Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Chặng đường 10.000 ngày - Hồi ký của thượng tướng Hoàng Cầm (Phần 1)

LỜI GIỚI THIỆU

Thượng tướng Hoàng Cầm xuất thân trong một gia đình cố nông không một tấc đất cắm dùi thuộc vùng quê Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây (Hà Đông cũ) đến nay đã qua tuổi 80. Mẹ mất sớm, cha bị bọn thực dân phong kiến ức hiếp dồn đẩy vào bước đường cùng phải thắt cổ tự tử. Năm 17 tuổi, đồng chí bỏ làng đi nhiều nơi, làm nhiều việc cực nhọc, vất vả để kiếm sống nhưng vẫn không thoát cảnh nghèo đói; có lúc phải ngửa tay cầu xin lòng thương cảm của khách đi đường vì tìm không ra việc làm trong cái xã hội đầy nhiễu nhương, bất công hồi đó.
Tháng 7 năm 1945, ông gia nhập Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hà Nội, tham gia khời nghĩa đánh chiếm Bắc phủ, làm nhiệm vụ đứng dưới lễ đài bảo vệ Bác Hồ đọc tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 tại vườn hoa Ba Đình lịch sử. Đồng chí đã qua thuở ban đầu Tây Tiến; cỏ mặt hầu hết các chiến dịch lớn ở chiến trường Bắc Bộ thời kháng chiến chống Pháp.
Năm 1965, theo điện yêu cầu trực tiếp của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Trung ương Cục, đại tá Hoàng Cầm lên đường vào Nam với nhiệm vụ đặc cách ban đầu là xây dựng và huấn luyện bộ đội chủ lực phục vụ yêu cầu đánh lớn. Ông đã qua các chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 9, Tư lệnh Quân đoàn 4 (các đơn vị chủ lực lớn đầu tiên của Nam Bộ), Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam, uỷ viên Quân uỷ miền; đồng chí cũng là chỉ huy trưởng các trận đánh Mỹ đầu tiên ở Bầu Bàng, Dầu Tiếng, Nhà Đỏ, Bông Trang, các chiến dịch lớn Phước Long, Đồng Xoài, Dầu Tiếng, Bù Bông, Kiến Đức, Nguyễn Huệ,v.v.
Trình độ văn hoá ban đầu ở mức thoát nạn mù chữ, nhưng do sự nỗ lực học tập vươn lên của bản thân, học bạn bè, học trường thực tế, sau hết là được Đảng và quan đội giáo dục, bồi dưỡng năng khiếu quân sự bẩm sinh được thăng hoa là những điều kiện không thể thiếu giúp đồng chí hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân sự được giao, góp phần vào thắng lợi chung của quân đội.
Năm 1995, nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản cuốn Chặng đường mười nghìn ngày, hồi ửc của Thượng tướng Hoàng Cầm (do Nhật Tiến thể hiện) nhân kỉ niệm 20 năm Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đã được đông đảo bạn đọc hoan nghênh và đón đọc.
Chặng đường mười nghìn ngày in lần thứ hai này có sửa chữa, bổ sung, hy vọng mang đến bạn đọc những tâm đắc những cảm xúc, cảm thụ của người trong cuộc về những chi tiết lịch sử hiện thực mà huyển thoại chưa nói đến trong chính sử.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn Hồi ức Chặng đường mười nghìn ngày của Thượng tướng Hoàng Cầm. 

CHƯƠNG 1

Quê tôi ở thôn Vĩnh Thượng, xã Sơn Công, huyện ưng Hoà, tỉnh Hà Tây (trước là tổng Sơn Lăng, phủ Ứng Hoà (1), tỉnh Hà Đông).
Hơn bốn mươi năm tham gia Cách mạng, đã có mặt ở khắp mọi miền đất nước nhưng tôi vẫn tự hào về quê mình - một vùng giàu đẹp khiêm nhường. ở đấy, có cánh đồng cấy được hai vụ chìêm mùa; có những vạt bãi rộng phẳng, đất tơi xốp và màu mỡ bởi phù sa sông Đáy bao quanh hàng năm bồi đắp, rất thuận lợi cho việc phát triển hoa màu, cây công nghiệp như rau đậu, ngô, khoai, mía, lạc và dâu tằm v.v.
Nhưng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hầu hết người dân quê tôi đều phải làm thuê, cấy mướn đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn không đủ ăn. Khi liềm hái vừa gác thì cũng là lúc thóc trong bồ cạn vơi vì phải nộp tô, trả nợ cho một số ít địa chủ, phú nông là những người chiếm gần hết ruộng đất trong làng xã.
Lại cảnh vác rá đi vay, thậm chí phải bán cả lúa non với giá rẻ mạt để đổi lấy hạt thóc mang về sống cầm hơi, tiếp tục cuộc đời cấy rẽ, làm thuê với bao nỗi u uất ê chề, chờ mùa gặt sau có thóc mang trả họ. Cái kiếp luân hồi ấy khó ai mà thoát được!
Tôi mồ côi mẹ lúc ba tuổi. Nhà nghèo, bố phải đi làm thuê gánh mướn để kiếm sống. Bọn nhà giàu lập mưu hại bố tôi, chúng muốn cướp mảnh đất nhỏ nhoi cuối cùng của ông bà để lại, xô đẩy gia đình tôi vào cảnh xẻ đàn tan nghé.
Ấy là vào một buổi sáng tinh mơ giữa năm 1930, lính đoan (lính chuyên đi thu thuế, bắt hàng lậu) bất thần ập đến, chúng vòng ra sau nhà lấy cây bới nhẹ mặt đất lôi lên một hũ rượu mang vào nhà giơ sát vào mặt bố tôi, doạ:
- Ê! Lão già này dám chống lệnh nhà nước hả?
Bố tôi lúc này tỏ ra bình tĩnh, đầu cúi chắp hai tay vái:
- Bẩm quan, oan cho con, chắc… có … kẻ… nào… bày… ra chuyện… này.
Không để bố tôi nói hết, tên lính đoan sấn sổ, mặt dữ tợn túm ngực áo bố tôi đẩy đi đẩy lại, dằn giọng:
- Không oan gì hết, phải tù sáu tháng ở Hoả Lò Hà Nội, nộp phạt 40 đồng vì tội tàng trữ rượu lậu trong nhà. Nếu không sẽ mất nhà và tù mọt xương.
Sau khi ở tù về bố tôi phải bán nhà được 20 đồng và bán chị tôi lấy 20 đồng để nộp phạt. Từ đó gia đình tôi bị dồn vào cảnh màn trời chiếu đất, không một tấc đất cắm dùi. Quẫn chí, bố tôi thắt cổ tự tử khi tôi mới 12 tuổi. Nhưng gia đình phải giữ kín chờ đêm khuya bó chiếu đưa ra xa chôn cất, vì nếu khai báo bọn hào lý trong làng kiếm cớ gây xách nhiễu phiền hà, có khi phải để thối mới được chôn nếu không có tiền lo lót, mặc dầu đứng về lý mình ngay, chết vì nghèo túng. Đúng là nghèo đi đôi với khổ đủ điều lẽ phải không thuộc về người nghèo.
Cũng từ đó tôi sống kiếp tôi đòi, phải đi ở đợ làm con nuôi cho một gia đình giàu có sáu năm liền với bao nỗi đắng cay tủi phận. Có một lần nhận ba đồng từ tay "bố mẹ nuôi" về bốc mộ cho cha, đến khi từ giã kiếp con nuôi họ đòi lại.
Chuyện vợ con cũng thật long đong, lận đận. Tục lệ xưa 19, 20 tuổi đã lấy chồng, lấy vợ, đã có con bế con bồng. Biết là khổ vì nhà nghèo nhưng chị tôi lo buồn ra mặt, thấy tôi đã 20 tuổi mà chưa có vợ sẽ trở thành "ông mãnh"(2) dân làng chê cười gán vào hạng "cao số" thì khổ thân, sau này có muốn cũng không được phải chịu cảnh cô dơn, chị tôi luôn luôn thúc giục tôi lấy vợ. Người đầu tiên chị tôi nhắm là một phụ nữ goá chồng, nhưng một tuần sau lý trưởng cưới cô về làm lẽ thứ ba. Không nản, chị tôi còn ướm hỏi hai, ba đám nữa, cũng là đàn bà goá nhưng đều không thành.
Tình cảnh không lối thoát, tôi quyết định bỏ làng đi bất cứ phương trời góc biển nào, miễn là tìm được kế sinh nhai.
Tục xưa bỏ làng là xấu xa, thấp hèn, dân làng khinh rẻ, nên đêm trước khi rời xa quê tôi tự nhủ mình: Nguyện đã đi là không trở lại. Đã quyết là đi, đến đâu thì đến, làm việc gì cũng được, ở đợ, làm thuê, đi phu hay đăng lính, miễn sao thoát khỏi cảnh khốn cùng ở cái quê hương nghèo khổ, đầy nghiệt ngã này.
Tháng 8 năm 1940, tôi ra Hà Nội, dừng lại ở chợ Hôm, phố Huế. Tại đây tôi làm đủ nghề: gánh nước, kéo xe bò, vác gỗ, bổ củi thuê, nhưng cũng chỉ làm tạm bợ, chốc lát để lại cắp nón khoác bị sang nhà khác cầu xin việc. Cứ thế bữa đói bữa no, ngày thất thểu qua các phố tìm việc, tối ngủ vất vưởng nơi đầu đường góc chợ, làm bạn với muỗi, chuột.
Hai tháng qua đi thật nặng nề, chậm chạp, đã có lúc tôi gần như kiếm sống bằng cách ngửa tay cầu xin lòng thương cảm của khách qua đường phố. Đang tính chuyện phá lời nguyền, về làng trở lại kiếp sống tủi nhục, thì được tin chủ thầu người Pháp mộ phu đi làm đường, tôi ghi tên liền.
Nhưng rồi vẫn cảnh tủi cực lầm than. Con đường chúng tôi mở ngày ấy là đường số 7 bây giờ (nối thành phố Vinh với nước Lào). Cậy thế có tiền, bọn chủ thầu cho chúng có quyền, bắt dân phu phải làm hết mình, ai mỏi mệt trễ nải công việc là chúng chửi mắng, đánh đập, dùng roi vọt hối thúc phải quên mệt, quên đói, quên ốm đau tiếp tục đi làm. Lao động vất vả nặng nhọc nên đau yếu, bệnh tật, chết chóc diễn ra như cơm bữa. Ngày nào cũng có chuyện người sa chân xuống vực, người bị núi lở, đá đè; rồi phù thủng, ngộ độc ngã nước sốt rét, ghẻ lở chấy rận. Tôi vẫn được anh em xếp vào loại tuổi "bẻ gãy sừng trâu" vậy mà sang tháng thứ tư bị sốt rét rừng quật ngã, đến tháng thứ chín chịu không nổi cảnh đói rét, bệnh tật với công việc nặng nhọc, nguy hiểm, phải bỏ về, giã từ đời "dân phu lục lộ" cho Tây.
Trở lại Hà Đông với một tâm trạng phẫn chí đến cùng cực, thì có tin Pháp mộ lính, tôi lại đăng tên với ý nghĩ giản đơn như nhiều thanh niên nghèo hồi ấy - âu cũng là một nghề. Vào hôm trước, hôm sau bọn chỉ huy Pháp lùa chúng tôi lên xe đi qua Lai Châu. Đúng là lúc này bữa ăn hàng ngày không phải lo, nhưng hơn một năm ở lính (từ giữa 1943 đến đầu năm 1945), tôi dần dần hiểu ra cái kiếp nô lệ da vàng. Cũng là lính như nhau, nhưng lính Tây lương cao hơn, có quyền thế hơn, không phải lao công tạp dịch như lính người Việt. Tận mắt tôi thấy chúng tra khảo, hành hạ dã man một người thanh niên cũng nghèo khổ, cũng mất cha, mất mẹ, cũng cửa nhà tan nát như tôi cho đến chết với cái tội "Làm Cộng sản" (!).
Sự tận mắt này đã thức tỉnh trong nếp nghĩ của tôi. Tuy chưa hiểu cặn kẽ các hành động của chúng lúc ấy là thống trị, đàn áp, là xâm lược nhưng cũng đủ lý do khiến tôi chán ngán, quyết định từ bỏ cuộc đời làm lính, trốn về xuôi tìm nghề khác.
Những ngày đầu bỏ trốn tôi chỉ nghĩ và lo sợ bọn Tây truy lùng, bắt trở lại, nhưng đến khi về gần tới Hà Nội, thì câu hỏi thường trực trong tôi lại bật dậy: mình sẽ sống tiếp như thế nào đây?


Chú thích:
(1) Là những đơn vị hành chính thời Pháp thuộc: Tổng tương đương với xã, Phủ lớn hơn huyện, nay thống nhất là huyện.
(2) Ông mãnh, bà cô tục xưa chỉ những người chết không vợ, không chồng. Những người cô đơn dưới âm phủ, rất không hay đối với những người thân đang sống trên trần gian.

CHƯƠNG 2

Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp.
Hôm ấy vào khoảng 9 giờ tối tôi đang ngồi vất vưởng ở góc chợ Hôm để nghĩ về ngày mai đi đâu làm gì, bỗng có tiếng súng nổ ở phía thành Hà Nội (nay là nơi làm việc của các cơ quan Bộ Quốc phòng) vọng lại, mỗi lúc một dữ dội, liên hồi, đèn điện vụt tắt súng tiếp tục nổ, khoảng hơn một tiếng sau thì im hẳn.
Thành phố chìm trong đêm, các cửa hiệu đóng cửa, đường phố không còn người và xe cộ qua lại.
Sáng sớm hôm sau tin truyền đi - Pháp đã đầu hàng Nhật.
Mặc dầu hôm nay không có việc làm có nghĩa là nhịn ăn, nhưng tôi vẫn thất thểu đi lậu xe điện (trốn vé) để xem ngắm sự tình, xem những nơi xảy ra trận đánh giữa Nhật và Pháp đêm qua.
Thành cũ, Đồn Thuỷ (nay là Bệnh viện 108), Dinh Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch trên đường Hùng Vương) đều có lính Nhật bồng súng gác. Lá cờ trắng giữa khoanh một hình tròn đỏ như màu máu cắm la liệt các công sở, trại lính của Pháp. Xác lính Pháp và lính khố đỏ (lính người Việt trong quân đội Pháp) còn rải rác để quanh đồn trại, như muốn khoe khoang thắng lợi của Nhật. Thỉnh thoảng một toán lính Nhật cầm súng cắm lưỡi lê dong bọn Tây đầm mặt mày tái mét ngơ ngác đầy vẻ sợ hãi qua các đường phố đến nơi tập trung giam giữ.
Biết rằng Nhật cũng chẳng tốt gì, chính do chúng vơ vét thóc gạo, bắt dân ta phá ruộng đang trồng lúa để trồng đay phục vụ chiến tranh đã làm dân ta chết đói tới hai triệu người, nhưng nhìn thấy cảnh Pháp thua, tôi thấy hả dạ, thoả nỗi những ngày nhẫn nhục làm lính cho chúng, bị chúng khinh rẻ.
Phần do nhận thức còn nông cạn, phần do đời sống lúc này thật khó khăn, tìm được việc làm đủ tiền cho một lon gạo trong lúe giao thời đâu có dễ khiến tôi chỉ dừng lại cái hả dạ đó. Lúc ấy tôi không hiểu rằng tôi đang đứng trước một thời cơ chuyển mình lớn lao của dân tộc, của đất nước. Vài tháng sau tin tức từ quê tôi từ các vùng lân cận do người nhà ra kể lại thôn xã nào cũng có cán bộ Việt Minh về hô hào chuẩn bị đánh Pháp đuổi Nhật giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Và ở Hà Nội, ngay phố Huế, chợ Hôm, Hàng Bài này cũng vậy. Hai tiếng: "Cách mạng" được truyền lan, đi đến đâu tôi cũng được nghe, được nhắc với tình cảm trân trọng.
Hà Nội những ngày tháng 8 sôi sục khí thế đấu tranh, đi đến đâu cũng bắt gặp khẩu hiệu, truyền đơn, cũng nghe mọi người bàn tán về Cách mạng. Một hôm tôi cố chen vào chợ để nghe cán bộ diễn thuyết. Anh còn rất trẻ, dáng thư sinh, nói năng hoạt bát, dễ nghe. Cuối buổi diễn thuyết anh nêu câu hỏi và giải thích liền; ngắn gọn mà dễ hiểu:
- Cách mạng là gì?
- Là đổi đời.
- Đổi đời là gì?
- Là thợ thuyền, dân nghèo cùng nhau nổi dậy đánh Pháp, đuổi Nhật đánh đổ chế độ vua quan, giành lại quyền sống cho mình.
Giành lại quyền sống. Ôi! Sao mà hợp với nguyện vọng của mình đến thế. Không chút nghi ngờ do dự tôi đi tìm Cách mạng mong được đổi đời. Đúng là có tìm thấy, Cách mạng không phải đâu xa, ngay quanh tôi, vẫn là những người thường gặp. Đầu tháng 8 tôi được tổ Thanh niên Cứu quốc do anh Lê Thám phụ trách kết nạp đoàn viên. Bước ngoặt của cuộc đời tôi bắt đầu từ đây.
Cái đêm đầu tiên được đứng trong đội ngũ Thanh niên Cứu quốc tôi không sao ngủ được vì vui sướng, từ nay hết bị người đời khinh rẻ. Trong tổ chức Thanh niên Cứu quốc lúc đó còn có các anh Lê Quân, Quang Liêm, Văn Xì, Hữu Thưởng, tất cả còn trẻ, đều là thanh niên, học sinh Hà Nội. Tuy gia cảnh, học vấn có khác nhau nhưng cùng chung chí hướng, thương yêu nhau như anh em một nhà, mà Lê Thám được xem như người anh cả.
Từ căng dán khẩu hiệu, rải truyền đơn, diễn thuyết, chúng tôi được trang bị vũ khí chuyển thành lực lượng tự vệ chiến đấu của thành phố. Lúc này lực lượng Cách mạng phát triển ngày càng đông nhưng thiếu thốn đủ thứ, thiếu lương thực, thuốc men, thiếu chăn màn quần áo và nhất là thiếu súng đạn, rất cần cho cuộc chiến đấu sắp đến gần. Một hôm chúng tôi có việc qua khu vực Hoả Lò, phố Hàng Bông, Thợ Nhuộm, thấy từ khu kho quân nhu của Pháp, nay Nhật cai quản có một đoàn xe nhà binh đi ra chở đầy ắp những thứ mà Cách mạng đang cấn, anh Lê Thám nảy ý định - ta phải tìm cách đột nhập vào trong đó.
- Để làm gì - Tôi ngây thơ hỏi.
- Để lấy những thứ mà chúng ta đang cần - Đưa mắt đảo nhanh bốn phía đề phòng có kẻ theo, anh bảo dừng lại, hạ thấp giọng - Những thứ không phải cho chúng mình mà còn tiếp tế lên cho anh em mình ở chiến khu giải phóng Thái Nguyên, Tuyên Quang.
- Nhưng làm cách nào - Tôi hỏi - Liền đó như muốn reo lên, nhưng đường phố người qua lại rất đông, lẫn vào đó có cả lính Nhật, nên tôi hạ giọng - Đóng giả lính bảo an. (1)
- Đúng rồi - một sáng kiến hay - anh Lê Thám biểu đương.
Ngay trong đêm toàn đội bắt tay vào chuẩn bị, vừa bí mật, vừa khẩn trương; vừa thu gom vừa may gấp, sáng hôm sau đã có quần áo lính bảo an chính hiệu để cho một tiểu đội 10 người. Cả ngày hôm đó chúng tôi hẹn kéo nhau đến một địa điểm an toàn mặc thử quần áo, duyệt thử đội ngũ, luyện cách đi đứng ra vào, ứng xử khi qua trạm gác sao cho thực đúng với cái chất bảo an địch không thể phát hiện trước khi khởi sự.
Để chắc ăn, ngày hôm sau đội còn cử người bám sát khu kho, nắm tình hình người, xe ra vào, tình hình canh gác, khám hỏi khi ra vào cổng gác.
Ngày thứ ba, đúng 9 giờ, có một tốp lính bảo an quần áo chỉnh tề, hiên ngang đi đến khu kho, lính gác không cần nhận diện, chỉ lướt qua giấy công vụ, mở cổng cho vào. Nửa tiếng sau - khoảng hơn 10 giờ tốp "bảo an" trở ra mang theo những thứ vừa được cấp phát: 50 súc vải, 100 bộ quần áo.
Đó là tiểu đội tự vệ vũ trang do anh Lê Thám chỉ huy đã hoàn thành nhiệm vụ lấy của địch bồi dưỡng lực lượng ta. Toàn đội phấn khởi, tự tin, chúng tôi đã tính đến chuyện đột nhập vào kho vũ khí địch, đánh các bốt gác của lính bảo an để cướp súng đạn địch, trang bị cho ta. Vạn sự khởi đầu nan, việc đầu trót lọt, việc sau nhất định thành. Vả lại lúc này lực lượng tự vệ chiến đấu của thành phố phát triển rất nhanh đông tới 700 người, sau ngày 19 tháng 8 tổ chức thành các chi đội.
Trong lúc mọi thành viên đang hào hứng hướng sự suy nghĩ, tìm tòi cho cách làm ăn này thì có lệnh của Uỷ ban quân sự cách mạng Hà Nội - Chuẩn bị đi làm nhiệm vụ bảo vệ cuộc mít tinh tổ chức tại Nhà Hát Lớn (nay là Nhà hát th nh phố) chiều ngày 17 tháng 8.
Với tôi không có băn khoăn gì khi nhận lệnh, vì dù sao cũng là lính mới. Nhưng một số anh em khác thì thắc mắc: Sao lại bảo vệ cuộc mít tinh do Tổng hội viên chức của Nhật đứng ra tổ chức.
Vừa lúc đó anh Lê Thám về, nét mặt phấn chấn, dáng điệu khẩn trương, vì thời gian còn rất ít, anh tranh thủ giải thích:
- Đúng là cuộc mít tinh chiều nay do Tổng hội viên chức thân Nhật tổ chức. Đồng bào sẽ đến và đến đông vì đang thèm tin tức, vì thế hễ nghe nói có diễn thuyết là mọi người tin sẽ có Việt Minh xuất hiện, hy vọng sẽ được nghe, được biết cái gì đó sẽ xảy ra nay mai. Vì vậy theo lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa thành phố, chúng ta phải biến bị động thành chủ động, biến cuộc mít tinh do Tổng hội viên chức tổ chức thành cuộc mít tinh của ta. Nhiệm vụ của các tổ chức tự vệ chiến đấu chúng ta là vừa trấn áp địch, vừa bảo vệ an toàn cuộc mít tinh không cho chúng chống phá, vừa bảo vệ người của ta lên diễn thuyết vạch mặt kẻ thù, cổ động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa cướp chính quyền.
Ngừng một lát, nhìn đồng hồ, anh ra lệnh:
- Mỗi người cầm một lá cờ nhỏ giấu kín, theo tôi ra ngay địa điểm mít tinh, đứng lẫn vào với dân và làm theo hiệu lệnh chung trên kỳ đài.
Hai giờ chiều cuộc mít tinh khai mạc. Chúng tôi đứng tề chỉnh ở hàng trên, nhìn lên kỳ đài rất rõ. Một diễn giả mặc quần áo sang trọng đứng lên giới thiệu chương trình trước máy phóng thanh. Tiếp đến người thứ hai cũng quần áo sang trọng, đầu chải tóc hất ngược phía sau vừa đằng hắng lấy giọng, chưa kịp cất tiếng thì một đội viên tự vệ bên cạnh giương cao lá cờ đỏ sao vàng lên. Thế là hàng vạn người đứng dưới hô vang: Cờ Việt Minh! Cờ Việt Minh! Hoan hô cờ Việt Minh! Hoan hô cờ Việt Minh! Chúng tôi hô theo và nhanh chóng lấy cờ giấu trong túi ngực tung lên, các tổ tự vệ khác cũng làm như vậy, vừa gìơ cao lá cờ rẽ đám đông chạy từ chỗ này đến chỗ khác cổ vũ đồng bào và sẵn sàng trấn áp những kẻ trà trộn gây rối để cuộc mít tinh được tiếp tục theo hướng chỉ đạo của ta.
Anh Lê Thám hất hàm ra hiệu, tất cả chúng tôi lại hướng về phía kỳ đài để thực hiện hiệu lệnh hướng dẫn phát ra từ trên đó.
Theo hiệu lệnh đã quy định, ba đội viên tuyên truyền xung phong xông lên, chĩa súng dồn "ban tổ chức" vào một góc, lập tức một đội viên tự vệ của chúng tôi tiến nhanh tới chân kỳ đài vung lưỡi dao bén sắc chém đứt dây lá cờ "quẻ ly" của chính quyền bù nhìn do Nhật dựng lên rơi nhanh, một lá cờ đỏ sao vàng rất to rộng xuất hiện trên bao lơn Nhà Hát Lớn phủ kín khoảng giữa trườc mặt nhà hát. Thế là hàng vạn người đứng dưới lại vỗ tay reo hò vang dậy cả một góc phố.
Khi có tiếng trên loa phóng thanh: "Thưa quốc dân đồng bào" thì trật tự được lập lại nhanh chóng, một không khí im lặng nghiêm trang lan nhanh đến mọi người. Không gian chỉ còn vang lên những lời diễn thuyết hào hùng phát ra từ các loa với lời kêu gọi ngắn gọn mà thôi thúc: Hỡi quốc dân đồng bào! Giặc Nhật xâm lược và thống trị nước ta. Chúng đã gây cho nhân dân ta bao đau thương, chết chóc. Nay chúng đã thua trận và hạ súng đầu hàng đồng minh. Thời cơ cho nhân dân ta vùng lên đánh đổ phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai để giành lại độc lập, tự do thực sự đã đến!
Đồng bào hãy nghe tiếng gọi của Việt Minh, vừng lên khởi nghĩa!
Cuộc mít tinh theo lời kêu gọi của Uỷ ban khởi nghĩa đã biến thành cuộc biểu tình khổng lồ diễu qua các phố. Theo sự hướng dẫn của các hội viên cứu quốc và các đội tự vệ chúng tôi, cuộc tuần hành đã diễu qua phố Tràng Tiền, đổ ra Bờ Hồ vòng lên Hàng Đào, Hàng Ngang qua chợ Đồng Xuân quay xuống vườn hoa Hàng Đậu, Cửa Bắc đến phủ toàn quyền, rẽ vòng sang Cửa Nam.
Cuộc tuần hành của hơn hai vạn nhân dân Hà Nội kéo dài đến 9 giờ tối mới kết thúc. Trước khi giải tán ở ga xe điện Bờ Hồ đoàn tuần hành còn đứng lại 5 phút kính cẩn chào lá cờ Việt Nam và hô khẩu hiệu:
- Việt Nam độc lập vạn tuế!
Đêm ấy về chúng tôi không sao ngủ được, phần vì vui quá, tự hào quá về việc làm đầy mưu trí, đã biến cuộc mít tinh do địch tổ chức để hô hào đánh lạe hướng đồng bào thành cuộc mít tinh tập họp biểu dương sức mạnh của ta, càng động viên khí thế hừng hực đấu tranh của nhân dân toàn thành phố; phần vì chúng tôi được nghe anh Lê Thám phổ biến tiếp nhiệm vụ phải làm trong những ngày tới. Cụ thể là gì và ở đâu trên chưa nói rõ vì phải giữ bí mật, chỉ biết rằng những việc phải làm mà trên sẽ giao là rất nặng nề và khẩn trương.
Đêm 18 như không khí của đêm 30 Tết, bận, lo nhưng trong lòng mỗi đội viên tự vệ chúng tôi cứ phơi phới. Mọi thứ cho nhiệm vụ đã đầy đủ, ai nấy thấp thỏm mong trời mau sáng. Nhiệm vụ của chúng tôi là vừa tham gia vừa bảo vệ cuộc mít tinh cũng tổ chức tại Nhà Hát thành phố, sau đó tham gia đánh chiếm các công sở, của chính quyền bù nhìn, các trại lính bảo an.
19 tháng Tám đã đến!
Tiết trời thu thật đẹp. Mấy hôm trướe còn vần vũ đầy mây, thỉnh thoảng có mưa, vậy mà hôm nay bỗng nắng ráo khô sạch, bầu trời cao xanh không một gợn mây.
Chúng tôi đi trong đội ngũ chỉnh tề, nhưng vẫn phải ghen lên khi nhìn thấy Đội thanh niên xung phong Hoàng Diệu đàng hoàng quá, hùng dũng và đẹp đẽ quá. Tới đầu phố Tràng Tiền anh em xếp hàng ba, súng khoác vai, khiên, mã tấu cầm tay, bước đều dưới lá cờ đỏ sao vàng rộng khổ may bằng sa tanh viền tua óng ánh, trên nền cờ thêu chữ bằng kim tuyến - "Đội thanh niên xung phong Hoàng Diệu". Được biết lá cờ này do Hội Phụ nữ Cứu quốc thành phố vừa mới tặng.
Đội tự vệ chiến đấu chúng tôi đứng hàng đầu bên trái quảng trường, nhìn lên lễ đài khá rõ. Đúng 11 giờ cuộc mít tinh bắt đầu với nghi thức mà cuộc mít tinh chiều 17 tháng 8 không có.
Sau phút mặc niệm tưởng nhớ các chiến sĩ Cách mạng đã hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, ba phát súng báo hiệu lễ chào cờ.
Lúc này sao trong tôi bỗng hồi hộp lâng lâng, vì thấy cái gì cũng mới lạ mà thân thiết quá chừng, ấm lòng quá chừng. Tôi đang triền miên suy nghĩ như vậy thì trên tầng cao nhà hát, hàng ngàn truyền đơn bay xuống như đàn chim trắng vỗ cánh tung bay, đón chào ngày Hội Cách mạng.
Tiếng vỗ tay vang dậy khi một diễn thuyết viên (sau này tôi được anh Lê Thám cho biết là đồng chí Nguyễn Huy Khôi) xuất hiện trước máy phóng thanh, đọc Lời kêu gọi của Uỷ ban quân sự cách mạng Hà Nội, về nhiệm vụ cần kíp lúc này là phải đập tan ách thống trị của phát xít Nhật, kiên quyết đối phó với dã tâm của bọn thực dân Pháp nuôi cuồng vọng khôi phục chính quyền của chúng ở Đông Dương. Trong tôi như có sức bật dậy khi nghe đoạn cuối lời kêu gọi: "Điều cần thiết nhất lúc này là chúng ta phải thành lập một Chính phủ cộng hoà dân chủ Việt Nam trong đó dân chúng được tham gia chính quyền để tự định đoạt số phận của mình". Bỗng nhiên diễn thuyết viên đọc to hơn, giọng nhấn mạnh những ý mà đến nay đã gần nữa thế kỷ trôi qua tôi vẫn nhớ: "Hỡi quốc dân đồng bào! Hãy tự tin, tự cường, hãy tỏ cho thế giới biết đến sức sống dồi dào, đến ý chí chiến đấu cường liệt của dân tộc Việt Nam luôn luôn vươn tới một cảnh đời phóng khoáng và độc lập, hãy cùng tôi hô những khẩu hiệu sau đây:
- Đánh đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
- Thành lập Chính phủ Cộng hoà dân chủ Việt Nam!
- Việt Nam hoàn toàn độc lập!
- Đả đảo bọn thực dân Pháp muốn khôi phục chủ quyền ở Đông Dương.
Tiếng hưởng ứng vang dậy của 20 vạn quần chúng sau mỗi lần diễn thuyết viên hô.
Dưới sự hướng dẫn của Uỷ ban Quân sự Cách mạng, cuộc mít tinh chuyển thành biểu tình vũ trang, vừa phối hợp tiến công, chế áp địch khi gặp tình huống gay cấn.
Đánh chiếm phủ Khâm sai.(2)
Khi đoàn biểu tình đến gần, bọn cầm đầu "Uỷ ban chính trị lâm thời" ra lệnh đóng chặt cửa và cho lính dàn sát hàng rào sắt sẵn sàng nổ súng vào đội quân khởi nghĩa.
Nhưng lính bảo an ở đây đã nghe theo lời kêu gọi của cán bộ Việt Minh. Tranh thủ thời cơ, một số đội viên tự vệ chiến đấu đã nhanh chóng leo qua hàng rào sắt, nhảy vào trong sân, đồng thời một số hội viên cứu quốc quân vòng lối sau nhảy vào phủ
Khâm sai. Phối hợp khí thế bên ngoài, một số nhân mối của ta trong hàng ngũ lính bảo an tiếp tục vận động, lập tức cả anh em lính bảo an, cộng cả số mới được tăng cường hôm trước lên tới hai đại đội nhất loạt xin hàng, mang hết vũ khí khoảng 200 khẩu súng xếp thành một đống giữa sân. Lục lượng cách mạng có thêm sức mạnh, hạ lệnh cho lính gác mở cổng. Đội quân khởi nghĩa tiến vào sân, một đội viên cứu quốc trạc 15 tuổi mặc quần áo xanh công nhân được phân công từ trước trèo lên nóc nhà, hạ cờ quẻ ly xuống, kéo cờ đỏ sao vàng lên, lúc này trời gió mạnh, lá cờ được thế càng phần phật tung bay trước tiếng hò reo của quần chúng vang động lan xa.
Hai người trong Uỷ ban Quân sự cách mạng (sau này được biết là đồng chí Nguyễn Khang và đồng chí Trần Tử Bình) đến thẳng nơì làm việc của "Uỷ ban chính trị lâm thời" tuyên bố giải tán tổ chức này và hạ lệnh bắt giam những kẻ cầm đầu tổ chức phản động tay sai của Nhật.
Đánh chiếm trại bảo an binh. (3)
Cuộc chiến đấu ở đây tuy không phải nổ súng nhưng diễn biến có phức tạp và gay go. Mãi vài ngày sau khi kết thúc trận đánh, nghe anh Lê Thám đi họp trên thành phố về kể lại, chúng tôi mới hiểu tường tận: Trước uy lực của đội quân Cách mạng, địch ở đây (lực lượng còn mạnh) buộc phải mở cửa. Lực lượng tự vệ của ta đã vào sân, nhanh chóng tản ra hình thành thế bao vây. Chỉ huy trại là một viên quan ba người Việt tên là Thụ. Khi Nhật hất cẳng Pháp, hắn bỏ. chủ cũ, theo chủ mới, tiếp tục làm tay sai cho ngoại bang chống phá Cách mạng. Biết thế nào cũng bị Cách mạng tìm đến hỏi tội, nên hắn đã được Nhật hứa tiếp ứng khi có điện cầu viện, nhưng không biết ngày giờ nào ta vào.
Giờ này trước khí thế sôi sục của phong trào Cách mạng trong thành phố những ngày qua, trước lực lượng vũ trang Cách mạng đang đối mặt với hắn, biết không thể nào khác, nhận nộp vũ khí, nhưng hắn nhũn nhặn lý sự:
- Xin các ông chậm cho ít phút để trình lên cấp trên vì tôi chỉ là cấp thừa hành.
Biết đây là kế hoãn binh, chờ cầu viện, ta dứt khoát ra lệnh:
- Cấp trên của anh đã quy hàng và đã trao chính quyền cho Cách mạng rồi. Bây giờ đến lượt các anh.
Thụ chịu nhún nhưng vẫn xảo quyệt:
- Chúng tôi xin đi theo Cách mạng. Lúc đầu xin để nguyên như cũ.
Ta tiến công liền:
- Ông phải nộp hết vũ khí cho quân Cách mạng! Đây là lệnh.
Thụ vẫn hoãn binh:
- Chúng tôi đã nói là xin theo các ông rồi. Còn chuyện vũ khí và binh lính xin các ông hãy khoan cho.
Trong khi vừa đấu lý vừa thuyết phục, nhờ sự giúp đỡ của nhân mối do ta gài vào từ trước, các đơn vị tự vệ ta đã chiếm hầu hết các vị trí quan trọng trong trại, kể cả kho vũ khí. Quần chúng cách mạng ở bên ngoài dưới sự hướng dẫn của cán bộ đang đồng thanh từng đợt hét vang phẫn nộ đòi giải quyết nhanh chóng. Trước tình thế đó Thụ buộc phải làm theo yêu cầu của ta.
Cuộc đánh chiếm trại lính bảo an đã thành công. Đến chiều ngày 19, việc đánh chiếm các cơ quan đầu não then chốt của chính quyền bù nhìn đã xong (trừ đài phát thanh Bạch Mai, nhà băng Đông Dương - nay là trụ sở Ngân hàng Nhà nước), cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội căn bản kết thúc thắng lợi.
Những ngày sau đó, các đơn vị tự vệ chiến đấu cùng với Đội Thanh niên xung phong Hoàng Diệu chia nhau đi làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ các kho tàng, trự sở làm việc của cơ quan chính quyền cách mạng mới được thành lập.
Đúng là cách mạng đồng nghĩa với đổi đời!
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tham gia bảo vệ Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại vườn hoa Ba Đình, chúng tôi được lệnh chuyển ra đóng quân ở đình Soi Sử, Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây cũ.
Như nhiều đơn vị tự vệ chiến đấu khác, đội tự vệ cứu quốc chúng tôi được bổ sung nhiều đội viên từ các đoàn thể cứu quốc phát triển thành Đại đội Giải phóng quân mang tên Đại đội Lê Thám vì vẫn anh Lê Thám làm đại đội trưởng. Số anh em cũ từ ngày còn là tổ Thanh niên Cứu quốc hoạt động bí mật nay phân ra các tiểu đội, trung uội mới thành lập, một số được phân công làm cán bộ chỉ huy, trong đó tôi được giao nhiệm vụ tiểu đội trưởng. Một tình cảm chan hoà, thân thương gắn bó tuy mới được hình thành nhưng sâu đậm, hình ảnh về cái tiểu đội sơ khai buổi đầu vẫn thường được nhắc đến một cách trân trọng, trìu mến mỗi khi chúng tôi rảnh rỗi. Chẳng thế mà có anh đã xếp vần tên của từng thành viên trong tiểu đội thành hai vế đối rồi khắc lên hai cột đình.
Thám, Hữu, Đào, Lan, Cầm, Thượng, Thuý
Thanh, Liêm, Miêu, Miễn, Thường, Vân Xì.
Ý muốn nhắc rằng những kỷ niệm buổi ban đầu là thiêng liêng, nếu thế nào thì cũng không bao giờ quên nhau.
Thời gian này về tinh thần thì phấn chấn, thanh thản, đúng là cuộc đổi đời đang đến với mọi người, nhưng về vật chất thì thiếu thốn trăm bề. Nạn đói vẫn đang hoành hành đe doạ do sự bóc lột, vơ vét quá tham của Nhật, Pháp; tiếp đến đê sông Hồng vỡ hơn 100 quãng làm ngập tám tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình. Ngân hàng Đông Dương vẫn còn trong tay Pháp, Chính phủ cách mạng chỉ thu được trong kho bạc 1.233.000 đồng tiền Đông Dương mà quá nửa là tiền rách. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Bác Hồ đã ban hành quyết định khẩn cấp cứu đói, là một loại giặc trong ba loại giặc phải chống lúc đó (giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm). Chính Người đã gương mẫu thực hiện cứu đói trước bằng cứ mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy gạo góp phần cứu đói. Đời sống của Quân giải phóng cũng muôn vàn khó khăn, vì quá thiếu, hàng ngày khi đến giờ ăn, chúng tôi phải phân người chia đều cơm, thậm chí cả cháy cũng vậy.
Một hôm trong bữa ăn, đến lượt chia cháy, tôi được ưu tiên miếng to hơn. Thấy thế Quang Liêm là tiểu đội phó (cựu sinh viên trường Luật) lừa giằng rồi vừa chạy vừa tranh thủ ăn. Đến khi bắt được thì Quang Liêm đang nhai miếng cuối cùng.
- Tao tặng mày, nuốt nốt đi - Tôi nói.
- Không được, bữa chiều bắt nó phải trả lãi, một thành hai - Cậu Miễn xen vào.
- Là cách mạng rồi, sao còn lệ vay lãi? - Quang Liêm đối lại.
Cả bàn ăn cười ồ, bữa cơm kết thúc thật nhanh, chẳng ai có cảm giác là mình vừa ăn cơm vì bụng vẫn lép, đói vẫn hoàn đói. Trong hoàn cảnh như vậy mà cái vui, cái lạc quan yêu đời vẫn trùm lên tất cả, ai cũng sẵn sàng chấp nhận sự đói thiếu đó.

