hiện ở đây, ban đầu là trong cái chết của Diệm, rồi đến cái chết của Kennedy. Về vụ sát hại thứ nhất , chúng ta phải nhớ rằng Diệm, Nhu và bà Nhu là người Việt về mặt chủng tộc, nhưng về văn hóa họ là người Pháp. Họ lớn lên trong nền văn hoá Pháp, được giáo dục tại Pháp, và sử dụng tiếng Pháp lưu loát. Chuyện cũng tương tự như vậy với các tướng lĩnh đảo chính đã lật đổ và giết chết Diệm khi Mỹ bật đèn xanh cho họ. Và lý do chính yếu khiến chính những tướng lĩnh ấy tin cậy nhân viên CIA Lucien Conein là bởi vì ông này có gốc Pháp và đã hoà nhập vào ngôn ngữ và phong tục (và điều này giải thích tuyên bố của Conein rằng ông ta thấy rất quen thuộc không những với các tướng lĩnh nổi loạn mà với cả phần lớn những tay anh chị gốc đảo Corse sống tại Sài Gòn. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ McNamara, trong cuộn băng ghi âm được công bố gần đây, đã gọi Conein là “một người Pháp không ổn định”). Về vụ ám sát Kennedy, chúng ta lại có thêm hai người Pháp nữa được nhắc tới trong hồ sơ 632-796 (Mertz và Souetre), Tổng thống Pháp Charles DeGaulle (người đã đích thân gắn huy chương cho Mertz sau Thế chiến 2 và sinh mạng của ông được cứu vãn phần lớn nhờ việc Mertz xâm nhập vào trại giam các thành viên OAS), nhiều nhân viên SDECE Pháp đã bảo vệ Mertz, trong nhiều năm, khỏi các án tù vì buôn bán bạch phiến, và ngay cả trùm Mafia Mỹ Carlos Marcello cũng ra đời ở Tunisia (một xứ bảo hộ của Pháp) và lớn lên trong khu Pháp kiều ở New Orleans. Giữa tất cả những điều đó, chúng ta có tập đoàn bạch phiến quốc tế, đặt tổng hành dinh ở Marseille, Pháp, và do anh em Guerini người Pháp điều hành. Nguồn cung phần lớn nguyên liệu thuốc phiện cho họ là thông qua Nhu và kẻ trung gian là Rock Francisci, cũng là một người Pháp.
Bây giờ ta hãy gặp một người Pháp nữa, giống Rock Francisci, đã sống gần như suốt đời ở Đông Nam Á. Người này là Matthew Franchini. Bề ngoài ông ta được mô tả như một thương gia trọng nguyên tắc và là một chủ khách sạn đáng kính (ông ta sở hữu khách sạn Continental nổi tiếng ở Sài Gòn). Tuy nhiên sự thực thì Franchini là bộ não đàng sau các chuyến hàng thuốc phiện của Rock Francisci từ Sài Gòn sang các lò bạch phiến Marseille(303) [(McCoy)]. Tại sao điều này quan trọng thế? Vì Franchini là một khâu vô giá trong đường dây chỉ huy của thế giới ngầm Marseille, nếu không muốn nói là đường dây chỉ huy tập đoàn bạch phiến toàn cầu. Franchini cung cấp cho Marseille sản phẩm morphine vốn được Rock Franchini chở thoải mái về Sài Gòn (những chuyến bay do Nhu bảo kê). Lúc đó chính Franchini là người thu xếp để chuyển hàng an toàn tới Marseille, dĩ nhiên là cũng được bảo kê bởi những nhân viên SDECE vốn đã bảo kê cho Mertz. Một nhân vật đặc biệt quan tâm đến sự an toàn của nguồn cung cấp này đã đích thân tới Sài Gòn để gặp gỡ các trùm bạch phiến từ các nơi trên thế giới, và người đó chẳng là ai khác hơn Santos Trafficante(304) [(McCoy)].
Nhưng hầu hết những nguồn tài liệu về Matthew Franchini là những nguồn “vô danh” của toà đại sứ Mỹ và những nguồn tương tự. Còn có ai khác có thể nói với chúng ta về Franchini, một ai đó sẵn sàng để người khác nhận diện?
Có đấy. Jean Souetre.
Mùa xuân 1999, đồng tác giả O’Leary của sách này hợp đồng với nhà nghiên cứu Pháp Monique Lajournade, người có thể xác định Souetre vẫn còn làm việc trong vai trò giám đốc quan hệ đại chúng của sòng bạc Divonne, tại Divonne les Bains, nước Pháp. Ngày 9.6.1999, Souetre rất hoan hỉ đồng ý cho phỏng vấn, và sau đây là những gì hắn nói về Matthew Franchini:
“Ông ấy là dân đảo Corse. Tôi biết rằng họ đã dính vào việc buôn bán bạch phiến, và chính milieu {băng đảng} của dân Corse chuyên làm vụ này. Mertz đã có quan hệ với họ từ lâu, vàhoàn toàn có thể họ là nhà cung cấp {bạch phiến} cho ông ta”.
Sau cùng, một người trong “nghề” xác nhận cho điều mà chúng ta đã tuyên bố từ lâu. Bây giờ chúng ta hãy xem Jean Souetre nói gì về con người mà chúng ta tin là một trong những tay bắn tỉa tại Quảng trường Dealey trong ngày 22.11.1963 đó: Michael Victor Mertz.
Nhưng trước hết hãy gạt bỏ mọi nghi ngờ cho rằng Mertz và Souetre là một người. Sau cùng, hai người này có những đặc điểm tương tự. Về điều này, Souetre nói: “Phải, thật kỳ lạ, bởi vì chúng tôi đều là đại uý dù. Chúng tôi có cùng kiểu hành xử về thể chất, bởi vì có cùng quá trình huấn luyện. Người ta thường có những thái độ tương tự nhau. Nhưng cũng có vấn đề tuổi tác, và Mertz hẳn là lớn hơn tôi mười tuổi, và ông ta đã ở trong lực lượng kháng chiến trong Thế chiến 2. Nhưng sự thực, nếu bạn biết ông ấy, bạn sẽ thấy là không thể tin được”.
Chúng tôi không nghi ngờ điều đó. Thực vậy, Mertz lớn hơn Souetre mười tuổi (ông ta sinh năm 1920, Souetre sinh năm 1930). Khi Mertz đang chỉ huy các chiến sĩ du kích chống Đức, Souetre mới 13 tuổi.
Bây giờ hãy xem Souetre còn nói gì khác.
Hỏi: Ông gặp Mertz khi nào?
Đáp: “Trong thời kỳ OAS; ông ta là một trong những barbouze đã xâm nhập OAS, đóng vai một người ủng hộ tích cực. Công việc của ông ta là xâm nhập tổ chức của chúng tôi và phơi bày, tố giác các mạng lưới. Nên tôi có cơ hội gặp ông ta. Lúc đó là cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, trước khi tôi bị bắt. Và có lẽ tôi còn gặp ông ta sau đó, tôi không nhớ nổi.
“Vì Mertz, nhiều thành viên OAS đã bị bắt. Không phải ai cũng biết ông ta. Ông ta thường tự giới thiệu là đại uý dù để làm quen với các thành viên trong tổ chức và trở nên gần gũi hơn. Vào lúc đó chúng tôi không có thời gian để điều tra gốc tích và các hoạt động trước đó của các thành viên mới. Ông ta thực sự đã gây thiệt hại cho tổ chức.
“Sau này, một khi đã biết về ông ta, tôi nghĩ ông ta đã được chuyển đi nơi nào khác. Thường thì người ta không giữ một mật viên khi hắn ta bắt đầu trở nên không đáng tin cậy nữa. Các tổ chức mật vụ Pháp quan tâm đến ông ta vì hai lẽ: thứ nhất để bảo vệ DeGaulle, người đi công du rất nhiều và định sang thăm Mexico và Nam Mỹ. Như trong mọi tổ chức mật vụ khác, người ta cố gắng xác định những người có thể gây nguy hiểm. Tôi nghĩ ban đầu Mertz cũng được sử dụng như thế. Nhưng chắc chắn ông ta không được phép tiếp xúc với những người đang chuẩn bị ám sát Kennedy. Có thể Mertz đã được sử dụng để thông tin cho mật vụ Pháp về vụ này, và để tố giác láo OAS”.
Hỏi: Ông nghĩ sao về chuyện Mertz có thể sử dụng tên của ông?
Đáp: “Tôi nghĩ rất có thể Mertz đã ở Mỹ, vào thời điểm Kennedy bị ám sát, và sử dụng tên của tôi”.
Hỏi: Năm 1984, trong một phỏng vấn ngắn với Jacques Chambaz cho tờ Quotidien de Paris, ông có đề cập rằng Mertz là một trong những kẻ thù của ông. Có phải ông đã xem Mertz là một kẻ thù không?
Đáp: “Mertz đã thâm nhập OAS với mục đích duy nhất là phá hoại. Ông ta là một mật viên của một tổ chức chống lại chúng tôi; nên ông ta là kẻ thù của chúng tôi”
Hỏi: Ông có nghĩ ông ta có góp phần trong việc ám sát Kennedy?
Đáp: “Điều tôi thấy rất lạ là ông ta đã có mặt ở đó, tại Dallas trong ngày xảy ra tội ác với tên của tôi. Ông ta làm gì ở đó vào ngày ấy? Rõ ràng ông ta biết rằng sắp có chuyện xảy ra, và biết rằng đội tên đại uý Souetre ông ta có thể đổ tội cho CNR”
Hỏi: CNR là gì?
Đáp: “Đó là tên gọi sau này của OAS. Vào lúc đó, CNR đang xây dựng những quan hệ tích cực với một số thành viên của Lầu Năm Góc, như những thành viên cánh hữu có tư tưởng chống cộng mạnh mẽ và tìm được những ý tưởng chung trong những quan hệ với CNR. Vì có khả năng nhận được giúp đỡ từ phía người Mỹ, một số người Mỹ nào đó, nên hiển nhiên mật vụ Pháp {SDECE} làm việc cho DeGaulle phải ngăn chận những quan hệ đó bằng mọi cách và một người trong bọn họ phải làm cho chúng tôi trông có vẻ như những con người điên loạn, dị thường. Mật vụ Pháp sẽ làm bất cứ gì để ngăn chặn những quan hệ giữa chúng tôi với người dân Mỹ”.