Chú thích:

(1) Lính người Việt do Nhật tổ chức sau đảo chính Pháp.
(2) Nay là Nhà khách Chính phủ, số 10 đường Ngô Quyền.
(3) Nay là số 40 Hàng Bài.

CHƯƠNG 3

Những ngày đóng quân ở đình Soi Sở chúng tôi dồn hết tâm trí vào việc chuẩn bị cho Nam tiến mà trên đã giao. Vấn đề chỉ còn là ngày giờ cụ thể.
Ngày ấy Nam tiến là việc công khai, không phải giữ bí mật như đi B hoặc đi Nam hồi đánh Mỹ. Bài hát Nam bộ kháng chiến của nhạc sĩ Đỗ Nhuận chúng tôi thuộc rất nhanh, coi như bài tủ, đi đâu cũng hát: "Tiếng súng vang sông núi miền Nam ầm đất nước Việt Nam, ta muốn băng mình tới phương Nam xé xác quân tham tàn…". Bài hát vừa cổ vũ tinh thần yêu nước mạnh mẽ đối với mọi người vừa thôi thúc tính hiếu kỳ, ưa phiêu lưu mạo hiểm của tuổi trẻ hồi đó, càng đi xa càng thoả chí.
Hàng ngày ngoài hai buổi tập luyện quân sự, rảnh rỗi lúc nào là chúng tôi lại bàn chuyện Nam tiến, mang cả bản đồ ra đối chiếu các địa danh mà các đơn vị Nam tiến vào trước đã chiến đấu đánh Pháp, diệt Pháp để quên đi những giờ phút phải chờ đợi.
Nhất là khi được tin các đơn vị Nam tiến của ta, như: chi đội Một(1) vào Đông Nam Bộ đã đánh địch ở cầu Bình Lợi, ngã ba Xuân Lộc, như chi đội Hà Nội đánh địch ở Buôn Ma Thuột, ở đèo Phượng Hoàng trên đường 2 1 không cho chúng đánh xuống Ninh Hoà, Nha Trang, là chúng tôi ngồi đứng không yên.
Sự háo hức Nam tiến được báo trước và có chuẩn bị của chúng tôi đã không thành sự thật!
Đó là vào một buổi sáng đầu tháng 11 năm 1945, anh Phạm Ngọc Mậu(2) được cấp trên phái xuống thăm và phổ biến nhiệm vụ mới. Chợt thấy, chúng tôi ùa nhanh ra vây quanh anh ngay giữa sân đình tranh nhau hỏi tin tức: Các đơn vị Nam tiến hiện nay thế nào, đã đến nơi chưa, đánh được mấy trận, ở đâu? Tại sao mặt trận Buôn Ma Thuột, mặt trận Nha Trang lại bị thủng? Hình như anh không chuẩn bị nói những điều chúng tôi hỏi, những tin tức chúng tôi cần biết và biết cụ thể? Anh chỉ chung chung trả lời:
- Quân ta đã yào đến nơi rồi, chi đội Hà Nội cùng với các đơn vị Nam tiến của tỉnh Nghệ An, Quảng Ngãi đang vây hãm địch ở thị xã Buôn Ma Thuột, chặn chúng ở đèo Phượng Hoàng.
Không ai khởi xướng, tất cả đều vỗ tay hoan hô, đồng thanh hát bài Nam Bộ kháng chiến, vừa hát vừa gõ nhịp bằng tay rất đều với khí thế phấn khởi và sẵn sàng.
Đợi khi đơn vị ngồi vào vị trí quy định, tất cả trật tự theo lệnh chung, anh Mậu bước ra nói chuyện, như tâm sự thì đúng hơn. Ngay từ lời mở đầu, linh cảm như mách bảo người nghe thấy có cái gì khác thường, không như dự đoán của mọi người - Càng về sau anh chuyển suy nghĩ của chúng tôi sang một hướng khác thật đột ngột, bằng một câu kết thật vui:
- Không Nam tiến thì Tây tiến - lướt nhìn nhanh hàng quân như thăm dò - anh hắng giọng nhấn mạnh - Chỉ khác hướng chứ không khác nhiệm vụ.
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau dò hỏi: Tây tiến là đâu, làm nhiệm vụ gì.
Hơi sững lại vì cái hướng thoả chí tang bồng đã hình thành trong nếp nghĩ bấy lâu nay không được thoả nguyện. Nhưng ngày ấy tinh thần yêu nước trỗi dậy mạnh mẽ trong lớp trẻ chúng tôi, gạt nhanh đi những cái gì là riêng tư, sẵn sàng đi vào nhiệm vụ mới.
Tây tiến mà sau đó chúng tôi được phổ biến là tỉnh Sơn La và Lai Châu - một vùng suối sâu, đèo cao, rừng rậm, dân thưa và đói nhưng lại lắm giặc giã, bất an. Ở Sơn La lúc ấy cơ sở Đảng và đoàn thể cứu quốc yếu nên ta phái một đại đội và hai trung đội từ Sơn Tây, Phú Thọ lên phối hợp với tự vệ địa phương cướp chính quyền. Còn ở Lai Châu, ta chưa tổ chức được các đoàn thể cứu quốc, chưa có cơ sở Đảng, chính quyền còn nằm trong tay bọn Quốc dân đảng và tay sai Nhật. Tháng 10 năm 1945, đại diện Chính phủ lên thương lượng lập chính quyền cách mạng nhưng không thành công.
Hai tiểu đoàn Pháp chạy dạt sang Vân Nam (Trung Quốc) sau ngày Nhật đảo chính (9-3) nay trở lại Lai Châu. Tên thổ ty Đèo Văn Long đưa Pháp về chiếm thị xâ vào đầu tháng 11 năm 1945, lăm le chờ thêm tàn quân của A-léc-xăng-đri (tướng chỉ huy quân Pháp miền Bắc Đông Dương) tăng viện cũng từ Vân Nam tràn về, chiếm đóng trở lại hai tỉnh phía tây này.
Nhận thức được âm mưu thâm hiểm của kẻ địch, tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Tây Bắc và giao cho Bộ Tổng Tham mưu điều động lực lượng, tổ chức chiến đấu.
Tình hình thật khẩn trương. Trên thực tế lúc này, ở hai đầu đất nước, Sài Gòn và Lai Châu đang trực tiếp đương đầu với quân đội Pháp trở lại xâm lược lần thứ hai. Nhưng đồng bào Lai Châu thiệt thòi là không được biết, không hình dung cái cảnh tưng bừng đón nhận cuộc sống độc lập, tự do dù chỉ một giờ.
Thực hiện mệnh lệnh điều quân của Bộ Tổng Tham mưu mà anh Phạm Ngọc Mậu vừa trực tiếp xuống giao, đại đội Lê Thám chúng tôi khẩn trương chuẩn bị, ai quê Hà Nội được về thăm, 24 giờ sau phải có mặt, còn những người lính gia đình ở xa như tôi thì nằm liền tại đơn vị để kịp ngày lên đường. Từ đình Soi Sở rẽ sang Xuân Mai theo đường số 6 ngược thị xã Hoà Bình, vượt Dốc Cun đến Mộc Châu bắt vào đường số 41 (nay là đường số 6) chúng tôi tới Sơn La vào đầu tháng 12 năm 1945.
Lại nhắc đến đường số 41! Với đồng đội của tôi - những chàng trai trẻ Hà Nội mới lên lần đầu chỉ có cảm tưởng chung sao đường dài và lắm dốc thế! Còn với tôi lại khác, nỗi buồn và niềm vui xen lẫn theo suốt chặng đường hành quân. Cách đây không lâu, bị bọn chỉ huy quân đội Pháp đưa đi trên đường này làm lính thú sống kiếp lưu đày, hàng ngày nhận những khinh miệt của người da trắng. Vậy mà hôm nay mới chỉ sau mấy tháng cuộc đời đã khác. Tôi đã đứng trong đội ngũ vệ quốc quân đi trên con đường của ta, sống giữa tình đồng đội bình đẳng, chan hoà và nhân ái. Thật bất ngờ và xúc động.
Sơn La, cái thị xã yên tĩnh, nhỏ bé bỗng nhộn nhịp hẳn lên, đầy ắp những đơn vị theo lệnh điều quân của cấp trên đã có mặt trước chúng tôi. Đó là các đại đội vệ quốc quân của tinh Bắc Giang, Hà Nội, Sơn Tây, Nam Định, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hà Nam, Ninh Bình, cùng với hai đại đội, hai trung đội của Sơn Tây, Phú Thọ lên trước tham gia cướp chính quyền, sau đó tổ chức thành chi đội 90 Sơn La (sau đồi thành trung đoàn 148) do anh Lê Trọng Tấn làm chi đội trưởng, sau thêm các anh Hoàng Mười, Phùng Thế Tài.
Tình hình lúc này thật căng thẳng. Đến giữa tháng 12 năm 1946, có thêm tàn quân của A-léc-xăng-đri từ Vân Nam về tăng viện lên tới 5.000 tên, quân Pháp mở nhiều cuộc hành quân tái chiếm. Từ Lai Châu theo đường số 41 thọc xuống Tuần Châu, Tuần Giáo, chi đội Sơn La bước vào chiến đấu chống trả quyết lìệt với quân Pháp suốt ba ngày đêm ở Chiềng Pắc, không cho chúng thực hiện ý định chiếm khu vực này; tập kích địch ở Chiềng Cang, Chiềng Khuông, chặn không cho chúng đánh về hướng Sơn La, đồng thời lần lượt quét bọn Quốc dân đảng tay sai của Tưởng Giới Thạch ở hữu ngạn sông Đà.
Cũng thời gian này, trung đội tôi được lệnh tách khỏi đội hình đại đội, cấp tốc lên Quỳnh Nhai với nhiệm vụ chặn quân Pháp có thể từ phía Lai Châu dùng thuyền, mảng thả xuôi theo sông Đà đánh vào Sơn La từ hướng đông-bắc. Lúc này tôi được giao quyền trung đội trưởng.
Do kiến thức quân sự quá ấu trĩ, chúng tôi chẳng hề để ý tìm hiểu địch, ta cụ thể như thế nào, địa hình, địa vật và dân tình ra sao, lòng yêu nước là chất men say, là sức mạnh, nhận lệnh là đi liền, chẳng biết khó khăn nguy hiểm là gì.
Thực ra bối cảnh lúc đó rất phức tạp. Sơn La đã yếu, thì Quỳnh Nhai - một huyện địa đầu phía bắc (giáp Lai Châu) của tỉnh là dịa phương yếu nhất, gần như chưa có gì. Chỉ vẻn vẹn có ba cán bộ huyện, trong đó có anh Liêm chưa phải đảng viên được cử xuống làm nhiệm vụ dẫn đường và phiên dịch tiếng Thái khi đơn vị tiếp xúc làm công tác vận động quần chúng.
Nhưng Quỳnh Nhai là một vị trí quân sự xung yếu nằm bên tả ngạn sông Đà, trong đợt tiến công mở rộng vùng chiếm đóng đầu tháng 12 địch đã có một mũi từ Phong Thổ (Lai Châu) thọc xuống Quỳnh Nhai, có ý thăm dò địa thế và lực lượng ta, chuẩn bị chiếm đóng tiếp sau.
Quãng đường Sơn La - Quỳnh Nhai dài trên 65 ki-lô-mét mà chúng tôi phải đi nhiều ngày. Vượt sông Đà sang Mường La quẹo hướng Bắc. Từ đây cứ vạch lá, cắt rừng mà đi, tránh mọi con đường sẵn có, kể cả đường mòn, cốt bịt mắt địch không cho chúng phát hiện dấu vết. Sang ngày thứ năm thì đơn vị mới đến địa điểm quy định. Thật là tốc độ con rùa! Nhưng điều đáng buồn và kèm theo cả nỗi lo - là không hoàn thành nhiệm vụ, vì địch đã đến Quỳnh Nhai trước chúng tôi hai ngày. Lý do đến chậm còn vì dọc đường chúng tôi mải đánh bọn Quốc dân đảng, ham lấy súng đạn của chúng.
Nhân đây xin lưu ý bạn đọc, dù lúc ấy chúng tôi có đến trước cả chục ngày cũng không bớt khó khăn, không tăng thêm lực.
Với một trung đội vũ khí lại thiếu, chỉ vài ba khẩu súng trường kiểu cổ, đạn lại ít, hoạ may cầm chân địch vài ba ngày, diệt dăm bảy tên địch là đạt yêu cầu, còn be bờ không cho địch đánh xuống Sơn La thì quả là khó.
Xin được trở lại câu chuyện - Những ngày ở Quỳnh Nhai.
Phát hiện thấy dấu vết đối phương, địch bu lại bao vây, hất chúng tôi lên núi, thấy hướng đông sáng, chúng tôi leo tiếp.
Nhưng qua mười ngày vẫn không vượt khỏi. Càng lên cao, rừng cây càng rậm rạp, sương mù đặc quánh che phủ, chẳng còn phân biệt được ngày đêm, buộc phải tụt xuống quay lại đường cũ. Khi lên chồn chân, lúc xuống mỏi gối, nhưng tốc độ có nhanh hơn. Sau này đọc thơ Tây tiến của Quang Dũng, tôi mến phục anh đã nói hộ chúng tôi về những ngày bị địch dồn lên núi:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Đúng! Lần đầu chúng tôi đối mặt với thiên nhiên nghiệt ngã miền Tây, đã vượt qua và có cả mất mát.
Xuống đến chân núi, chúng tôi bí mật tổ chức đột nhập vào đồn địch lấy thuyền rồi nhanh chóng trở về hữu ngạn sông Đà, tạm dừng lại Bắc Ma, Bản Uẩn. Không có ý định ban đầu nhưng đến nơi thấy vùng này dân đông, đời sống khá, địa thế chiến đấu tốt nên quyết định trụ lại. Thoạt đầu đến ở nhà tổng đoàn vì thấy nhà cửa rộng, thóc gạo lại nhiều có thể vận động họ giúp đỡ. Được vài hôm thấy chủ nhà lúc nào cũng giương mắt cú vọ theo dõi chúng tôi, vểnh tai nghe chúng tôi bàn chuyện, chỉ vui lấy lòng bề ngoài. Thấy vậy, tôi quyết định tách ra, phân tán nhỏ từng tổ đóng rải ra từng gia đình, giúp đỡ nhân dân tăng gia sản xuất, và tuyên truyền vận động gây cơ sở trong nhân dân. Vừa tổ chức sắp xếp lực lượng vừa tổ chức chiến đấu, trước hết là tìm cách bắt lính gác lấy súng.
Một tổ được phái đến điều tra, các hoạt động của số lính từ Quỳnh Nhai đưa sang gác phía bên này sông. Sau khi nắm được quy luật thay gác đổi gác, tôi cử một nửa tiểu đội gồm những anh em biết võ phục sẵn, chờ phiên đổi gác cuối cùng trong ngày là khởi sự. Yên ắng và nhanh gọn, anh em đã tóm được bốn tên, thu bốn súng. Trận thắng lần đầu và cũng là trận thắng cuối cùng đánh theo kiểu này, anh em phấn khởi, cả đêm hôm đó thật vui. Đủ các thứ chuyện được ôn lại, nhớ lại có cả chuyện tiếp tục bắt lính gác. Nhưng làm gì có chuyện đó nữa, vì hôm sau địch lùng sục xung quanh và trạm gác này cũng không còn nữa.
Cuối tháng 3, địch từ Lai Châu mở nhiều mũi tiến công xuống Sơn La, trận chiến đấu giữa ta và địch càng trở nên ác liệt. Các đơn vị của trung đoàn Sơn La chặn đánh quyết liệt với quân Pháp trên hướng đường số 41, đèo Pha Đin, ta diệt 50 lính Pháp ở Bản Mo, Mường Sài, nhưng vì địch đông, lực lượng ta có hạn, chúng lần lượt chọc thủng các tuyến chốt chặn của ta, đánh chiếm Thuận Châu, Mường Hung, Sốp Cốp, Chiềng Cang (bắc Sơn La) sau là Chiềng Khiêng, Bản Hót uy hiếp nam tỉnh Sơn La. Ở Quỳnh Nhaì, địch theo đường sông Đà đánh xuống Mường La, càn quét các vùng xung quanh mở rộng khu vực kiểm soát, uy hiếp Sơn La từ hướng đông-bắc, chia cắt giữa chúng tôi với trung đoàn.
Thế là trung đội tôi bị bao vây, mất liên lạc với cấp trên từ đây. Khoảng cách không xa, nhưng lúc đó đâu có phương tiện thông tin hiện đại như bây giờ. Muốn tổ chức liên lạc bằng chạy bộ cũng không đơn giản. Cần người xung phong nhận nhiệm vụ có ngay, nhưng biết chúng tôỉ ở đâu mà tìm. Muốn hỏi, đi cả ngày dường cũng không tìm đâu ra người mà hỏi.
Lúc đầu anh em hoang mang, cá biệt có anh em than thở "Thế là rắn đã mất đầu!". Nhưng rồi chúng tôi tự chấn chỉnh, tự động viên ổn định tư tưởng cho nhau. Ta vẫn đang tồn tại, có dân che chở, giúp đỡ, lực lượng còn và có thêm súng so với lúc mới lên.
Từ những suy nghĩ ấy, chúng tôi xốc lại đội hình, luôn thay đổi hoạt động, không ở đâu lâu một chỗ, không công khai đối đầu với địch, mà lúc tập trung, lúc phân tán, nay ở Xuân Nha, Ma Téng, mai xuống Mường Hinh, Tạ Bú, tập kích vào những đơn vị nhỏ lẻ, phục kích đón lõng đánh các toán nhỏ tuần tra, những tốp cảnh giới những chòi gác. Cứ thế nay diệt một tên địch, mai thu một khẩu súng, dăm chục viên đạn, vài ba quả lựu đạn; ngày kia tiếp nhận thêm đội viên mới người địa phương tự nguyện tham gia vì được anh em trong đơn vị tuyên truyền vận động.
Niềm vui về thành tích "năng nhặt chặt bị" này cứ ngấm dần, tạo thành lòng tin giúp chúng tôi vượt khó khăn tiến lên.
Nhưng trung đội vẫn không quên nỗi buồn, nó cứ canh cánh bên lòng. Đó là trường hợp anh Liêm, người con của Quỳnh Nhai, người trợ thủ đắc lực của đơn vị những ngày đầu khi vào trận. Anh bị Tây bắt do có sự sơ suất của chúng tôi. Hôm ấy là một ngày cuối tháng 3, đơn vị chuyển quân đến Mường Hịch để vừa chiến đấu chống địch càn quét bảo vệ nhân dân, bảo vệ mùa màng, vừa làm công tác vận động quần chúng tham gia kháng chiến. Theo kế hoạch toàn đơn vị ém quân ở sườn núi sau bản đề phòng địch đánh úp, anh Liêm cùng với cơ sở địa phương vào các nhà dân giải thích chính sách vận động quần chúng tham gia kháng chiến, ủng hộ bộ đội. Là người địa phương, anh Liêm làm nhiệm vụ này rất có kết quả. Đi đến đâu quần chúng cũng dễ gần, dễ trò chuyện, dễ tiếp thu những điều giải thích rất mộc mạc dễ hiểu của anh. Trong sự che chở, đùm bọc và giúp đỡ của nhân dân đối với đơn vị, anh là người có công lớn. Bất thần địch ập tới (sau này tôi được biết do tên tổng đoàn đã bí mật cho người đi báo Tây) bắt anh Liêm. Thấy động dưới bản, tôi cho đơn vị vận động xuống thấp nổ súng tiến công, địch hoảng hốt vừa bắn trả vừa rút chạy. Linh tính biết anh Liêm gặp nguy, tôi lệnh cho một tiểu đội rẽ trái chạy vượt lên, cứu anh Liêm. Nhưng đã muộn, đến nơi địch rút và anh Liêm cũng không còn nữa! Đồng bào nói Tây nó bắt cán bộ Liêm rồi. Tôi sững lại như muốn khóc. Vì mất anh là một thiệt thòi lớn cho đơn vị lúc này. Đêm đó và cả những ngày sau, tôi như người hụt hẫng, buồn thương nuối tiếc anh Liêm cứ luôn ở bên tôi, nhiều đêm không sao ngủ được. Tôi tự trách mình sơ suất nếu hôm đó tổ chức cảnh giới tốt, có một tổ đi cùng anh Liêm thì đâu đến nỗi này! Mãi đến năm 1990, anh Liêm từ Sơn La về Hà Nội gặp tôi, báo đã thoát tù trở về. Gần 50 năm mới gặp lại nhau, cả hai đã già, đều trở thành ông nội, ông ngoại. Nhưng những giờ phút gặp lại không ngờ này khiến chúng tôi trẻ lại, bao kỷ niệm cũ dồn nén được bung ra, trong đó vẫn xoay quanh những ký ức khó quên về những ngày sống ở Quỳnh Nhai. Tôi nhận lỗi do sơ suất để anh bị địch bắt, phải sống những ngày gian truân. Anh không nói, chỉ cười thật sảng khoái "gặp lại nhau thế này là quý rồi!". Đó là điều anh đã cảm thông, gỡ cho tôi nỗi ân hận, day dứt bấy lâu.
Đầu tháng 5, từ Tạ Bú chúng tôi tìm được đường về sở chỉ huy trung đoàn lúc này vẫn còn ở khu vực thị xã Sơn La, trong lúc cũng đang thu quân chuyền hướng hoạt động xuống phía nam. Thật hú vía! Chỉ chậm một ngày nữa là chúng tôi lại tiếp tục chịu cảnh đứa con nhỏ bị lạc mẹ.
Anh Tấn và cả cơ quan trung đoàn bộ ra tận mép đường đón đơn vị Vừa nhìn thấy, anh bước nhanh tới cầm tay lắc mạnh và ôm ghì lấy tôi. Các anh xếp thành hàng vỗ tay hoan hô, cho đến khi hàng quân qua khỏi mới thôi.
Trên đường về sở chỉ huy, anh Tấn tranh thủ hỏi han:
- Cậu có sao không, sức khỏe thế nào?
- Báo cáo anh, vẫn nguyên vẹn, bệnh sốt rét hình như phải kiêng tôi.
- Bọn mình cứ tưởng các cậu đã hy sinh.
Anh đang định nói tiếp, tôi xen vào:
- Báo cáo anh có, nhưng không hết.
- Hy sinh ở đâu, trận đánh nào?
- Báo cáo anh, ở khu rừng già Quỳnh Nhai khi bị địch vây và khi bò vào lấy thuyền địch để vượt sông.
Anh Tấn xúc động, đầu hơi cúi, hai mắt đỏ hoe, chớp chớp cố ngăn không cho ngấn nước đọng thành hạt nơi đáy mắt.
Hai chúng tôi đi trong yên lặng vào nhà - nơi anh Tấn làm việc. Nơi điều hành chỉ huy công việc của mặt trận Sơn La giản dị, thiếu thốn vô cùng. Anh phải sử dụng bản đồ hành chính, dùng trong các trường học vào việc chỉ huy chiến đấu.
Sau khi đưa tôi bát nước chè rót từ cái ấm đặt trên bếp vẫn còn bốc hơi nóng, anh Tấn nói:
- Thôi, bây giờ chúng ta có thì giờ để vào chuyện - anh nhấn mạnh chứ chưa vào việc - Việc hãy để đó, chiến đấu còn lâu dài.
Lúc này giọng anh trầm lắng, chậm rãi chứ không gọn đanh như khi giao nhiệm vụ. Cả khuôn mặt nghiêm nghị thường ngày bây giờ biến đổi ẩn chứa nét buồn. Anh nói cả ban chỉ huy trung đoàn trong nếp nghĩ hàng ngày đâu có quên, các buổi giao ban chiến đấu vẫn điểm danh các đơn vị, trong đó có đơn vị cậu được anh em tặng mật danh "Trung đội viễn chinh của trung đoàn". Nhưng chẳng có tin tức gì, cho đến hôm nay đã hơn hai tháng rồi - Anh dừng lại nhìn thẳng vào tôi hỏi:
- Có đúng thời gian như vậy không Hoàng Cầm?
- Báo cáo anh! Tính đến nay là hai tháng 17 ngày chúng tôi xa trung đoàn.
- Không phải xa, mà là các cậu bị bao vây, chiến đấu giữa vòng vây của quân thù.
- Dạ! - Tôi hơi lúng túng trả lời.
Anh Tấn lại thủ thỉ vào chuyện.
- Bọn mình thực sự day dứt vì không giúp được gì cho các cậu trong thời gian gặp khó khăn. Giờ đây nhìn thấy cậu mình càng ân hận về trách nhiệm của người chỉ huy. Vì tất cả đều mới quá, có nhiều việc không biết đâu mà định liệu trước, nếu có đặt ra thì không biết bắt đầu, thứ tự trước sau là gì. Chúng mình phải thông cảm, tha thứ cho nhau những khiếm khuyết không muốn có. Vừa rồi khi xuống đường đón đơn vị, câu thứ hai mình nói "tưởng các cậu hy sinh cả rồi" là ý nghĩ thật của tất cả bọn mình, vì sau một tháng không có tin tức trong khi được biết địch ở Quỳnh Nhai đang mở rộng khu chiếm đóng, đã đưa lực lượng xuôi theo sông Đà, tham gia uy hiếp Sơn La từ hướng nam.
Nghe anh kể, tôi thấy chính mình phải chủ động thông cảm, phải xin lỗi nhận khuyết điểm với cấp trên mới đúng. Lúc ấy các anh đâu có rảnh rang, mặt trận phía bắc thủng, địch chiếm Thuận Châu, cách thị xã không xa, còn phía nam, chiến sự đã diễn ra ở Hát Lót, Mai Sơn. Tình thế đặt ra cho các anh nhiều việc quá sức đủ thứ phải lo, phải trả lời, phải đáp ứng tức thì. Lo chỉ huy chiến đấu, lo lương thực, lo giải quyết thương binh, bệnh binh (nhất là lúc này sốt rét đang lan rộng như một thứ dịch khó chữa, quân số giảm nhanh, có người đã vĩnh viễn nằm lại vì không qua nổi một trận sốt ác tính).
Buổi nói chuyện thật đầm ấm, chứa chan tình đồng chí, kết thúc bằng bữa cơm mà trung đoàn trưởng đã có ý định "chiêu đãi" với "thực đơn" là măng rừng Tây Bắc nhưng nhạt muối và thiếu mỡ.
Ngày hôm sau anh lại cho gọi tôi lên từ rất sớm. Thị xã Sơn La còn mờ trong sương mai, cảnh vật mờ ảo.
Như đã sắp xếp sẵn, thấy tôi là anh bắt tay, mời ngồi và vào việc luôn. Anh nói đêm qua chỉ huy trung đoàn họp chủ yếu nghe ban tham mưu báo cáo về thành tích "viễn chinh" của các cậu - anh nhấn mạnh - Phải nói là cánh quân thọc sâu mới đúng - vì lên Quỳnh Nhai là lên địa đầu của Sơn La, giáp Lai Châu là đi vào đất địch. Lên đó an toàn trở về là đã khá, đằng này các cậu còn chiến đấu, xây dựng lập thành tích, quân số từ một trung đội thiếu tăng thành hơn hai trung đội (đại đội thiếu), có thêm cả vũ khí - anh dừng lại hỏi:
- Tổng số vũ khí lấy được của địch là bao nhiêu?
- Báo cáo anh: 10 súng trường, 20 lựu đạn, 150 viên đạn.
- Ôi! Thật quý hơn vàng - anh biểu dương. Còn việc của cậu, thì trung đoàn đã quyết định thăng vượt cấp - từ trung đội phó lên đại đội phó và quyền đại đội trưởng luôn.
Tôi chưa kịp trình bày nguyện vọng, thì anh chỉ thị:
- Về làm đại đội trưởng đại đội 230, tiểu đoàn 90 thuộc Trung đoàn 148 vừa mới thành lập theo quyết định của Bộ Tổng Tham mưu.
Mặt trận chuyển về nam.
Tháng 4 năm 1947, có thêm viện binh từ Pháp sang, nâng tổng số quân Pháp ở Việt Nam lên 11 vạn, quân Pháp mở cuộc hành quân lớn lên Tây Bắc, mở rộng vùng chiếm đóng, nối Tây Bắc với Hà Nội theo hai hướng: từ Hà Nội lên, từ Yên Châu xuống hợp điểm với quân dù chiếm đóng Mộc Châu; đại bộ phận Trung đoàn 148 từ đông Mộc Châu phải vượt sông Đà rút về Lai Đồng, Thu Cúc tây nam tỉnh Phú Thọ.
Còn tôi lúc này được điều về đại đội 250, tiểu đoàn 86 đang đứng chân ở Bột Sộp giáp biên giới Lào trên đường đi Sầm Nưa, thì địch nhảy dù Mộc Châu bịt đường về. Đây là thời kỳ thứ hai chúng tôi mất liên lạc với trung đoàn, lọt vào giữa vòng vây của quân thù.
Thời gian này đại đội chúng tôi được gặp anh Bình Kim, Lê Thăng cũng đang hoạt động ở đây. Hai anh báo cáo về Bộ chỉ huy chiến khu Hai. Các anh Lê Hiến Mai, chính uỷ, Hoàng Sâm tư lệnh hoan nghênh và động vỉên đơn vị ở lại với chiến khu, ở đâu cũng là vệ quốc đoàn, cũng làm nhiệm vụ chiến đấu.
Theo kế hoạch, các đơn vị Tây tiến lùi lại (vì các anh đã trải qua thời kỳ chiến đấu gian khổ ở nước bạn Lào, lực lượng bị tiêu hao, quá mệt mỏi, cần được nghỉ để củng cố bồi dưỡng sức khỏe). Đại đội 250 chúng tôi được giao nhiệm vụ chặn địch tại khu vực tây Cô Ma, Tà Lao yểm trợ bộ phận tiền phương của sở chỉ huy Chiến khu Hai chuyển về Xân Nha, Hoà Bình.
Trận đánh thắng lợi, nhiệm vụ hoàn thành được các anh trong Bộ tư lệnh Chiến khu Hai biểu dương, được đồng đội mến phục; nhiều anh em trong trung đoàn Tây tiến do bị đau yếu tụt lại mất liên lạc với đơn vị cũ cũng tình nguyện nhập quân số vào đại đội lực lượng tăng nhanh đến gần một tiểu đoàn, sự giao lưu cũ mới từ nhiều địa phương, nhiều mặt trận bổ sung nhiều điều mới lạ, thu nhận được nhiều kinh nghiệm hay trong chiến đấu, nhiều lẽ phải trong ứng xử đời thường. Tinh thần, tư tưởng của đại đội eũng có biến đổi. Lúc đầu khi lọt vào giữa vùng địch kiểm soát, không khỏi phân vân, lo lắng, lo chiến đấu trong thế lẻ loi, đơn độc, lúc nào cũng nghĩ tìm cách trở lại trung đoàn đã từng gắn bó từ những ngày đầu ở Mặt trận Sơn La. Nay lại khác, không ít anh em muốn tình nguyện ở lại làm lính Chiến khu Hai, vì chiến trường đã quen thuộc, đã hiểu địch, tình đồng chí thêm gắn bó; và một lý do riêng nữa phần đông anh em đều quê ở miền xuôi, về đây có điều kiện thăm gặp gia đình. Ngay cả tôi, anh em cũng khuyên nên ở lại, nhất là khi đơn vị chuyển về gần khu vực Chợ Bến, có anh em nửa đùa nửa thật vừa tranh thủ thăm dò; đường về quê đại đội trưởng quá gần, nếu ở lại có điều kiện xin hẳn về đó hoạt động để được gần nhà.
Thực tình tôi cũng mủi lòng, sau nghĩ lại thấy không ổn, nhưng biết nói thế nào cho anh em đồng tình với mình, thật khó. Một hôm nhiều anh em kéo đến thúc giục đòi tôi tỏ thái độ, bỗng tôi bột phát trả lời:
- Cũng như các cậu mình rất muốn ở lại, nhưng trung đoàn đã có lệnh gọi đại đội ta trở về. Câu giải thích ngắn gọn không chuẩn bị trước của tôi không ngờ lại có hiệu lực từ giờ phút này.
Từ đó ý kiến bàn tán ở lại giảm dần sau hết hẳn. Mệnh lệnh mà, đã là mệnh lệnh thì chỉ có chấp hành.
Tháng 10 năm 1947, Mặt trận Mộc Châu tạm lắng, tôi báo Bộ tư lệnh Chiến khu Hai, xin cho đại đội trở lại đội hình Trung đoàn 148 Sơn La, được các anh đồng ý và tạo thuận lợi cho chuyến trở về của chúng tôi, như cung cấp tin tức, cử người dẫn đường. Một kế hoạch hành quân chiến đấu được vạch ra, nhưng để đảm bảo bí mật, chúng tôi chỉ phổ biến từng ngày. Từ tây Mộc Châu sang tây nam Phú Thọ không dài, vậy mà đoạn đường thực tế chúng tôi phải qua lại thật dài đến khó hiểu. Như người ném tạ lùi lại lấy đà từ tây bắc Mộc Châu đại đội phải lùi xuống hướng tây nam vào vùng Bá Thước, Quan Hoá thuộc Thanh Hoá, rồi vọt lên men theo vùng giáp ranh Nho Quan, Ninh Bình, chếch tây vào địa phận Hoà Bình qua Yên Thuỷ, Tân Lạc, Mai Châu, vượt sông Đà sang vùng Thanh Sơn - Phú Thọ, mất hơn 10 ngày mới tới đích.
Lại anh Lê Trọng Tấn trung đoàn trường ra đón chúng tôi.
Lần này không kìm nổi, nước mắt anh trào ra, lăn rõ trên hai gò má của anh dành cho buổi sum họp hôm nay. Anh và ban chỉ huy trung đoàn xuống thăm đơn vị, bắt tay từng người chúc mừng thắng lợi. Anh thân mật nói chuyện với đơn vị và kể những gì đã xảy ra sau khi đại đội chúng tôi bị địch vây, chặn không có đường về. Anh nói:
- Ngay sau khi trung đoàn kiểm điểm quân số và điểm đầu đơn vị trước khi giã từ Mộc Châu không thấy các cậu, trung đoàn đã cử một đơn vị quay trở lại tìm kiếm, nếu thấy là dẫn theo đường đã định, nhưng hai ngày sau vẫn biệt tăm. Khi trung đoàn trở về Phú Thọ tuần nào, tháng nào cũng phái các đơn vị tiếp tục đi tìm nhưng đều trở về không. Mới cách đây hai tuần, tức là sau hơn hai tháng đi tìm đều trở về không, buộc phải báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu là đại đội Hoàng Cầm mất tích thì hôm nay các cậu trở về.
Cuối cùng anh thay mặt chỉ huy trung đoàn biểu dương:
- Cuộc "viễn chinh" lần thứ nhất từ Quỳnh Nhai trở về, quân số một trung đội thiếu, tăng hơn hai trung đội.
Cuộc "viễn chinh" lần thứ hai từ Mộc Châu trở về, quân số một đại đội tăng thêm hai trung đội, coi như một tiểu đoàn thiếu.
Tôi tranh thủ báo cáo lý do tăng quân số, chủ yếu là các anh em trong trung đoàn Tây tiến bị lạc, gặp đơn vị xin gia nhập để được tiếp tục chiến đấu. Vừa báo cáo, tôi vừa chỉ tay giới thiệu cụ thể với trung đoàn trưởng về số anh em này đang đứng phía bên trái hàng quân.
Nghe tôi giới thiệu xong, anh Tấn đến bắt tay cám ơn từng người. Các anh em trong đoàn Tây tiến vui mừng và xúc động, có anh em khóc!
Tháng 7 năm 1947, đại đội 250 chúng tôi được lệnh trở lại hoạt động ở vùng địch hậu Mộc Châu, khu du kích Mộc Hạ.
Quân Pháp từ Hoà Bình mở cuộc càn quét lớn vào Suối Rút, Đà Bắc. Đang phân tán làm công tác vận động quần chúng và tổ chức huấn luyện cho du kích các xã thì được tin Pháp tiến công, đại đội tôi khẩn trương tập trung vân động, vừa tổ chức phục kích đánh nhỏ, đánh lén làm giảm tốc độ hành quân của chúng để đồng bào kịp sơ tán, vừa bày sẵn trận phục kích bất ngờ ở Hướng Càn. Trong trận này địch bị thiệt hại nhiều (3), chúng phải dừng lại đối phó đánh trả đối phương, vừa giải quyết hậu quả Nhưng phía ta cũng bị thương một số, trong đó có tôi. Bị thương nặng, hỏng tay phải, ngất tới ba phút. Tưởng chết, anh em lấy chăn gói kín, chuẩn bị khiêng đi chôn cất. Khi tỉnh dậy, tôi hỏi:
- Sao lại làm thế này?
- Tưởng anh hy sinh, chúng em.
- Mình đau quá ngất lịm chứ không chết.
Anh em kéo đến vội cởi chăn và cứ thế khóc oà, xin lỗi chúng em không biết.
Vì vết thương quá nặng, tôi phải đi viện điều trị ba tháng mới hồi phục sức khỏe, duy có tay phải từ ngày đó đến nay vẫn để di chứng là không viết được, đành thay bằng tay trái, vì thế chữ vốn gà bới càng thêm gà bới.
Sau trận này tôi được Chính phủ tặng huân chương Quân công hạng ba.
Đầu năm 1948 tôi lại bị thương lần thứ ba sức khỏe giảm, trên điều về làm phái viên quân sự của trung đoàn 148, nhiệm vụ xuống kiểm tra, giúp đở các đại đội địa phương Mộc Châu, Thanh Sơn, Thanh Thuỷ hoạt động ở tây nam Phú Thọ giáp với vùng địch chiếm Mộc Châu. Nhưng thường tôi không làm nhiệm vụ được giao mà trực tiếp xuống tổ chức chỉ huy các đại đội hợp đồng chiến đấu với ý nghĩ cần phải có thắng lớn mới xây dựng được phong trào của địa phương.
Bỗng một hôm tôi được lệnh trên gọi về giao nhiệm vụ tiểu đoàn phó. Tôi hơi ngỡ ngàng vì trước đó được anh em nói lại, là Bộ tư lệnh phân khu 4 nhiều lần nhắc: "Định đề bạt cậu lên tiểu đoàn phó từ lâu. Về thành tích chiến đấu, tinh thần dũng cảm thì không ai có ý kiến gì. Chỉ có một băn khoăn là trình độ văn hoá cậu kém". (Đúng là văn hoá của tôi không phải là kém mà là quá kém, lúc này lớp 1 cũng chưa xong). Tôi không thắc mắc về nhận xét này, chỉ băn khoăn sao bây giờ lại đề bạt? Cậu bạn thân của tôi thuật lại lý do. Đó là một hôm anh Song Hào, chính uỷ Khu 10 xuống kiểm tra đơn vị, có hỏi:
- Hoàng Cầm đâu?
- Báo cáo anh Hoàng Cầm bị thương nhiều, điều về làm phái viên.
- Cụ thể nhiệm vụ?
- Giúp đỡ xây dựng các đại đội, nhưng anh Hoàng Cầm thường tổ chức hai, ba đại đội cùng phối hợp vào hậu địch hoạt động.
- Có làm được không?
- Báo cáo làm tốt, anh trực tiếp chỉ huy các đại đội địa phương hoạt động, chiến đấu khá.
- Như vậy là chỉ huy tiểu đoàn rồi, sao không đề bạt.
Lý do tôi được đề bạt tiểu đoàn phó là như thế đấy.

Chú thích:

(1) Chi đội tương đương như trung đoàn hiện nay, được tổ chức theo bốn cấp: đại đội tương đương với tiểu đoàn), trung đội (tương đương với đại đội), phân đội (tương đương với trung đội)
(2) Anh Phạm Ngọc Mậu sau này là Thượng tướng Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị.
(3) Ngày 28 tháng 7 năm 1947, địch bị đánh bất ngờ ở Hướng Càn, ta diệt nhiều lính nguỵ thu nhiều vũ khí, lương thực. Ngay đêm đó đại đội 250 phối hợp với du kích, công an địa phương bắt sống một tên phản động nguy hiểm, tri châu Mộc Châu và một số phìa ở Hướng Càn.

CHƯƠNG 4

Cuối năm 1949, đầu năm 1950 tiểu đoàn 130 chúng tôi lúc ấy thuộc Liên khu X, sau khi kết thúc đợt tập trung học chiến thuật công kiên (nay gọi là chiến thuật tiến công cứ điểm) được trên điều về đứng trong đội ngũ Trung đoàn 209 mang tên Sông Lô (1).
Một niềm vui nữa lại đến. Từ Phú Thọ chúng tôi được lệnh chuẩn bị hành quân tham gia chiến dịch Biên Giới, còn gọi là chiến dịch Lê Hồng Phong II, dự định sẽ mở vào trung tuần tháng 9 năm 1950.
Trong chiến dịch này, Trung đoàn 209 và Trung đoàn 174 (chủ lực của Liên khu Việt Bắc) được giao nhiệm vụ diệt cụm cứ điểm Đông Khê - một cứ điểm mà địch gọi là "bậc thang quan trọng trên tuyến đường số 4 từ Lạng Sơn đi Cao Bằng. Tiểu đoàn 130 do tôi làm tiểu đoàn trường được giao nhiệm vụ đánh chiếm Phủ Thiện - Khu hành chính của huyện lỵ Đông Khê.
Giữa lúc đơn vị đang khẩn trương sôi nổi chuẩn bị chiến đấu thì một tin làm phấn chấn lòng người: Bác Hồ đã lên Cao Bằng để trực tiếp theo dõi, chỉ đạo chiến dịch.
Vì nguyên tắc giữ bí mật, không ai dám bàn tán, nhưng mọi người đều cảm thấy vinh dự, và háo hức muốn biết cụ thể về sự kiện "Bác đi chiến dịch".
Rồi bỗng một hôm, có điện từ trung đoàn gọi xuống lệnh tôi và đồng chí Tạ Đình Hiển chính trị viên tiểu đoàn (sau này là thiếu tướng Bộ tư lệnh Quân khu Thủ đô đã nghỉ hưu) yêu cầu chuẩn bị gấp tình hình mọi mặt, kế hoạch chuẩn bị chiến đấu cụ thể của đơn vị để báo cáo cấp trên.
Cấp trên là ai? Tôi không kịp hỏi, chỉ biết khi nhận điện trung đoàn nhấn mạnh cần chuẩn bị thật tốt, tốt nói tốt, chưa tốt nói chưa tốt, không được chung chung.
Hôm sau ngày 12 tháng 9, một đồng chí liên lạc của trên xuống dẫn hai chúng tôi đi theo con đường cắt rừng mới được tạo dựng đã hằn vết chân người. Đường quanh co uốn khúc nhưng được che bằng tán cây rừng thoáng mát, máy bay địch khó phát hiện. Một lúc sau lại rẽ sang một con đường nhỏ hơn, bí mật hơn, không để hằn vết mòn, vì đi đến đâu sửa lại nguỵ trang đến đấy, không để lại cây đổ gãy, cỏ úa.
Trong lúc tôi đang phán đoán đây đã phải là đường vào nơi cấp trên ở chưa, thì đồng chí liên lạc quay lại ghé sát tai tôi nói nhỏ tỏ vẻ quan trọng:
- Chuẩn bị, sắp đến nơi rồi.
Một căn lán nhỏ xinh nằm giữa rừng sâu thuộc bản Nà Lau cạnh Sở chỉ huy chiến dịch, cách Đông Khê 10 ki-lô-mét theo đường chim bay đang chìm trong chiều muông đã hiện ra trước mắt chúng tôi. Tất cả đều bằng cây rừng, lá rừng chặt từ xa mang về xây dựng, đơn giản mà chắc chắn, ẩn dưới tán rừng mà thoáng đãng.
Gần đến trước cửa, đồng chí liên lạc bảo tôi và anh Hiển: các anh đứng ngoài này chờ để tôi vào báo cáo.
Lúc này trời đã nhá nhem tối. Không đầy một phút, tôi được lệnh vào Hình như thượng cấp đã có chương trình nghe chúng tôi báo cáo.
Bước vào cửa phòng tôi thấy có hai ba người ngồi trên một cái giường tự tạo bằng cây rừng, giữa là cây đèn dầu vặn nhỏ.
Bước thêm ba bước tôi sửng sốt chững lại. Tôi nhận ra ngay người ngồi giữa là Bác Hồ. Tôi đang hồi hộp lúng túng, chưa kịp chào thì Bác đã thân mật hỏi như đã biết chúng tôi từ trước:
- Chú là Hoàng Cầm và Tạ Đình Hiển của tiểu đoàn 130 đến báo cáo Bác phải không? - Rồi Bác nói tiếp - Các chú ngồi luôn đây uống chén nước cho ấm bụng đã.
Vừa nói Bác vừa đưa chén nước mới rót cho chúng tôi. Tôi cảm động và ấp úng:
- Dạ, thưa Bác.
Ngọn đèn dầu vặn to, tôi nhìn rõ Bác hơn. Bác mặc bộ quần áo Vệ quốc đoàn màu cỏ úa, dáng rắn khỏe, mặc dầu so với ngày 2-9-1945 ngày Bác đọc Tuyên ngôn độc lập ở vườn hoa Ba Đình thì giờ đây Bác già hơn, tóc thưa và bạc nhiều.
Ngày ấy, trung đội tự vệ Thành chúng tôi được tham gia bảo vệ cuộc mít tinh, đứng ngay dưới chân kỳ đài, được nhìn rõ Bác, nhưng vì nhiệm vụ nên không dám ngắm kỹ Bác như lần này.
Giờ đây tôi vinh dự đang được ngồi đối diện với Bác trong căn lán dã chiến đơn sơ giữa nơi rừng sâu mà thấy ấm cúng, như con ngồi bên cha để báo cáo với Bác.
Sau khi hỏi sức khỏe, hỏi quê hương, gia đình, Bác bảo thời gian lúc này rất quý, Bác cháu ta tranh thủ làm việc để các chú còn về cùng đơn vị lo chuẩn bị tiếp.
Tôi bắt đầu báo cáo những điều đã chuẩn bị theo điện hướng dẫn của trung đoàn. Bác nghe tôi báo cáo, tỏ vẻ hài lòng về quyết tâm chiến đấu của tiểu đoàn. Bác hỏi:
- Số quân của tiểu đoàn chú hiện có bao nhiêu chiến sĩ mới, bao nhiêu chiến sĩ cũ?
- Thưa Bác, hai phần ba là chiến sĩ mới.
- Cán bộ có đủ không?
- Dạ! Đủ ạ!
- Chú có tin trận này ta nhất định thắng không?
- Báo cáo Bác, tin ạ!
Bác lại hỏi:
- Chú Hiển có nói gì nữa không?
- Thưa Bác chúng cháu đã thống nhất để anh Hoàng Cầm báo cáo.
Đêm tĩnh mịch. Tiếng của Bác vừa đủ nghe, giọng đầm ấm tình cha con. Còn tôi ngồi yên lặng, nghiêm túc lắng nghe, lòng tin về trận thắng cứ dâng đầy. Bác nói tầm quan trọng của chiến dịch nay đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta; Bác phán tích cặn kẽ mà ngắn gọn thế địch, thế ta trong chiến dịch; Bác giải thích vì sao ta không lấy Cao Bằng làm hướng tiến công chủ yếu, mà lại chọn Đông Khê; Bác nhấn mạnh bí mật và nghi binh là rất quan trọng trong quân sự.
Kể lại dòng hồi ức này cách đây đã 41 năm, nhiều chi tiết không sao nhớ hết, nhưng nhờ độ lùi của thời gian đã giúp tôi hiểu biết, cảm thụ sâu sắc tư tưởng quân sự của Bác kính yêu, cùng những sự kiện lịch sử cứ sáng chói mãi theo năm tháng, gắn quyện hình ảnh Bác với mảnh đất Cao Bằng. Ở đây năm 1941, Bác chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pác Bó, vạch phương hướng tổng thể chỉ đạo chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Ở đây tháng 7 năm 1944, Bác đã kịp thời đình hoãn chủ trương phát động vũ trang khởi nghĩa chưa đúng thời cơ của Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng, bằng những nhận xét cụ thể mà khái quát nêu bước đi đúng cho một thời kỳ. Bác bảo bây giờ thời kỳ cách mạng hoà bình phát triển đã qua nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa đến. Bác nhấn mạnh ngay cả điều kiện quân sự cho khởi nghĩa cũng chưa đủ, vì Ban lãnh đạo Khởi nghĩa chưa tuân theo "nguyên tắc tập trung lực lượng: cán bộ, vũ khí phân tán, thiếu hẳn một lực lượng nòng cốt".
Về chỉ đạo chiến lược, quyết định khởi nghĩa, Bác chú ý đến Thời cơ, đến các điều kiện cụ thể của khởi nghĩa.
Còn với chiến tranh giải phóng đất nước, Bác là người lãnh đạo tối cao nhưng luôn luôn theo sát các chiến dịch. Lần này Bác trực tiếp ra mặt trận, quan tâm đến mọi vấn đề của chiến dịch, nêu lên cả nguyên tắc quân sự để bảo đảm cho trận đánh thắng lợi.
Những vấn đề Bác nói rất giản dị mà sâu sắc.
Sau khi nghe tôi báo cáo kế hoạch tiến công Đông Khê từ hướng đông - nam của tiểu đoàn 130, Bác nhắc thêm:
- Lần đầu tiến công cụm cứ điểm (2) có quân đông, có lô cốt hầm ngầm kiên cố, các chú có quyết tâm cao như thế là tốt, nhưng chưa đủ. Muốn tiêu diệt địch, các chú phải có biện pháp đánh bại các thủ đoạn của chúng; phải có cách phá hàng rào thép gai, bãi mìn, đánh sập lô cốt. Khi chiến đấu phải thực hiện tốt việc đoàn kết hiệp đồng trong nội bộ đơn vị, với đơn vị bạn và nhân dân. Bác hoan nghênh tinh thần sẵn sàng chiến đấu, ý chí quyết chiến, quyết thắng của các chú. Nhờ chú chuyển lời chúc sức khỏe của Bác đến toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Bác chúc các chú thắng lợi!
Trên đường trở về đơn vị, tôi cảm thấy lòng lâng lâng, vui sướng. Được gặp Bác, được nghe lời chỉ bảo ân cần của Bác là một hạnh phúc lớn, điều mà tôi không dám nghĩ tới nhưng nay là sự thật, rất giản dị mà sâu lắng.
Về đến đơn vị tôi cho họp cán bộ để bàn kế hoạch triển khai thực hiện làm theo lời Bác. Cuộc họp chưa bắt đầu, anh em đã nóng lòng muốn nghe tôi thuật chuyện về chuyến đi gặp Bác như đã dự kiến trên đường trở về. Trước hết tôi kể về sức khỏe của Bác, những ý kiến của Bác giải thích về tầm quan trọng của chiến dịch. Bác bảo ta nổ súng đánh Đông Khê trước là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu nhưng lại là vị trí rất quan trọng trên tuyến phòng thủ đường số 4 từ Lạng Sơn đi Cao Bằng. Mất Đông Khê khi ấy địch có thể sẽ giành lại Đông Khê đề giữ Cao Bằng hoặc phải đánh lên để đón quân Cao Bằng rút lui Ta nhân lúc đó nhử thú dữ vào tròng mà khép vòng lưới thép. Quân viện của địch đã tan thì ta đánh Cao Bằng không phải là việc khó nữa, nếu chúng rút khỏi Cao Bằng thì đánh càng thuận lợi hơn.
Dư âm phấn khởi được Bác tiếp sức vẫn nóng bỏng trong tôi, khiến tôi thấy mình lúc này rất minh mẫn trong khi kể lại lời Bác dạy.
Cuối cùng tôi hạ thấp giọng và nói chậm hơn:
- Bác bảo rằng theo sự phân công của Trung ương Đảng, Bác lần này đi sát mặt trận để giúp đỡ Bộ chỉ huy chiến dịch. Các chú cùng Bác tham gia chiến dịch này, ai nấy cần cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình.
Không khí cuộc họp trở nên trang nghiêm và xúc động khi nghe tôi nhắc lại lời nói thân tình, gần gũi của Bác, không chỉ riêng cho tiểu đoàn 180 chúng tôi mà còn cả với toàn thể cán bộ, chiến sĩ có mặt trên trận tuyến biên giới lúc đó.
Đây là trận đầu tiên đơn vị tiến công vào một cứ điểm kiên cố nhưng chúng tôi cảm thấy bình tĩnh, phấn khởi, tự tin. Lúc này các đơn vị đang ở ngay sát nách cứ điểm Đông Khê, để chờ lệnh nổ súng, vậy mà quân địch vẫn không hay rằng hướng tiến công của quân ta sắp tới là đâu: Đông Bắc, Tây Bắc hay là đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật nghi binh lừa địch do Bác chỉ đạo thật tài tình.
Ngày 12 tháng 9, theo lệnh của Bác, ta nổ súng đánh địch tại Pa Kha (Lao Cai), thì địch càng tin vào sự phán đoán của chúng là đúng: Hướng tiến công của Việt Minh trong Thu - Đông này là Tây Bắc.
Bộ chỉ huy Pháp ký "Lệnh đặc biệt" hoàn thành đánh chiếm thị xã Thái Nguyên" vào đầu tháng 10, để hạn chậm nhất 15 tháng 10 phải rút xong các đơn vị quân Pháp đồn trú tại Cao Bằng.
Thế nghĩa là địch không thấy nguy cơ Đông Khê sắp bị rơi vào tay đối phương, do đó Thất Khê, Lạng Sơn bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập, có muốn rút cũng không được. Chúng vẫn xúc tiến tham vọng đánh chiếm Thái Nguyên, để sau đó từ hai hướng bắc (Biên Giới), nam (Thái Nguyên) ép ta, dồn chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta vào một cái túi để cất vó, mau chóng kết thúc chiến tranh (!).
Bác vĩ đại của chúng ta hiểu rõ "nước cờ trên đây của kẻ địch chỉ là ảo vọng, nên từ trung tuần tháng 9, Người tạm dời nơi làm việc ở một khu căn cứ Tây Bắc Thái Nguyên lên biên giới Khi mà Các-păng-chi-ê, tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương đang tất tả như con thoi hết Sài Gòn lại ra Hà Nội, cưỡi máy bay lên Lạng Sơn lệnh cho viên đại tá Công- xtăng chỉ huy quân đội Pháp ở Liên khu biên giới Đông Bắc gấp rút thực thi "lệnh đặc biệt" nói trên, thì Bác đã rất ung dung thư thái "chống gậy lên non xem trận địa", đang cài thế.
Sáu giờ sáng ngày 16 tháng 9 (trùng hợp với ngày Bộ chỉ huy quân đội Pháp thực hiện kế hoạch đánh chiếm thị xã Thái Nguyên để hỗ trợ cho quân pháp rút khỏi Cao Bằng), đạn pháo ta theo lệnh Bác đã nổ vang tại cứ điểm Đông Khê.
Trận đánh quyết định mở màn chiến dịch bắt đầu.
Cuộc chiến đấu diễn ra liên tục suốt một ngày và một đêm, mãi 10 giờ sáng ngày 17 chúng tôi mới chiếm được các đồn ngoại vi của cụm cứ điểm Đông Khê.
Ở hướng đông bắc, trung đoàn 174 chiến đấu cực kỳ dũng cảm, gương La Văn Cầu, chiến sĩ đánh bộc phá không do dự nhờ đồng đội chặt cánh tay bị thương để khỏi bị vướng, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ đã cổ vũ chúng tôi rất nhiều. Nhưng ở hướng đó đang gặp khó khăn, địch từ hầm cố thủ dồn lực lượng tổ chức phản kích đánh bật ta ra ngoài cứ điểm.
Ở hướng tiểu đoàn 130 chúng tôi, cả ngày 17 địch cũng liên tục phản kích hòng chiếm lại khu vực đã mất, ta và địch giành nhau từng tấc đất. Nhưng ta vẫn chiếm giữ toàn bộ khu Phủ Thiện, tạo thế áp sát vào đồn chính từ hướng đông nam.
Gặp tôi, Trần Cừ hậm hực:
- Thế này là không ổn! Ta bị địch phản kích là do hướng bắc chưa đánh tốt. Hiệp đồng kiểu này thì nguy đấy!
Đúng là nếu đêm qua trung đoàn 174 hoàn thành nhiệm vụ chắc chắn không có chuyện địch phản kích ngày hôm nay. Nhưng chiến đấu là một cuộc đọ sức quyết liệt, đâu phải dễ dàng, trơn tru như ta dự kiến. Địch cũng có. phản ứng chứ, càng quyết liệt khi chúng bị dồn vào bước đường cùng. Ta không dự kiến hoặc dự kiến không hết là thuộc về khuyết điểm hoặc năng lực có hạn.
Tôi hoàn toàn thông cảm với tâm trạng của đại đội trưởng đại đội làm nhiệm vụ chủ công. Đơn vị của Trần Cừ bị thương vong nhiều do bị địch phản kích quyết liệt. Nhưng tôì vẫn nghiêm khắc:
- Chúng ta phải quyết tâm thực hiện lời Bác dạy. Đơn vị bạn cũng khó khăn chứ đâu riêng chỉ có đơn vị mình. Chính mình phải nổ lực hơn nữa mới thực hiện được đoàn kết hiệp đồng hỗ trợ cho đơn vị bạn.
Nhắc đến lời Bác, Trần Cừ hối hận, đầu hơi cúi xuống.
Sau khi thông báo với Trần Cừ về diễn biến chung, tôi nói thêm:
- Bác vẫn theo dõi trận đánh và chỉ thị cho chúng ta, dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục, đánh cho kỳ thắng trận đầu.
Như có cái gì đó gần gũi mà thiêng liêng, sau khi nghe tôi nói những điều Bác căn dặn, Trần Cừ đứng thẳng người, với gương mặt phấn chấn, kiên quyết, tự tin, anh báo cáo:
- Dù khó khăn đến mấy, đại đội tôi hứa kiên quyết thực hiện.
Tôi siết chặt tay Trần Cừ và chúc đại đội hoàn thành xuất sắc đợt hai trận đánh.
Cả tôi và Trần Cừ đứng giữa cảnh đổ nát của trận địa sau một đêm đọ sức quyết liệt giữa ta và địch, không ai nói thêm điều gì nhưng lại có chung một điều suy nghĩ: Dù bất cứ tình thế nào cũng phải kiên quyết vượt qua, hoàn thành nhiệm vụ Bác giao.
Chỉ thị của Bác thật hết sức súc tích, trở thành tư tưởng chỉ đạo trận đánh đêm nay của chúng tôi.
17 giờ ngày 17 tháng 9, chúng tôi nổ súng bắt đầu đợt hai của trận đánh quyết định, tiêu diệt cái cứ điểm kiên cố còn lại của cụm cứ điểm Đông Khê.
Cuộc chiến đấu diễn ra đúng như dự đoán, quyết liệt suốt đêm 17 cho đến 10 giờ sáng ngày 18-9-1950.
Nhưng chúng tôi đã nghiêm chỉnh thực hiện đúng chỉ thị của Bác - thắng cho kỳ được trận đầu. Cụm cứ điểm Đông Khê đã hoàn toàn bị tiêu diệt, "cái bậc thang" trên tuyến đường số 4 Lạng Sơn đi Cao Bằng của địch đã bị đánh gẫy.
Đại đội 866 mũi chủ công của tiểu đoàn 180 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Nhưng Trần Cừ người chỉ huy mưu trí, dũng cảm của đại đội không còn nữa!
Tôi vô cùng xúc động khi nhận được tin này. Không quản mệt nhọc, nguy hiểm, tôi đến ngay nơi Trần Cừ vừa ngã xuống.
Trần Cừ vẫn còn đó, trong tư thế áp mình vào lỗ châu mai, hai tay dang rộng, mười ngón xòe ra bám vào vách đứng của cái lô cốt thấp mà to ngang, "da dẻ" xù xì xám mốc. Gương mặt anh vẫn hiện lên đường nét quen thuộc cởi mở, lạc quan và kiên nghị.
Đứng trước thi hài Trần Cừ, tôi bật lên tiếng khóc thật to.
Không phải chỉ mình tôi mà cả ban chỉ huy tiểu đoàn, tất cả cán bộ, chiến sĩ còn lại của đại đội 336 đều khóc. Khóc vì tiếc thương một đồng chí giàu tình nhân ái, khiêm nhường, một đại đội trường sung sức, chiến đấu dũng cảm, thông minh, quyết đoán.
Tôi nhớ mãi câu nói cuối cùng của Trần Cừ: "Đại đội tôi hứa kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ đêm nay, dù có gặp bất kỳ khó khăn nào".
Anh hứa và anh đã làm. Không hoa mỹ, sáo rỗng. Đã nói là làm, đã làm là phải thành công, dù phải xả thân.
Tuy không được gặp Bác, nhưng được tin Bác đi chiến dịch, Bác trực tiếp đến gần theo dõi trận đánh Đông Khê, Trần Cừ lúc nào cũng nhắc tới Bác với một niềm tự hào: Bác là chỉ huy danh dự của tiểu đoàn ta. Tinh thần quyết chiến quyết thắn của Trần Cừ thể hiện tư tưởng "chỉ cho đánh thắng" của Bác.
Tôi được số anh em cán bộ, chiến sĩ còn sống trong trận đánh này kể lại khi chiến dịch kết thúc. Trần Cừ đã chỉ huy đại đội vượt qua bức tường đá cao dày như bức tường Thành Cổ, tiếp đó là hàng rào kẽm gai và bãi mìn, tiếp sát vào lô cốt thuộc khu đồn chính thì trời tảng sáng, lại bị hoả lực từ trong hầm ngầm, lô cốt cố thủ bắn cản lại, anh em bị thương một số. Mũi tiến công bị chững lại. Lúc này anh bị thương vào chân, nhưng cố nén chịu tiếp tục chỉ huy đơn vị tiến lên mục tiêu cần đánh phá; cố tiếp cận lô cốt trước mặt - nơi các họng súng của địch từ các lỗ châu mai đang bắn ra dữ dội. Ném nốt quả lựu đạn cuối cùng vào lỗ châu mai, đồng thời Trần Cừ đứng thắng người, áp cả thân mình vào lỗ châu mai, bịt hoả điểm địch, bắt chúng câm họng chỉ trong vài giây cho bộ đội xung phong đánh chiếm.
Trần Cừ chủ động chấp nhận hy sinh, dùng thân mình cản hoả lực địch, tạo thuận lợi cho toàn đơn vị tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê, góp phần cùng đơn vị bạn hoàn thành giành thắng lợi trận đánh quyết định của chiến dịch.
Bước phát triển của chiến dịch diễn ra đúng như Bác dự đoán, mất Đông Khê buộc địch phải cho quân đi ứng cứu lẫn nhau, tạo cơ hội cho ta tiêu diệt chúng trong vận động, như tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Bác - là "nhử thú dữ vào tròng" để "khép vòng lưới thép" tiêu diệt chúng. Mất Đông Khê, binh đoàn Lơ-pa-giơ buộc phải làm ứng cứu bị ta tiêu diệt ở Nà Cạo cao điểm 477 trên đoạn đèo Bông Lau. Mất Đông Khê, binh đoàn Sắc-tông buộc phải rút khỏi Cao Bằng, bị ta tiêu diệt ở Cốc Xá gần điểm cao 477.
Hai binh đoàn thiện chiến của địch bị tiêu diệt, thị xã Lạng Sơn bị uy hiếp.
Chỉ một trận Đông Khê, làm rung chuyển toàn bộ tuyến phòng thủ biên giới của địch, buộc chúng phải bỏ thị xã Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu, Chũ, Lục Nam, con đường số 4 từ Cao Bằng đến sát Tiên Yên, con đường 13 từ Lục Nam - Chũ qua An Châu đến Đình Lập sạch bóng thù, nhân dân được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của quân xâm lược.
Chiến dịch Biên Giới toàn thắng.
Trong phạm vi hồi ức, tôi thấy không cần thiết bình giá về ý nghĩa chiến thắng lịch sử này cũng như sự chỉ đạo sáng suốt, tài giỏi của Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ và trực tiếp là Bộ chỉ huy chiến dịch. Vả lại các vấn đề này sách báo đã đề cập.
Là cán bộ chỉ huy, lần đầu được vinh dự tiếp nhận ánh sáng tư tưởng quân sự của Bác, nhưng không phải ngay từ đầu tôi đã thấy hết được tư tưởng sâu sắc của Người, mà phải có thời gian, thông qua thực tiễn chiến đấu. Với tôi, trước bất kỳ trận chiến đấu nào, chiến dịch nào kỷ niếm gặp Bác trước trận đánh quyết định vẫn hiện về. Và những lúc như thế, lời dạy của Bác trong chiến dịch Biên Giới luôn luôn là chỗ dựa để tôi suy nghĩ, nghiền ngẫm, vận dụng.
Kỷ niệm gặp Bác trước trận đánh quyết định trở thành ký ức không bao giờ quên, là điểm khởi đầu của dòng hồi ức của tôi về Bác, để rồi chính những hồi ức đó lại nhắc nhở tôi, soi sáng trong nếp nghĩ của tôi đi vào các trận chiến đấu, các chiến dịch Trung Du, Tây Bắc, Điện Biên phủ, Đồng Xoài, Phước Long. cho đến ngày 30-4-1975 tôi cùng đồng đội tiến vào Sài Gòn, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Chú thích:

(1) Trung đoàn 209 lập công xuất sắc trong các trận đành địch trên sông Lô khi chúng tiến công lên Việt Bắc thu đông năm 1947.

(2) Sau khi bị trung đoàn 174 tiến công tháng 5 năm 1950, Đông Khê từ một cứ điểm địch củng cố thành cụm cứ điểm mạnh, gồm hai điểm tựa lớn, bảy vị trí vành ngoài, có hầm ngầm cố thủ, lực lượng có hai đại đội thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn Lê dương số 3, một trung đội lưu động, một phân đội pháo 105 ly hai khẩu, quân s6 350 tên.

CHƯƠNG 5

Chúng tôi lại tiếp tục trên đường ra trận. Nhưng lần này là con đường rẽ ngoặt dẫn tới trận "Quyết chiến chiến lược - Điện Biên Phủ".
Trong những ngày nô nức hành quân lên Tây Bắc, chúng tôi lại được đón nhận thư Bác:
"Thân ái gửi cán bộ và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ.
Thu đông này các chú lại có thêm nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào còn bị giặc đè nén".
Bác lại nhắc "Cần phải giữ quyết tâm trong mọi hoàn cảnh: quyết tâm tiêu diệt sinh lực địch, quyết tâm giữ vững chính sách, quyết tâm giành nhiều thắng lợi". Chưa có thì cần phải xây dựng quyết tâm, có rồi thì "phải giữ vững". Quyết tâm không bao giờ thừa đối với một trận chiến đấu, một chiến dịch nào.
Phải đến chiến dịch này tôi mới nhận biết thêm tư tưởng quyết tâm của Bác mang tính nguyên tắc cao trong quân đội, chứa đựng nội dung chỉ đạo cụ thể; đồng thời là cơ sở để ngườị chỉ huy có thêm sáng suốt, bản lĩnh, xử trí kịp thời, hợp lý các tình huống chiến đấu đặt ra.
Quyết tâm trong tư tưởng quân sự của Bác thực sự khích lệ chúng tôi trong suốt quá trình chiến dịch.
Hạ tuần tháng 12 năm 1953 từ một địa điểm giấu quân ở khu rừng thuộc tỉnh Yên Bái, Trung đoàn 209 nằm trong đội hình Đại đoàn 312 theo đường tắt hành quân liên tục suốt mấy đêm liền mới ra tới ngã ba Thượng Bằng La - con đường năm xưa đã dẫn chúng tôi đi vào chiến dịch Tây Bắc. Vừa đặt chân lên mặt đường, bắt gặp ngay cảnh "ngựa xe như nước" của các đoàn dân công, của các đơn vị hậu cần nườm nượp theo hướng tây mà tiến tới.
Khi hành quân qua Nà Sản thì nỗi hận trong tôi lại trỗi dậy.
Nà Sản nằm trên đường 41, cách thị xã Sơn La 20 ki-lô-mét về phía tây nam. Trong chiến dịch Tây Bắc Thu-Đông năm 1952 bị ta tiến công tiêu diệt hàng loạt vị trí, số quân sống sót phải rút chạy, được bộ chỉ huy Pháp tập hợp về đây xây dựng thành tập đoàn cứ điểm lớn gồm 21 đồn bót, điểm tựa với lực lượng hơn tám tiểu đoàn bố trí theo từng hàng lớp để đối phó với ta. Tập đoàn này được mệnh danh "pháo luỹ" Nà Sản, "Công trình Nà Sản - con đê ngăn sóng" một hình thức phòng thủ mới để đối phó với các cuộc tiến công của chủ lực ta(1).
Cùng với Trung đoàn 102 (đại đoàn 308) đánh Pú Hồng (đêm 30-11) Trung đoàn 174 (đại đoàn 316) đánh Nà Sỉ (đêm 11-12), Trung đoàn 209 được giao nhiệm vụ diệt Bản Vây. Nhưng chúng tôi chẳng những không thắng mà còn bị thương vong khá nặng, chỉ vì chúng tôi chưa hiểu đầy đủ thủ đoạn chiến thuật mới của địch, không tính hết sự phối hợp hoả lực giữa các cứ điểm trong cụm cứ điểm. Khi đơn vị bắt đầu nổ súng, phá xong hàng rào xung phong lên, thì các vị trí khác của địch dồn hết hoả lực tập trung bắn tới. Lực lượng xung kích của trung đoàn xông lên mấy lần đều bị hất lại. Cuối cùng phải rút. Đêm hôm đó, trời rét, trăng lại sáng, chúng tôi rút ra đến đâu địch bắn đuổi theo đến đấy. Tất cả cơ quan trung đoàn bộ phải đi làm công tác vận chuyển thương binh. Nhìn bộ đội thương vong, nghĩ đến nhiệm vụ không hoàn thành, tôi phát khóc, vì thiếu kinh nghiệm để xảy ra thiệt hại như vậy.
Hôm nay hành quân qua Nà Sản, tôi càng thấm thía lời dạy của Bác trong trận đánh Đông Khê: "Các chú muốn tiêu diệt địch thì phải có biện pháp đánh bại các thủ đoạn của chúng".
Sự ân hận đó đã trở thành bài học trong phương pháp suy nghĩ quyết tâm, xử trí các tình huống đặt ra trong suốt thời gian tôi tham gia chiến đấu ở mặt trận Điện Biên Phủ với cương vị trung đoàn trưởng (trung đoàn 209, đại đoàn 312) cùng với các đồng chí Trần Quân Lập chính uỷ, Thăng Bình trung đoàn phó, Chu Phương Đới tham mưu trường, Kim Mỹ chủ nhiệm chính trị.
Trong đợt một của chìến dịch, Trung đoàn 209 chúng tôi cùng với Trung đoàn 142, sau 6 tiếng tiến công liên tục (từ 17 giờ ngày 13 tháng 3 đến 23 giờ 23 phút cùng ngày) đã san bằng cụm cứ điểm (gồm ba cứ điểm) Him Lam là trung tâm phòng ngự kiên cố vào bậc nhất của địch ở Điện Biên Phủ, cách trung tâm Mường Thanh 2,5 ki-lô-mét về phía đông-bắc. Cùng với cứ điểm Độc Lập bị diệt đêm 14 tháng 3, ta đã mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm từ phía bắc và đông-bắc, uy hiếp sân bay Mường Thanh bắt đầu từ đây. Nhân đây xin kể một vài chi tiết mà mãi sau này, nhân kỷ niệm 35 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, được đọc hồ sơ mới về Điện Biên Phủ của Mai-kơn Mắc-lia, phóng viên hãng vô tuyến truyền hình Canada CBC, mới rõ lúc ấy địch còn rất chủ quan ngạo mạn. Theo phóng viên này kể lại: "Ngày 12-3-1954, đại tá Đờ Cát-xtơ-ri (lúc này chưa được phong tướng) triệu tập các sĩ quan chỉ huy tới báo động về nguồn tin tình báo khẩn cấp: Cuộc tiến công của tướng Giáp sẽ bắt đầu vào 5 giờ chiều ngày hôm sau. Nhưng các sĩ quan cảm thấy an tâm, chờ điều sẽ xảy ra, họ đang được tiếp tế tốt, kể cả 49.000 chai rượu vang.
Cuộc đụng độ sẽ thoát ra trước hết khỏi vòng vây tinh thần vì hình như ở Hà nội bị xáo động hơn là ở đây".
Đúng là số phận bất hạnh bao giờ cũng dành cho những kẻ ngạo mạn. Đại tá Pi-rốt chỉ huy pháo binh trong ban tham mưu của Đờ Cát đã dùng lựu đạn tự sát sau khi được biết cụm cứ điểm Him Lam bị san bằng trong trận tiến công đầu tiên của đối phương, có pháo binh yểm trợ - điều mà y khẳng định trước đó là không thể có (!).
Sau chiến thắng Him Lam, Trung đoàn 209 bừng bừng khí thế tin tưởng, phấn khởi. Những bài học nóng hổi của trận đánh được vận dụng vào đợt hai của chiến dịch. Chúng tôi vui vẻ chấp nhận tư tưởng "đánh chắc thắng" của trên, ngày đêm xẻ núi thành hào, đắp hầm xây trận địa vững chắc, tham gia kéo pháo ra rồi lại kéo pháo vào để cho pháo ta đủ sức nhả đạn vào đầu thù.
Từ cái thế vững chắc đó, Trung đoàn 209 đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt của đợt hai chiến dịch là đánh chiếm cụm đồi Dl, D2, D3 không cho địch phản kích lấy lại, tạo được cái thế ngồi trên đầu Đờ Cát-xtơ-ri.
Cuối tháng 4 Trung đoàn 209 được giao nhiệm vụ đánh chiếm khu vực bàn đạp mở đầu đợt tiến công thứ ba của chiến dịch.
Khí thế của đơn vị đang có đà từ sau chiến thắng Him Lam, sau nhiều trận bẻ gãy các đợt phản kích của địch định chiếm lại cụm đồi D, nhưng chỉ huy trung đoàn chúng tôi vẫn thấy lo vì đây là những trận đánh nhằm kết thúc số phận của tập đoàn cứ điểm, kẻ địch sẽ chống trả quyết liệt.
Đảng uỷ và ban chỉ huy trung đoàn họp bàn sôi nổi, cuối cùng đều nhất trí phải chuẩn bị tốt cả về tư tưởng và tổ chức chiến đấu. Tôi xuống hẳn với tiểu đoàn 154 làm nhiệm vụ chủ công để cùng anh em khẩn trương chuẩn bị, kịp thời cùng anh em bàn cách khắc phục khó khăn nảy sinh, vì thời gian lúc này đã rất khẩn trương.
Ngày 1 tháng 5 theo kế hoạch đã được trung đoàn phê chuẩn, tiểu đoàn 154 nổ súng tiến công một trong năm điểm cao mang tên 505.
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt đúng như dự đoán. 20 giờ 30 phút, tiểu đội đi đầu của đại đội 606 chiếm được bàn đạp cửa mở, bị hoả lực địch từ nhiều phía (kể cả pháo ở Hồng Cúm) bắn cản dữ dội; 20 giờ 45 phút trung đội đầu cầu của đại đội này thực hành xung phong. Đây là trung đội còn lại của đại đội, vì phần lớn những người lọt vào cứ điểm của địch đều mang thương tích, loại khỏi lực lượng chiến đấu.
21 giờ 27 phút địch lại tổ chức phản kích. Phần lớn các chiến sĩ đều bị thương nặng, hoặc ù tai, hoặc điếc vì bom đạn địch.
Chúng tôi vẫn tiếp tục tổ chức chiến đấu. Đại đội 606 được lệnh dừng lại củng cố rồi lại tiếp tục tiến công; đại đội 618 được trung đoàn đưa từ phía sau lên tăng viện bước vào chiến đấu.
Cửa mở hẹp mà hoả lực địch tập trung vào đó để cản ta.
Nhưng tất cả nhanh chóng vận động, vọt tiến, lọt được vào chiều sâu trận địa địch.
Đến 4 giờ 20 phút, tiểu đoàn 16 diệt gọn một đại đội địch còn lại, đánh chiếm hoàn toàn điểm cao 505, kết thúc trận đánh sau nhiều đợt tiến công kéo dài gần 10 tiếng đồng hồ.
Đứng trên đỉnh cao 505, 505A mới thấy hết giá trị của các vị trí này - bằng phẳng, nằm cạnh đường 41, tiếp sau nó là hàng loạt các điểm cao khác nối nhau: 506, 507, 508, 509. chạy thẳng vào sân bay Mường Thanh và vào sở chỉ huy trung tâm Mường Thanh không còn xa nữa, mới cắt nghĩa được vì sao cái giá đắt phải trả khi ta đánh chiếm được 505. Đây là năm cứ điểm đệm yểm trợ đồng thời là những vỏ thép bảo vệ sở chỉ huy trung tâm.
Ngày 5 tháng 5, trung đoàn lệnh các đồng chí Nguyễn Cẩm, Trần Quải tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn 130, Đinh Đình Sành, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 166, Nguyễn Măng, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 154 và một số cán bộ đại đội, trong đó có Tạ Quốc Luật, đại đội trưởng, Công Bình chính trị viên đại đội 360 lên thực địa bàn kế hoạch tiến công tiếp tục. Vì đây là trận đánh then chết nên cũng có mặt đầy đủ các đồng chí trong ban chỉ huy trung đoàn. Ngay trên trận địa vẫn còn cay nồng mù mịt khói bom, đạn pháo, đạn súng bắn thẳng của địch từ mọi phía vẫn nổ dữ dội trên nắp hầm, trên miệng hào giao thông, chúng tôi hạ quyết tâm:
- Bằng bất cứ giá nào cũng phải tiến công, tranh thủ mọi điều kiện để thực hiện liên tục tiến công.
- Mục tiêu chủ yếu cuối cùng là sở chỉ huy địch ở trung tâm Mường Thanh.
- Mang cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Bác cắm lên nóc hầm sở chỉ huy trung tâm, bắt sống tướng giặc Đờ Cát-xtơ-ri và toàn ban tham mưu của y, lập thành tích mừng thọ Bác.
- Nghiêm chỉnh chấp hành chính sách tù hàng binh.
Đúng là sở chỉ huy trung tâm địch đã ở trong tầm với, đứng trên điểm cao 505 vừa mới đánh chiếm, nhiều anh em phấn khởi reo lên: chúng ta sắp sửa "cắt tiết" Mường Thanh đến nơi rồi!
Nhưng chúng tôi thì vẫn lo, vì từ đây đến đó tuy ngắn nhưng không đơn giản, chỉ một sơ suất trong nắm địch, trong tổ chức chỉ huy, hợp đồng chiến đấu và tinh thần quyết tâm không được giữ vững, phát huy, rất có thể gây nhiều chuyện rắc rối.
Thời gian như chậm lại, ai cũng mong trời chóng tối, vì kế hoạch chiến đấu được quán trìệt đến từng chiến sĩ. Chúng tôi hồi hộp theo dõi mặt trời lặn dần để đến giờ khởi sự.
Đêm nay 6 tháng 5, là một đêm đáng ghi nhớ đối với Trung đoàn 209, như cái đêm đánh Bản Vây (Nà Sản) trong chiến dịch Tây Bắc hồi tháng 12 năm 1952 vậy. Nhiệm vụ của trung đoàn là đánh chiếm điểm cao 507, để phối hợp với các đơn vị bạn nhổ nốt những cái đinh A1, C2. Tiểu đoàn 130 được giao trọng trách này nhưng đã không hoàn thành do tổ chức hoả ìực tiến công rời rạc, không kiềm chế được hoả lực địch, nên bộ đội không xung phong lên được. Một nguyên nhân không kém phần quan trọng thuộc về tinh thần trách nhiệm, tác phong của người chỉ huy chúng tôi: Đó là việc tổ chức theo dõi địch không chặt chẽ. Khi giao nhiệm vụ lúc chiều, là đánh địch trong tình huống không có rào kẽm gai, nhưng tối đến địch cho rải hàng rào kẽm gai bùng nhùng. Tuy chỉ là loại rào dã chiến, tạm thời, nhưng khi bộ đội ta đánh vào, bị bất ngờ, phải dừng lại khắc phục bằng cách bộc phá, đội hình bị ùn tắc. Đó chính là lúc địch có điều kiện tập trung hoả lực sát thương ta.
Thế là nhiệm vụ tiến công đêm 6 không thành.
Không ngờ hận Bản Vây lại đến với chúng tôi!
Ngay đêm hôm đó, Đảng uỷ trung đoàn họp, đề ra biện pháp củng cố trận địa dã chiến đề phòng địch phản kích khi trời sáng, ổn định tư tưởng bộ đội, giải quyết đưa nhanh thương binh về tuyến sau và bàn kế hoạch tiếp tục chiến đấu trong tình huống ban ngày.
Nếu chiều hôm trước chúng tôi mong trời chóng tối, thì đêm nay chúng tôi mong trời mau sáng để trả hận.
Ngày 7 tháng 5, mặt trời vừa ló rạng, tôi gọi điện lên anh Lê Trọng Tấn, đại đoàn trưởng đề nghị cho tiến công tiếp.
Từ đầu dây bên kia có tiếng anh Tấn:
- Còn đủ sức không?
- Báo cáo, đủ!
Vẫn có tiếng điện sôi qua ống nghe nhưng không có tiếng nói. Hay là có sự cố. Tôi vẫn áp chặt tai vào ống nghe hồi hộp chờ đợi. Khoảng 5 giây sau lại có tiếng anh Tấn:
- Hoàng Cầm đâu?
- Báo cáo tôi vẫn nghe?
- Cậu gọi thẳng lên Sở chỉ huy chiến dịch, xin ý kiến anh Văn (tức Đại tướng Võ Nguyên Giáp) vì việc này đại đoàn không đủ thẩm quyền.
Tôi liền quay điện thoại lên Sở chỉ huy chiến dịch, thì anh Văn nói là chờ lệnh Tổng công kích, cũng ở hướng ấy, tiến công một thể.
Tôi bỏ máy xuống. Biết bao giờ mới có lệnh Tổng công kích, trong khi ở hướng chúng tôi đã có thời cơ?
Cả tập thể ban chỉ huy ngồi quanh máy điện thoại theo dõi.
Các anh thúc tôi tiếp tục trình bày, kiên nhẫn nhất định thành công.
Tôi lại gọi điện lên Sở chỉ huy đại đoàn.
- Các cậu có cay cú không đấy? - Anh Tấn hỏi.
- Báo cáo anh không - Ngừng lại để lấy hơi, tôi nói tiếp- Trận đánh đêm qua không thành do khuyết điểm vì có sơ suất trong tổ chức hoả lực, hiện chúng tôi đã có kế hoạch khắc phục.
- Mình đồng ý, nhưng đây là nguyên tắc, phải xin ý kiến anh Văn, cậu cầm máy chờ nhé.
Giây phút đợi lệnh lúc này sao mà hồi hộp và căng thẳng đến thế. Vẫn bình tĩnh áp ống nghe vào tai mà tôi thấy toàn thân nóng ran, bứt rứt như kiến đốt. Dưới khuyết điểm là trên có phần trách nhiệm. Việc kiểm tra đôn đốc không đến nơi đến chốn, tư tưởng nôn nóng chủ quan, coi thường phản ứng của địch nên mới đến nông nỗi này.
Tôi cứ triền miên suy nghĩ, tự trách mình như thế, thì bỗng đầu dây bên kia có tiếng động nhắc máy.
- Hoàng Cầm đấy phải không - Vẫn giọng nói quen thuộc của anh Tấn.
- Dạ, tôi vẫn đang chờ lệnh.
- Bộ chỉ huy Mặt trận chuẩn y giờ nổ súng của trung đoàn, nhưng nhấn mạnh - cần phải chuẩn bị cho tốt, không được bỏ qua một công việc nhỏ nào có liên quan đến bảo đảm chắc thắng.
Tôi chưa kịp báo cáo tiếp công việc chuẩn bị, thì anh Tấn lại tiếp:
- Trên sẽ có kế hoạch phối hợp và sẽ chi viện hoả lực cho trung đoàn - Giọng bỗng to lên, anh nhấn mạnh - Chỉ cần chúng ta không được chủ quan, gắng chút nữa là mọi việc ổn thoả. Chúc trung đoàn thắng lợi.
Phấn khởi và cảm động. Cấp trên không những chuẩn y kế hoạch tác chiến của trung đoàn mà còn dành năm khẩu pháo chi viện. Tôi hứa với anh Tấn:
- Báo cáo anh có điều kiện chúng tôi phát triển qua sông Nậm Rốm, áp sát sở chỉ huy trung tâm Mường Thanh.
- Còn đủ sức không? - Anh Tấn hỏi.
- Dạ, đủ sức - Tôi hứa.
- Nhớ đảm bảo chắc thắng - Anh Tấn ra lệnh.
Bỏ máy nghe xuống tôi thấy mình xúc động, đầu óc nhẹ nhõm, lâng lâng. Tôi lệnh cho các tiểu đoàn 130, 154, 166 và các đơn vị hoả lực gấp rút chuẩn bị nổ súng theo đúng giờ G.
Trận đánh được bắt đầu vào lúc 14 giờ, mặt trời ngả về tây, cảnh vật trước mặt hiện lên rõ nét.
Trong lúc hoả lực ta tập trung dồn dập vào trận địa địch, trung đội trường Chu Bá Thi vắt chăn lên hàng rào bùng nhùng, dẫn bộ binh xung phong, địch bắn cản, ta phải lùi lại. Lần thứ hai, ta vượt rào vọt tiến, ném thủ pháo vào các ụ súng địch.
Điểm cao 507 bị diệt, số địch còn lại rút về 508.
Thừa thắng tôi lệnh cho trung đoàn phó Thăng Bình trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn 136 và chính trị viên tiểu đoàn Trần Quân phát triển đánh chiếm 508, 509 cho đại đội Tạ Quốc Luật nhanh chóng vượt cầu phao chặn địch không cho chúng rút qua và tiếp viện từ Mường Thanh ra.
Thế là tất cả các cứ điểm bên này sông Nậm Rốm đã lọt vào tay quân ta. Lúc này khoảng 16 giờ 30 phút. Trời nắng nóng, tôi phải xoay trần, mặc độc áo lót để chỉ huy đơn vị phát triển vào khu Mường Thanh.
Đang trong thế thuận lợi bỗng gặp phải hoả lực trọng liên của địch từ bên kia cầu bắn sang rất dữ, không phải một khẩu mà là nhiều khẩu.
Đây lại là một bất ngờ, do việc nắm địch của chúng tôi chưa chắc. Đã đến lúc này không để tái diễn như đêm qua (6-5). Dù có hy sinh cũng phải quyết tâm vượt qua, phải diệt ngay cái ổ đề kháng quái ác này.
Nghĩ như vậy, tôi lệnh cho Tạ Quốc Luật nhanh chóng diệt trận địa đại liên địch, tạo thuận lợi cho các đơn vị tiếp tục phát triển vào khu trung tâm. Mười lăm phút sau tiếng súng đại liên của địch tắt hẳn, cùng lúc tôi nhận được báo cáo qua máy điện thoại, ta đã diệt được khẩu đại liên bốn nòng do một tên lính nguỵ trạc hơn 40 tuổi điều khiển.
Tôi cắt ngang báo cáo:
- Tên lính này còn sống không?
- Báo cáo còn, đơn vị đã giải thích chính sánh khoan hồng cho y.
- Khai thác chưa?
- Báo cáo đã.
- Cái gì, nó đã khai những gì?
- Báo cáo? Nó chỉ hầm Đờ Cát cách đây khoảng trên 200 mét.
- Đúng không?
- Dạ, đúng, phía ấy thấp thoáng có cờ trắng vẫy.
Tim tôi đập nhanh vì sung sướng. Tôi muốn reo lên chia vui với mọi người: Mục tiêu cuối cùng của chiến dịch đã tới gần!
Tôi lệnh cho Tạ Quốc Luật phải phát triển tới đó ngay, tìm mọi cách bắt sống tướng Đờ Cát.
17 giờ, trời còn sáng, tên lính điều khiển khẩu đại liên bốn nòng khai đúng, sở chỉ huy trung tâm của địch hiện rõ trước mắt các chiến sĩ đại đội 360, Tạ Quốc Luật dẫn một tiểu đội bứt lên trước đang trên nóc hầm và kêu gọi tướng Đờ Cát đầu hàng (Tạ Quốc Luật biết tiếng Pháp).
Vài phút sau tướng Đờ Cát và toàn ban tham mưu của ông ta thành hàng dọc hai tay giơ khỏi đầu từ cửa hầm lần lượt đi ra.
Nhận được tin do Tạ Quốc Luật báo cáo về, tôi vui sướng quá tim như muốn bung khỏi lồng ngực. Tay run run cầm máy điện thoại báo cáo tin vui này về bộ chỉ huy đại đoàn, đồng thời tôi lệnh cho chính trị viên tiểu đoàn 130 Trần Quân giải ngay Đờ Cát về sở chỉ huy trung đoàn.
Toàn thể ban chỉ huy Trung đoàn 209 có mặt đầy đủ để tiếp nhận sự đầu hàng của tướng Đờ Cát và toàn bộ ban tham mưu của tập đoàn cứ điểm.
Tại đây tôi có hỏi cung tướng Đờ Cát qua đồng chí Nho Khôi đội trưởng trinh sát của trung đoàn dịch (Nho Khôi có bằng tú tài, nói tiếng Pháp rất khá).
Mở đầu tôi hỏi:
- Tại sao các ông thua?
- Vì chỉ huy các phân khu ngoại vi để mất - Đờ Cát trả lời.
- Khu trung tâm Mường Thanh do ông trực tiếp chỉ huy sao cũng để mất?
Đờ Cát đầu hơi cúi, ngượng ngùng, vài giây sau mới trả lời:
- Ngày 6 và sáng 7 tháng 5 chúng tôi trù liệu tổ chức hai lực lượng rút chạy sang Lào.
- Sao không thực hiện.
- Không có một binh lính và sĩ quan nào tin là kế hoạch của chúng tôi thực hiện được.
- Tại sao ông lại cho máy bay thả truyền đơn thách thức tướng Giáp?
- Tôi không làm việc này!
- Sao lại có truyền đơn? - Vừa hỏi, tôi vừa chuyển cho Nho Khôi tờ truyền đơn đưa cho Đờ Cát xem dưới có ký tên ông ta.
Đờ Cát nhún vai, tỏ vẻ khinh bỉ:
- Thưa ông, đây là Hà Nội tự làm.
Trước khi rời khỏi hầm chỉ huy ông có báo tin này cho Hà Nội không?
- Tôi có báo cho Hà Nội: "Thế là hết!".
- Hà Nội trả lời thế nào?
- Na-va thoả thuận cho đầu hàng nhưng "không phất cờ trắng" (!)
- Các ông thực hiện sự đầu hàng thế nào?
- Thưa ông nếu không có dấu hiệu cờ trắng thì chúng tôi đâu còn tồn tại đến giờ này. - Ông ta lại cúi đầu kèm theo là tiếng thở dài với vẻ mặt buồn chán, định nói tiếp, nhưng thấy khó.
Hiểu được tâm trạng của viên tướng mang dòng họ quý tộc Pháp, chúng tôi không hỏi nữa.
Trước mặt chúng tôi là toàn ban tham mưu của Đờ Cát với đủ lứa tuổi và hình hài khác nhau, nhưng có chung một dáng vẻ tiều tuỵ nét mặt hốc hác chán chường, quần áo xộc xệch bẩn thỉu mặc dù tên nào cũng tề chỉnh mang cấp hiệu trên ve áo.
Phút yên lặng trôi nhanh, tôi ra lệnh cho Đờ Cát báo cáo họ tên, cấp bậc, chức vụ từng người trong ban tham mưu của y.
Tất cả có hơn 10 tên, mỗi tên phụ trách một phần việc, hậu cần, chỉ huy bộ binh, xe tăng, lực lượng phản kích, chỉ thiếu có Pi-rốt chỉ huy pháo binh đã tự sát sau khi cụm cứ điểm Him Lam bị mất. Tất cả đều học quân sự cơ bản qua trường võ bị Xanh-xia nổi tiếng của nước Pháp, đều trong quân ngũ lâu năm qua nhiều chiến trận. Đờ Cát-xtơ-ri được xếp loại tá có hạng, ttước khi điều lên Điện Biên Phủ đã chỉ huy một trong bảy binh đoàn cơ động chiến lược của quân Pháp ở chiến trường Bắc Bộ, từng chạm trán với chúng tôi ở Vĩnh Yên, Phúc Yên trong chiến dịch Trung Du hồi cuối năm 1950 đầu năm 1951.
Đại tá La-gơ-le bạn thân của Đờ Cát, cũng dòng dõi quý tộc, tham gia chiến tranh thế giới thứ hai, từng chết hụt ở sa mạc Sahara, cưỡi một con lạc đà với khẩu súng trong tay, đâu phải sinh ra để thành con người chiến bại, sang Đông Dương ba lần và bây giờ bị bắt ở Điện Biên Phủ.
Còn Bi-gia đã chỉ huy 800 quân nhảy dù xuống Điện Biên Phu vào sáng ngày 20-11-1954, khi vừa mới tan sương mù. Bi-gia cũng được xem là thành viên của ban tham mưu mặc dầu eấp bậc thấp nhất, nhưng được Đờ Cát tin cậy, phong cho cái chức "tổng chỉ huy các lực lượng phản kích".
Con "người hùng" này có cái may mắn, chục năm sau được nhận chức Bộ trường Quốc phòng Pháp. Tuy nhiên những gì là thảm kịch ở Điện Biên Phủ, Bi-gia vẫn không quên, vẫn kể rất đầy đủ khi nhà báo Mai-kơn Mắc-lia đến ngỏ ý định viết thiên ký sự "Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày". Từ sau đợt hai của chiến dịch bắt đầu, quân sĩ hoang mang, những trận phản kích giảm dần, thì tổng chỉ huy các lực lượng phản kích Bi-gia thường ngày chi còn làm một việc chỉ huy trấn an tư tưởng: "Tôi vẫn nói cho binh sĩ tôi, chúng ta cố giữ lâu được một ngày nữa. Rồi người Mỹ sẽ đến!".
Và Bi-gia kể tiếp cái ý định cố gắng tuyệt vọng cuối cùng rút sang Lào định thực thi vào sáng 7 tháng 5 như sau: "Chúng tôi nhặt nhạnh vài vị chỉ huy tiểu đoàn và bàn đến việc tháo chạy. Họ nói: không, không còn cái giá nào lúc này nữa đâu. Chúng tôi có thể chết xứng đáng. Chúng tôi làm sao mà có thể ra khỏi đây nổi 100 mét thôi! Đờ Cát-xtơ-ri báo cho Hà Nội: "Thế là hết!". Na-va trả lời qua máy vô tuyến điện thanh: "Đừng giơ cờ trắng, chỉ ngừng chiến đấu thôi!".
Như vậy, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi vào lúc 17 giờ ngày 7-5-1954, khi Trung đoàn 209 chúng tôi tiến vào sở chỉ huy trung tâm Mường Thanh, bắt sống tướng giặc Đờ Cát-xtơ ri cùng toàn ban tham mưu của ông ta.
Lòng chảo Điện Biên Phủ bị hun nóng suốt 55 ngày đêm nay bắt đầu nguội vào lúc thời điểm đã chuyển vào hoàng hôn, mặt trời ngả dần sang phía tây - sắp khuất sau những dãy núi và chuyển sang bóng đêm quen thuộc. Nhưng đêm nay là đêm hội chiến thắng. Từ khắp nơi, các đơn vị đổ về Mường Thanh, đủ thứ thắp sáng để mừng chiến thắng.
Mường Thanh tấp nập, chật ních những người. Hàng binh kéo ra, quân ta đổ vào, cả sở chỉ huy của tướng Đờ Cát đầy ắp người cũng như ngoài cánh đồng Điện Biên còn nguyên những khẩu pháo đang nằm rải rác.
Nhưng mắt tôi vẫn dán mãi vào lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" do chiến sĩ Nguyễn Văn Minh dưới sự chỉ huy của Tạ Quốc Luật đại đội trưởng đại đội 360 vừa cắm lên nóc hầm Đờ Cát đang bay phần phật bởi một cơn giông bất chợt.
Sau ngày 7-5-1954 lịch sử, tôi vinh dự được Bộ chỉ huy Mặt trận cử làm trưởng đoàn chiến sĩ thi đua của Mặt trận về báo cáo thắng lợi vĩ đại này với Đảng, Chính phủ và Bác Hồ kính yêu.
Chúng tôi mang theo về các thứ huân chương, lon thiếu tướng của Đờ Cát, một lá cờ Pháp đã rách, một cái máy thu thanh nhỏ Đờ Cát đã dùng. Khi ra trận thì đi bộ, mang vác nặng nề, trèo đèo lội suối, luồn rừng vất vả, khi về thì dong ruổi "ngựa xe" - một chiếc xe tải quân sự do đồng chí Thông lái, cũng đã sướng lắm rồi. Tuy vậy cũng phải mất ngót tuần lễ chúng tôi mới về tới hậu phương Việt Bắc.
Dọc đường, lúc nào tôi cũng nghĩ về gặp Bác thì báo cáo với Bác điều gì. Hình ảnh Bác gọi lên báo cáo kế hoạch tiến công Đông Khê trong chiến dịch Biên Giới lại hiện về.
Vừa đến cơ quan Tổng cục Chính trị, anh Nguyễn Chí Thanh tổ chức đón đoàn chúng tôi rất trọng thể, có dựng cổng chào, kết hoa trên đường vào cơ quan. và anh bố trí cho chúng tôi được nói chuyện ngay với Bác qua điện thoại.
Tôi vui sướng và thực sự hồi hộp:
- Báo cáo Bác, cháu phụ trách đoàn chiến sĩ thi đua từ mặt trận Điện Biên Phủ về mừng sinh nhật Bác.
- Ai bảo các chú bày vẽ việc này? - Bác nghiêm nghị hỏi.
Tôi đang ấp úng không biết trả lời thế nào thì đầu dây bên kia Bác đã gỡ bí:
- Chú Hoàng Cầm đấy phải không?
- Vâng ạ! Thưa Bác, cháu là Hoàng Cầm đây ạ!
- Các chú ở trên đó có đói không?
- Báo cáo Bác, không đói nhưng thiếu ạ!
Bác hỏi tiếp:
- Có khổ không?
Anh Nguyễn Chí Thanh đứng gần, vui vẻ nhắc tôi "cứ nói thật với Bác là khổ lắm".
- Báo cáo Bác, có khổ ạ!
Bác xen vào:
- Các chú có thuốc lào hút không?
- Báo cáo, có ạ!
Xin lưu ý bạn đọc về chuyện thuốc lào ở Điện Biên Phủ, tuy không phải là vấn đề cơ bản trong chiến đấu, nhưng lại là một nhu cầu thực tế không thể thiếu. Bộ đội ta lúc ấy đa số nông dân, nhiều người nghiện thuốc rất nặng, mà nghiện thì "đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên". Không có thuốc hút, người cứ bần thần, chẳng muốn làm gì.
Hiểu nhu cầu tuy nhỏ nhưng không thiếu ấy, Chính phủ và Bác đã chỉ thị cho cơ quan cung cấp ở hậu phương chú ý lo cho bộ đội khoản thuốc lào gửi lên mặt trận, cùng với súng đạn, gạo muối và thuốc men, nhưng do chiến đấu kéo dài, cảnh thiếu thuốc hút vẫn là vấn đề "thời sự" được nhắc đến hàng ngày.
Từ đầu dây bên kia, giọng Bác chậm rãi, thân mật, ân cần:
- Bác được tin các chú về thăm Bác, nhưng hôm nay Bác bận họp Hội đồng Chính phủ, chưa gặp được; các chú cứ nghỉ ngơi cho khỏe, chờ họp xong Bác cháu ta sẽ gặp mặt càng vui.
Những điều Bác nói sao mà gần gũi, cảm động đến thế.
Do yêu cầu nhiệm vụ, tôi phải về trước, nên không được gặp Bác. Nhưng sau đó tôi có nhận được huy hiệu của Người gửi tặng.
Sau này, vào dịp Tết dương lịch năm 1964, Bác về thăm Sư đoàn 312, tôi có báo cáo với Bác rằng sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi được Bộ chỉ huy Mặt trận giao nhiệm vụ dẫn đầu đoàn chiến sĩ thi đua về chúc thọ Bác. Bác gật đầu:
- Hôm đó Bác đang bận họp, nên chỉ nói chuyện với chú qua điện thoại.
Tôi thật không ngờ! Một câu chuyện nhỏ đã qua mừơi năm, mặc dầu bận trăm công nghìn việc mà Bác vẫn nhớ rành rọt như vậy.
Còn tôi vẫn tâm niệm những lời dạy bảo ân cần của Bác qua các chiến dịch, trong chiến công bắt tướng Đờ Cát, đã có lời Bác dạy - Quyết tâm không bao giờ thừa đối với bất cứ một trận chiến đấu, một chiến dịch nào.