Hỏi: Ông biết gì về Mertz và hoạt động của ông ta trong Thế chiến 2, và về ý nghĩ cho rằng ông ta là anh hùng thời chiến?
Đáp: “Một anh hùng thời chiến à? Mertz đã bị bắt vào lính Đức, đó là những dân vùng Alsace – Lorraine bị Quốc xã động viên; ở đó hẳn Mertz chẳng làm gì nhiều, có lẽ ông ta đã đào ngũ để gia nhập lực lượng Pháp kháng chiến, nhưng đó là lực lượng kháng chiến do Gandoin lãnh đạo, một nhánh kháng chiến thân cộng ở khu vực Tulle thuộc Creuse. Đó là về cuối cuộc chiến, trong một giai đoạn khi phe cộng sản mạnh trở lại. Họ giết tất cả những người cánh hữu có thể trở thành thù nghịch với cộng sản trong tương lai. Theo thông tin chúng tôi có được về Mertz, chúng tôi biết rằng ông ta cũng có mặt trong vụ này, rằng ông ta đã tham gia vào những vụ sát nhân vỡ lòng đó. Người ta không thể nói rằng Mertz là một anh hùng thời chiến, ông ta thực sự chỉ là một kẻ sát nhân, và được sử dụng như một kẻ sát nhân mà thôi”.
Hỏi: Việc ông ta thâm nhập OAS không giúp ông ta ngăn chặn được một âm mưu ám sát DeGaulle của OAS sao?
Đáp: “Tôi không biết. Điều đó rất có thể”.
Hỏi: Khi làm việc cho tập đoàn bạch phiến Marseille, ông ta cũng là tay chân của SDECE?
Đáp: “Ông ta luôn thuộc về một tổ chức. Ông ta nằm trong một tổ chức mật ít được biết tới của giới barbouze dưới quyền chỉ huy của M. Sanguinetti, một kẻ chống OAS và sử dụng những người như Mertz để xâm nhập OAS… Bọn barbouze luôn sẵn sàng cho mọi chuyện và được sử dụng theo kiểu đó bởi Sanguinetti, kẻ luôn ủng hộ Mertz và giúp hắn thoát ra khi gặp tình thế khó khăn”.
Hỏi: Ông có biết gì về mối nghi ngờ rằng Mertz, vì nằm trong giới barbouze, nên đã được phép tiếp tục vận chuyển bạch phiến mà không sợ bị bắt giữ?
Đáp: “Khi Mertz bị bắt, ông ta không ở tù lâu, vì Sanguinetti lại kéo ông ta ra, nên ông ta có thể tiếp tục những việc làm xấu xa của mình”.
Hỏi: Hồ sơ 632-796 của CIA nói rằng một trong ba người này (ông, Mertz hoặc Roux) đã có mặt ở Dallas vào ngày Kennedy bị giết. Ông có biết ai tên là Roux không?
Đáp: “Tôi không nhớ ra ai mang tên đó. Tôi tin rằng người có mặt tại Dallas hôm đó là Mertz đội tên tôi vì những lý do tôi đã nêu trên”.
Hỏi: Ông có thể nói gì về đầu mối bạch phiến của Mertz và họ có thể có liên hệ với Đông Nam Á như thế nào?
Đáp: “Bạn biết đó, họ là một băng đảng mật và không có dấu vết rõ ràng, hỗn hợp một chút ma tuý, chút mafia, tổ chức bán dâm – cái này xen với cái kia. Ơû đây bạn cũng thấy chút cái này hay cái nọ. Mafia duy trì hoạt động buôn bán ma tuý, và đám barbouze mà Mertz có liên hệ chắc chắn có liên lạc với những người ở Việt Nam. Nguồn cung cấp thuốc phiện trong giai đoạn chủ yếu là từ Đông Nam Á”.
Hỏi: Hồ sơ 632-796 của CIA ghi rằng trong vai trò một thành viên OAS ông đã tiếp xúc với CIA ở Lisbon và nhờ họ hậu thuẫn cho các hoạt động chống DeGaulle. Điều đó đúng không?
Đáp: “Không, họ không ủng hộ những hoạt động chống DeGaulle. Quả thực là tôi đã có tiếp xúc với CIA ở Lisbon, gặp nhân viên CIA phụ trách Tây Aâu. Chúng tôi, CNR, đã có liên lạc với nhân viên ấy, nhưng với mục đích là lập một chương trình phát thanh thuộc loại chủ yếu là chống cộng Chúng tôi tìm người giúp đỡ, tìm hỗ trợ tài chính từ phía Mỹ để lập một đài phát thanh như thế. Nhưng kế hoạch không hề thành công vì cái chết của Kennedy. Sau đó Mỹ cũng cắt giảm ngân sách cho những kế hoạch như vậy”.
Hỏi: Ông nghĩ gì về tất cả những chuyện đang xảy ra quanh vụ JFK hiện nay?
Đáp: “Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là chuyện Mertz chưa từng bị thẩm vấn. Thứ nhất là ông ta có mặt ở nơi xảy ra biến cố, rồi ông ta bị FBI trục xuất, chuyển qua Canada. Người ta không tống khứ một kẻ tình nghi vội vã như thế. Người ta cố gắng khai thác thông tin từ ông ta. Ông ta đang làm gì ở đó? Rõ ràng là đã không có một cuộc điều tra nghiêm túc. Kết quả là, Mertz có thể tiếp tục những hoạt động phi pháp của mình. Tôi thấy thật kỳ lạ là giới thẩm quyền Mỹ – những người có thể dễ dàng tìm ra tôi – lại không hề truy tìm Mertz để thẩm vấn nghiêm túc. Khi họ tìm đến tôi, tôi đã chứng minh được rằng tôi không phải kẻ có mặt ở Dallas, rằng tôi chưa từng tới nước Mỹ. Thế thì có thể là ai khác nữa? Tôi tin rằng Mertz đã ở đó vào ngày đó. Tại sao họ không tin? Từ đó, vì thông tin này dẫn tới thông tin khác, họ lẽ ra phải thẩm vấn Mertz, ông ta là kẻ nhận lệnh từ Sanguinetti, chuyển các thông tin đi. Ông ta lẽ ra phải bị thẩm vấn và khai ra những gì ông ta biết, ít nhất là về những quan hệ với mafia, qua những đường dây của ông ta, những gì ông ta đã làm trong việc buôn bán ma tuý và những điều đại loại như thế. Ông ta chẳng bao giờ bị thẩm vấn hoặc chú ý. Thay vì thế, ông ta đã chết trong một lâu đài sang trọng tại Pháp, để lại cả đống tiền bạc. Tôi có thể nói thật với bà rằng một sĩ quan quân đội Pháp kiếm chẳng được bao nhiêu tiền đâu.
“Tôi tự hỏi tại sao. Tại sao Mertz được mật vụ Pháp bảo vệ trước người Mỹ? Có thể rằng mật vụ Pháp sợ Mỹ sẽ khám phá ra sự thật chăng?
“Tôi hoảng thật sự khi nghe nói rằng người Mỹ muốn phỏng vấn tôi. Họ tiếp cận tôi theo một kiểu rất lạ, họ bảo: “Chúng tôi đang chuẩn bị một cuốn sách”, họ nói, “một cuốn sách về OAS. Tôi bảo họ: “Nghe đây, tôi có thể kể cho các ông nghe những gì đã xảy ra, những gì tôi biết về OAS”. Nên người Mỹ đến đây và tôi chờ đợi họ bởi vì tôi có thể mường tượng ra cảnh tôi bị mang qua Mỹ để thẩm vấn về OAS. Thực vậy. Bạn biết trong những kênh tiếp xúc đó người ta có phương tiện để làm ai đó bốc hơi. Nên tôi đã có những đề phòng…
“Thế là những người Mỹ tới, tự giới thiệu và nói với tôi họ đang chuẩn bị một cuốn sách về OAS và câu hỏi thứ nhất của họ là “Ông đang làm gì ở Dallas vào ngày Kennedy bị ám sát?” “Tại sao các ông tới đây?”. Tôi hỏi: “Tôi không có mặt ở đó và chẳng có gì để nói”.
“Họ bỏ đi theo kiểu ta thường nói, một tay trước mặt, một tay sau lưng. Sau này tôi khám phá ra họ là dân CIA.
“Tại sao lại là tôi, chứ không phải Mertz? Tôi thấy thật là là ông ta chưa từng bị thẩm vấn.
“Dù gì đi nữa, Mật vụ Pháp hẳn cũng đã biết về việc chuẩn bị vụ ám sát nhưng đã không đưa thông tin này cho giới chức Mỹ. Hoặc có thể thông tin đã được chuyển đi và nó đã bị ém nhẹm”
Rồi Souetre nói thêm về khả năng Mertz đội tên Souetre: “Điều đó sẽ dễ dàng cho Mertz, nhờ sự hỗ trợ của Sanguinetti. Trước hết, để có được giấy tờ bạn phải có người làm, và chỉ có Vụ thông tin là làm được chuyện đó. Và để có thể luồn lách theo kiểu ông ta đã làm và nhất là với hồ sơ của ông ta mà cảnh sát nắm được, ông ta hẳn phải có sự giúp đỡ rất lớn từ cấp cao.
“Tất cả những sự kiện đều cho ta thấy rằng mật vụ Pháp, các tổ chức song hành, barbouze và các thứ như thế, đều có dính líu trong lĩnh vực này, điều đó chứng minh sự hiện diện của Mertz tại Dallas vào ngày xảy ra tội ác ấy.
“Nhưng tôi thấy thật kỳ lạ là người Mỹ chẳng bao giờ cố đào bới sâu hơn. Bây giờ thì Mertz đã chết được năm năm rồi. Họ có rất nhiều thời gian để đi gặp cảnh sát Pháp với một uỷ ban nghiên cứu. Một uỷ ban như thế đã tới tra tấn tôi. Họ có thể làm tương tự với Mertz. Tôi đã nói với họ những gì tôi đang nói với bà đây”.
Hỏi: Ông tin rằng Mertz được các giới chức cao hơn bảo vệ?
Đáp: “Ông ta được bảo vệ rất kỹ, ông ta luôn được cứu ra khỏi các tình huống khó khăn bởi các ông chủ của mình. Tôi chẳng thể cho bà một manh mối gì về họ. Tôi chỉ có thể gửi cho bà bản sao hồ sơ cảnh sát về ông ta. Thật lạ khi thấy rằng sau khi ông ta đã làm mọi chuyện như thế…”
Hỏi: Làm sao ông có được những hồ sơ đó?
Đáp: “Tôi có thể nói với bà rằng tôi lập tức quan tâm tới Mertz khi nhận ra chiều hướng của các diễn biến. Tôi tự nhủ mình phải tìm ra càng nhiều chuyện về nhân vật này càng tốt. Một kẻ giống như ông ta có dáng dấp hoàn hảo của một tên gangster. Và điều đó có lý. Ông ta cưới bà đó, Martel, kẻ nằm trong một băng đảng còn dính líu nhiều hơn. Nếu bạn có được một hệ thống nhà thổ ở Canada bạn phải có sự bảo kê nào đó, ít nhất là bảo kê riêng chống lại các kẻ thù. Tôi tin rằng Martel có liên quan tới mafia. Bọn mafia thậm chí có thể đã cộng tác trong các hoạt động của ông ta. Vợ của Mertz sẽ không hé môi…Bà ta không cần tiền vì đã đủ giàu. Người ta không thể hỏi mua hồ sơ về chồng bà ta. Những người như vậy thường không để lại bất kỳ hồ sơ nào. Nhất là khi Mertz đã được huấn luyện trong nghề barbouze, ở đó người ta được dạy cách không để lại cái gì cả, không bao giờ để lại các ghi chép, không bao giờ giữ bất kỳ ghi chép gì. Chỉ có khi nào bạn muốn đe doạ tiết lộ ông chủ của mình; nhưng trong trường hợp này ông chủ lại quá mạnh: đe doạ tiết lộ với Sanguinetti có lẽ quá khó. Và dĩ nhiên Sanguinetti sẽ chẳng bao giờ nói gì cả.
Hỏi: Về chuyện Mertz buôn bán ma túy, ông có nghĩ tôi sẽ tìm được điều gì đó trên báo chí không?
Đáp: “Từ thời kỳ đó thì có thể, nhưng tôi không chắc chắn đó là lúc nào. Tôi chẳng có bằng chứng nào về chuyện đó vì tất cả chỉ là lời đồn lan truyền trong giới tụi tôi, nhưng chắc chắn là có những đường dây giữa các cơ quan công quyền Pháp từ DGSE để kiếm tiền tài trợ cho các chiến dịch của họ bằng cách sử dụng trò buôn bán ma tuý tại Mỹ. Và Mertz đặc biệt có thể sử dụng các cơ quan lính Mỹ được giải ngũ về Mỹ để vận chuyển trong hành lý của họ những lượng ma tuý đáng kể.
“Tôi nghĩ rằng vào thời đó, chuyện này đã bị Cục ma tuý Mỹ khám phá và hẳn đã có ít nhiều tiếng vang trên báo chí. Nhưng đây chẳng phải điều có thể khai thác được. Bây giờ cũng vậy, làm rùm beng chuyện này lên cũng chẳng có lợi gì cho Pháp. Người Mỹ hiện nay và nhất là Cục ma tuý phải có thông tin về chuyện này trong tàn thư của họ”.
Hỏi: Và đây là lúc Mertz bị bắt?
Đáp: “Ông ta bị bắt rồi mau chóng được thả ra nhờ sự can thiệp của Sanguinetti. Nếu người Mỹ yêu cầu cảnh sát Pháp bắt Mertz, ta hoàn toàn có thể tin rằng Sanguinetti sẽ có khả năng giúp ông ta được phóng thích mau chóng. Điều đó bà có thể tìm thấy trên báo chí thời đó”.
Đến đây là kết thúc cuộc phỏng vấn, và ta có thể thấy rằng Souetre rất sẵn sàng cung cấp thông tin. (Sanguinetti – tên riêng là Alexandre – là cánh tay phải của Bộ trưởng Nội vụ Pháp Roger Frey, người mà bạn đọc đã gặp trong chương 11 và 14. Frey là người chữa cháy cho DeGaulle, và Sanguinetti là kẻ được giao nhiệm vụ tiến hành chữa cháy. Hắn ta là sĩ quan liên lạc giữa SDECE và chính phủ, tương tự như một cố vấn an ninh quốc gia hàng đầu của Mỹ). Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu rằng Souetre phải cẩn thận trong lời ăn tiếng nói: xem lại những cuộc phiêu lưu trong quá khứ của hắn thì ai mà lại không cẩn thận lời nói? Thí dụ, hắn không bao giờ nói với chúng ta rằng hắn tin Mertz là một trong những kẻ ám sát Kennedy; thay vì thế, hắn nói rằng hắn tin Mertz – một kẻ sát nhân – đã ở Dallas trong khi xảy ra vụ sát nhân lớn nhất trong lịch sử Mỹ, và Souetre cũng nói rằng Mertz dễ dàng biết trước những chuẩn bị cho vụ ám sát JFK thông qua những đầu mối trong thế giới ngầm. Souetre cũng rõ ràng rất thận trọng về những nguồn tin của mình, như ta thường thấy ở một con người có kinh nghiệm về hoạt động bí mật như hắn ta. Tương tự, chúng ta chỉ có thể hy vọng hắn ta bảo vệ được chính mình xét qua việc tên tuổi của hắn nằm trong hồ sơ 632-796 cạnh tên Mertz. Đó là lý do tại sao Souetre, thông qua những đường dây riêng của mình, đã thu được hồ sơ bắt giữ Mertz (xem phụ lục P) và lý lịch ông này. Hồ sơ bắt giữ chứng tỏ Mertz đã có hơn 30 năm vi phạm pháp luật, và hồ sơ này ghi chi tiết những chuỗi vi phạm dài: tấn công và đe dọa, trộm cắp, tàng trữ vũ khí trái phép, giết người, bỏ trốn để tránh bị truy tố, tham gia bạo loạn, làm giả giấy tờ, đe doạ sát hại cảnh sát, cùng rất nhiều án phạt tiền và phạt tù, chưa kể tới bản án năm năm về tội buôn bán bạch phiến sang Mỹ và Canada.
Sau cùng, điều hay nhất kế đó chúng ta tìm ra là một bức ảnh của chính Mertz. Mertz chết năm 1955, nên không thể có một bức ảnh ông ta – một anh hùng thời chiến – trong bất kỳ mục cáo phó nào sao? Còn những ảnh chụp trước khi ông ta chết thì sao? Hầu hết những anh hùng thời chiến đều được chụp hình vô số lần, nhưng…
Việc tìm kiếm rộng rãi nhiều văn khố Pháp cũng không tìm ra một ảnh chụp nào của nhân vật này.
Có thể là “những quyền lực cấp cao” đã thủ tiêu những ảnh chụp nhân vật này trong một nỗ lực che giấu sự thật. Làm việc cho tập đoàn bạch phiến quốc tế đầy thế lực của Antoine Guerini (với nguồn cung thuốc phiện đều đặn từ Ngô Đình Nhu) Mertz có động cơ và phương tiện, và có thể dễ dàng sử dụng những đầu mối quen biết trong Mật vụ Pháp để cải trang thành chiến sĩ OAS Jean Rene Souetre. Không hợp lý sao khi những quan chức Pháp nào đó, biết sự thực về Mertz, nên đã thủ tiêu mọi ảnh chụp ông ta?
Được rồi, không ảnh chụp, nhưng còn hồ sơ xử án ở Pháp thì sao? Chính ở đây Souetre đã chỉ cho Monique Lajournade đi đúng hướng để tìm thêm thông tin về Mertz.
Trong khi tìm những bài báo đầu thập niên 1970 có đề cập tới lần bắt giữ Mertz, Lajournade đã truy ra một số tên họ của những người trong ngành tư pháp Pháp, những người có thể giúp bà tìm hồ sơ tội phạm nào đó của Mertz. Như Souetre đã ám chỉ trong cuộc phỏng vấn, hầu như không có thông tin nào loại đó còn tiếp cận được tại các văn khố Pháp. Tuy nhiên, với nhiều công sức điều tra và một chút may mắn, bà đã tìm ra đúng cái thứ mà tất cả chúng ta đều tìm kiếm: hồ sơ ghi chép về các hoạt động tội phạm của Mertz và nhất là việc buôn lậu bạch phiến của ông ta, tất cả trong dạng các hồ sơ toà án chuẩn bị cho vụ xử Mertz tại Paris (xem Phụ lục O-1 và O-2).
Lần thẩm vấn trước toà này, diễn ra ngày 5.7.1971, đã chính thức kết án Mertz (cùng với các trùm bạch phiến khác trong đó có Achille Cecchini) là vi phạm Luật quốc gia về tội phạm liên quan đến ma tuý. Những cáo trạng và ý định truy tố này được đưa ra bởi Toà đại hình quận 16 (tương đương với một toà liên bang của Mỹ). Hồ sơ chính thức này chứng tỏ rõ ràng rằng những tác giả trước đây chỉ có thể kết tội theo những điều được nghe nói: rằng Michel (Michael) Victor Mertz là một tội phạm chuyên nghiệp từng buôn bán khối lượng lớn bạch phiến vào đất Mỹ và nhận thù lao từ những tay điều hành giới giang hồ Marseille. Cuối cùng, sau hơn một thập niên thu lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán bạch phiến, Mertz đã bị bắt, qui án và kết tội. Hồ sơ toà án Pháp này chứng tỏ điều đó.
Lajournade đã tìm được thông tin quý giá trong chuyến điều tra tại Pháp. Trong khi đó, hai nhà nghiên cứu khác của đồng tác giả O’Leary là Tim McGinnis và Brett Ruhkamp, có lẽ đã làm được khám phá kỳ lạ nhất. Sau hơn một tháng hỏi thăm tài liệu ở Văn khố Quốc gia, và hầu như không gặp chút may mắn với DEA và các hồ sơ cũ của Cục Ma tuý Mỹ, cuối cùng, vào tháng 6.2000, họ được cấp phép để nghiên cứu một thùng hồ sơ. Một trong những hồ sơ đó là một báo cáo chi tiết của Bộ Tư pháp Mỹ gửi cho Sở Ma tuý Mỹ, và chủ đề của báo cáo là về những hoạt động bạch phiến của Pháp đầu thập niên 1960, một thời điểm khi sự dính líu của Mertz đang ở quy mô lớn nhất (xem Phụ lục Q để thấy tờ bìa báo cáo này). Bản báo cáo nêu chi tiết nguồn cung cấp thuốc phiện Lào từ Nam Việt Nam cho các lò bạch phiến Marseille, và nó đề cập rõ ràng đến tất cả đồng sự thế lực của Mertz (Francisci, Simonpieri, Venturi, Cecchini, anh em Guerini, v.v…)
Vậy mà tên của Mertz không hề được nhắc tới.