Chú thích:

(1) Cuối tháng 11, địch ở Nà Sản có 8 tiểu đoàn và 8 đại đội bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 đại độí công binh, tổng quân số lên tới 12.000 tên.

CHƯƠNG 6

Lòng chảo Điện Biên Phủ nơi mà tướng Na-va tin là sẽ buộc đối phương bị dồn vào cái nơi ta (tức Pháp) sẽ vừa đánh họ được, lại vừa nói chuyện đàm phán trên thế mạnh với họ cũng được, nay đã đảo ngược. Chiến thắng Điện Biên Phủ và hàng vạn tù binh bị bắt sống là cái thế mạnh khi phái đoàn ta đến bàn hội nghị. Sau hơn hai tháng đàm phán, ngày 21 tháng 7 năm 1954 Chính phủ Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Hoà bình đã được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở chính phủ Pháp tôn trọng chủ quyền, độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Thế là sau chín năm chiến đấu gian khổ và anh dũng, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam lần lượt vào tiếp quản những vùng quân Pháp rút đi theo đúng các điều khoản đã được thoả thuận giữa hai bên Việt - Pháp.
Tháng 9 năm ấy, Sư đoàn 312 chúng tôi nhận lệnh từ Phú Thọ tiến về tiếp quản khu vực Bắc Ninh - Bắc Giang, cùng các đơn vị bạn buộc đối phương phải nghiêm chình thi hành hiệp định, nhanh chóng rút khỏi khu vực cuối cùng miền duyên hải Đông Bắc - Hồng Gai - Quảng Yên - Hải Phòng.
Các đơn vị trong sư đoàn lần lượt hành quân qua Vĩnh Yên, Phúc Yên sang bên kia sông Cầu, sông Đuống. Trước mắt chúng tôi một dải trung du đâu đâu cũng còn đầy vết tích tàn phá của bọn xâm lược. Vệ Linh, Thanh Lại, Đan Tảo, Mễ Thôn. và những làng lân cận trong "vành đai trắng" suốt mấy năm liền hoang vắng, hầu như không một bóng người. Giặc Pháp vừa cấm ngăn không cho dân trong vùng đi lại làm ăn, vừa dùng bom đạn cày xới, xua hết dân đi nơi khác. Chúng cố tạo ra ở đây một "ranh giới chết" giữa vùng chúng tạm kiểm soát với vùng tự do của ta nhằm ngăn chặn quân chủ lực ta thâm nhập đồng bằng. âm mưu thâm dộc ấy đã biến hàng vạn héc ta ruộng màu mỡ thành đồng hoang lạnh ngắt.
Nhưng chỉ sau ngày ngừng bắn mấy hôm, "vành đai trắng" đã mất hẳn cái không khí vắng lạnh ghê người. Trong các thôn xóm, còn người nào ở lại bám đất đều đổ ra đồng khai hoang phục hoá. Dọc đường số 2, số 3 từ Tuyên Quang, Thái Nguyên đổ về xuôi, từng đoàn người gồng gánh kĩu kịt, lũ lượt hồi cư sau những tháng năm xa quê. Chiều đến, trên những cách đồng rậm rì đùn lên từng cột khói trắng - khói đốt cỏ làm tro bón ruộng. Cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên nóc những nếp nhà tranh vừa dựng lấy chỗ ở tạm. Đây đó đã thấy cất lên tiếng hát rộn ràng, trong trẻo của các cô gái, các cháu nhỏ, hoà lẫn tiếng cuốc đất phát cỏ nhộn nhịp ngoài đồng.
Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đã đưa cách mạng nước ta sang giai đoạn mới.
Miền Bắc giải phóng đang bước vào thời kỳ hoà bình khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục.
Từ nhận thức chức năng của quân đội là chiến đấu, công tác và sản xuất, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh sư đoàn họp xác định ngoài nhiệm vụ xây dựng huấn luyện quân sự, các lực lượng của sư đoàn còn có trách nhiệm cùng nhân dân tham gia khôi phục kinh tế ở những nơi khó khăn, cần có lực lượng lao động tập trung trẻ khỏe. Tại nơi đóng quân, các chiến sĩ sư đoàn cùng đồng bào gỡ mìn, dọn dây thép gai trên "vành đai trắng", quanh các đồn bót địch, khai hoang, phục hoá mở rộng diện tích, tát nước chống hạn, đào mương dẫn nước, cải tạo đồng ruộng. Các chiến sĩ của sư đoàn góp sức tham gia khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, công trình thuỷ nông Bắc Hưng Hải.
Hàng nghìn cán bộ chiến sĩ cửa sư đoàn đã chuyển ngành đi tham gia xây dựng khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo (Hà Nội), sứ Hải Dương, khu công nghiệp Việt Trì, mỏ A pa-tít Lao Cai, cho đến các nông trường Mộc Châu, Sơn La, Điện Biên Phủ. và tham gia xây dựng sân bay Nội Bài.
Từ năm 1958, các đơn vị trong sư đoàn lần lượt bỏ công sức, trí tuệ tự xây dựng doanh trại của mình. Dọc đường quốc lộ số 2 từ Đa Phúc đến Phổ Yên, Lương Sơn, Lưu Xá, Phú Bình (Bắc Thái) trên những quả đồi hoang lúp xúp những cây sim mua cằn cỗi trước đây nay mỗi ngày lại có thêm khu nhà mới, mái ngói đỏ tươi tường vôi trắng xoá. Cuộc sống quân ngũ cũng có những thay đổi mới. Đã có sự thanh bình êm ả, có tối thứ bảy và ngày chủ nhật thư nhàn, thoải mái, có nơi tiếp đón gia đình lên thăm, có phòng riêng nhỏ xinh cho đôi vợ chồng trẻ hưởng tuần trăng mật. Đã có chế độ nghỉ phép và sĩ quan hết giờ làm việc được về ăn nghỉ tại nhà riêng gần khu doanh trại. Niềm vui lâng lâng mà sâu đậm ấy, rõ nét ấy, vây quanh và thâm nhập vào mình mà vẫn cứ ngỡ ngàng, vì cách đó ít lâu, những người lính chúng tôi phải vượt qua bao gian khổ, chịu đói, chịu rét vượt qua sông Thao đánh vào tuyến phòng thủ sông Đà của địch, vượt qua đèo Pha Đin tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, mấy ai nghĩ có ngày hôm nay.
Riêng tôi đã lập gia đình và sinh được năm cháu. Ngoài bận rộn công việc của một sư đoàn trường kiêm bí thư Đảng uỷ sư đoàn, cũng đã có điều kiện hoà nhập vào cuộc sống đời thường với đủ thứ ước mơ khát vọng rất xa mà cũng rất gần. Có lúc thư nhàn nói chuyện thật riêng của hai người, có phút giây âu yếm cưng nựng con, thủ thỉ bao hy vọng khi con khôn lớn. Có giờ thanh thản nghe ca nhạc và sân khấu truyền thanh, cùng vợ con đến nhà hát xem biểu diễn văn nghệ, xem phim tình yêu.
Và có những chuyến nghỉ phép về thăm quê nội, quê ngoại, gặp mặt làng xóm, người thân hàn huyên kỷ niệm xưa.
Những ngày thanh bình như thế đến với chúng tôi thật ngắn ngủi. Có một suy nghĩ khác, cuộc sống khác bắt đầu hình thành từ năm 1960, đan xen vào các công việc thường ngày, cứ tăng dần theo thời gian. Trong sình hoạt chính trị đã có vấn đề nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu; trong xây dựng thao trường huấn luyện, kết cấu tưởng định diễn tập tham mưu và diễn tập thực binh đều đưa xen thực tế chiến trường miền Nam để cán bộ, chiến sĩ tập xử lý.
Mùa xuân 1963 chúng tôi được sống lại với không khí chuẩn bị chiến đấu năm xưa. Ngoài kia thị trấn Phổ Yên vẫn êm ả, con đường xe hoả Hà Nội - Quán Triều song song với đường số 3 là cảnh "ngựa xe như nước", thì trong doanh trại sư đoàn bộ đang tính toán kế hoạch hành quân, đưa một tiểu đoàn mạnh gồm 600 cán bộ, chiến sĩ bí mật vượt sông Bến Hải vào tham gia chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên. Mùa xuân 1964, tiểu đoàn thứ hai của sư đoàn nhận nhiệm vụ vào chiến đấu tại chiến trường Khu 5.
Ngày 1-1-1964 Bác Hồ về thăm sư đoàn. Trước lúc ra về Bác ghi vào sổ vàng truyền thống của đơn vị:
"Toàn sư đoàn có nhiều tiến bộ. Chúc năm mới, Bác dặn mấy điểm:
1 Ra sức làm tròn nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và tham gia đấu tranh thống nhất nước nhà.
2. Thi đua thực hiện cuộc vận động xây dựng quân đội năm 1964.
Chúng tôi đặc biệt chú ý đến điều Bác dặn "luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàn nhận nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho".
Ngày 27-3-1964, Bác Hồ triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, động viên toàn dân đoàn kết một lòng kiên quyết chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cùng ngày Đảng bộ sư đoàn chúng tôi họp đại hội lần thứ tư, tất cả đều nhất trí xác định toàn sư đoàn chuẩn bị đầy đủ mọi mặt, sẵn sàng lên đường chiến đấu.
Đến lúc này cuộc sống hoà bình chỉ còn giữ lại ở cái dáng vẻ bề ngoài, chúng tôi thực sự đã bước vào trạng thái thời chiến.
Với cán bộ cao cấp chúng tôi, thì ngay từ năm 1955 đã được chuẩn bị tư tưởng về một cuộc chiến đấu mới đang được bắt đầu.
Trong các cuộc hội nghị quân chính, các đợt tập huấn và diễn tập tham mưu, được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đến thăm hỏi động viên, nói chuyện, giao nhiệm vụ. Sau những lần như thế, trong nếp nghĩ của chúng tôi hình thành ngày một sáng rõ: về chức năng nhiệm vụ của quân đội là ở chiến trường, mà chiến trường lúc ấy là miền Nam thân yêu đang bị bọn xâm lược Mỹ và tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm thống trị.
Riêng tôi đầu năm 1963 được trên đưa vào danh sách đi B (1) đợt đầu nhưng vì bị viêm dạ dày cấp nên tạm ở lại đi đợt sau.
Từ đây tôi đã thực hiện một kế hoạch do mình đặt ra, là theo dõi sát sao tình hình chiến sự ở miền Nam, qua đó có thể rút ra bài học bổ ích. Đọc báo, nghe đài, qua các bản tin lưu hành nội bộ tôi thấy lực lượng của ta ở trong đó đánh cấp tiểu đoàn, trung đoàn còn ít, càng chưa thấy đánh địch nhiều trong công sự vững chắc. Hẳn là phải có nguyên nhân, nhưng làm sao mà biết được.
Qua hiện trạng này tôi tự nhủ, mình cần tìm đọc nhập tâm các tài liệu giáo khoa quân sự, tổng kết quân sự, hình thành hệ thống trong đầu óc các vấn đề, khi được vào phổ biến lại cho anh em trong đó vận dụng, may ra có ích.
Tháng 10 năm 1964, sau lần được dự buổi Bác Hồ gặp mặt thân mật số cán bộ cao cấp trước khi lên đường vào Nam chiến đấu ở nhà khách Bộ Quốc phòng 33 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội, ý thức sống thời chiến trong tôi càng trỗi dậy mạnh mẽ.
Hôm đó anh Tố Hữu được Bác giới thiệu đọc bài thơ "Hãy nhớ lấy lời tôi" mà anh vừa sáng tác. Mọi người như được tiếp thêm lửa qua các vần thơ mà đến nay tôi vẫn nhớ:
Anh đã chết, Anh Trỗi ơi có biết,
Máu kêu máu, ở trên đời tha thiết!
Du kích quân Ca-ra-cát đã vì Anh.
Bắt một tên giặc Mỹ giữa đô thành.
Anh đã chết, Anh chẳng còn thấy nữa.
Lửa kêu lửa, giữa miền Nam rực lửa.
Từ buổỉ được gặp Bác, trở về sư đoàn tôi vẫn tiếp tục chuẩn bị một cách âm thầm nhưng cụ thể hơn, tích cực hơn.
Ngày nào tôi cũng dậy trước 4 giờ sáng tập đeo gạch đi từ Phổ Yên lên Đồng Quang và ngược lại, cứ thế kéo dài suốt hai tháng, thành quy luật, khiến công an huyện Phổ Yên sinh nghi, vào sư đoàn hỏi:
- Hình như trong đơn vị các anh có người mang hàng lậu?
- Không có - Đồng chí trực ban trả lời.
- Nhưng sáng nào cũng có người từ sư đoàn đi ra, đeo vật gì rất nặng.
- À đúng rồi, đấy là đại tá tư lệnh Hoàng Cầm tập hành quân mang nặng để chuẩn bị đi B đấy.
- Sao các anh không cho địa phương biết. Đồng chí công an hỏi tiếp.
Nếu thế thì còn gì là bí mật quân sự nữa.
Đoạn đối thoại trên do đồng chí trực ban thuật lại khi tôi vừa kết thúc buổi tập trở về.
Cuối tháng 12 là mùa chuyển quân lý tưởng, nhưng với tôi vẫn không thấy động tĩnh gì.
Không nản, tôi van tiếp tục tập luyện theo chương trình đã định.
Một hôm thấy tôi trở về, mồ hôi đẫm áo, vợ tôi vừa cừơi vừa trêu:
- Ế rồi! Hàng kém phẩm chất, không ai dùng đâu!

Chú thích:

(1) Đi vào miền Nam.

CHƯƠNG 7

Vào trận.
Ấy là vào lúc quá nửa đêm ngày 10-1-1965, có tiếng gõ cửa và tiếng gọi quen thuộc của đồng chí cảnh vệ.
Tôi dậy mở cửa thì có cả người thứ hai cùng đồng chí cảnh vệ bước vào. Đồng chí thiếu tá trang phục gọn gàng mang theo cả súng ngắn K59, dáng vẻ khẩn trương vừa giới thiệu mình là người của Cục Cán bộ vừa đưa cho tôi phong thư của anh Vịnh gửi và nói rất gọn với giọng nhấn mạnh:
- Anh Vịnh (1) cho tôi đưa xe lên đón anh về Hà Nội trước 4 giờ sáng.
Đọc thư anh Vịnh được biết các anh trong Thường trực Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ định tôi đi B. Giờ giấc có mặt ở Hà Nội như đồng chí thiếu tá đã báo.
- Không phải chuẩn bị gì? - Tôi hỏi đồng chí thiếu tá.
Báo cáo anh, mọi thứ Bộ Tổng Tham mưu đã chuẩn bị đầy đủ Nhìn đồng hồ lúc này chứa đến hai giờ, tôi gọi vợ dậy báo tin, thì nhận được phản ứng, tưởng tôi nói đùa.
- Bao nhiêu ngày chuẩn bị đều không đến lần, nay nửa đêm lại đi có mà hâm - rồi vợ tôi như đắc thắng hỏi dồn - Ai gọi anh?
Tôi ôn tồn nói:
- Đi thật mà, có lệnh đây - Thư anh Vịnh cho người mang lên.
Đọc xong thư, đột ngột và xúc động vợ tôi khóc hơi to, phá cái yên tĩnh trong căn nhà, khiến chị gái tôi từ quê vừa lên thăm cháu khi chiều ngủ ở phòng bên thức giấc hỏi:
- Có gì mà cậu mợ to tiếng thế?
Cả cháu gái Hà cũng thức dậy chạy đến bên tôi, hỏi:
- Bố mẹ đánh nhau hay sao mà khóc.
Rồi cháu tung tăng chạy ra ngoài xem, vội vào ngay, ngây thơ reo lên:
- Không phải xe của đơn vị bố đâu. Xe này đẹp lắm, bố đi công tác nước ngoài hả bố?
Yên tĩnh đã trở lại, tôi nói với vợ:
- Gấp rồi, em có gì chuẩn bị cho anh lên đường không?
Vợ tôi bối rối và lúng túng, rồi chợt nghĩ nhanh:
- À, có cái này – vợ tôi vừa nói vừa đến bàn mở lồng bàn reo lên - Có chân giò luộc sẵn, anh mang đi ăn đường.
Vừa nói vợ tôi vừa lấy giấy gói chân giò bỏ vào túi xách của tôi (Khi vào Nam thuật lại chuyện này, anh em tặng cho cái tên Năm Giò heo sau đổi thành Năm Thạch - Thạch là tên con trai đầu của tôi).
- Ăn sao được, mà có đói đâu!
Vợ tôi buồn, thất vọng lại càng lúng túng, bất lực.
- Có tiền cho vài đồng xuống Hà Nội ăn quà sáng vậy - Tôi gỡ bí cho vợ.
Rút ngăn kéo, vợ tôi reo lên, như đáp ứng đúng yêu cầu của tôi:
- Còn 5 đồng anh ạ!
Tôi nhận cho vợ vui, xuống đến Hà Nội tặng luôn cho đồng chí lái xe.
Đã chuẩn bị trước một tổ tâm giao gồm có Chú, trinh sát, Đắc thư ký cùng đi với nhau khi có lệnh, nhưng lệnh đi gấp thế này sao mà chuẩn bị kịp. Vả lại lúc này Đắc sắp cưới vợ, Chú ốm đi viện. Trước khi đi tôi tranh thủ ghi vài dòng để lại động viên, chuẩn bị sẵn sàng, khi có điện của tôi từ trong đó ra yêu cầu là lên đường được ngay.
Xem đồng hồ còn 5 phút, tôi tranh thủ nhắn nhủ vợ con:
- Vào trong đó thư từ liên lạc ra khó, ở nhà mọi việc đã có tổ chức lo, nhưng mình tự lực vẫn là hơn. Em nên thu xếp về thị xã Vĩnh Yên, có điều kiện gần ông bà ngoại lúc sớm tối, vì chị đã già yếu không ở lâu giúp đỡ vợ chồng mình được.
Vợ tôi khóc, không nói cứ ấn cái chân giò vào túi xách của tôi (chân giò mua hồi chiều, luộc sẵn chuẩn bị bữa ăn trưa ngày mai, chủ nhật). Tôi cũng thực sự xúc động về tình cảm dồn nén của vợ đã dành cho tôi bằng sự im lặng, không muốn tôi phải bận tâm một điều gì trong giờ phút cần phải thanh thản và cứng rắn này. Phút yên lặng tiếp tục trôi nhanh, vợ tôi cố nén tiếng sụt sùi nhưng nước mắt cứ trào ra, chỉ hỏi: "Đã đến giờ chưa anh?".
Tôi trả lời "chưa" - đúng là thời gian còn cho phép tôi ngồi lại với vợ chỉ còn 5 phút, để nói với nhau những điều cần nói.
Nhưng chẳng ai nói được điều gì. Lần đầu tiên được nghe vợ khóc không phải vì xô xát, đổ vỡ mà là tiếng khóc thương cảm, lưu luyến của đạo vợ chồng, của lo toan và trách nhiệm, vì một mình với năm con nhỏ sẽ chống đỡ thế nào với cuộc sống, công tác (vợ tôi lúc này là nhân viên của phòng tài chính huyện Phổ Yên), với cả tình hình đất nước đang rất căng thẳng: không quân Mỹ đã bắt đầu đánh phá miền Bắc, cuộc sống thời chiến đang đến gõ cửa từng nhà, ở bất cứ đâu. (Sau này được biết những ngày vất vả lo toan ấy vợ tôi đã sút 8 cân).
Giờ lên đường đã đến. Thế là chưa đầy một tiếng, mọi chuyện chung riêng đã xong.
Tạm biệt vợ con, tạm biệt các anh trong Bộ tư lệnh sư đoàn.
Tạm biệt phố Phổ Yên còn nghèo về vật chất mà gịàu tình nghĩa, đã để lại trong tôi những kỷ niệm không quên về những ngày hoà bình ngắn ngủi, đã giúp đỡ gia đình tôi thật nhiều trong những ngày tôi đi xa.
Đường vắng, xe chạy nhanh đến Hà Nội trước 4 giờ sáng.
Thực hiện quy ước, tôi tranh thủ ghé thăm anh Tô Ký - như đã hứa đi hay không cũng đến báo tin.
Được biết tôi lên đường ngay sáng nay, anh rất vui, lúc chia tay anh rơm rớm nước mắt. Lấy khăn tay lau vội, anh nói:
- Lời hứa hai nay được một. Đến nơi nhớ kêu tôi cùng vô nghe!
Tôi bắt tay tạm biệt. Anh bước theo giúi vào tay tôi chiếc đồng hồ:
- Kỷ niệm, vào trong đó làm phương tiện tính toán hiệp đồng.
Tôi xúc động muốn khóc:
- Cám ơn anh!
Năm 1960 - 1961 tôi và anh Tô Ký cùng học một lớp quân sự cao cấp ở nước ngoài. Anh đinh ninh nếu cuộc chiến đấu ở miền Nam nổ ra, anh sẽ là người lên đường trước, vì quê anh ở vùng Hóc Môn, Gò Vấp. Trong kháng chiến chín năm anh chiến đấu nhiều ngày ở quanh vùng Sài Gòn và Đông Nam Bộ. Hai chúng tôi hiểu nhau, thân nhau, hẹn khi lớp học bế giảng, anh vào trước thế nào cũng điện ra xin tôi vào cùng nhau cộng tác.
Nhưng khi khoá học chuyển sang khoa nghệ thuật chiến dịch thì anh bị đau dạ dày nặng, thuộc loại vĩnh viễn không đi được.
Tạm biệt anh Tô Ký, xe đưa tôi về nhà anh Vịnh.
Như đã chờ sẵn, thấy tôi vừa ra khỏi xe, anh Vịnh đến, cầm tay lắc mạnh và biểu dương:
- Rất đúng giờ.
Anh Vịnh mời tôi ăn sáng và tranh thủ phổ biến công việc.
Theo yêu cầu đích danh của anh Nguyễn Chí Thanh điện ra, trên quyết định anh vào chiến trường Đông Nam Bộ. Cụ thể thế nào vào trong đó sẽ rõ. Cùng vào với anh còn có một người nữa cũng tập trung ở đây sau đó đi luôn. Thời gian không còn nhiều.
Chờ đến 6 giờ thì có tiếng còi ô tô ở ngoài cổng. Nhìn ra đã thấy anh Trần Độ từ xe bước xuống với tư thế gọn gàng, không có hành lý mang theo. Tôi ngầm phán đoán - người cùng đi chắc là anh Trần Độ.
Tôi ra cửa đón anh với tình cảm ấm áp:
- A! Thế ra chúng ta cùng đi?
Anh Trần Độ nét mặt rạng rỡ, nắm chặt tay tôi:
- Mình chỉ được báo cùng đi với một đồng chí quan trọng, té ra là ông! Đúng là quả đất tròn.
- Anh Tấn đã vào trước - Tôi đế vào.
- Đúng, cả Bộ chỉ huy Sư đoàn 312 cũ lại có mặt đầy đủ!
Hai chúng tôi sang gặp anh Văn. Thời gian còn lại rất ít, anh chỉ dặn, cần giữ gìn sức khỏe, đoàn kết, khiêm tốn. Làm nhiệm vụ gì, làm như thế nào, đã có anh Nguyễn Chí Thanh.
Sau cùng anh nắm chặt tay chúng tôi, chúc lên đường thắng lợi.
Xe đưa chúng tôi ra sân bay Gia Lâm. Chiếc máy bay AN-26 trực sẵn, khi chúng tôi ngồi vào hàng ghế, thắt đai bảo hiểm xong thì cũng là lúc máy bay cất cánh, hơn một giờ sau hạ cánh xuống sân bay Quảng Châu. Tại đây cái hăm hở đi tiếp phải tạm hoãn vì có trục trặc "kỹ thuật". Sang đến ngày thứ năm vẫn im ắng, chúng tôi định điện về báo cáo cụ thể, sau nghĩ lại như vậy sẽ lộ bí mật. Đốt thời gian, chúng tôi đi tham quan thành phố. Đi mãi cũng chán, tiền không có càng chán, đành nằm khàn, kiên nhẫn chờ.
Sang đêm thứ chín mới có lệnh chuẩn bị. Sáng sớm hôm sau, chưa rõ mặt người hai chúng tôi được phổ biến kế hoạch hành quân chính thức: đường đi sẽ qua Hoàng Sa, Trường Sa, cần phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó. Anh Trần Độ đóng vai công nhân thợ máy, tôi công nhân đốt lò trên chiếc tàu buôn Trung Quốc chở thiết bị đường sắt xuất khẩu sang Campuchia.
Gần một tuần lễ lênh đênh trên biển cả, cảnh vật đơn điệu chỉ có nước và mây, không khí căng thẳng nhiều hơn là thanh bình, vì tàu của hạm đội 7 Mỹ giăng ra sục sạo nhiều, chúng tự đặt cho mình cái quyền tự do khám xét, bắt giữ các tàu lạ, kể cả tàu của các hãng vận tải biển quốc tế. Trước khi về đích, tàu của chúng tôi phải vòng sát Singapore rồi mới quặt lại hướng đông-bắc, chắc là đề phòng địch theo dõi.
Sang ngày thứ tám, tàu cập cảng Công-pông-xom (trước gọi là Xi-ha-núc-vin).
Mọi thứ nhất nhất chúng tôi đều làm theo sự chỉ đạo vô hình nào đó nhưng rất chặt chẽ, cụ thể và khoa học.
Như thường lệ chúng tôi ăn sáng, nhưng bữa nay ngon hơn, ăn được nhiều hơn, có lẽ vì đã được hưởng không khí của đất liền, quan trọng hơn là sắp được gặp bạn bè đồng chí, được gặp cấp trên giao nhiệm vụ cụ thể.
Khoảng 9 giờ sáng, Đại sứ Trung Quốc tại Campuchia, đúng hẹn đi chiếc xe du lịch màu lam xuống cảng, đã chờ sẵn ngay lối lên xuống cầu tàu. Theo sự chỉ dẫn của bạn, hai chúng tôi khẩn trương lên bờ vào xe ngay, chưa kịp đóng cửa, xe đã lăn bánh, tư trang hành lý đành bỏ lại dưới tàu.
Xe đi bốn người, để lại hai người, thay bằng hai chúng tôi để khi hải quan bến cảng kiểm soát lúc xe vào bốn, khi trở ra vẫn đủ bốn, thế là được.
Qua khỏi bến cảng xe phóng với tốc độ nhanh, chủ khách đều im lặng không chuyện trò, vì vẫn phải cảnh giác. Vả lại chúng tôi không biết nói gì lúc này. Bình cảnh vật trên đường ư, đây là lần đầu mới qua. Hỏi chuyện chủ ư, biết thế nào mà hỏi vì ngôn ngữ bất đồng.
Không khí yên lặng. Chỉ còn tiếng động cơ và tiếng bánh xe lăn. Tất cả đều nhìn về phía trước một cách chăm chú và cảnh giác. Ai nấy đều thầm mong tới đích an toàn càng sớm càng tốt.
Cảnh vật cứ xuất hiện, lùi nhanh về phía sau. Độ khoảng 200 ki-lô-mét có một lối rẽ theo mũi tên chỉ dẫn - đường đi Phnôm Pênh, chợt thấy có một xe ô tô chờ sẵn. Trong xe có hai người lớn và hai cháu nhỏ.
Chúng tôi được lệnh chuyển xe. Vừa ra khỏi xe này thì có tiếng từ xe chờ sẵn:
- Mời hai bác lên xe.
Để chúng tôi yên tâm và khẩn trương thực hiện, người đàn ông ghé sát tai tôi nói nhỏ:
- Tôi là cơ sở được lệnh đến đón các anh, mời hai anh lên xe ta đi ngay.
Người đón chúng tôi là vợ chồng đồng chí Ba Dâu và hai con nhỏ, làm như gia đình thương gia giầu có đi vãn cảnh đẹp.
Tôi bế một cháu nhỏ vào lòng. Từ đây chủ khách hiểu nhau, chuyện trò thoải mái. Ba Dâu cho biết trên đường đi phải cảnh giác, khi về đến Phnôm Pênh là các anh được sống tự do thoải mái nhưng không được ra ngoài.
- Đã tự do thoải mái lại không được ra ngoài, sao mâu thuẫn vậy? - Anh Trần Độ hỏi.
- Sợ các anh lạc, khi có lệnh chuyển chỗ biết đâu mà tìm.
- Các anh đã đón đoàn nào từ miền Bắc vào chưa? - Tôi hỏi tiếp.
- Nhiều rồi - tỏ vẻ tự hào, Ba Dâu kể tiếp - Có cả đoàn anh Sáu Di.
- Sáu Di nào?
- Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đó.
Đúng là về đến đây cuộc sống có dễ chịu hơn. Chúng tôi mở đài nghe tin tức phát đi từ Hà Nội vì đã gần tháng xa miền Bắc, xa Thủ đô.
Ba Dâu đến can:
- Đề nghị các anh không nên mở ra-đi-ô, vì đây là cái kho chứa hàng của chủ một hãng buôn người Hoa ngay trung tâm thủ đô, tụi tôi đang danh nghĩa là người làm thuê, sợ tụi chúng ở trên lầu để ý.
Chúng tôi nghiêm chỉnh thực hiện ngay, chỉ trách nhẹ Ba Dâu:
- Sao anh không nhắc trước.
- Xin lỗi tôi có sơ suất mong hai anh thông cảm - Ba Dâu nói.
Nghỉ hôm trước, hôm sau chủ nhật hai xe ô tô du lịch sang trọng màu sữa đến đón chúng tôi xuôi theo đường 7 về Công Pông Chàm. Đến điểm hẹn quá sớm, mặt trời mới xế chiều. Nhưng đồng chí lái xe hình như đã quen với tình huống này, liền tự động cởi quần áo ngoài, xoay trần người chui vào gầm xe hết vặn lại gõ như người chăm chú, cần mẫn chữa xe hỏng thật. Còn hai chúng tôi trong bộ áo quần thương gia trong khi chờ đợi xe đi ngoạn cảnh đẹp đồng quê, không phải giả mà thích thú thật vì lần đầu được tận mắt nhìn thấy rừng cao su, thấy cây tiêu và cây thốt nốt.
Rồi xem cả thanh niên địa phương đấu bóng.
Nhưng màn kịch đóng quá lâu mà vẫn không thấy tín hiệu gì trời lại sắp tối. Đã nghĩ đến chuyện quay lại nơi xuất phát, song đêm tối thế này sao đảm bảo được an toàn. Đang lúc tính tính tới lui như thế thì nhận được tín hiệu người của ta đang từ xa tới. Tất cả còn trẻ, nhưng lanh lợi, hoạt bát, rất tinh thông với nhiệm vụ dẫn đường.
Đến gần chúng tôi, ngay từ phút đầu các đồng chí không tỏ ra cởi mở, không cả thăm hỏi xã giao, chỉ cộc lốc một câu: "Đi thôi các chứ". Nói xong các đồng chí khoác tay hai chúng tôi lôi đi rất nhanh. Tất cả đều trong im lặng (chạy thì đúng hơn) khoảng 500 mét, bỗng các đồng chí reo lên:
- Đất ta, an toàn rồi các chú!
Nói xong, các đồng chí rời tay chúng tôi, tất cả đi bình thường.
Chúng tôi được đưa vào trạm đón tiếp đầu tiên của Trung ương Cục đặt ở khu vực Cà Tum - Tân Biên.
Người đón chúng tôi ở đây là anh Huỳnh Khánh Minh, thư ký của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.
Ngay từ phút đầu đã tay bắt mặt mừng, chuyện trò rôm rả, cười nói hết cỡ, chẳng còn phải đắn đo như những ngày đi đường. Các anh ở trong này muốn biết đủ thứ chuyện miền Bắc, chúng tôi cứ thay nhau trả lời như là trả lời phỏng vấn, mệt nhưng vui.
Đến lượt chúng tôi, câu đầu tiên hỏi:
- Đời sống trong này thế nào - Ý muốn hỏi đời sống nhân dân nói chung.
Các đồng chí trong này lại muốn đi vào cụ thể, ngay ở cái trạm đón khách này. Các đồng chí giới thiệu tình hình đơn vị nùnh không đến nỗi nào.
Anh Huỳnh Khánh Minh trả lời:
- Khác xa ngoài đó, nhưng không sao - Anh Minh nói tiếp - Cứ yên tâm đi, chút xíu nữa sẽ biết khác.
- Khác cụ thể là thế nào? - Tôi hỏi lại.
Một đồng chí giao liên chen vào:
- Khác xa là khác - rồi anh ngâm:
Tối buồn làm bát cháo gà
Sáng dậy được uống chén trà Thái Nguyên.
Anh Minh tiếp lời:
- Bây giờ trời đã tối, xin mời các anh làm bát cháo gà để lấy lại sức khỏe khi đi đường.
Ngay tối hôm đó chúng tôi được cấp phát quần áo bà ba đen thay cho bộ âu phục thương gia, dép râu thay cho giày da. Và mỗi người còn được trang bị một xe đạp cải tiến, không phanh, không gác-đờ-bu là phương tiện hành quân ngày mai.
Hôm sau ăn sáng và được chiêu đãi chè Thái Nguyên xong, chúng tôi tiếp tục lên đường về hướng trụ sở Trung ương Cục.
Mới qua 10 ki-lô-mét chúng tôi đành quay ra cuốc bộ, giã từ xe đạp vì không quen điều khiển, nếu đi nữa càng xe đập vào mắt cá chân gây đau thêm.
Lần đầu tiên đi trên đất Đông Nam Bộ, cảnh quan lạ nhiều hơn là quen. Rừng rậm mà bằng tưởng như vườn rậm ngoài Bắc, khi qua trảng tưởng như sân vận động bỏ hoang, qua bàu (hồ nhỏ) tưởng như đang ra cửa rừng, không khí bỗng thoáng mát dễ chịu. Những cây gỗ to, cao, thẳng, tán rộng, lạ cả về hình thù và tên gọi, như sao, dầu, săng lẻ, dền dền (như xà cừ), gõ (như gụ), bõ, bằng lăng, cầy. Qua các làng mang tên chữ số như làng Tám, làng Mười chưa nghe qua bao giờ (sau mới biết đó là nơi ở của đồng bào miền Bắc vào làm phu cao su cho bọn chủ đồn điền người Pháp, bị chúng dồn đẩy vào từng khu vực, có đánh số thứ tự để tiện theo dõi, đốc thúc, đàn áp nếu ai có hành động phản kháng).
Xế chiều chúng tôi tới Trung ương Cục. Tại đây được gặp đông đủ các anh Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà, Phan Văn Đáng, Lê Trọng Tấn, Văn Phác.
Hai chúng tôi lại gặp may, được các anh trong Trung ương Cục chiêu đãi một bữa thật đã, thịt bò tái.
Vào bữa anh Thanh hỏi vui:
- Các cậu có thích thưởng thức món thịt tái không?
- Dạ, có - Tôi trả lời.
- Nhưng trong này chỉ có tái nhúng.
- Tái nhúng là gì, xin anh giải thích.
- Là bò nhúng nước sôi.
- Sao ở đây giữa rừng hoang lại có bò.
- Bò rừng.
Tôi cứ đinh ninh đây là thịt bò chính hiệu, nhưng sau các anh giải thích "bò rừng" tức là chú "nai vàng ngơ ngác" khi chiều không biết từ đâu tới lọt đúng vào đường ngắm của tổ cảnh vệ.
Anh Thanh còn nói vui: số các cậu may đấy. Tại Sài Gòn có tiền cũng không được đã đời như thế này.
Những năm tháng chiến đấu ở mặt trận Tây Bắc năm xưa, chúng tôi thường hay được cải thiện bằng các loại đặc sản hươu, nai, hoẵng, lợn rừng, có khi cả hổ, gấu. Nhưng thời gian đã lùi xa, không còn cảm giác. Vả lại lần đầu ăn theo kiểu tái nhúng(2) khó mà phân biệt được bò rừng hay bò nhà.
Người ăn gắp thịt bỏ vào canh chua được nấu sôi bằng bếp lò, sau 3 đến 5 phút gắp ra dùng bánh tráng kèm theo rau thơm cuốn tròn như chả nem chưa rán. chấm với mắm nêm.
Đây là một kỷ niệm nhỏ khó quên khi lần đầu tôi đặt chân lên mảnh đất miền Đông Nam Bộ.