Hãy nhớ, báo cáo này được viết ra trong thời điểm khi các cơ quan bảo vệ pháp luật của Pháp và Mỹ đang hợp tác chặt chẽ với nhau trong cuộc chiến chống ma tuý. Hơn nữa, sự thông đồng của Mertz với tất cả những kẽ được đề cập trong báo cáo đã được xác minh bằng nhiều hồ sơ về phía Pháp.
Phải chăng có phần tử nào đó trong cơ quan công quyền Mỹ đã tẩy xoá mọi đề cập đến Mertz, có lẽ cũng chính là phần tử đã lo cho ông ta thoát khỏi Dallas, Texas, hai ngày sau khi JFK bị ám sát?

23. Đừng nhìn vào kẻ thù, hãy nhìn vào bè bạn
“Johnson đưa ra giả thuyết rằng ‘Kennedy có lẽ
đã bị giết để trả thù cho cái chết của Tổng thống Diệm
của Nam Việt Nam, ba tuần trước đó’”(305) [(Nechiporenko)]

Nhờ những dữ kiện có trong 632-796, chúng ta biết chắc chắn rằng một ai đó (rất có thể là Mertz) đã được bí mật trục xuất khỏi Dallas, Texas, hai ngày sau khi JFK bị giết chết. (Người đó khó có thể là Souetre vì Souetre, nhiều năm sau, đã được giới thẩm quyền Mỹ thẩm vấn và chứng tỏ vô can). Nhưng điều quan trọng hơn từ quan điểm của một vụ “che dấu sự thật” không phải ở chuyện ai đã bị trục xuất mà là những tình huống chung quanh vụ trục xuất. Chắc chắn Uỷ ban Warren có một mối quan tâm đặc biệt đối với một sự cố như vậy nếu thực tế Uỷ ban Warren không dính líu vào âm mưu che giấu sự thật. Nhưng 37 năm lịch sữ đã chứng tỏ rằng Uỷ ban Warren hoàn toàn không trung thực chút nào. Ngoài ra, người ta có thể nghĩ rằng sự hiện diện của một kẻ bị tình nghi có liên quan với OAS tại Dallas ngay trong ngày Kennedy bị giết có thể gây một mức báo động nào đó cho Bộ Tư pháp Mỹ. Người ta sẽ nghĩ rằng những giới chức Bộ Tư pháp này sẽ lập tức bắt giữ ngay nhân vật đó, hay ít nhất cũng câu lưu để thẩm vấn. Hơn nữa, chúng ta có thể nghĩ rằng các giới chức đó sẽ báo cáo về sự hiện diện của nhân vật này cho những nơi cần thiết, trong đó có Uỷ ban Warrren, bộ phận được chính thức thành lập năm ngày sau đó thông qua Chỉ thị hành pháp 11130. Nhưng cả vụ trục xuất lẫn sự hiện diện của “Souetre” tại Dallas không hề được báo cáo với Uỷ ban. (Hoặc có thể đã được báo cáo, và bằng chứng quan trọng này đã bị Uỷ ban Warren gạt bỏ như họ đã gạt bỏ vô số thông tin và bằng chứng có thể mâu thuẫn với kết luận của họ vốn cho rằng JFK bị giết bởi một tay súng đơn lẻ tên là Lee Harvey Oswald).
Thay vào đó, Bộ Tư pháp mẫn cán của nước Mỹ thấy rằng nên bí mật tống khứ tay khủng bố này ra khỏi lãnh thổ, càng lặng lẽ và nhanh chóng càng tốt, và từ đó về sau họ chẳng bao giờ hé một lời về chuyện ấy.
Tại sao?
Họ hẳn đã có chỉ thị gói gọn toàn bộ sự vụ lại, đúng không? Và rốt cục Bộ Tư pháp Mỹ nhận những chỉ thị này từ đâu?
Từ văn phòng Bộ trưởng Tư pháp Mỹ: Robert F. Kennedy.
Chúng ta biết rằng Robert Kennedy đã dùng quyền lực của Bộ Tư pháp để che dấu rất nhiều chuyện trong quãng đời sự nghiệp ngắn ngủi của ông ta, và tất cả những trò che giấu ấy đều trực tiếp liên quan đến ông anh tổng thống của mình. Chúng ta biết Robert che giấu việc lưu trữ những bức ảnh khám nghiệm tử thi và bộ não JFK vốn là bằng chứng cực kỳ quan trọng. Và chúng ta cũng biết rằng Robert đã quyết chí che giấu sự dính líu trực tiếp của hai anh em ông ta trong các kế hoạch lật đổ – và ám sát – Fidel Castro sau vụ Vịnh Con Heo(306) [(Tài liệu của Hội đồng an ninh quốc gia (qua Uỷ ban Rockefeller); Số lưu trữ 1781000210406; Hồ sơ CIA: ASSASSINATION MATERIALS MISC.ROCK/ CIA (2); Biên bản của Nhóm đặc vụ chiến dịch Mongoose, 4.10.1962; Posner, “Cracks in the Wall of Silence”)]. Tất cả để bảo vệ tên tuổi gia đình Kennedy, và nhất là tên tuổi John F. Kennedy. Và bây giờ có vẻ như quá rõ ràng chúng ta lại biết thêm một trò che giấu nữa của Robert. Xét về chuyện đưa một tay khủng bố chống Kennedy vào Dallas trong ngày xảy ra vụ ám sát và rồi cái chỉ thị kỳ quái cho trục xuất hắn ta ngay sau đó, thì một chỉ thị như thế có thể xuất phát từ đâu? Ai có được quyền lực để chỉ thị làm một việc hiển nhiên vi phạm qui tắc thi hành luật pháp như thế?
Chỉ có người ở vị trí trên cùng.
Để hậu thuẫn cho qui kết này, chúng ta biết rằng các viên chức INS đã nhận những chỉ thị ưu tiên hàng đầu từ Washington yêu cầu chặn bắt một công dân Pháp tại Dallas ngay sau vụ ám sát JFK(307) [(Hurt)]. Một chỉ thị kỳ lạ như thế sẽ xuất phát từ đâu? Ai ở trong Bộ tư pháp Mỹ có khả năng bảo đảm rằng một chỉ thị phi chính qui như thế sẽ được thi hành?
Có lẽ đó không phải cậu bé đưa thư rồi.
Cũng không kỳ lạ sao khi ngay sau đám tang Kennedy, tổng thống Pháp DeGaulle bắt đầu nói với báo chí cũng như các cố vấn rằng ông ta tin JFK bị giết do một âm mưu về phía Sở cảnh sát Dallas? Đúng vậy, và nó cũng được nói rõ ràng trong một hồ sơ FBI mà mãi đến 1993 mới được giải mật(308) [(Hồ sơ lưu trữ 180-10022-10291; Hồ sơ CIA 62-109060-5819; Tựa: “DeGaulle Viewed Death of JFK as a Conspiracy; 20.10.1967)].
Điều này có vẻ trái khoáy một cách kỳ lạ nếu không muốn nói là kỳ quái.
Trong những ngày kế tiếp sau một biến cố bi thảm làm chấn động thế giới, và khi hầu hết các nguyên thủ quốc gia đang ngỏ lời chia buồn với chính phủ và nhân dân Mỹ, thì Charles DeGaulle – một người bạn và đồng minh lâu năm – lại đóng một dấu bôi bác lên cái chết của Kennedy bằng việc tung ra lời đồn không cơ sở và đột ngột này.
Có vẻ như DeGaulle muốn mò tìm một phương cách để phân tán tư tưởng ngay trong giờ phút mà các bộ phận phân tích của Mỹ đang nỗ lực tập trung vào công tác khổng lồ nhằm điều tra cái chết của JFK. Rồi đột nhiên nguyên thủ của một trong những quốc gia đồng minh sâu sắc nhất lại tung ra một nhận định về cảnh sát Dallas?
Tại sao DeGaulle làm thế?
Hơn nữa, tại sao Robert Kennedy ra lệnh cho trục xuất một kẻ có khả năng ám sát anh ông ta, thay vì ra lệnh bắt giữ?
Hai sự kiện đó là những cú đánh hoàn toàn không thể tin được vào lý luận… trừ phi ta nghĩ tới một động cơ ngấm ngầm cực kỳ hữu lý, và chúng tôi cho rằng động cơ này có thể truy nguyên về tận Sài Gòn và dinh Tổng thống của Diệm.
Robert Kennedy yêu và ngưỡng mộ anh mình, nhưng sau 22.11.1963, JFK đã chết, chẳng có gì mang ông ấy trở lại cuộc sống được. Là Bộ trưởng Tư pháp, nhiệm vụ tối hậu của ông ta là bảo đảm an ninh tuyệt đối cho tổng thống thông qua Cục Mật vụ, và chúng ta đều thấy ông ta đã làm công việc của mình ra sao.
Sau vụ kém cỏi khủng khiếp này, và khi anh mình đã nằm trong lòng đất, Robert chẳng còn lại gì để bảo vệ ngoài thanh danh của ông anh mình trong lịch sử, thanh danh gia đình và những hy vọng chính trị tương lai của chính ông ta. Và đây là một công việc ông ta không được xử lý kém cỏi. Robert biết rằng một cuộc điều tra đại qui mô của liên bang về cái chết của JFK chắc chắn sẽ dẫn tới những sự kiện có thể phá hỏng di sản Kennedy. Điều tra sâu rộng hơn sẽ phát hiện rằng Sam Giancana đã thao túng vụ kiểm phiếu Illinois giúp JFK đắc cử tổng thống năm 1960.
Không, công chúng Mỹ sẽ không vui vẻ với thông tin này, họ cũng không hài lòng gì khi biết ra rằng Tổng thống Kennedy đã theo đuổi những âm mưu lật đổ và ám sát Fidel Castro trước vàsau vụ Vịnh Con Heo và hiện còn có nhiều kế hoạch khác trên bàn làm việc(309) [(Xem Phụ lục N)]. Và tương tự, nếu không muốn nói là hơn nữa, dân Mỹ sẽ nghĩ gì về tên tuổi nhà Kennedy nếu họ biết được rằng JFK đã phê chuẩn, cho phép, và tiếp tế cho một cuộc đảo chính đã đem tới cái chết cho Tổng thống Diệm ở Nam Việt Nam, một đồng minh của Mỹ? Một con người và một chính phủ mà John F. Kennedy đã công khai ủng hộ bằng tiền thuế và xương máu của nước Mỹ?
Thực vậy, nếu cử tri Mỹ giữa thập niên 1960 biết được rằng người mà họ đã bầu làm tổng thống đã một mặt tuyên bố chống lại mối đe doạ cộng sản bằng cách gửi mỗi năm nữa tỉ đô la tiền thuế (cùng với 15.000 lính) cho chính phủ Diệm nhưng mặt khác lại ủng hộ một âm mưu quân sự nhằm tiêu diệt Diệm, những cử tri Mỹ ấy có lẽ sẽ không bỏ phiếu cho Kennedy trong kỳ bầu cử năm 1964. Họ cũng không muốn bỏ phiếu cho Robert Kennedy năm 1968 nữa.
Robert Kennedy và bố của ông ta hẳn phải cực kỳ ngu dốt mới không biết điều này. Và với JFK đã nằm trong mộ, thì sự nhất trí hợp lý trong gia đình sẽ phải là Hãy chấm dứt những mất mát và giữ gìn lấy những gì ta còn lại.
Nên sẽ là hợp lý, phải không, nếu té ra Michael Mertz thực sự là kẻ được nhanh chóng và bí mật đưa ra khỏi Dallas? Không phải rất có thể rằng sau sự cố, Mật vụ Pháp nhận ra sơ suất to lớn của mình và đã thừa nhận với DeGaulle. Này, chúng ta gặp vấn đề lớn ở đây. Hoá ra một trong những tay đã giết Kennedy lại là dân buôn bán bạch phiến Marseille từng giúp chúng ta phá tung OAS và cứu mạng của ông đấy? Kịch bản này không giải thích được việc DeGaulle vội vàng đổ lỗi cho Sở cảnh sát Dallas một cách hết sức kỳ quái đó sao?
Để thông tin như thế này được công bố cho toàn thế giới – và nhất là cho nước Mỹ – vào năm 1963 hoặc 1964, phản ứng của công chúng sẽ rất tai hại. Nó sẽ không những tiêu diệt mọi nỗ lực chính trị xa hơn cho Robert Kennedy, mà nó còn tiêu diệt ý nghĩ của dân chúng về gia đình Kennedy nói chung và ký ức thần tượng về JFK nói riêng. Nó cũng sẽ tiêu huỷ các quan hệ ngoại giao, niềm tin và độ đáng tin cậy của Mỹ ở nước ngoài, và vĩnh viễn ghi dấu lên chính phủ Mỹ như một chính phủ không hề ngần ngại trong việc lật đổ và ám sát các nguyên thủ quốc gia không thuận theo những yêu cầu chính trị của Mỹ.
Và sự kiện tiên báo này đưa chúng ta tới luận điểm kế tiếp…

24. Sài gòn
FBI, trong nhiều hồ sơ, đã đánh dấu bà Nhu và Chính phủ Nam Việt Nam là những tình nghi ám sát JFK(310) [(a) Tài liệu FBI – Số lưu trữ 124-10054-10045, Hồ sơ CIA 62-109060-4257, 22.6.1966 (phiếu phân loại của hồ sơ, mục Chủ Đề, ghi “JFK, SUSPECT, MADAME NHU”). Tài liệu này có nói tới những lá thư từ một người Đức có bí danh KG3 gửi cho FBI; các lá thư khẳng định rằng bà Nhu dự phần trong âm mưu giết JFK; (b) Tài liệu FBI – Số lưu trữ 124-10052-10263, Hồ sơ CIA 62-109060-4257, 14.11.1966 (phiếu phân loại của hồ sơ, mục Chủ Đề, ghi “JFK, SUSPECT, MADAME NHU”); đây là một trong vài tài liệu kể lại lời khai của thuỷ thủ chuyên nghiệp Eric Lintrop, người đã nhiều lần thông báo cho FBI rằng ông ta nghe được các sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ nói chuyện về việc bà Nhu dính líu đến vụ ám sát JFK; (c) Bản dịch của FBI ngày 6.12.1963 các lá thư nặc danh từ Hà Lan gửi cho FBI, trong đó người viết thư khẳng định rằng bà Nhu có dính líu đến vụ ám sát JFK (xem Phụ lục F, G và H)]

JFK và nhóm cố vấn trong bộ ngoại giao đã làm rất hoàn hảo việc che kín dấu vết của họ trong vụ xâm nhập Vịnh Con Heo và những kế hoạch sau đó của Nhà Trắng nhằm ám sát Castro, cũng như rất nhiều chuyện khác. Người ta phải thấy dân Mỹ đã bị Nhà Trắng nhồi nhét những lời dối trá hữu hiệu đến thế nào suốt bao thập niên qua. Hãy tập trung chú ý vào Cuba một chút để diễn đạt luận điểm của chúng tôi. Trong nhiều thập niên, các sách sử rõ ràng đã tạo ấn tượng rằng vụ xâm nhập Vịnh Con Heo là sản phẩm của tổng thống Eisenhower, và Tổng thống trẻ tuổi vị tha John F. Kennedy đã thừa kế cái kế hoạch xấu xa này do một thất bại không tránh được. Chúng ta được dạy bảo rằng Kennedy chẳng muốn dính dáng gì tới chuyện đó nhưng bị buộc phải chấp nhận chiến dịch này vì quá nhiều công phu dàn xếp của chính phủ đã đâu vào đó. Chúng ta được lý giải rằng Vịnh Con Heo là một cỗ máy đã chạy sẵn trước khi JFK đắc cử, và cái máy đó không thể tắt đi được, và chính John Kennedy là người phải nhận cái kế hoạch tai hại của Eisenhower/Nixon thuộc đảng Cộng hoà ngay ngưỡng cửa Nhà Trắng khi JFK nhậm chức tổng thống. Dĩ nhiên, qua thời gian, chúng ta biết được những điều ngược lại – và sách vở cũng như báo chí cho đến tận cuối năm 1998 vẫn tiếp tục lan tràn, chứng tỏ JFK đã dính líu sâu đậm thế nào trong vụ này.
Nhưng trở lại năm 1963 thì sao?
Dân Mỹ không biết chút xíu nào về việc Kennedy, ngay sau lễ nhậm chức, đã hăng hái ủng hộ một đề xuất nhằm lật đổ Castro, họ cũng không hề biết rằng Kennedy hăng hái cho phép CIA duy trì hoạt động chính trị và phá hoại chống Castro tại Cuba(311) [(Kornbluh, Peter (ed.), Bay of Pigs Declassified, (the New Press, New York, 1998)]. Người dân Mỹ không biết chút gì, rằng ngay cả sau khi thất bại trong vụ Vịnh Con Heo, chính phủ Kennedy đã sốt sắng kêu gọi lập thêm những kế hoạch lật đổ Cuba và dàn dựng những biến cố có thể hợp pháp hoá trước công chúng một cuộc xâm lược qui mô lớn của Mỹ(312) [(Tài liệu của Hội đồng an ninh quốc gia (qua Uỷ ban Rockefeller); số lưu trữ 1781000210406; Hồ sơ CIA: ASSASSINATION MATERIALS MISC.ROCK/ CIA (2); Biên bản của Nhóm đặc vụ chiến dịch Mongoose, 4.10.1962; Posner, “Cracks in the Wall of Silence”)], họ cũng không hề biết rằng chính phủ Kennedy đã đồng ý kế hoạch của CIA nhằm tuyển mộ những tay Mafia Mỹ như Sam Giancana và John Roselli để ám sát Castro(313) [(Tài liệu có tựa COMMISSION ON CIA ACTIVITIES WITHIN THE UNITED STATES; phỏng vấn đại tá CIA Sheffield Edwards (qua Uỷ ban Rockefeller); Hồ sơ lưu trữ 178-10002-10352; Hồ sơ CIA A-II (A) CHRON – ASSASSINATIONS, ngày 9.4.1975. Đây là một tài liệu li kì không chỉ chứng minh rằng CIA tuyển mộ dân Mafia để mưu ám sát Castro bằng thuốc độc mà còn chứng tỏ rằng Robert Kennedy đã biết rõ chiến dịch này, rằng ông ta đã không phản đối gì cảm và ông ta đã ra lệnh cho Đại tá Shieffield tường trình cho mình mọi kế hoạch ám sát Castro khác)]. Xem ra, Kennedy hình như có một chính sách và tư tưởng duy nhất một chiều đối với những chính phủ nước ngoài bất đồng với ông ta: giấu mặt lật đổ. Thứ nhất là Castro của Cuba, rồi Diệm ở Nam Việt Nam. Không, công chúng Mỹ năm 1963 không hề nghe nói về điều đó.
Một điều khác họ không hề – và chẳng bao giờ – được nghe nói tới, đó là 17 ngày sau khi JFK bị ám sát, FBI nhận được thư từ một nguồn tin vô danh ở Hà Lan trong đó khẳng định rằng bà Nhu và chính phủ Nam Việt Nam chịu trách nhiệm về vụ ám sát JFK(314) [(Bản dịch của FBI ngày 6.12.1963 cho lá thư nặc danh gửi FBI từ HàLan, trong đó người viết thư khẳng định rằng bà Nhu có dính líu đến vụ ám sát JFK (xem Phụ lục F-2)].
Rồi FBI nhận được thư của một thuỷ thủ chuyên nghiệp tên là Eric Lintrop khẳng định rằng ông ta đã chặn được một thông tin từ quân đội Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng kẻ giết John F. Kennedy đã được thuê mướn bởi bà Nhu và chính phủ Nam Việt Nam(315) [(Tài liệu FBI – Số lưu trữ 124-10052-10263, Hồ sơ CIA 62-109060-4257, 14.11.1966)].