Chú thích:

(1) Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, Trưởng ban Thống nhất Trung ương Đảng.
(2) Thịt bò loại ngon được thái miếng mông dài khoảng 4 đến 5 xăng-ti-mét bày lên đĩa.

CHƯƠNG 8

Sáng nay anh Thanh cho gọi chúng tôi lên làm việc. Có cả anh Trần Văn Trà, Văn Phác cùng dự. Với tôi đây không phải là lần đầu nghe tiếng anh, được gặp anh. Hồi ở ngoài Bắc trong các chiến dịch Biên Giới, Trung Du, Tây Bắc chúng tôi đã được biết anh, tiếp nhận những ý kiến chỉ đạo của anh trên cương vị chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Những lần gặp anh sau này, lúc anh đến thăm sư đoàn tôi càng thấy được đức tính rất quý của anh, trong những điều anh muốn biết trước hết, đó là tình hình thực tế, là những khó khăn cụ thể, không chỉ cho anh mà cho cả cấp trên đều biết để có biện pháp giải quyết. Trước khi vào đây tôi được nghe kể những ngày đầu anh nhận trách nhiệm Bí thư Trung ương Cục, anh dành nhiều thời gian tìm hiểu thực tế, anh đi chân đất, đầu đội nón giả làm dân ruộng lội khắp vùng ven đô để hiểu dân, nắm địch, biết đặc điểm địa hình địa vật.
Anh đã có mặt ở khắp nơi, quân khu, quân binh chủng, xuống đến cả tiểu đoàn, đại đội trong những năm tháng quân đội bước vào thời kỳ xây dựng tiến lên chính quy hiện đại Từ tình hình thi đua tốt của một đại đội, anh nhân rộng ra toàn quân, biến thành phong trào thi đua "Ba nhất", tạo nên một khí thế mới trong nhiệm vụ xây dựng quân đội củng cố quốc phòng, góp phần đưa quân đội tiến lên những bước vững chắc.
Bất cứ ở đâu, trên lĩnh vực nào anh cũng phát hiện ra những vấn đề, những nội dung mới của sự vận động và kèm theo là những kiến giải thích hợp.
Từ quân đội chuyển sang phụ trách nông nghiệp, anh thích ứng nhanh và đưa ra các tường trình ăn, mặc thiết thực, phù hợp với điều kiện miền Bắc lúc bấy giờ. Anh đã nghĩ dùng đay lanh thay vải để giải quyết vấn đề mặc, đang gặp nhiều khó khăn lúc đó.
Từ nông nghiệp về lại quân đội, được chỉ định phụ trách chính uỷ Quân giải phóng miền Nam, anh đã có một đáp số cực kỳ chính xác:
- Mỹ vào ta làm cách sao?
- Tiến công.
- Đánh Mỹ như thế nào?
- Cứ đánh Mỹ sẽ tìm ra cách đánh Mỹ.
Và từ trong tiến công đối phó thắng lợi hai cuộc phản công chiến lược mùa khô của Mỹ (1965 - 1966) và (1966 - 1967) anh đã viết một loạt bài bình luận quân sự lấy bút danh Cửu Long, Trường Sơn, gây chấn động trong công luận thời đó. Nó không những củng cố lòng tin một cách khoa học cho quân và dân ta về cuộc chiến đấu không cân sức, mà còn là những vấn đề mang tính chỉ đạo chiến lược nghệ thuật chiến dịch, bài học về chỉ huy chiến đấu, có giá trị chỉ đạo thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho đến ngày toàn thắng - mùa Xuân 1975.
Kẻ địch phải kiêng nể về các vấn đề tổng kết rút ra qua hai cuộc phản công mùa khô. Chúng giật mình vì đối phương đã chỉ ra một cách thuyết phục con đường nhất định thất bại của chúng. Đã có tên trong hàng ngũ tướng tá Mỹ tò mò tìm hiểu ai là tác giả của những bài báo đó.
Là một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và quân đội nhưng anh Thanh chan hoà vào cuộc sống đời thường, giản dị, khiêm tốn. Anh yêu cầu tổ chức đối với vợ anh, con anh không có cái gì khác biệt trong lúc anh đi xa. Cũng bởi lẽ đó mà bài nói chuyện "Chống chủ nghĩa cá nhân" của anh trong một lớp học của cán bộ trung cao cấp hồi 1958 - 1960 có giá trị thuyết phục rất cao đối với mọi người. Ai cũng thấy mình có khuyết điểm, ai cũng thấy mình bị anh phê phán, nhưng ai cũng vui vẻ chấp nhận vâ muốn tìm đọc chuyền tay nhau bài nói của anh, vì anh nêu vấn đề rất đúng, anh phân tích rất sâu, anh đề ra biện pháp khắc phục có lý có tình.
Hôm nay anh gọi tôi lên giao nhiệm vụ. Được dịp ngồi bên anh tại trụ sở Trung ương Cục, một căn nhà nhỏ lợp lá trung quân nằm dưới tán rừng già ở Đầm Đun giữa vùng chiến khu C lịch sử, trong tôi cứ trào dâng một tình cảm khó tả. Anh vừa là cấp trên kính trọng, vừa là người anh trìu mến. Anh điện ra xin đích danh tôi vào, đó là một phần thưởng quý giá nhưng cũng lâ nỗi lo đang đặt ra với tôi. Ngay lúc này đây đang phải chuẩn bị những điều anh hỏi, đang phải tính sao tiếp nhận những điều anh giao, vậy mà tôi vẫn cứ tự nhủ mình: Phải làm gì đây để khỏi phụ lòng anh trong những tháng năm ở trong này?
Mới chỉ hơn một năm xa anh, nay gặp lại thấy anh già và gầy đi nhiều. Da sạm đen và môi thâm đậm, nhưng cặp mẩt vẫn sáng thông minh, sâu thẳm. Có lẽ phần vì nắng gió khắc nghiệt của mùa khô ở Đông Nam Bộ, phần vì sốt rét rừng đã thâm nhập nơi cơ thể, trên hết là do suy tư, lo nghĩ việc chỉ đạo điều hành cuộc chiến đấu, mà anh là một trong số những đồng chí lãnh đạo giữ trọng trách chủ yếu.
Buổi làm việc hôm nay diễn ra trong không khí bình đẳng, thân tình, dân chủ, thoải mái, như một cuộc hội thảo khoa học về những vấn đề thực tiễn đang đặt ra cần phải giải quyết hơn là buổi cấp trên giao nhiệm vụ cho cấp dưới.
Mở đầu buổi làm việc, với giọng tâm tình, anh Thanh nói:
- Các đồng chí vào đây là để cùng với trong này xây dựng lực lượng chủ lực và tổ chức chiến đấu. Địch đang phát triển "chiến tranh đặc biệt" ở mức cao (1) và chúng định thắng ta trong loại chiến tranh này. Làm tốt nó chịu nhưng cũng phải có kế hoạch dự phòng chứ. Đến đây tay phải anh giơ cao, năm ngón tay xòe ra lên xuống như chém vào không khí, nét mặt kiên nghị, lạc quan. Anh nhấn mạnh, như để khắng định: Phải sẵn sàng đánh thắng "chiến tranh đặc biệt", mà muốn thắng loại chiến tranh này phải đưa bộ đội chủ lực ra chiến đấu, tiến tới xây dựng những quả đấm chủ lực đánh dập xương sống của "chiến tranh đặc biệt" là quân chủ lực nguỵ. Bỗng anh nhìn thẳng vào tôi và anh Trần Độ như một sự trao đổi - chúng ta, cả tôi, đều là "tân binh" mới vào, nhận thức và tầm nhìn qua các cuộc hội nghị, các lớp tập huấn ngoài dó, được Trung ương, Bộ Chính trị trang bị, nhưng thực tiễn chiến trường lại sống động vô cùng, nên càng phải đi sâu vừa xây dựng tổ chức chiến đấu vừa qua đó nắm quy luật địch, vì đối tượng bây giờ là Mỹ, nguỵ cũng do Mỹ dựng lên; phải nghiên cứu cả đặc điểm của cán bộ, chiến sĩ người Nam Bộ, cùng chung đất Tổ vua Hùng nhưng cũng có những đặc điểm riêng.
Thấy vậy, anh Trần Văn Trà tư lệnh Quân giải phóng miền Nam xen vào:
- Trung ương và Bộ tư lệnh Miền đang bàn đẩy mạnh chủ trương xây dựng chủ lực thì các anh vào. Thật là đúng lúc. Trong này hiện đang có hai ý kiến - phái cán bộ chính trị nhất trí với Trung ương, với Bộ Chính trị cần thiết phải xây dựng lực lượng chủ lực mạnh.
- Đúng! - Anh Thanh nhấn mạnh - Trong công cuộc chống ngoại xâm của dân tộc, không thấy sự kiện lịch sử nào kết thúc thắng lợi bằng đánh nhỏ Nếu không có trận Bạch Đằng Giang lần thứ nhất do Ngô Quyền chỉ huy thì làm sao quân Nam Hán chịu thua, chấm dứt hơn 1.000 năm nước ta bị Bắc thuộc, mở đầu kỷ nguyên độc lập dân tộc. Nếu không có trận phản công chiến lược của nhà Trần ở Bạch Đằng Giang, thì làm sao đánh bại được ý chí xâm lược lần thứ ba của quân xâm lược Nguyên - Mông.
Anh Trần Văn Trà lại nêu tiếp loại ý kiến thứ hai của số đông cán bộ quân sự, với lý lẽ ở An-giê-ri người ta có trung đoàn đâu mà vẫn thắng Pháp. Vì vậy không nên xây dựng chủ lực tốn kém lắm, hiện đã có mấy trung đoàn nhưng đánh chác có ra gì (?!).
Đúng là ở chiến trường Nam Bộ suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, mãi đến trước khi xảy ra chiến dịch Bình Giã về tổ chức chủ lực có lúc cao nhất là trung đoàn nhưng rất ít nên thực tế chiến đấu chưa đánh đội hình trung đoàn bao giờ chỉ sử dụng tiểu đoàn là phổ biến, vì thế mới có tiểu đoàn 807 oai hùng biết mấy. Đến đây tự nhiên anh quay sang tôi vỗ vai hỏi:
- Ngoài đó các anh có nghe trận thắng ấp Bắc và Đường Long chưa?
- Có! Chúng tôi đều được thông báo kịp thời, riêng trận Ấp Bắc được thông tin cụ thể hơn - Tôi trả lời.
Anh Trà lại tiếp:
- Đúng là hai trận thắng này đều có ý nghĩa về mặt chiến thuật, thắng lợi là quá rõ, nhưng trong nội bộ chúng ta cần phải nhận chân vấn đề - thắng nhưng không có chủ lực nên không diệt gọn được địch. Gần đây như chiến dịch Bình Giã cũng vậy, lần đầu Đông Nam Bộ đánh cỡ trung đoàn, diệt được nhiều địch, nhưng không tạo được thế, vì chủ lực ta còn yếu. Thôi, đó là chuyện cũ, kể để các anh nghe về những bước thăng trầm trong việc tạo lực của Nam Bộ, nghĩ là thấy thấm và tiếc. Nếu sớm nhận thức được vấn đề thì tình hình sẽ khác. Bây giờ thì khác nhiều rồi, sau Bình Giã ai cũng vui vì thắng lớn, từ đó càng nhận ra sự cần thiết phải xây dựng lực lượng chủ lực.
Cuối cùng như là để kết thúc suy nghĩ của mình, anh Trà nói:
- Về chủ lực sau này Hoàng Cầm lo.
Anh Thanh kết luận bằng một ý đầy hình ảnh.
- Thôi, ta không để cho địch nhai mãi "kẹo cao su du kích" mà chúng chịu thua, nhả mồi ra đâu, trong lúc chúng tiếp tục tăng cường cuộc chiến tranh ở mức cao - các sư đoàn nguỵ còn nguyên vẹn chưa bị đánh.
Không khí buổi giao nhiệm vụ vừa nghiêm túc trên dưới, vừa rất đậm đà tình đồng chí, sôi nổi, hào hứng. Càng vào gần mặt trận, cuộc sống thấy giản đơn đi nhiều, chỉ còn nổi lên tình đồng đội gắn bó. Mặt trời đã gần đỉnh đầu, hoa nắng in hình to nhỏ trên nền đất cứ lung linh qua kẽ lá theo gió, nom ngộ nghĩnh đủ mọi hình thù. Lúc này ở ngoài Bắc vẫn còn gió mùa, bầu trời thấp nặng nhiều mây, đang còn trong khoảng rét Nàng Bân. Còn ở đây khác hẳn. Nắng vàng nhưng không nóng tràn khắp nơi, bầu trời xanh quang, mây như tiết thu vậy. Tôi thấy mình thanh thản và khoan khoái.
Anh Thanh lại mở đầu buổi hội thảo nhiệm vụ chiều bằng tất cả sự sôi nổi, nhiệt tình quen thuộc như khi anh đến nói chuyện với các lớp tập huấn cán bộ cao cấp toàn quân ở ngoài Bắc trong những năm sáu mươi về nhiệm vụ xây dựng quân đội. Anh như muốn giãi bày hết những suy nghĩ dồn nén từ lâu của mình về những vấn đề tạo lực, tạo thế để cùng nhau làm rõ hơn, cùng nhau thống nhất hơn về nhận thức, quan điểm và các phương án tối ưu đánh địch và thắng địch trong thời điểm cuộc "chiến tranh đặc biệt" đang phát triển tới mức cao; đồng thời đã và đang manh nha các yếu tố của cuộc "chiến tranh cục bộ" (2).
Anh nói:
- Làm tốt việc xây dựng bộ đội chủ lực là để tạo lực mới thắng địch. Nhưng vấn đề không đơn giản một chiều, cần phải chuẩn bị thích ứng với hai khả năng - anh dằn giọng nhấn mạnh - Thắng "chiến tranh đặc biệt" để nếu Mỹ vào ngay từ đầu đã mất thế, mà cái thế lúc ban đầu là quan trọng. Còn ta thì có đà phát triển để đánh và đàm đều tốt cả.
Anh cho biết hiện đang có những luồng nhận thức khác nhau quanh việc Mỹ vào. Một là, chưa chắc Mỹ vào - Anh cười - càng tốt chứ sao; Hai là, Mỹ vào. Nhưng ngay khả năng này cũng có các dự đoán khác nhau: có thể đứng sau giữ thế cho nguỵ; có thể yểm trợ trực tiếp bằng không quân, hải quân, có thể Mỹ vào tham gia chữa cháy luôn.
Cuối cùng anh kết luận:
- Dù thế nào thì chúng ta vẫn phải tích cực, khẩn trương chuẩn bị ở mức cao nhất để vừa thắng "chiến tranh đặc biệt", vừa sẵn sàng khi Mỹ vào!
Tôi nêu câu hỏi:
- Báo cáo anh! Chuẩn bị thế nào, chẳng lẽ mải đánh nguỵ, khi Mỹ vào đứng nhìn?
- Hoàng Cầm nêu vấn đề rất đúng - Anh biểu dương tôi và tiếp - Phải chuẩn bị sẵn sàng đánh Mỹ, lúc đầu đánh nhỏ, sau phát triển đánh lớn. Đánh nhỏ nhưng phải thắng, không được đẻ số - Rồi anh nêu câu hỏi - Đánh nhỏ là thế nào?
Anh nhìn tôi như muốn tôi nêu ý kiến trước. Tôi mạnh dạn trình bày:
- Báo cáo anh! Đánh nhỏ phải là cỡ trung đoàn, sư đoàn. Đã là chủ lực theo tôi nghĩ phải đánh cỡ đó.
Anh Thanh nói:
- Đây là một ý kiến. Để có cơ sở, chúng ta chuẩn bị đi dự tổng kết chiến dịch Bình Giã.
Hai ngày sau vẫn bằng phương tiện xe đạp, chúng tôi cùng anh Thanh từ bắc Tây Ninh men theo bắc Bình Dương. Khi qua Dầu Tiếng anh em công nhân cao su dùng ô tô đưa qua đường 13. Dừng lại ở Bến Bung vào một nhà hàng uống nước, thấy có hai lính nguỵ đang ngà ngà say, súng để bên, đầu ngả vào cô chiêu đãi viên. Dân lính, địch ta đụng nhau, có khi lính nguỵ đoán biết có "Việt cộng" đi lẫn trong dân nhưng cho qua vì chúng cũng muốn êm. Dọc đường người xe đi lại tấp nập không khác mấy cảnh ta bắt gặp trên các nẻo đường thuộc vùng tự do Thái Nguyên, vùng giáp ranh Trại Cờ, Đức Thắng (Bắc Giang), Nho Quan (Ninh Bình) như hồi kháng chiến chín năm. Nhưng đây là vùng địch kiểm soát, đồn bót có ở khắp nơi - Tây Ninh, Lộc Ninh, Phước Vĩnh, Bến Cát, Lai Khê. Thật khó mà phân biệt chiến tranh hay hoà bình, vùng ta hay vùng địch. Thế cài răng lược của cuộc chiến tranh ở đây thật kỳ lạ.
Càng đi càng hiểu địa lý đất nước thật phong phú và đa dạng.
Nam Bộ đồng ruộng thẳng cánh cò bay, ngút tận chân trời, nhưng Đông Nam Bộ lại là rừng đại ngàn. Lại nhớ về buổi anh Văn gặp báo dự kiến của Thường vụ Quân uỷ Trung ương xếp tôi vào danh sách những người được cử vào chiến trường Nam Bộ.
- Báo cáo anh tôi quen hoạt động ở rừng núi.
Chưa kịp trình bày nguyện vọng xin được vào Khu 5 hay Tây Nguyên hợp hơn, thì anh Văn hỏi:
- Đông Nam Bộ rừng núi hay đồng bằng?
- Báo cáo, đồng bằng.
- Học lại địa lý đi.
Gần đến địa điểm họp tôi hỏi đồng chí phó phòng tác chiến của bộ tư lệnh Miền làm nhiệm vụ dẫn đường:
- Qua sông Sài Gòn chưa?
- Qua rồi anh ạ? Qua hết cả sông Bé, suối Nhung rồi.
- Sao sông gì mà cạn vậy?
- Báo cáo anh, lúc này đang vào cuối mùa khô.
Một hai năm sau, tôi mới thấy được đặc điểm thời tiết trong này chỉ có hai mùa đối lập nhau. Mùa mưa thì tầm tã, xối xả, dữ dội, nước trút xuống như thác đổ; tràn khắp nơi, dồn xuống sông suối thành những dòng chảy dữ dội, gây tắc nghẽn việc đi lại.
Mùa khô thì nắng chói chang từ tinh mơ đến tận chiều hôm, mặt đất rắn đanh, đường đầy bụi, nước hiếm, cây cỏ khô rang.
Xế chiều chúng tôi đến địa điểm họp, nằm trên một đoạn của suối Nhưng thuộc khu rừng Mã Đà chiến khu Đ, gần thác Trị An.
Lại thêm một ngạc nhiên nữa về thế trận chiến tranh nhân dân ở đất miền Đông. Nơi họp tổng kết chính là "hậu cứ" của các đơn vị vừa tham gia chiến dịch Bình Giã. Nằm giữa vòng vây của quân thù mà các anh vẫn xây cất một khu vực ăn ở đàng hoàng, khang trang, thoáng rộng, sạch sẽ ngăn nắp. Những căn nhà nhỏ xinh dã chiến mà bền, phân tán ẩn mình dưới tán cây mái lợp lá trung quân mịn đẹp - một thứ lá to bằng bàn tay không nát, khó cháy, nếu cháy cũng không bốc lửa. Ở miền Bắc cũng có nhưng không nhiều bằng Đông Nám Bộ, đi đâu cũng bắt gặp, tác dụng của nó đúng như tên gọi, thực sự là "người bạn" của chiến sĩ trên các nẻo đường chiến đấu.
Lúc này phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang thực hiện hai chân (chính trị, quân sự), ba mũi (chính trị - quân sự - binh vận) đang sục sôi khí thế, đạt nhiều hiệu quả. Đi đến đâu cũng được nghe nói đến cụm từ hay hay, dễ nhớ, gợi cách đấu tranh. Ngay tại nơi họp tổng kết cũng được nhắc đến, được kẻ thành khẩu hiệu dán khắp nơi, có người còn đề cao quá mức - cho như một phép màu vạn năng, có sức công phá như bom nguyên tử, phủ nhận việc phát triển bộ đội chủ lực, thực hiện đánh lớn.
Phút đầu gặp gỡ thật xúc động, tưởng lạ mà quen. Vẫn là những người đồng chí chín năm, phần lớn các anh đều tập kết ra Bắc, từng gặp nhau trong các cuộc hội nghị quân chính toàn quân, các lớp tập huấn, các cuộc diễn tập tham mưu và diễn tập thực binh trong binh chủng hợp thành trong thời kỳ toàn quân sôi nổi thi đua xây dựng quân đội tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy hiện đại, nay các anh lại có mặt rất sớm - như những người mở lối đầu tiên trở về theo tiếng gọi của quê hương, Tổ quốc. Đó là các anh Nguyễn Minh Châu, Lê Văn Tưởng, Trần Đình Xu, Nguyễn Văn Bứa, Tạ Minh Khâm, Nguyễn Thế Truyện (tức Năm Sài Gòn). và cả anh Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hoà vào trước cũng được tham dự chiến dịch này. Tuy nước da có đậm màu sương gió, mặt mày hốc hác, nhưng tất cả các anh đếu hiện lên niềm phấn khởi, lạc quan và cả tự hào đã góp phần xứng đáng của mình làm nên một chiến thắng mang nhiều nghĩa lớn.
Mở đầu buổi tổng kết, anh Thanh giới thiệu:
- Lực lượng chiến đấu Bê Hai (3) chúng ta được bổ sung thêm hai chiến sĩ Trần Độ và Hoàng Cầm. - Nhìn xuống phía tôi anh nói tiếp - Hoàng Cầm sư đoàn trưởng Sư 312, chủ lực của Bộ. Tuy chưa là tướng nhưng đã chỉ huy trận đánh bắt sống tướng Đờ Cát-xtơ-ri ở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Những người dự họp vỗ tay. Tôi cảm động đứng dậy vừa để trình diện, vừa đáp lễ cám ơn các anh đã dành cho tôi những tình cảm nồng hậu ngay từ giờ phút đầu. Niềm phấn chấn lan nhanh trong tôi.
Những giờ giải lao là dịp tình cảm chan hoà đồng chí được thể hiện. Anh nào cũng vồ vập đến gần, cầm tay lắc mạnh, thân mật xởi lởi như đã quen nhau từ lâu nay gặp lại. Đủ thứ chuyện muốn nói, đủ thứ tin muốn biết, đủ vấn đề muốn hỏi, trao đổi. Các anh kéo tôi ra vừa mời uống nước, hút thuốc vừa tranh thủ trao đổi, hỏi han, từ đường lối quân sự, nghệ thuật chiến dịch, chỉ huy chiến đấu. Có ý kiến quá nhấn đến đặc điểm đánh nguỵ bây giờ khác hồi kháng chiến chín năm để phủ nhận tính kế thừa của kinh nghiệm cũ; có ý kiến không nhất thiết phải "đấm" vào quận lỵ, chi khu, nhấn nhiều đến đánh tập kích, phục kích; vẫn có ý kiến đánh theo phương thức du kích, tự do lựa chọn mục tiêu, chưa muốn phát triển đánh tập trung trên cấp trung đoàn, sư đoàn, đánh theo cỡ Bình Giã là thích hợp, chắc ăn.
Đúng là có nhiều ý kiến khác nhau, điều này là cần thiết, con đường dẫn tới chân lý đâu giản đơn. Cái quý chung mà tôi học được ở các anh là tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình rất cao đối với những gì mà Tổ quốc đòi hỏi không ai muốn mình tụt lại phía sau trong cuộc chiến đấu đang đứng trước những thử thách đầy cam go.
Các vấn đề nêu ra của các anh rất mới mẻ, tế nhị, không giản đơn - như anh Thanh nói - Phải vừa tổ chức đánh địch vừa coi trọng nghiên cứu tổng kết nắm vững các quy luật hoạt động của địch, từng bước hoàn chỉnh phương thức tác chiến phù hợp với thực tiễn chiến trường.
Vì vậy sau khi nghe các anh trao đổi, tôi nói một cách thực lòng: ở ngoài Bắc chúng tôi thường xuyên được Bộ Tổng Tham mưu thông báo về các diễn biến quân sự trên các chiến trường miền Nam, trước khi vào đây có được nghiên cứu sư đoàn 5 cụm của Mỹ, tham gia diễn tập sư đoàn chiến đấu trong điều kiện có vũ khí hạt nhân. Nhưng đó mới chỉ trên lý thuyết.
Qua dự tổng kết được nghe các ý kiến trao đổi, tranh luận với tất cả thực tế sống động, tôi học được nhiều điểm mới so với thời kỳ đánh Pháp, với những điều đã học ở trường quân sự nước ngoài. Hình như cách đánh phân tuyến, cấu trúc trận địa theo các lớp chiến hào đều không phù hợp với thực tế chiến trường. Nhưng chính lúc này đây, trong tâm trí tôi bỗng hiện về lời dạy của Bác Hồ trong trận đánh Đông Khê năm xưa: "Muốn thắng địch phải đánh bại các thủ đoạn của địch" vẫn đúng với tình hình hiện nay, không thể khác được.
Tất cả phòng họp đang ồn ào náo động, vì không khí tranh luận sôi nổi, hăng say bỗng nhanh chóng trở lại trật tự, khi anh Thanh phát biểu. Ngắn mà rõ, các vấn đề nêu lên mang tính tổng kết:
- Về thắng lợi mang ý nghĩa chiến lược của chiến dịch Bình Giã khỏi bàn. Ngay cả kẻ địch cũng phải thừa nhận, chúng ví Bình Giã như "một Điện Biên Phủ thu nhỏ của Việt Cộng". Đó là một sự kiện, một cột mốc lịch sử, là điều mà tất cả chúng ta đều có quyền tự hào. Nhưng một thắng lợi quan trọng hơn, thực tiễn hơn là trong hội nghị tổng kết này chúng ta đã thấy được nguyên nhân dẫn đến hạn chế thắng lợi do chưa đủ lực lượng chủ lực để đánh lớn và chưa đủ trình độ tổ chức chỉ huy đánh lớn. Hơn một tháng chiến đấu mới đánh năm trận cấp trung đoàn, hai trận cấp tiểu đoàn, còn lại phổ biến đánh cấp đại đội. Nếu chúng ta có đủ điều kiện đánh cấp trung đoàn và sư đoàn thì chiến thắng Bình Giã còn giòn giã hơn, có thể mở rộng căn cứ Hát Dịch đến giáp tỉnh lộ số 2, nối liền hành lang từ vùng giải phóng Phước Long qua Chiến khu Đ, tới sát ven biển Bà Rịa, Bình Thuận tạo thuận lợi để tiếp nhận chi viện của miền Bắc qua đường biển(4). Có thể nói sự kiện Bình Giã có sức thối động mọi người, mở ra một khúc quanh cả về nhận thức và quan điểm về nghệ thuật quân sự, về vai trò và phương thức tác chiến bằng các binh đoàn chủ lực trên chiến trường B2.
Sau cuộc họp, trước khi trở lại Trung ương Cục, anh Thanh còn nói vui vừa như động viên, vừa như nhắc nhở thêm tôi:
- Bình Giã là một thí điểm, nếu không thắng không có tổng kết hôm nay, cậu vào e ế đấy!
Đúng là tôi vào Nam là theo lệnh của anh với nhiệm vụ cùng các anh trong này nghiên cứu tìm biện pháp xây dựng, phát triển bộ đội chủ lực phục vụ đánh lớn.
Vấn đề đã rõ nhưng công việc tiến triển vẫn còn chậm chạp, tôi vẫn chưa được các anh trong Bộ chỉ huy Miền gian nhiệm vụ cụ thể.
Chủ trương đã được khẳng định, không còn bàn cãi, nhưng phương hướng và biện pháp tỉến hành thì các anh đang còn bàn vì đâylà vấn đề mới. Lúc đầu có ý kiến Đông Nam Bộ không đủ điều kiện kiện phát triển chủ lực vì dân thưa, lương thực hiếm. Bàn tới bàn lui đã có ý kiến dựa vào Tây Nam Bộ (tức vùng châu thổ sông Cửu Long) rất thuận lợi cho phát triển lực lượng, không phải một sư đoàn mà nhiều sư đoàn cũng có đủ người, còn lương thực, thì khỏi lo Lúc đó các anh có tính cả việc đưa tôi về Khu 8 làm phó cho anh Đồng Văn Cống chuyên lo xây dựng lực lượng chủ lực, hoạt động ở khu vực Tiền Giang (Mỹ Tho cũ).
Ý kiến đi thì như thế, ý kiến ngược lại, dần dần thành đa số, cho rằng nếu dựa vào đồng bằng châu thổ để phát triển chủ lực, trước mắt chưa thấy có vấn đề, sau đó sẽ là những khó khăn rất cơ bản: cơ động lực lượng bị hạn chế vì nhiều sông lạch, trụ lại càng khó, vận động lên hoạt động ở vùng ven đô Sài Gòn không phải giản đơn.
Cuối cùng Trung ương Cục, Quân uỷ Miền quyết định: Lấy Đông Nam Bộ là địa bàn xây dựng, phát triển lực lượng chủ lực của chiến trường Nam Bộ nói chung vì nơi đây địa hình tốt, có thế đứng cơ động, có điều kiện nối thông với Tây Nguyên, Khu 5 và hậu phương miền Bắc, tạo thế hỗ trợ và chi viện trong tổ chức tiến công và phản công. Cái thế lúc này là quan trọng, là điều kiện tiên quyết để cho lực tồn tại, chiến đấu và phát triển lực lượng lớn hơn, tạo thành các quả đấm mạnh đánh địch và thắng chúng.
Thế đó, con đường xây dựng và phát triển lực lượng chủ lực ở chiến trường Nam Bộ đã trải qua những bước thăng trầm với những lý do lịch sử của nó. Phải qua chín năm đánh Pháp, mười năm thử sức với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, qua các trận Ấp Bắc, Đường Long (5), Vĩnh Thuận (6), sau cùng là chiến dịch Bình Giã mới tìm được hướng đi của mũi tiến công quân sự.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, không có chân lý chung chung.

Chú thích:

(1) Từ 1961- 1965, Mỹ thực hiện chíến lược "chiến tranh đặc biệt xâm lược miền Nam Việt Nam với công thức lục quân nguỵ cộng với vũ khí và phương tiện chiến tranh Mỹ. Từ 17 vạn năm 1961, Mỹ tăng quân nguỵ lên 56 vạn, tổ chức thành 9 sư đoàn với 375 máy bay, 732 xe tăng, xe bọc thép; từ 8280 cố vấn và lực luợng yểm trợ Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam năm 1961, giữa tháng 4 năm 1964 tăng lên 20.000 tên.
(2) Mỹ đã thành lập Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) thay cho phái đoàn cố vấn (MAAG) do Ha-kin cầm đầu. Bộ máy này có 16 tướng, để trực tiếp điều khiển quân nguỵ.
(3) Về tổ chức chỉ huy, toàn miền Nam được chia thành bốn chiến trường, mỗi chiến trường được mang ký hiệu chữ B:
B1: các tỉnh duyên hải miền Trung từ Quâng Nam - Đà Nẵng đến Khánh Hoà.
B3: các tỉnh vùng Tây Nguyên, Đắc Lắc, Gia Lai. Công Tum.
B4: các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.
B2: từ Ninh Thuận, Lâm Đồng trở vào gồm có:
- Khu 6: Quảng Đức (Gia Nghĩa), Tuyên Đức (Đà Lạt), Ninh Thận, Bình Thuận, Lâm Đồng Bình Tuy.
- Khu 7: Phước Long, Bình Long, Long Khánh, Phước Tuy, (Bà Rịa), Bình Dương (Thủ Dầu Một), Biên Hoà, Tây Ninh, Hậu Nghĩa.
- Khu 8: Long An, Kiến Tường (Mộc Hoá), Kiên Phong (Sa Đéc), Định Tường (Mỹ Tho), Gò Công, Kiến Hoà (Bến Tre).
- Khu 9: Châu Đốc, An Giang (Long Xuyên), Vĩnh Long, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Phong Dinh (Cần Thơ), Ba Xuyên (Sốc Trăng), Kiên Giang (Hà Tiên), Rạch Giá, Chương Thiện (Bạc Liêu), An Xuyên (Cà Mau).
- Đặc khu Sài Gòn - Gia Định.
(4) Trong năm 1964, đoàn 759 vận tải biển thuộc Bộ tư lệnh Hải quân đã dũng cảm, khôn khéo vượt qua sự kiểm soát của địch đưa trót lọt nhiều chuyến vũ khí vào bãi biển Hàm Tân, Xuyên Mộc.
(5) Ngày 31-12-1963 tại Đường Long - Bến Cát (Thủ Dầu Một), lần đầu tiên trên chiến trường miến Nam ta diệt một tiểu đoàn biệt động mang tên "Cọp đen" của quân nguỵ Sài Gòn.
(6) Từ 4 đến 8-4-1964 ta tiến công chi khu quân sự Vĩnh Thuận gần căn cứ U Minh, đánh đich cứu viện diệt trên 1.000 tên, bắt 300 tên, thu hai khẩu pháo 105 và toàn bộ quân trang quân dụng.