Và còn nữa: FBI nhận được thư từ một người Đức tự xưng mình là KG3 khẳng định rằng kẻ giết JFK đã được chính phủ Nam Việt Nam thuê mướn(316) [(Tài liệu FBI – Số lưu trữ 124-10054-10045, Hồ sơ CIA 62-109060-4257, 22.6.1966 (phiếu phân loại của hồ sơ, mục Chủ Đề, ghi “JFK, SUSPECT, MADAME NHU”). Tài liệu này có nói tới những lá thư từ một người Đức có bí danh KG3 gửi cho FBI; các lá thư khẳng định rằng bà Nhu dự phần trong âm mưu giết JFK)].
FBI đã điều tra kỹ lưỡng tất cả ba đầu mối này, tất cả ngay sau cái chết của JFK, nhưng không bao giờ công bố thông tin lạ lùng này.
Tại sao?
Dĩ nhiên, những nhà phê bình sẽ gào lên rằng ba báo cáo có nguồn khác nhau nhưng không có gì cụ thể đáng tin cậy gửi cho FBI nói về việc chính phủ Nam Việt Nam dính líu vào vụ ám sát Kennedy về lâu dài thì chẳng có chút giá trị gì.
Chúng tôi đồng ý.
Nhưng cái món chẳng chút giá trị ấy bắt đầu trông như một trái nuí nghi ngờ khi ta bắt đầu khảo sát nhiều yếu tố bao hàm khác. Hãy nhìn vào thời điểm. Ba tuần sau khi Diệm và Nhu bị ám sát, JFK bị giết ở Dallas. Như đã đề cập ở các chương trước, bà Nhu đang làm một vòng diễn thuyết tại Mỹ khi vụ đảo chính Diệm nổ ra. Lúc đó bà ta đang ở Los Angeles, và khi biết rằng một vụ đảo chính đang manh nha ở Sài Gòn, bà ta lập tức tổ chức họp báo và lớn tiếng phê phán chính phủ Mỹ. Trong cuộc họp báo, bà ta nói:
“Một sự bất công tàn bạo như vậy đối với một đồng minh trung thành thì không thể bỏ qua, và những người thuận theo nó thì sẽ phải trả giá. Tôi không tin nhưng nếu các tin tức đúng là sự thực, nếu quả tình gia đình tôi đã bị hạ sát một cách phản trắc với sự đồng tình chính thức hoặc không chính thức của chính phủ Mỹ, tôi có thể nói trước với tất cả quí vị rằng câu chuyện tại Việt Nam mới chỉ là màn mở đầu”(317) [(Trần Lệ Xuân, còn gọi là bà Ngô Đình Nhu, “Statement by Madame Nhu on the Death of South Vietnam’s President”, The New York Times (2.11.1063) (Chuyện JFK bị giết 20 ngày sau khi bà Nhu lớn tiếng đưa ra lời đe doạ này không phải là chuyện đáng chú ý sao?)].
Nghe như một lời đe doạ, phải không? Và thật lạ lùng. Người phụ nữ này, sau cùng, sang Mỹ để vận động sự ủng hộ cần thiết đến tuyệt vọng của công chúng đối với chính phủ của mình, và rồi lại tung những lời lẽ tạc đạn vào báo chí Mỹ. Quá lố cho việc vận động Mỹ ủng hộ.
Những điều bà ta nói không chỉ khẳng định một mối nghi ngờ của bà ta rằng chính phủ của bà đã biết trước một cuộc đảo chính do Mỹ đỡ đầu, nó còn hàm ý một đe doạ trả thù đối với thủ phạm: chính phủ Mỹ.
Ba tuần sau khi bà Nhu đưa ra lời đe doạ này, JFK bị bắn chết.
Thôi được. Đó là một sự trùng hợp lạ lùng. Nhưng về thực tế, có thể nào bà Nhu, bây giờ chỉ còn một mình – vì chồng và tổng thống anh chồng đã bị giết – có thể nào bà ta, cùng với mấy thành viên gia đình và vài người trung thành với Diệm còn lại ở Sài Gòn, lại có thể dàn xếp một cú rửa hận nhắm vào Kennedy? Trong ba tuần?
Điều đó là không thể được. Chiến dịch mờ ám dẫn đến vụ ám sát JFK hẳn phải cần, ít nhất, nhiều tháng để tiến hành và thực thi. Tổ chức một cú trả thù nhắm vào Kennedy trong ba tuần sẽ gần như là không thể được khi ta xét tới việc tuyển chọn người, bố trí hậu cần, vận chuyển người và trang bị, và tất cả việc hoạch định chiến lược và chiến thuật. Chắc chắn, nó có thể thực hiện trong ba tuần, nhưng chúng tôi cảm thấy khó có thể được.
Thay vì thế, hoàn toàn có thể tin được khi giả định rằng không chỉ có bà Nhu, mà cả ông chồng Nhu nắm cảnh sát chìm và ông anh chồng tổng thống đã biết trước từ lâu rằng Kennedy và các đầu não Bộ ngoại giao Mỹ đang có kế hoạch và chuẩn y vụ đảo chính Diệm.
Nếu điều này không đúng, làm sao Nhu tích trữ vũ khí và đạn dược tại những địa điểm “bí mật” từ trước khi đảo chính thực sự xảy ra? Chúng ta đã thấy rõ ràng các nỗ lực của CIA đã thông báo được vị trí của những địa điểm này cho tướng Minh và các đồng sự của ông ta nhưng đó chưa phải điểm chủ yếu. Tất cả những gì mà điều đó muốn chứng minh là, CIA là một tổ chức tình báo hữu hiệu hơn tổ chức cảnh sát chìm của Nhu. Sau cùng, tại sao Nhu cho tích trữ vũ khí đạn dược ở các địa điểm bí mật nếu ông ta không nghi ngờ trước về một vụ lật đổ đang manh nha?
Chúng tôi chứng tỏ rằng không có nghi ngờ gì trong vụ này cả. Nhu và Diệm đã biết trước rất rõ rằng Dương Văn Minh và các tướng lĩnh đang lập kế hoạch lật đổ. Sự thực, ý kiến này là không tranh cãi được…
Stanley Karnow, nhà báo nổi tiếng và là phóng viên về Chiến tranh Việt Nam, cho chúng ta biết rằng các nhân viên phản gián của Nhu cài được dụng cụ nghe lén trong Toà đại sứ Mỹ tại Sài Gòn(318) [(Karnow)]
Dựa trên sự kiện ngày nay đã sáng tỏ là Toà đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đã bị nghe lén, chúng ta có thể kết luận rằng mọi cuộc đàm thoại giữa Đại sứ Lodge và đầu mối CIA Lucien Conein đều bị Nhu và những nhân viên phản gián nghe rõ từng lời. Lodge và Conein (cũng như Lodge và những người khác gắn liền với phái bộ ngoại giao Mỹ) rõ ràng đã thảo luận chuyện Nhà Trắng ủng hộ cuộc đảo chính trong khuôn viên toà đại sứ.
Điều này có nghĩa là bằng phép suy diễn đơn giản Nhu và Diệm đã biết được điều gì đang xảy đến với họ. Nên cũng hợp lý khi Nhu và Diệm đã có những biện pháp phòng vệ, chẳng hạn như tích trữ vũ khí và đạn dược ở những địa điểm bí mật. Nói rõ hơn, những con bọ nghe lén của Nhu trong toà đại sứ Mỹ đã làm sáng tỏ rằng Nhu và Diệm đã biết Kennedy đang cố làm cho họ bị lật đổ và thậm chí bị giết chết. Nhưng hãy tạm gác những con bọ nghe lén trong văn phòng của Lodge và hãy nói chuyện về hệ thống băng ghi âm trong chính Nhà Trắng của Kennedy. Chúng tôi đã nói chuyện 37 cuộn băng ghi âm những buổi họp giữa Kennedy và ban chỉ huy của ông ta tại Nhà Trắng và trong Phòng Nội các đã được công bố ngày 24.11.1998. Tại sao những cuộn băng ấy được bảo mật trong hơn ba thập niên là chuyện ta chỉ có thể suy đoán (hoặc, thực ra, đó cũng không phải điều ngạc nhiên vì hàng núi dữ liệu về JFK đã bị giữ ngoài tầm tay công chúng trong thời gian tương đương như vậy hoặc còn lâu hơn), nhưng các cuộn băng của Nhà Trắng từ 25.10.1963 đã ghi những thảo luận giữa Kennedy và giám đốc CIA John McCone. Ai chắc cũng biết McCone và phụ tá là William Colby đã tích cực thúc giục JFK cho ngưng vụ đảo chính lại. Đây là một lý do khác nữa. McCone có lý do để tin rằng tướng Paul Harkins (sĩ quan thâm niên tại Việt Nam) đã bí mật tiết lộ âm mưu đảo chính cho Diệm biết! “Nói cách khác, Diệm có bằng chứng rằng Kennedy đang âm mưu lật đổ mình”(319) [(Hughes, Ken, “The Table of the Tapes: JFK and the Fall of Diem; Three Weeks Before His Own Assassination, President Kennedy Launched a Coverup in the Assassination of the President of South Vietnam”, The Boston Globe, 24.10.1999)]. Ai cũng biết rằng Harkins xem Diệm như bạn thân, và ai cũng biết rằng Harkins rất chống đối kế hoạch lật đổ. Và bây giờ chỉ huy CIA (người tiếp cận được những nguồn tin tình báo rộng rãi và chính xác nhất trên thế giới) hàm ý ông ta có lý do để tin rằng Harkins, vô tình hay hữu ý, đã cho Diệm hay sắp có một cuộc đảo chính, phải nói rằng khó mà phủ nhận độ đáng tin cậy của nguồn tin này.
Thông tin này chỉ gia tăng bằng chứng rằng Nhu và Diệm đã biết trước Kennedy đang mưu lật đổ mình. Họ biết rằng đã có hợp đồng để mua đứt mạng sống của họ.
Giả sử, nếu bạn biết một ai đó đang mưu giết bạn… bạn sẽ làm gì? Nhắm mắt lại và cầu cho nó qua đi chăng? Báo “cảnh sát” cho dù bạn biết trước “cảnh sát” là bất lực?
Trong trường hợp này, đa số người ta sẽ tìm cách ra tay trước. Giết kẻ thù trước khi kẻ thù kịp giết mình.
Đó là bản năng sinh tồn căn bản, một phản ứng của con người từ khi giống người xuất hiện trên đời. Sống sót chống lại kẻ áp bức mình. Xu hướng căn bản và sơ khai nhất..
Nhưng chúng ta biết có một điều không bao giờ bị tiết lộ trong Toà đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, đó là ngày giờ đích xác nổ ra đảo chính. Các tướng lĩnh nổi loạn không bao giờ cho chúng ta biết đích xác lúc nào vụ đảo chính nổ ra. Chúng ta cũng biết rằng một số ngày giờ tiến hành đã bị đình hoãn lại – điều đó hẳn Nhu và Diệm đã biết nhờ những con bọ nghe lén. Hơn nữa, chúng ta biết rằng Diệm, vào ngày 1.11.1963, đã gặp Lodge lúc 10 giờ sáng và có đề cập đến tin đồn về một cuộc đảo chính nhưng rồi đã mau chóng gạt qua một bên (rõ ràng đã quá tin vào khả năng của Nhu trong việc hạ gục những kẻ chống đối). Diệm thậm chí còn hẹn sớm gặp lại Lodge và thu xếp những bất đồng giữa họ với nhau(320) [(Karnow)]. Lodge chỉ gật đầu cho qua chuyện. Nhưng ta có thể thấy rõ những gì đang xảy ra ở đây. Lodge đã xoa dịu Diệm vì ông ta biết rằng Diệm sẽ sớm bị lật đổ, và Diệm xoa dịu Lodge vì ông ta biết rằng Kennedy sẽ sớm bị hạ sát.
Vấn đề duy nhất ở đây là vụ đảo chính đã xảy ra sớm hơn Diệm tính toán. Chúng ta đồng ý rằng Diệm và Nhu (cùng với đồng mưu ở Marseille và Mafia Mỹ) đã có kế hoạch ám sát John F. Kennedy. Nhưng Diệm và Nhu đã bị ám sát trước khi kế hoạch của họ được tiến hành.
Làm sao mà Diệm và Nhu không biết được rằng kế hoạch tiêu diệt họ đã sẵn sàng đâu vào đó? Với những con bọ nghe lén trong toà đại sứ Mỹ? Và với 100.000 nhân viên tình báo của Nhu? Cho rằng tất cả những người này không biết thì sẽ là phi lý. Không ai ngốc đến thế, mà Nhu và Diệm là những con người rất khôn ngoan. Họ đã khôn ngoan hơn hẳn các kẻ thù suốt trong chín năm nắm quyền, đương đầu với rất nhiều vận xui, và đã sống sót trên vị trí quyền lực. Họ ăn chắc rằng lần này họ cũng sẽ làm được như vậy. Nhưng họ đã tính sai.
Sự dính líu của Nam Việt Nam trong vụ ám sát Kennedy thực sự được định hình đáng tin hơn so với sự dính líu của Liên Xô (điều này đã bị chứng tỏ là sai), so với trường hợp một mình Oswald đơn lẻ (điều này cũng bị chứng tỏ là sai) và so với sự dính líu của cái gọi là tập đoàn quân sự – công nghiệp vì họ muốn làm một số triệu phú được giàu hơn bằng cách leo thang cuộc chiến với chính phủ Johnson.
Khả năng một vụ lật đổ Diệm thì một ngàn lần đe doạ đối với một số quyền lực hơn mối đe doạ của chuyện Kennedy can thiệp vào những khoản trợ cấp và lợi nhuận đối với một số công ty như Bell Helicopter và General Dynamics. Đơn giản là chúng tôi không tin rằng Kennedy bị giết bởi một số nhà công nghiệp hay trùm dầu hoả Texas. Chúng tôi không tin rằng Kennedy bị giết bởi CIA vì CIA tức giận ông ta sau thất bại trong vụ Vịnh Con Heo. Và chúng tôi không tin rằng một tên điên lẻ loi như Lee Harvey Oswald lại có thể thực hiện vụ ám sát gay go nhất trong lịch sử với một khẩu súng trường cổ lỗ và thiếu chính xác.
Thay vì thế, chúng tôi tin rằng vụ ám sát JFK là một âm mưu đã được tính toán trước giữa Mafia Mỹ, giang hồ Marseille và cấp cầm quyền cao nhất của chính phủ Nam Việt Nam.

25. Ai giết Diệm và JFK
“Ông ta {JFK} đã giết Diệm, và rồi
chính ông ta cũng lĩnh chuyện đó”
- TỔNG THỐNG LYNDON JOHNSON

Vậy chúng ta có cái gì? Chúng ta có bằng chứng rằng chính phủ JFK đã ủng hộ cuộc đảo chính lật đổ Diệm ở Nam Việt Nam trong một nỗ lực mà họ đã công phu cực khổ để giấu nhẹm không cho công chúng Mỹ biết. Kennedy và ban chỉ huy của ông ta đã làm hết sức để hỗ trợ việc giết hại những lãnh đạo của một nước đồng minh. Thuần tuý, đơn giản, và đã được chứng tỏ.
Chúng ta có bằng chứng rằng Diệm và Nhu đã biết trước âm mưu của Kennedy chống lại họ, và thêm những bằng chứng cho thấy cái chết của Diệm và Nhu có khả năng tiêu diệt tập đoàn bạch phiến quốc tế.
Kế đó, chúng ta có ba khảo sát các hồ sơ còn bảo mật của FBI nêu đích danh bà Nhu và chính phủ Nam Việt Nam là những kẻ tình nghi trong vụ ám sát JFK.
Chúng ta có bà Nhu công khai tuyên bố với tờ New York Times:
“…nếu quả tình gia đình tôi đã bị hạ sát một cách phản trắc với sự đồng tình chính thức hoặc không chính thức của chính phủ Mỹ, tôi có thể nói trước với tất cả quí vị rằng câu chuyện tại Việt Nam mới chỉ là màn mở đầu”.
Hơn nữa, còn có một sự kiện ít được biết tới nhưng vẫn là một sự kiện. Các bạn có biết rằng người kế nhiệm JFK, Lyndon Baines Johnson, đã nhiều lần khẳng định rằng những người Nam Việt Nam đã tham gia vào âm mưu giết hại Kennedy không? Một nguồn thông tin là từ chính miệng Phó tổng thống của Johnson, Hubert Humphrey. Humphrey kể với chúng ta trong tự truyện của ông rằng Tổng thống Johnson có nói: “Chúng ta có nhúng tay vào việc giết ông ấy {Diệm}. Bây giờ chuyện đó xảy ra ở đây”(321) [(Humphrey, Hubert H., The Education of a Public Man (University of Minesota Press, 1991)].
Chúng ta cũng có rất nhiều tác phẩm đã xuất bản nói những điều tương tự: rằng Tổng thống Johnson nghi ngờ Diệm và Nhu – trục quyền lực chính trị của chính phủ Nam Việt Nam năm 1963 – có can dự trực tiếp vào vụ ám sát Kennedy(322, 323, 324, 325) [(Nechiporenko;;; Power, Thomas, The Man Who Kept Secrets: Richard Helms and the CIA (Alfred A. Knopf, 1979);;; Shesal, Jeff, Mutual Contempt (Norton, 1997);;; Summers, Anthony, Conspiracy (Paragon House, 1989)]. Gần đây hơn, trong tác phẩm Sons and Brothers (“Các con trai và anh em trai”) in năm 1999, học giả giữ Thư viện Kennedy Richard D. Mahoney tiết lộ rằng Johnson đã nói điều tương tự – nhưng còn cụ thể hơn – với phụ tá của JFK là Ralph Dungan vài ngày sau khi chôn cất JFK. Johnson kéo Dungan vào Phòng Bầu dục và nói: “Tôi muốn nói cho ông nghe tại sao Kennedy chết. Trừng phạt của thần thánh thôi. Ông ta đã giết Diệm, và rồi chính ông ta cũng liõnh chuyện đo”(326) [(Mahoney, Richard D., Son’s & Brothers (Arcade, 1999)].
Để tóm gọn lại, ta có một cái nhìn khái quát về xúc cảm này, từ cuốn The Assassination of John F. Kennedy (“Vụ ám sát John F. Kennedy”) của James P. Duffy và Vincent L. Ricci:
“Trong những năm ở Nhà Trắng, Johnson được ghi nhận là đã nhiều lần bày tỏ ý kiến rằng trách nhiệm cho vụ ám sát là thuộc về… những người ủng hộ Tổng thống Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam…”(327) [(Duffy)].
Hãy thêm vào điều này: chúng tôi đã trình bày tài liệu cho thấy KGB của Liên Xô đã lập tức được Khruschev chỉ thị phải tiến hành điều tra riêng về chuyện ai đã giết John F. Kennedy(328) [(Tài liệu FBI – Số lưu trữ 124-10144-10086, Hồ sơ CIA 52-109060-4321, 1.12.1966, giải mật ngày 15.8.1995)].
Hãy nhớ, Khruschev và Liên Xô rất kinh hoàng khi biết tin về vụ ám sát JFK. Tại sao? Vì ở vị trí đối thủ chính trị ý thức hệ với Mỹ (và về mặt kỹ thuật, cũng là kẻ thù của Mỹ trong cuộc chạy đua sản xuất đầu đạn hạt nhân) Khruschev và KGB đều biết rõ rằng Oswald – người được định tội ám sát JFK – đã cố gắng vượt tuyến, và mặc dù KGB đã hoàn toàn loại bỏ không tuyển hắn ta làm mật viên cho bất kỳ công việc nào của KGB, thì chuyến du lịch của Oswald sang Liên Xô cũng có thể bị các cơ quan tình báo Mỹ ghi nhận. Khruschev đã làm hết sức để chứng tỏ cho Mỹ thấy rằng Liên Xô không tuyển dụng Oswald cho KGB và Liên Xô không dính líu theo bất kỳ kiểu nào vào vụ ám sát JFK. Nếu không phải như thế, thì tại sao Khruschev đích thân trao toàn bộ hồ sơ KGB về Oswald cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Dean Rusk vào ngày an táng JFK? Chúng ta biết điều này là đúng vì nó được ghi trong hồ sơ 62-109060-4321 của FBI(329) [(Tài liệu dẫn trên)]. Hơn nữa, chúng ta biết, cuộc điều tra riêng của KGB cho phép họ kết luận rằng Lee Harvey Oswald không hề có được những gì cần thiết để thực hiện một vụ ám sát.