CHƯƠNG 9

Phước Long - Đồng Xoài - trận đánh chuyển tiếp giữa hai chiến lược chiến tranh: "chiến tranh đặc biệt" chưa tàn lụi mất đi nhưng đã bắt đầu xuất hiện các yếu tố của "chiến tranh cục bộ".
Trong trận đánh này, anh Lê Trọng Tấn tư lệnh trưởng, anh Trần Độ chính uỷ và tôi được giao nhiệm vụ tư lệnh phó Bộ chỉ huy chiến dịch.
Thực là một sự ngẫu nhiên đầy hứng khởi! Bộ tư lệnh Sư đoàn 312 lại đủ mặt trong chiến dịch này.
Anh Tấn vỗ vai tôi tâm sự:
- Anh em mình sống với nhau từ mặt trận Sơn La. Đã có lúc mình hiểu không đúng về cậu. Bây giờ vào đây không hẹn mà gặp đủ cả - Tấn - Độ - Cầm, và còn khỏe cả. Phải cùng nhau cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi xúc động thật nhiều về những điều anh tâm sự, tuy ngắn mà ấm lòng trước khi ra trận.
Thời gian lúc này thật khẩn trương, tôi cười và thật lòng đáp:
- Nhưng không ai hiểu Hoàng Cầm bằng anh, nhất là từ sau thất thủ ở mặt trận Mộc Châu trở về tây-nam Phú Thọ.
- Cảm ơn Hoàng Cầm - Anh Tấn nói và cầm tay tôi lắc mạnh, để rồi mỗi người vào việc được giao.
Trước khi vào chuyện xin được lưu ý bạn đọc đôi điều.
Về sự kiện Phước Long, Đồng Xoài có một vài cuốn sách, bài báo, phản ánh nhưng lại theo biên niên như hai trận đánh tách biệt nhau. Cũng có tài liệu phản ánh trận Đồng Xoài như một chiến dịch riêng biệt, không liên quan gì với chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài. Đúng là về thời gian trận Phước Long đã được khởi sự trước vào thượng tuần tháng 5 năm 1965, Đồng Xoài mãi thượng tuần tháng 6 mới nổ súng.
Nhưng sự thật thì hai trận đánh này đều gắn bó trong một ý đồ chung. Còn lý do vì sao khoảng cách giữa hai trận đánh dài thế (trên dưới một tháng) sẽ trình bày phần diễn biến cụ thể Như bạn đọc đã biết, Phước Long dưới triều Nguyễn chỉ là một huyện của dinh Trấn Biên, sau thành huyện Bà Rá thuộc tỉnh Biên Hoà cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Phước Long mang dáng dấp một cao nguyên chuyển tiếp, thấp dần và là chân đứng phía nam của dãy Trường Sơn hùng vĩ chạy từ Bắc vào.
Phước Long là một dải rừng bằng trải rộng xen lẫn với rừng cao su nhân tạo, giữa nổi lên một ngọn núi đột xuất uy nghi, đường bệ mang tên núi Bà Rá cao 730 mét, như một điểm tựa vững chắc trấn giữ phía tây-nam của Tổ quốc. Dưới chân núi là sông Bé uốn khúc, tạo thành các ghềnh thác hưng dữ mang những cái tên dịu dàng - thác Mơ Thượng, thác Mơ Hạ, cách thị xã 4 ki-lô-mét về phía đông có công suất điện năng từ 50.000 - 100.000 kw. Nhưng dưới chân núi Bà vẫn còn in hằn dấu vết tội ác của bọn thực dân Pháp thống trị, chúng đã đặt ở đây một nhà tù - gọi là "Căng Bà Rá" giam cầm các chiến sĩ Cách mạng, trong đó có các đồng chí Trần Văn Giàu, Tô Ký, Nguyễn Thị Định.
Nhưng Phước Long không chỉ đẹp về cảnh quan mà còn là một vị trí chiến lược quân sự quan trọng của cả hai bên. Nhìn vào bản đồ quân sự đặt trong bối cảnh chung lúc ấy dễ thấy Phước Long địa thế thuận lợi cho việc tạo thế cho chiến trường Đông Nam Bộ nói riêng, cho chiến trường Nam Bộ nói chung.
Chính vì lẽ đó từ năm 1954 Mỹ - Diệm đã đổ tiền của vào để xây dựng Phước Long thành tuyến phòng ngự bảo vệ Sài Gòn từ xa. Thực hiện chia nhỏ để kiểm soát, kìm kẹp, địch tách Phước Long từ một huyện của tỉnh Biên Hoà, lập tỉnh mới gồm bốn huyện: Phước Bình, Đôn Luân (Đồng Xoài), Đức Phong (Bù Đăng), Bố Đức (Bù Đốp). Từ 1957 đến 1962, cùng một lúc địch tiến hành nhiều âm mưu tăng quân, xây dựng căn cứ, sân bay, mở rộng hệ thống đồn bót, dồn đồng bào các dân tộc tại chỗ vào các ấp chiến lược, đẩy nhân dân từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, giáo dân di cư của vùng Bùi Chu, Phát Diệm lên Phước Long để lập các khu dinh điền, hình thành một hệ thống bao quanh thị xã, thị trấn, trên các trục đường. Mỗi ấp chiến lược khu dinh điền đều được quân sự hoá, có rào kẽm gai bao quanh, có bãi mìn, có lực lượng dân vệ, bảo an ngày đêm tuần phòng canh gác. Địch phát cho mỗi gia đình một cái mõ để khua lên khi có người lạ đến, cả ấp khua theo, gây tâm lý nghi kỵ lẫn nhau.
Phước Long từ một thị trấn hẻo lánh, thưa vắng ở vùng biên ải bỗng trở thành một thị xã chứa đầy ắp các sắc lính, hình thành một hệ thống phòng ngự vững chắc chạy từ núi Bà Rá qua tỉnh lỵ ra sân bay xuống chi khu quân sự Phước Bình, thành một tập đoàn cứ điểm mạnh với 8 trận địa pháo, 200 ấp chiến lược, khu dinh điền bao quanh, quân số chiếm đóng lên tới 3.000 tên.
Đúng là địch tạm thời kìm kẹp và khống chế được nhân dân, cơ sở cách mạng bị xáo trộn, quần chúng trung kiên tạm thời nằm yên, số cán bộ, đảng viên được phân công ở lại bám trụ nằm vùng giữ vững phong trào tạo thời cơ, tạm thời phải phân tán rút vào rừng sâu sống cầm hơi bằng rau rừng nước lã, để mà tồn tại tính kế khác. Tình hình trở nên cực kỳ khó khăn, Xứ uỷ Nam Kỳ (sau này là Trung ương Cục) đã chủ trương mua sở cao su Bù Ca vừa làm nơi sản xuất lấy tiền nuôi cán bộ vừa là nơi hợp pháp để chỉ đạo phong trào.
Tháng 9 năm 1959 theo chỉ thị của Xứ uỷ, một tổ công tác do các anh Nguyễn Văn Thuận (Ba Thu), Nguyễn Văn Dinh (Ba Dinh), Phú, Sáu A, do đồng chí Lâm Quốc Đăng chỉ huy, từ chiến khu Đ lên vùng Phước Long soi đường liên lạc với các đoàn cán bộ từ miền Bắc đang trên đường trở vào. Cuộc hành trình đầy gian khổ, phải đóng giả nhiều vai, dò tìm các đồng chí ta còn nằm vùng ở đây, bắt liên lạc với đồng bào trung kiên vẫn một lòng với cách mạng bị địch xáo trộn đẩy vào các ấp chiến lược khu dinh điền. Cứ thế vừa tuyên truyền vận động quần chúng, xây dựng cơ sở trong đồng bào các dân tộc tổ chức trạm liên lạc, vận chuyển quyên góp, mua lương thực dự trữ; vừa làm đủ nghề kiếm sống, các anh đã tạo được chỗ đứng chân ở vùng Đắc Nhân, được đặt tên là căn cứ "nửa lon", vì những ngày ở đây hàng ngày mỗi người ăn chưa đầy nửa lon gạo. Tổ soi đường đi tiếp theo hướng bắc thì gặp đoàn cán bộ miền Bắc khởi hành từ 20-4-1959. Phải mất hơn sáu tháng các anh mới đặt chân lên phía tây Quảng Nam. Đoàn có 29 người, phần lớn là cán bộ quân đội, cấp bậc cao nhất là thượng uý. Trong số này có anh Bảy Kính, quê miền Bắc đi phu cao su rồi tham gia chiến đấu ở miền Nam, tập kết ra Bắc nay trở lại.
Tôi gặp anh trong chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài năm ấy, đã gần như người địa phương thực thụ. Anh người xương xương nhưng chắc khỏe, trụ lại đây đến miền Nam hoàn toàn giải phóng. Sau đại hội IV, anh tham gia tỉnh uỷ Sông Bé kiêm bí thư huyện Phước Long. Được biết anh đã nghỉ hưu, về sống với gia đình ở chân núi Bà Rá. Ở hoàn cảnh anh, việc đưa gia đình về thị xã Thủ Dầu Một, Lái Thiêu không khó, nhưng anh tự nguyện định cư tại Phước Long, nhưng không ở thị xã cũ mà về chân núi Bà Rá là có cái lý cái tình của riêng anh. Vì anh gắn với mảnh đất đầy đau thương này từ những năm chưa có đồng khởi rất đen tối còn chịu được, nay đã khác xưa, đi làm sao được xa làm sao được, mảnh đất sâu nghĩa nặng tình này. Cuộc sống của anh thật giản dị, khiêm nhường mà cao cả.
Cuộc hành trình soi đường của tổ công tác đã thành công, Phước Long đã chuyển mình, trở thành nơi hội tụ các đồng chí miền Bắc vào hợp sức. Phong trào được hồi phục, cơ sở chính trị được phát triển. Tháng 1 năm 1960 lực lượng vũ trang của Phước Long thành lập mang tên B270, thiết thực hỗ trợ cho cuộc nổi dậy của nhân dân. Hàng loạt ấp chiến lược, khu dinh điền trên trục đường 10, đường 14 bị phá vỡ. 24 đồn bót lẻ của địch bị san bằng, vùng giải phóng được mở rộng từ Bù Na - Quảng Đức đến Phước Quả - Liếu Đức. Lực lượng du kích được tổ chức, lực lượng dân công được thành lập sẵn sàng phục vụ chiến đấu. Tiếng mõ khua báo mỗi khi có người lạ mặt đến ấp đã tắt và xa dần. Đã có đủ điều kiện đưa lực lượng chiến đấu vào gần đồn địch, cho phép chúng tôi, những người đi trước chuẩn bị chiến trường, nằm lại núi Bà Rá ban ngày để quan sát toàn cảnh trận địa địch ở thị xã Phước Long; đã có các điều kiện thuận lợi để chúng tôi bò sát vào rào kẽm gai của địch để nghiên cứu tính toán đặt bộc phá mở cửa cho bộ đội tiến vào diệt địch. Đã có biết bao gương hy sinh thầm lặng của đồng bào đồng chí, của những người đi trước soi đường tạo thế cho trận đánh hôm nay.
Phước Long đã trở thành căn cứ của ta. Từ đây có thể đón người và hàng từ miền Bắc vào, từ đây có thể ra Tây Nguyên, sang Khu 6. Cái thế ấy là nguyên nhân làm nên thắng lợi của chiến dịch mà tôi sẽ kể cùng bạn đọc dưới đây.
Nhân hoà tạo nên thế lợi như vậy là tạm ổn. Nhưng cái khó chính lúc này khiến tôi băn khoăn thực sự là lấy đâu ra lương thực đủ cung cấp cho hơn một sư đoàn ăn trong quá trình chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu.
Hình như đoán biết được điều băn khoăn này, nên khi gặp tôi đồng chí bí thư huyện uỷ Bù Đốp nói ngay:
- Các anh khỏi lo, lương thực cho bộ đội ăn tụi này đã chuẩn bị rồi.
- Bao nhiêu? - Tôi hỏi lại.
Vừa tự hào vừa ra vẻ quan trọng, đồng chí bí thư huyện uỷ dẫn tôi đến một vạt rừng rậm nhiều cây to rồi chi lên, nói:
- Anh thấy không, lương thực treo trên các cây cao - ngoảnh lại tôi anh hỏi tiếp - Thấy không?
Tôi ngước mắt nhìn lên, từng bó lúa nương được chải tuốt sạch sẽ chỉ còn hạt thóc treo lơ lửng trên các cành cây, đề phòng biệt kích địch phát hiện và thú rừng phá hoại.
- Bao nhiêu ký - tôi hỏi.
- Năm tạ! - đồng chí bí thư trả lời, kèm theo tiếng cười sảng khoái.
Tôi thực sự xúc động: Năm tạ thóc xay xát còn ba tạ rưỡi là cùng. Đủ nuôi hàng nghìn con người được mấy ngày. Đúng là như muối bỏ bể, nhưng ở cái vùng đang còn đầy rẫy khó khăn, nhiều gia đình mà tôi bắt gặp đang ăn cháo, ăn củ rừng, lá bép thay gạo, vậy mà khi nói góp gạo nuôi bộ đội ăn no đánh giặc là ai nấy đều sẵn sàng.
Lại một chuyện cảm động khác mà tôi được nghe kể trên đường đi chuẩn bị chiến trường: trên giao nhiệm vụ cho nhân dân Sóc Bom Bo trong hai ngày phải có đủ một tấn gạo trong điều kiện có nhiều khó khăn, địch uy hiếp, phi pháo của chúng bắn phá không kể giờ. Nhưng nhân dân vẫn bình thản, lạc quan, ai có sức khỏe đều xung phong nhận nhiệm vụ, tiếng chày giã gạo các cùm cum suốt đêm. Chỉ năm ngày sau số gạo cần có đã được đồng bào gùi tới địa điểm tập trung. Nhạc sĩ Xuân Hồng cảm hứng về hình ảnh đẹp này dã sáng tác "Tiếng chày trên Sóc Bom Bo" - một ca khúc trữ tình sâu đậm ngợi ca tinh thần yêu nước của người dân Bom Bo thuần phác, nói ít mà nghĩ sâu, nhìn lẽ phải bằng việc làm thực tế, cái tư chất quý hiếm ấy đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng.
Đến đây xin đi vào nội dung của sự kiện.
Một câu hỏi được đặt ra sau hội nghị tổng kết chiến dịch Bình Giã: Hướng hoạt động quân sự trong thời gian tiếp theo là đâu?
Lại một dịp trao đổi sôi nổi. Có ý kiến đề nghị Long Khánh (Xuân Lộc); ý kiến khác: thọc lên Mê Pu, Tánh Linh, mở rộng địa bàn, tạo thêm chỗ đứng.
Như thế là vẫn duy trì đánh cấp trung đoàn trở xuống, chắc chắn sẽ diệt được địch, nhưng không lớn, nhất là không phục vụ cho củng cố thế đứng để phát triển lực lượng.
Tất nhiên là không nhất trí với ý kiến này nhưng tôi không biểu thị thái độ rõ ràng dù sao thì mình mới vào mà đề xuất chuyển hướng hoạt động để có điều kiện đánh lớn thì không có cơ sở. Vì các yếu tố địch tình, địa hình, dân tình chưa có tích luỹ gì tất cả đều mới mẻ đang trong thời gian tìm hiểu.
Hôm sau, cả Bộ tư lệnh chiến dịch chúng tôi lại được lệnh đến họp để nghe anh Thanh phổ biến quyết định của Bộ chỉ huy Miền mở chiến dịch mới: Phước Long.
Anh nói:
- Về mọi mặt chiến dịch này cao hơn Bình Giã, bước đầu chúng ta thí nghiệm đánh tập trung. Ấp Bắc, Đường Long, Bình Giã tuy thắng lớn nhưng chưa phải đánh lớn trên cấp trung đoàn. Cuộc ra quân lần này trước hết phải tiêu diệt cho được một bộ phận sinh lực quan trọng của chủ lực nguỵ, đẩy mạnh chiến tranh du kích, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, củng cố và mở rộng căn cứ.
Đến đây anh chỉ tay vào bản đồ, vùng Phước Long đã được nét chì đỏ tô đậm thành hình bầu dục, nhấn mạnh:
- Đánh địch để tạo điều kiện xây dựng nơi đây thành căn cứ trong cái thế đứng liên hoàn của mặt trận Đông Nam Bộ là một yêu cầu vừa bức bách vừa cơ bản.
Bỗng giọng anh thấp dần và chậm lại, như tiếp sức lòng tin cho chúng tôi. Anh nói:
- Lấy Phước Long làm hướng tiến công chủ yếu trong đợt hoạt động xuân hè còn nhằm thực hiện ý định nghi binh lừa địch, tạo thế bất ngờ, bảo đảm chắc thắng. Sau Bình Giã, địch đoán và đề phòng ta đánh Long Khánh, vì Bà Rịa, Long Khánh cùng một địa bàn. Để củng cố thêm phán đoán sai lầm của địch, ta để lại một bộ phận ở đó phối hợp với bộ đội địa phương và lực lượng vũ trang khu G hoạt động trên lộ 2 (Bà Rịa – Long Khánh), đồng thời Bộ tư lệnh Miền đã điện cho các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Biên Hoà có kế hoạch đẩy mạnh hoạt động quân sự trước và trong khi Phước Long nổ súng.
Cuối cùng anh như trao đổi tâm tình, để có thêm thực tế thuyết phục một nhận thức gần như cố hữu, tuyệt đối hoá chiến tranh du kích, vì sau Bình Giã, cán bộ đại đội, tiểu đoàn vẫn chưa thật thông lối đánh tập trung, quen phân tán, đánh theo kiểu tự do lựa chọn mục tiêu. Nếu sau Ấp Bắc địch thấy khó thắng ta, thì sau Phước Long phải chứng tỏ ta có khả năng đánh lớn, tiêu diệt ngày càng nhiều sinh lực địch, diệt quận lỵ, chi khu, diệt tiểu đoàn, chiến đoàn địch; đánh phục kích, tập kích và đánh cả địch phòng thủ trong công sự vững chắc, giáng một đòn cơ bản vào chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của địch.
Anh động viên chúng tôi:
- Đây là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên ở chiến trường Nam Bộ, đòi hỏi chúng ta không những có quyết tâm cao mà còn có cả biện pháp chiến đấu mưu trí, để giành cho được thắng lợi.
Kết thúc buổi giao nhiệm vụ, anh Thanh lần lượt nắm chặt tay từng người lắc mạnh và chúc thắng lợi.
Tất cả chúng tôi đều đã trải qua nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch lớn trong cuộc kháng chiến chín năm, vậy mà hôm nay như có chung sự háo hức, hăm hở của những người lần đầu ra trận, vì đây là một chiến trường thật xa, tất cả đều mới lạ!
Lúc này đã là đầu tháng tư, bầu trời vần vũ mang những đám mây mọng nước báo hiệu mùa mưa sắp đến. Thời gian không còn nhiều. Bộ tư lệnh họp trong tinh thần khẩn trương, sau khi khẳng định quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, rồi phân công từng người hoàn thành công tác chuẩn bị trước khi bàn kế hoạch tác chiến cụ thể. Anh Tấn, anh Trần Độ lo sắp xếp lực lượng, chuẩn bị tư tưởng, tinh thần bộ đội, tôi dẫn đoàn cán bộ đi trinh sát thực địa.
Đêm trước khi lên đường, tôi miên man suy nghĩ. Đúng là muốn giải quyết được vấn đề đánh tập trung, đánh địch trong công sự vững chắc thì điều kiện tiên quyết là tạo được thế bất ngờ. Điều này cấp trên đã tạo cho ta, chọn Phước Long vừa có tầm nhìn chiến lược trong tạo thế, vừa thông minh trong nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch. Tuy bộ đội phải hành quân tiếp cận chiến đấu xa và vất vả, nhưng lợi là đánh lạc hướng địch theo dõi, đề phòng. Ta phải bằng mọi cách giữ cho được lợi thế này, không được sơ suất một hành động nhỏ trước hết là trong chuẩn bị chiến đấu. Yêu cầu đặt ra cho đoàn cán bộ đi trinh sát thực địa không phải chỉ nhận biết đầy đủ địa hình, hệ thống phòng thủ của địch để có kế hoạch bố trí binh hoả lực, mà còn phải xác định được hướng đột phá, điểm đặt pháo, ĐKZ, thích hợp để làm nhiệm vụ phối hợp, hỗ trợ bộ binh có hiệu quả ngay từ phút đầu của giờ G - Giờ nổ súng tiến công thống nhất.
Tuy chưa hình dung đầy đủ hình thể vùng rừng núi Phước Long nói chung, thị xã Phước Long nói riêng nhưng đầu óc tôi lúc này lại hiện về những trận công đồn ở Đông Khê, Nghĩa Lộ, hữu ngạn sông Đà và ở Điện Biên Phủ năm xưa mà mình đã tham gia, từ đó mà hình dung những khó khăn sẽ gặp, cùng các việc phải làm.
Sáng hôm sau đoàn cán bộ trinh sát thực địa lên đường. Từ căn cứ Mã Đà đoàn cắt rừng qua suối Nhung ngược lên hướng bắc - sát biên giới Campuchia để gặp các anh trong thường vụ tinh uỷ Phước Long sơ bộ bàn kế hoạch phối hợp với nhân dân nồi dậy và xin các anh cho giao liên dẫn đường và móc nối với cơ sở hoạt động hợp pháp trong vùng địch trao đổi nắm tình hình cụ thể. Vẫn là những cánh rừng bằng đại ngàn đi không mỏi gối chồn chân nhưng tầm nhìn rất khó, ngay cả bầu trời có lúc cũng không thấy vì các cây đan chen thành một lớp lá dày như một trần nhà rộng mênh mông che lấp. Không gian thu hẹp cả bốn chiều, rất khó quan sát, dễ mất hướng và lạc đường.
Từ cực bắc chúng tôi lại xuôi về hướng đông-nam. Bốn giờ chiều ngày thứ ba mới đến bờ bắc thác Mơ. Từ xa đã nghe thấy tiếng nước gầm réo như đang đến gần một nhà máy cơ khí cỡ lớn.
Không biết ai đã đặt tên cho con thác này thật đúng với cảnh quan đầy chất thơ. Dòng thác rộng vừa phải nhưng độ dốc cao, từng cột nước đổ xuống quyện với sương mù ban chiều tạo thành biển mây bạc, bờ thác gồ ghề bởi nhiều phiến đá to nhỏ tạo thành êm ả mà gân guốc, ngồi trên những phiến đá thả chân xuống dòng nước tận hưởng cáì mát dịu trong lành, tan nhanh những mệt nhọc, âu lo, thần kinh mau được thư giãn trở lại.
Từ thác Mơ chúng tôi nhìn thấy núi Bà Rá, mặc dầu dãy núi đột xuất có "ngoại hình" hùng vĩ cao gần 800 mét mà mãi hôm nay - sau ba ngày hành quân mới nhìn thấy nó.
Lại một đặc điểm nữa của riêng Đông Nam Bộ, vì nơi đây, chủ yếu vẫn là hình dáng của rừng bằng, muốn quan sát được địch phải leo lên các cây cao - tức là phải biết leo trèo. Từ thực tiễn sau chuyến đi chúng tôi cho bộ đội tập luyện, từ leo trèo tự nhiên đúc kết ra thành yếu lĩnh động tác, thứ tự phối hợp chân, tay, nâng, bám đẩy người lên cao để phổ biến cho cán bộ chiến sĩ ở ngoài Bắc mới bổ sung vào, coi đây như một "kỹ thuật" chiến đấu cần biết đối với mọi người.
Vượt thác Mơ sang núi Bà Rá, chúng tôi nằm lại một ngày ở lưng chừng phía đông quả núi, ăn gạo rang, uống nước lã cầm hơi, vì đây là đất lạ, trên đỉnh núi có lính địch đóng chốt bảo vệ hệ thống truyền tin, máy phát hiện tiếng động. Dưới chân núi là hệ thống ấp chiến lược, đồn bót dày đặc, các đội biệt kích, thám báo ngày đêm tuần tra, lùng sục.
Tuy ta có cơ sở trong các ấp chiến lược nhưng lúc này hệ thống kìm kẹp của địch rất chặt. Tình nghi ai là chúng cứ bắt bớ, cầm tù, tra tấn và bắn bỏ. Vì vậy các cơ sở của ta tạm thời rút vào bí mật, hoạt động đơn tuyến, không ai biết ai.
Đúng là thời gian đã ủng hộ chúng tôi. Bầu trời hôm nay trong xanh không có sương mù. Chúng tôi di chuyển địa hình sang triền núi phía bắc cách xa điểm ban đầu khoảng 500 mét để làm nhiệm vụ, theo từng nhóm nhỏ đã được phân công. Qua kẽ lá, leo lên cây cao nhìn bằng mắt thường, qua ống nhòm toàn cảnh thị xã Phước Long hiện ra rất rõ, giống như một mô hình cao nguyên được thu nhỏ, chung quanh đều có sườn dốc cao thấp khác nhau, nhất là phía đông-bắc có quãng như một vách đứng, bộ mặt thị xã lại bằng phẳng, rộng khoảng hơn một cây số vuông. Có cơ sở địa phương đi cùng đoàn trinh sát đã nhìn rõ các mục tiêu trọng điểm và đánh dấu chúng trên bản đồ mang theo: sở chỉ huy tiểu khu, dinh tỉnh trưởng, ty cảnh sát, trận địa pháo, bước đầu đã có dự kiến hướng mũi tiến công và mục tiêu cần đánh chiếm.
Đêm nằm ở sườn núi Bà Rá thoạt đầu tưởng sẽ ngủ một giấc thật ngon, nào ngờ lại một đêm thao thức với những lo lắng và liên tưởng như một cuốn phim dài cứ xuất hiện trước mặt; nghĩ xa, nghĩ gần, nghĩ về thời tiết thật lạ, đối nghịch nhau như trên cung trăng. Ngày nắng như bốc lửa, cổ họng lúc nào cũng đòi nước vì khô đắng, đêm xuống - càng về khuya cái lạnh càng ùa nhanh. Sáng dậy người mỏi mệt tức thở vì sương mù dày đặc tạo thành hạt nhỏ, làm mặt đất ẩm ướt khó chịu, chẳng khác gì cảnh núi rừng Tây Bắc.
Ngày hôm sau chúng tôi quyết định rời núi Bà Rá lật cánh sang hướng tây-bắc. Đây là cuộc hành quân táo bạo. Nhưng không có con đường nào khác vì nhiệm vụ chưa hoàn thành, vì qua kinh nghiệm bản thân cho thấy khi đi trinh sát thực địa phải đi một đường về một đường, đề phòng bất trắc; và trên thực tế chúng tôi đã bị lộ, địch phát hiện dấu vết chúng tôi khi qua thác Mơ. Lại một bài học nữa về đi không dấu, nấu không khói nói không tiếng cần phải được nghiêm túc thực hiện.
Vượt qua hệ thống ấp chiến lược thuộc khu vực Sơn Giang, đến địa điểm vọt qua đường là quãng nằm kẹp giữa sân bay và chi khu quân sự Phước Bình. Pháo sáng địch bắn cầm canh để vừa hù doạ vừa quan sát dấu vết. Chỉ cần một tiếng động nhỏ là đạn các cỡ đã tính sẵn đổ vào đây. Thần kinh chúng tôi căng nhão vì phải chờ ở đây hai tiếng. Cái lạnh đã luồn qua áo quần, lan khắp làn da, may mà không ai vì thế mà ho. Theo dõi kim đồng hồ đến từng giây, khi đó đúng một giờ sáng của ngày hôm sau, từng người nhẹ nhàng, nhanh chóng vượt qua đường, tự động tìm về điểm hẹn.
Xốc lại đội hình, chúng tôi tiếp tục lầm lũi xuyên qua màn đêm theo giao liên dẫn đường ngược lên hướng Bù Gia Mập – Bù Đốp, để từ đây quay ngược lại tiếp tục xác định địa điểm tập kết lực lượng, hướng đột phá - mở cửa cho các đơn vị tiến công thị xã Phước Long từ hướng bắc, tây-bắc, đánh Phước Bình từ hướng tây-nam.
Thoảng gặp một cơn mưa bất chợt, rồi tạnh nhanh, nắng nóng trở lại, làm cảnh vật thay đổi, rõ nhất là nước sông Bé đã nhờ nhờ đỏ chảy mạnh hơn. Dấu hiệu mùa mưa bắt đầu khiến chúng tôi càng phải khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ càng sớm càng tốt.
Thượng tuần tháng 4, Bộ chỉ huy chiến dịch họp (có cả chỉ huy các trung đoàn và đơn vị trực thuộc dự) để nghe chúng tôi báo cáo kết quả chuyến đi trinh sát thực địa, thảo luận và thông qua quyết tâm chiến đấu của chiến dịch.
Cuộc họp diễn ra trong không khí ung dung, đàng hoàng, chững chạc và phấn hứng. Trật tự trở lại thật nhanh khi anh Tấn đứng dậy tuyên bố lý do rất ngắn gọn và nói:
- Anh Thanh muốn chúng ta lúc này thật tỉnh táo, minh mẫn trong khi trao đổi, thảo luận hạ quyết tâm.
Trong khi rất chăm chú nghe tôi báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ trinh sát thực địa, thỉnh thoảng anh Tấn xen vào hỏi thêm về giá trị phòng thủ, tiến công của khu vực Bà Rá, về đặc điểm các đoạn sông Bé chảy qua thị xã Phước Long, hướng hồ Long Thuỷ có thể là nơi hiểm yếu không, về sự yểm trở qua lại giữa Phước Long và Phước Bình.
Anh Trần Độ hỏi sâu về dân tình bị dồn vào ấp chiến lược, khu dinh điền, đánh giá, cấp uỷ địa phương về khả năng nổi dậy của mũi đấu tranh chính trị.
Sang phần thảo luận về cách đánh, sử dụng lực lượng, bố trí binh hoả lực thì không khí cuộc họp bỗng sôi động hẳn lên. Các trung đoàn trưởng trong đoàn đi trinh sát thực địa đề xuất nhiều vấn đề thiết thực, bổ ích. Ý kiến bố trí phân tán theo kiểu đánh nhỏ đánh tiêu hao gần như không ai đặt ra. Nhận thức về đánh tập trung đã có bước chuyển biến; nhưng lẻ tẻ có tư tưởng chủ quan hiểu đánh lớn một cách máy móc như kiến nghị đưa cả ba trung đoàn vào chiến đấu, tiến công cùng một lúc, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Phước Long, Phước Bình, cái thế để chúng ta giữ đất đã có vì đoàn cán bộ mở đường từ miền Bắc vào, đoàn cán bộ soi đường từ miền Nam ra đã gặp nhau, con đường chiến lược Bắc - Nam đã và đang có điều kiện thực hiện.
Anh Tấn đứng lên kết luận. Sau khi nhắc lại mục đích, ý nghĩa có tính chất chiến lược của chiến dịch, nhiệm vụ cụ thể của các mũi, các hướng, anh Tấn nhấn mạnh mục đích yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị trong đợt 1 chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài vừa như kêu gọi, động viên tinh thần trách nhiệm vừa như ra lệnh cho các lực lượng tham chiến phải nghiêm chỉnh chấp hành kế hoạch hiệp đồng chiến đấu giữa các mũi trong một hướng, giữa hướng chủ yếu và hướng thứ yếu của chiến dịch, đồng thời phải hỗ trợ có hiệu quả giữa lực lượng đánh điểm và lực lượng diệt viện khi tiến công các cứ điểm trên toàn địa bàn.
Giai đoạn chuẩn bị không kém phần vất vả, gian khổ đã kết thúc.
Cuộc ra quân đầy hào hứng bắt đầu.
Theo kế hoạch đã vạch, 0 giờ 45 phút ngày 11-5-1965 tiểu đoàn 1 (trung đoàn 1) cùng với tiểu đoàn 840 chủ lực của Quân khu 6 đồng loạt nổ súng tiến công thị xã Phước Long, thì 15 phút sau đó tiểu đoàn 5 (trung đoàn 2) tiến công chi khu quân sự Phước Bình cách Phước Long 9 ki-lô-mét về phía tây-nam.
Nhưng ở hướng Phước Bình đã phát sinh một trục trặc, nếu giải quyết không khéo sẽ dẫn tới toàn bộ kế hoạch chiến dịch bị đổ vỡ.
Số là trước giờ "G", có chuông điện thoại liên tục đổ hồi về sở chỉ huy chiến dịch.
Anh Tấn nhấc ống nghe, nói:
- Ở đâu gọi! Ai đấy. Trung đoàn 2 à. Có gì cần báo cáo gấp? - Cái gì? Nói lại? - Anh Tấn hỏi - 17 giờ chiều nay à?
Vừa hỏi, tay anh vừa giơ lên nhìn đồng hồ, rồi anh nói tiếp:
- Cần theo dõi chặt và báo cáo kịp thời mọi diễn biến về sở chỉ huy, nhưng tất cả phải thật bình tĩnh.
Anh buông máy với nét mặt không vui, đượm vẻ đăm chiêu suy nghĩ.
Chúng tôi chưa hiểu điều gì đã xảy ra, nhưng qua nét mặt thay đổi rất nhanh của anh, chắc có chuyện chẳng lành.
Bộ chỉ huy hội ý chớp nhoáng. Anh Tấn thông báo:
- Trung đoàn 2 vừa báo cáo có một tiểu đội trưởng quê ở Bến Tre vào hàng địch.
Đúng là một tình huống khôn lường. Nhưng lúc này không phải lúc trách cứ, tìm nguyên nhân, rút kinh nghiệm. Chúng tôi thống nhất một biện pháp tình thế. Trước hết điện cho các đơn vị khẩn trương triển khai, rất có thể Bộ chỉ huy ra lệnh tiến công sớm hơn giờ G quy định. Riêng với trung đoàn 2, nhắc lại cần nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của anh Tấn đã nhắc qua điện thoại vừa rồi: Theo dõi chặt chẽ tình hình, nhưng phải thật bình tĩnh và sẵn sàng đợi lệnh.
Chuông điện thoại lại réo, đổ hồi. Trung đoàn 2 báo cáo: Không thấy có động tĩnh gì, trong chi khu vẫn im ắng, pháo sáng vẫn bắn cầm canh như mọi ngày.
Đồng hồ lúc này hai kim đã chập một - chỉ 24 giờ. Không khí trong sở chỉ huy căng thẳng, không gian yên lặng, ai cũng cảm thấy thời gian trôi đi quá chậm. Tuy chỉ còn nửa giờ nữa nhưng ai mà biết được diễn biến của tình hình, chiến dịch vẫn xảy ra nhưng rất có thể rơi vào trạng thái bị động.
Thần kinh mọi người căng nhão cho đến phút chót khi súng nổ rền từ hướng thị xã Phước Long vọng về thì tất cả đều thở phào - thế là chiến dịch vẫn giữ được bí mật đến phút chót.
Trên hướng Phước Bình phát triển thuận lợi. Chỉ 45 phút tiến công, Trung đoàn 2 đã hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm chi khu tiêu diệt, bắt sống toàn bộ quân địch ở đây, ta có ba chiến sĩ bị thương nhẹ.
Khi trung đoàn phát triển vào tung thâm, bắt được người tiểu đội trưởng bỏ vào đồn địch khi chiều, hỏi:
- Sao hàng địch?
- Dạ, tôi không hàng.
- Không hàng sao lại bỏ đơn vị vào đây.
- Vì nhớ nhà, vào để nhờ xe về thăm quê được dễ dàng.
Đúng là địch chủ quan, hoàn toàn bị bất ngờ trước đợt tiến công của ta, chứng tỏ người tiểu đội trưởng không khai báo, mà chỉ có một suy nghĩ giản đơn vào đồn địch có thể dễ dàng xin đi nhờ xe về thăm gia đình.
Trong khi Trung đoàn 2 đang tranh thủ thu dọn chiến trường, chuyển vũ khí đạn dược và các chiến lợi phẩm thu được của địch ra khỏi chi khu, giải thích để phóng thích tại chỗ số tù hàng binh, thì tại Phước Long súng nổ dữ dội.
Trọng tâm công việc của sở chỉ huy chuyển sang hướng thị xã. Lúc này đã 5 giờ sáng, sương mù tan dần, qua hệ thống thông tin chúng tôi được biết các mũi tiến công của ta đã vượt qua cửa mở, đang đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu như: dinh tỉnh trưởng, sở chỉ huy tiểu khu, ty cảnh sát, trung tâm truyền tin, trận địa pháo. Khoảng 10 giờ, địch tổ chức đổ bộ đường không, gồm 4 tiểu đoàn (3 tiểu đoàn bộ binh của trung đoàn 48, 1 tiểu đoàn 84 biệt động quân) xuống khu vực thị xã, một bộ phận của lực lượng viện binh này đánh bọc phía Đức Hạnh để chặn đường rút của ta từ trong ra, chặn lực lượng chi viện từ ngoài vào. Nhưng các lực lượng của Trung đoàn 3 và tiểu đoàn 840 Quân khu 6 vẫn ngoan cường chiến đấu, trụ lại đánh lui sáu đợt phản kích của địch, mãi chiều ngày 11 tháng 5 các đơn vị mới rút ra đánh địch ở vòng ngoài theo lệnh của sở chỉ huy.
Đến đây, chiến dịch Phước Long (1) đã kết thúc, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trên giao: tiêu diệt hoàn toàn chi khu quân sự Phước Bình, tiêu diệt nhiều sinh lực địch ở khu vực Phước Long, đánh chiếm một số mục tiêu quan trọng và làm chủ thị xã trong nhiều giờ.
Tôi thấy không cần thiết phải nói về diễn biến, kết quả cụ thể, về ý nghĩa chiến thắng của chiến dịch vì các phương tiện truyền thông đại chúng đã phản ánh khá đầy đủ, nhưng với tư cách là người được tham dự, chứng kiến, tôi xin trình bày cùng bạn đọc một số cảm thụ của cá nhân, hy vọng góp thêm những khía cạnh của bức chân dung sự kiện, được tạo dựng bởi lòng dũng cảm và trí thông minh của các lực lượng tham gia chiến dịch.
Giữa hai khu vực quân sự Phước Long và Phước Bình, chúng tôi chọn Phước Long làm hướng tiến công chủ yếu là đúng vì ở đây tập trung các cơ quan đầu não của tỉnh, đánh mạnh vào đây sẽ làm cho thế trận phòng thủ của địch trên toàn địa bàn bị lưng lay, dẫn tới sụp đổ. Nhưng địch ở đây không sơ hở, mà trái lại chúng tăng cường phòng thủ hướng bắc, đề phòng đối phương tiến công.
Về phía ta cũng không còn cách lựa chọn nào khác là phải lấy hướng bắc làm điểm đột phá, vì hướng đông-bắc tuy địch có sơ hở nhưng địa hình phức tạp, có chỗ dốc ngược như vách đứng, dưới chân là sông Bé, hướng nam vướng núi Bà Rá với các hệ thống phòng thủ dày đặc dưới chân núi.
Phải đánh vào vỏ cứng của địch nhưng vẫn thành công, trước hết là do tinh thần trách nhiệm chiến đấu cao của các đơn vị tham chiến. Trung đoàn 1 mang danh hiệu Bình Giã vẫn còn nóng hổi trong mình khí phách dũng cảm đánh địch và thắng địch trong chiến dịch Bình Giã; tiểu đoàn 840 vẫn phát huy là quả đấm tin cậy của chiến trường Cực Nam Trung Bộ trong kháng chiến chống Pháp, là đơn vị chủ lực tin cậy của Quân khu 6 trong chống Mỹ. Theo kế hoạch ban đầu, đối với Phước Long chúng tôi quyết định dùng một trung đoàn tăng cường bằng cách điều chỉnh trong nội bộ các trung đoàn tham gia chiến dịch, nhưng sau có sự thay đổi, vì Bộ tư lệnh Miền chấp thuận đề nghị của Quân khu 6 xin cho tiểu đoàn 840 đang đứng chân ở khu vực Phước Long được đứng trong đội hình chiến dịch, trước hết thể theo nguyện vọng tha thiết của cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 840 mong có được cơ hội góp phần vào chiến công chung. Như vậy lực lượng một trung đoàn tăng cường cho hướng chủ yếu không thay đổi, chỉ khác thành phần tăng cường là tiểu đoàn 840. Đây là một tiểu đoàn mạnh biên chế bốn đại đội, trong đó có đại đội 85 đặc công, đại đội 54 được tổ chức và huấn luyện tốt ở miền Bắc vừa được bổ sung cho chiến trường.
Cùng với Trung đoàn 1, tiểu đoàn 840 là một đơn vị tăng cường đã đóng góp xứng đáng phần mình trên hướng chủ yếu của chiến dịch. Mùa xuân 1983, tức 18 năm sau tôi có dịp trở lại Phước Long, rất may mắn được gặp lại một chiến sĩ của tiểu đoàn này, nay là thượng tá Nguyễn Văn Ngoan, chỉ huy trưởng huyện đội Phước Long. Anh quê ở Nam Thanh (Hải Hưng), là chiến sĩ của đại đội 54 từ miền Bắc lên đường vào Nam từ tháng 7 năm 1964, có mặt ở Bù Gia Mập tháng 11 cùng năm và được biên chế về tiểu đoàn 840, hoạt động ở địa bàn Phước Long cho đến nay.
Đưa mắt nhìn nhanh toàn cảnh để định lại trong ký ức anh nói:
- Vẫn là hướng bắc nhưng tiểu đoàn chúng tôi chọn hướng đột phá hơi chếch về phía tây - bắc vì ở chỗ này là nơi tiếp giáp giữa hai đơn vị phòng thủ, nên chúng có sơ hở. Mặt khác để tạo điều kiện thuận lợi cho tiểu đoàn, Quân khu tăng viện cho hai "hoàng tử lưng gù".
Tôi cắt ngang:
- Hoàng tử lưng gù là cái gì?
- Báo cáo anh - đó là hai khẩu sơn pháo 75 ly của Nhật - Ba Ngoan trả lời.
- Nhưng tại sao gọi nó là "hoàng tử lưng gù"? - tôi hỏi tiếp.
Ba Ngoan cười sảng khoái, nói vui:
- Không rõ nó được chế tạo từ bao giờ nhưng trông trên sống lưng có hơi gù nên anh em tự đặt cho nó cái tên "hoàng tử lưng gù". Nhìn dáng vẻ vừa cổ lỗ vừa xấu xí, nhưng hai hoàng tử đó đã hỗ trợ đắc lực cho tiểu đoàn trong giai đoạn đột phá mở đường.
Như vậy là phải đánh vào hướng mà địch chủ động đề phòng nhưng Trung đoàn 1 Bình Giã, tiểu đoàn 840 đã tìm được điểm yếu trong cái mạnh của địch, đã chỉ huy hiệp đồng tốt sức mạnh của hoả lực đi cùng chế áp ăn ý, có hiệu quả, với một trung đội đặc công đi trước mưu trí mở đường, các đơn vị bộ binh đã dũng cảm thực hành đột phá đánh chiếm phần lớn các mục tiêu chủ yếu và làm chủ nhiều giờ trong thị xã này.
Đó là một việc làm thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao cả, lòng yêu nước vô giá mà mỗi chúng tôi mãi mãi kính trọng, biết ơn.
Nhưng mặt khác, đứng về tổng thể chiến dịch, chúng tôi - những người được giao trọng trách cao nhất cũng đã dành thời gian trao đổi, tính toán cho những bước đi chủ động để hỗ trợ cho hướng tiến công chủ yếu. Qua nghiên cứu, theo dõi, phân tích chúng tôi thấy khi địch tăng cường phòng thủ hướng bắc, nhất là ở khu vực Phước Long, đề phòng ta từ Đắc Ơ, Bù Gia Mập đánh xuống, thì lại rất sơ hở, cho ta không có khả năng tiến công từ hướng nam lên, đánh vào chi khu quân sự Phước Bình. Ngay cả lực lượng đồn trú ở căn cứ này do chưa bị ta đánh lần nào nên cũng rất chủ quan, hệ thống công sự sơ sài, việc tổ chức canh gác tuần phòng không được cẩn mật.
Rõ ràng, nếu từ hướng nam chúng ta bí mật hành quân, bất thần đột phá diệt chi khu quân sự Phước Bình là nằm ngoài sự đề phòng của địch. Trong quân sự gặp phải tình huống bất ngờ sẽ dẫn đến tình trạng hoang mang dao động về tinh thần, lúng túng bị động về xử lý đối phó, là những nguyên nhân gây nên đảo lộn, ảnh hưởng đến thế trận, đến cục diện, đến thành bại của trận đánh.
Từ nhận thức trên, Bộ chỉ huy chiến dịch đã hạ quyết tâm: vượt lên mọi khó khăn, tổ chức một lực lượng đủ mạnh đánh địch từ hướng nam lên mà mục tiêu cần diệt là Phước Bình, để hỗ trợ thiết thực cho hướng tiến công chủ yếu.
Và thế là những phán đoán, những mong ước của chúng tôi đã trở thành sự thật. Mười lăm phút sau khi Phước Long nổ súng, thì ở hướng nam Trung đoàn 2 được lệnh tiến công chi khu quân sự Phước Bình. Trận đánh diễn ra 45 phút, ta làm chủ căn cứ, diệt và bắt sống toàn bộ quân địch chốt giữ ở đây.
Sự việc diễn ra quá nhanh, khiến chúng tôi vui mà cứ thấy ngỡ ngàng, thật mà vẫn như mơ. Có thể nói đây là một trận đánh "ngon" nhất mà tôi được chứng kiến.
Nhưng điều khiến tôi tâm đắc là tác dụng thắng lợi ở hướng thứ yếu Phước Bình đẩy nhanh tinh thần suy sụp các lực lượng địch ở Phước Long, tạo đà cho Trung đoàn 1, tiểu đoàn 840 hoàn thành nhiệm vụ phát triển nhanh vào tung thâm thị xã, cổ vũ tinh thần bám trụ trong nhiều giờ để truy quét tàn quân và đánh địch phản kích. Rõ ràng Phước Bình tuy là hướng thứ yếu nhưng nó lại mang tính chất hiểm yếu trên toàn khu vực phòng thủ của địch ở tỉnh Phước Long lúc bấy giờ, nên khi ta đánh chiếm và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đây đã làm rung chuyển toàn bộ khu vực phòng thủ Sài Gòn ở hướng bắc, đông- bắc. Lúc ấy trong giới cầm đầu nguỵ quân, nguỵ quyền ở Sài Gòn, đã có ý kiến: có thể phải rút bỏ thị xã Phước Long để tránh hiểm hoạ.
Đợt hai chiến dịch, mục tiêu tiến công là chi khu quân sự Đồng Xoài, không có trong kế hoạch ban đầu, mà được nảy sinh trong quá trình chiến đấu. Đó cũng là lý do cắt nghĩa vì sao giữa đợt một - đánh Phước Long, Phước Bình với đợt hai tiêu diệt sinh lực địch ở Đồng Xoài có khoảng cách những gần một tháng.
Sau chiến thắng địch ở mặt trận Phước Long - Phước Bình, anh Lê Trọng Tấn, anh Trần Độ được Bộ tư lệnh Miền gọi về báo cáo, tôi ở lại hướng dẫn các đơn vị rút kinh nghiệm về tổ chức và thực hành chiến đấu.
Trong lúc tôi đang suy nghĩ sắp tới sẽ làm gì, ở đâu, thì anh Tấn, anh Độ từ Bộ tư lệnh Miền trở về phấn khởi báo tin:
- Có nhiệm vụ mới rồi! Nhưng thời gian gấp lắm, phải chuẩn bị thật khẩn trương.
Liền sau đó cuộc họp Bộ chỉ huy chiến dịch được triệu tập. Anh Tấn phổ biến mệnh lệnh chiến đấu do anh Nguyễn Chí Thanh, thay mặt Bộ tư lệnh Miền giao nhiệm vụ tiếp theo của chiến dịch là tổ chức cuộc tiến công đợt hai vào chi khu quân sự Đồng Xoài và các đồn bót xung quanh nhằm tiếp tục thực hiện tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực quân nguỵ, đẩy mạnh chiến tranh du kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, gây chấn động vào vùng ven đô và nội đô. Phải lựa chọn cách đánh quyết liệt vào căn cứ quân sự Đồng Xoài vì địch xây dựng nơi đây thành một trung tâm hành quân để tiến hành các cuộc hành quân càn quét đánh phá căn cứ, kho tàng, tạo lập một cứ điểm vững chắc của tứ giác Bình Long - Phước Long - Đồng Xoài - Chơn Thành trong hệ thống phòng thủ vòng ngoài ở phía bắc Sài Gòn.
Ngừng một lát, anh Tấn hạ giọng như tâm tình:
- Trước khi ra về anh Thanh bắt tay tạm biệt hai chúng tôi nhắc nhở thêm: phải có biện pháp tập trung binh hoả lực đánh mạnh, đánh tiêu diệt địch chốt giữ mục tiêu chủ yếu Đồng Xoài góp phần làm phá sản hoàn toàn chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đồng thời giữ vững thế chủ động tiến công trong tình huống địch chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến. Đợt một đã thắng, đợt hai thắng giòn giã hơn, gây cho địch thất bại đau hơn, lớn hơn. Nhưng cần phải có biện pháp khắc phục công sự, hầm ngầm của địch, thực hiện bí mật, luồn sâu, đưa lực lượng vào đảm bảo chắc thắng, giảm thương vong đến mức tối thiểu.
Địa hình nơi đây đang còn xa lạ, nhưng nhìn vị trí Đồng Xoài trên bản đồ tình huống, chúng tôi càng thấy sự chỉ đạo của anh Thanh có tầm nhìn xa, tính toán nhiều nước đi cho một thế cờ, củng cố thêm lòng tin và tinh thần quyết tâm đối với những người thực hiện, mặc dầu phía trước đang có biết bao nhiêu khó khăn đang chờ.
Sau khi họp quán triệt nhiệm vụ trên giao, thảo luận thống nhất bước đầu về quyết tâm chiến đấu, Bộ chỉ huy phân công mỗi người một việc: anh Tấn chuẩn bị nội dung mệnh lệnh chiến đấu, anh Trần Độ dự thảo chỉ thị về công tác chính trị, lãnh đạo tư tưởng bộ đội, tôi được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy trận tiến công mục tiêu Đồng Xoài.
Tuy thời gian chuẩn bị không còn nhiều nhưng phải mất gần tuần lễ chúng tôi mới hoàn thành nhiệm vụ của bước trinh sát thực địa. Vì yếu tố bất ngờ gần như không còn, sau khi Phước Long, Phước Bình bị ta tiến công, địch ở Đồng Xoài tăng cường đề phòng tuần tra, canh gác, báo động chiến đấu. Thường ngày chúng tung từ 1 đến 2 trung đội ra làm nhiệm vụ cảnh giới ở khu vực sân bay, đưa từ 1 đến 2 trung đội khác ra phục kích ở hướng đông-bắc và hướng đông ấp chiến lược để phát hiện các hoạt động của ta. Đêm đêm địch tập bắn (2), báo động những giờ giấc không cố định, vào buổi tối, nửa đêm, gần sáng; mỗi lần kéo dài 5 đến 10 phút, tất cả các loại súng trong chi khu đều bắn dồn dập, mãnh liệt như một trận đánh thực sự. Khác với Phước Long, ở đây không có điểm cao như núi Bà Rá, mọi yêu cầu quan sát toàn cảnh từ xa đều phải leo lên cây cao nhưng không phải ai cũng biết trèo cây. Hơn nữa, thời gian để tiến hành nhiệm vụ cũng bị hạn chế, các công việc mất nhiều thời gian như tiếp cận mục tiêu, nắm tình hình cụ thể về bố trí binh hoả lực, hệ thống vật cản, công sự, lô cốt, hầm ngầm lại chỉ làm vào lúc 17 giờ 30 phút đến 19 giờ 30 phút là lúc địch đổi gác, ăn cơm, chưa tổ chức tuần tiễu, phục kích. Phần lớn tình hình cụ thể đều dựa vào dân, do dân cung cấp nhưng tiến hành không thể nhanh mà là câu dầm, bắt bóng, có lúc được lúc không. Thường phải chờ dân ra vào ấp chiến lược vào những giờ nhất địch để tiếp xúc, vừa tranh thủ giáo dục, thuyết phục gắn với trao đổi để tìm hiểu những điều cần biết. Có khi chúng tôi còn bí mật, bất thần lúc tranh tối tranh sáng gặp dân ra vào ấp chiến lược để hỏi thêm.
Hạ tuần tháng 5, Bộ chỉ huy chiến dịch họp lần cuối để chính thức thông qua quyết tâm chiến đấu và các kế hoạch bảo đảm của các đơn vị hoả lực, đặc công, hậu cần.
Qua báo cáo kết quả tình hình địch của đoàn trinh sát thực địa, các nguồn thông tin của cấp trên, của cấp uỷ, chính quyền địa phương, chúng tôi nhất trí đánh giá:
- Tuy chỉ là một chi khu, nhưng Đồng Xoài là một căn cứ quân sự mạnh hơn cả tiểu khu Phước Long, nó có một hệ thống công sự liên hoàn, vững chắc, nhiều lớp; hệ thống hoả lực được bố trí hiểm hóc, sẵn sàng lưới lửa dày đặc để chặn đối phương trước tiền duyên bị tấn công. Song đây lại là một chi khu tương đối biệt lập, sự chi viện trực tiếp của pháo binh từ các điểm xung quanh bị hạn chế: Đồn gần nhất như cầu Sông Bé cách 19 ki-lô-mét về phía tây nhưng không có pháo, tiểu khu Phước Thành cách 30 ki-lô-mét về phía nam, tiểu khu Phước Long cách 35 ki-lô-mét về phía bắc. Về phía ta sau chiến dịch Bình Giã, sau đợt một của chiến dịch này tinh thần phấn khởi, tin tưởng của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên rõ rệt, đã có những trưởng thành về nhiều mặt, nhất là những kinh nghiệm về tổ chức, chỉ huy đánh tập trung, hiệp đồng binh chủng. Trang bị vũ khí được tăng cường, ngoài 4 khẩu sơn pháo 75 ly của Nhật còn được bổ sung thêm một số vũ khí bộ binh hiện đại kể cả súng phun lửa được đưa từ miền Bắc vào theo đường biển cập bến Lộc An (Bà Rịa) tháng 12 năm 1964. Nhưng nếu nói đánh địch trong công sự vững chắc theo đúng nghĩa của từ này thì đây là lần đầu bộ đội Đông Nam Bộ ra quân, trong khi tư tưởng ngại đánh lớn, đánh tập trung tuy đã được giải quyết nhưng chưa căn bản, chưa đủ cơ sở thực tế để thuyết phục. Tuy không phải là phổ biến, nhưng lẻ tẻ đến đâu vẫn còn nghe những ý kiến: tiêu diệt địch cỡ nào, đại đội, tiểu đoàn trên cứ khoán, còn hoàn thành ra sao để đơn vị lo, mắc gì phải giao mục tiêu cụ thể.
Đúng là chúng tôi đang sắp phải đương đầu với một cứ điểm quân sự thuộc loại rắn nhất của địch trong thời điểm lúc ấy. Đây vừa là một mệnh lệnh quân sự thực sự nghiêm túc, không chi giới hạn ở tiêu diệt sinh lực địch tại chỗ mà còn là một bước đi trước quan trọng, của một thế trận tiếp sau, như ý kiến chỉ đạo cuối cùng của anh Thanh trong đợt hai chiến dịch: "Giải quyết Phước Long khó, mà có đánh dứt điểm thì tiếng vang của nó không bằng Đồng Xoài. Đánh Đồng Xoài có giá trị nhiều mặt, nhưng phải chuẩn bị thật tốt".
Từ những nhận định trên và để thực hiện ý kiến chỉ đạo của anh Thanh, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tăng thêm thời gian chuẩn bị và giao cho tôi trực tiếp tổ chức triển khai làm tốt một số việc chủ yếu sau:
- Đắp sa bàn chi khu quân sự Đồng Xoài để phổ biến cho cán bộ chỉ huy nhận dạng địa hình, thấy được hình thái bố trí của địch; giao nhiệm vụ chiến đấu cho các đơn vị, các mũi, các hướng; thực tập chiến đấu hiệp đồng chung và hiệp đồng cụ thể giữa các tổ hoả lực, bộc phá, đội đột kích, đội dự bị trong thực hành đột phá mở cửa.
- Huấn luyện kỹ thuật gói bộc phá, động tác đặt bộc phá, giật nụ xòe, cắt rào vượt chướng ngại vật.
- Tổng hợp và phổ biến cho các đơn vị nắm được một số kinh nghiệm qua các trận đánh công kiên trong