Trong một cuộc phỏng vấn cuối năm 1998, tướng Nikolai Leonov, sĩ quan cấp chỉ huy của KGB, người đã gặp Oswald tại Toà đại sứ Liên Xô tại Mexico (người sau này trở thành Trưởng ban chiến dịch KGB và trưởng đơn vị phân tích của KGB) cũng khẳng định dứt khoát rằng Oswald thiếu các năng lực cần thiết. Cho đến hôm nay ông ta vẫn còn nghi vấn không chỉ về sự ổn định tình cảm của Oswald mà cả về khả năng tác xạ của hắn nữa, và trong buổi phỏng vấn nói trên, ông ta đã nói rằng thật là “cực kỳ vô lý” khi nghĩ rằng Oswald có thể giết Kennedy.
“Khi tôi gặp hắn, vào tháng 9 {năm 1963} hắn ta đã hoàn toàn không thích hợp với loại công việc như thế”, Leonov bảo đảm với chúng tôi, nhấn mạnh rằng triển vọng Oswald giết được Kennedy là “Tuyệt đối không thể có được!(330) [(Phỏng vấn Tướng KGB Nikolai Leonov, trong phim video The Secret KGB/ JFK Assassination Files (1998), Associated Television)].
Một người Nga nổi tiếng khác cũng có ý kiến về chuyện này là cựu chủ tịch Liên Xô và người đoạt giải Nobel: Mikhail Gorbachev. Gorbachev, người có tên tuổi sẽ đi vào lịch sử vì đã dân chủ hoá – và làm tan rã – Liên Xô cũng như tiến hành chính sách “công khai”; chưa bao giờ công khai phát biểu về vụ ám sát JFK, cho đến mãi sau này. Sau đây là những gì Gorbachev nói trong một cuộc phỏng vấn năm 1998 trong bộ phim tài liệu The Secret KGB/ JFK Assassination Files (“Bí mật các hồ sơ ám sát JFK của KGB”) của hãng Associated Television đã phát sóng toàn quốc năm 1999.
Khi được hỏi cụ thể rằng ông có tin điều khẳng định của Uỷ ban Warren rằng Lee Harvey Oswald là tay súng duy nhất không, Gorbachev trả lời:
“Ông muốn tôi trả lời câu hỏi này, một câu hỏi mà cả nước Mỹ không trả lời được sau bao nhiêu năm tiến hành điều tra sâu rộng. Được rồi, tôi nghĩ tôi rất nghi ngờ chuyện nó phản ảnh được những gì đã xảy ra vào thời điểm đó… Tôi thực sự không tin rằng Uỷ ban Warren đã trình ra một bức tranh thực tế về những gì đã xảy ra. Tôi không tin vào bức tranh đó…”(331) [(Phỏng vấn cựu Chủ tịch Liên Xô Mikhail Gorbachev, trong phim video The Secret KGB/ JFK Assassination Files (1998), Associated Television)].
Gần đây hơn, Đại tá Ilya Semyonovitch Pavlotsky, sĩ quan cao cấp nhất của đơn vị điều tra KGB, đồng ý với Leonov, và tung thêm một quả bom nữa, “Nhóm của tôi, chuyên ban phân tích, đã kết luận rằng Tổng thống Kennedy không bị giết bởi Oswald. Có rất nhiều khác biệt ý kiến trong KGB nhưng có một điều chúng tôi đồng ý là, khả năng của Oswald quá kém, anh ta không thể tiến hành việc đó được”.
Nhưng rồi Pavlotsky nói với chúng ta một điều còn chấn động hơn, phần lớn những điều đó lại hậu thuẫn cho chủ điểm của cuốn sách này.
“Kennedy bị bắn chết bởi một tay sát nhân chuyên nghiệp được thuê mướn bởi các mật viên Pháp và Nam Việt Nam. Đơn vị của chúng tôi biết rằng người Mỹ đã tiếp tay lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam, người mà họ đã đưa lên nắm quyền để chống lại cộng sản. Người em Diệm là Ngô Đình Nhu cũng bị giết, và việc này cắt đứt nguồn cung thuốc phiện mà Nhu đã giúp bọn mafia người Corse buôn lậu sang Marseille. Những người Corse đã chế biến thuốc phiện thành bạch phiến và chở qua Mỹ, tại đây bọn Mafia Mỹ lo việc phân phối. Nhóm chúng tôi tìm ra rằng bọn người Corse đã thuê tay bắn tỉa Michael Mertz, đôi khi còn có tên là Jean Rene Souetre, để tiến hành vụ ám sát với sự cộng tác của các ông trùm Mafia Mỹ”(332) [(Phỏng vấn Đại tá KGB Ilya Semyonovitch Pavlotsky, trong phim video The Secret KGB/ JFK Assassination Files (1998), Associated Television)].

26. Phần kết
“…chúng ta phải chịu phần lớn trách nhiệm
cho vụ này {cuộc đảo chính}. Tôi lẽ ra không
bao giờ được phép chấp thuận việc đó…”
- TỔNG THỐNG JOHN F. KENNEDY(333) [(Dodds, paisley, “37 JFK Tapes Made Public” (Associated Press, 25.11.1998)]

Động cơ. Phương tiện. Cơ hội. Trong gần 40 năm ba chữ đó đã là những mấu then chốt điều tra trong nỗ lực giải thích vụ nghi án ai giết tổng thống Kennedy, và tại sao. Một điều tương tự ở bất kỳ vụ điều tra sát nhân thông thường nào; sau khi thu được bằng chứng cụ thể, kiểm chứng và đánh giá chúng, những người điều tra sẽ đi tới ước đoán về những kẻ đáng tình nghi nhất, cân nhắc động cơ, phương tiện vàcơ hội cho chúng thực hiện tội ác.
Chúng tôi cảm thấy rằng những nỗ lực chung của ba phía (giới giang hồ Marseille của Guerini, đầu não của Mafia Mỹ, và Diệm – Nhu) đã cho thấy đủ cả động cơ, phương tiện và cơ hội để hạ sát JFK hơn các giả thuyết từng được công bố.
Nhưng đã nói, ba thành phần trên có các động cơ tương tự nhau và/ hoặc cùng chia sẻ với nhau để muốn thấy JFK bị giết. Em trai Kennedy đang tiến hành cuộc chiến qui mô chống Mafia Mỹ, và nếu những nỗ lực của Kennedy nhằm loại bỏ Diệm và Nhu thành công, thì Mafia Mỹ sẽ chịu thiệt hại gấp đôi vì nguồn cung bạch phiến ổn định của chúng sẽ bị cắt và có khả năng bị tiêu diệt. Tương tự, cái chết hoặc việc truất phế Diệm và Nhu sẽ không chỉ đe doạ tiêu diệt quyền kiểm soát của giới băng đảng Corse/Marseille đối với tập đoàn bạch phiến toàn cầu, mà nó còn làm rối tung hệ thống và làm phân hoá hoàn toàn một trong những guồng máy tội phạm có tổ chức mạnh nhất thế giới. Thứ ba, nguồn lợi nhuận thuốc phiện của Diệm và Nhu sẽ bị chấm dứt, và quan trọng hơn, họ đã biết rằng một vụ đảo chính do Mỹ hậu thuẫn sẽ kết liễu luôn mạng sống của họ. Và cũng đừng quên những hệ quả rối rắm của thất bại trong vụ Vịnh Con Heo: không riêng Mafia Mỹ mất đi sự nghiệp sòng bạc ở Cuba, mà cả băng đảng Marseille cũng mất nữa(334) [(Benson)].
Diệm và Nhu với nguồn thuốc phiện dễ kiếm đã cho họ phương tiện đầu tiên để phát động một vụ ám sát. Khả năng của Mafia Mỹ trong việc tìm ra một nạn nhân tế thần và chuyên chở những sát thủ nước ngoài vào và ra khỏi Mỹ một cách trót lọt chứng tỏ họ có phương tiện tốt, và đó là chưa nói tới hàng chục sĩ quan cảnh sát Dallas đã lĩnh lương hoặc chịu sự khống chế nào đó của Mafia. Sau cùng, Antoine Guerini và giới giang hồ Marseille đã có được phương tiện tuyệt hảo để cung cấp những sát thủ được huấn luyện kỹ cho việc này. Và sự gắn bó đã ghi trong hồ sơ giữa Michael Victor Mertz với Guerini là một yếu tố quan trọng không thể phủ nhận.
Xét vì thế, ba thành phần này, với tất cả các bộ phận tổ chức vận hành đã sẵn sàng, rõ ràng đã có cơ hội để giết JFK, và chúng ta tin rằng họ đã chụp cơ hội và đã thành công.
Sau cùng, dĩ nhiên, mọi cuốn sách từng được viết về vụ ám sát Kennedy sẽ vĩnh viễn chỉ là một giả thuyết của người viết. Có quá nhiều nhân chứng đã chết. Quá nhiều bằng chứng đã bị tiêu huỷ, sữa đổi hoặc biến cải. Quá nhiều lời dối trá và quá nhiều thông tin sai lạc, ngay cả từ phía chính phủ Mỹ, đã được bịa ra và nhồi nhét cho công chúng bao lâu nay. Và cũng có quá nhiều sự thật đã bị ém nhẹm vĩnh viễn.
Tình trạng này khiến tác giả chỉ còn lại giả thuyết của mình, và dựa trên đó họ xây dựng lại các dữ kiện khách quan và những chuỗi diễn biến của lý luận và lịch sử.
Chúng tôi hy vọng rằng độc giả nhận thấy chuỗi diễn biến của lý luận và lịch sử của chúng tôi ở đây là có đủ tính thuyết phục, và chúng tôi hy vọng rằng chúng tôi đã cung cấp được những dữ kiện khách quan (một số trong đó chưa từng có ai viết ra, một số khác chúng tôi tin rằng đã bị bỏ qua hoặc cố tình gạt sang một bên vì nội dung của chúng có thể rọi ánh sáng khác vào vấn đề này) đủ để hậu thuẫn cho những nghi ngờ của chúng tôi. Ngoài ra, chúng tôi hy vọng rằng độc giả nhận thấy cuốn sách này lý thú và gợi suy nghĩ. Chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ thúc đẩy quí vị suy nghĩ thêm về bi kịch của ngày 22.11.1963, vượt ra ngoài báo cáo của Uỷ ban Warren thối nát và vượt ra ngoài những điều mà chính phủ Mỹ vẫn còn một mực quả quyết sau bao nhiêu đó năm trời. 


Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm và J.F.Kennedy - Phần 1

Không có nhận xét nào: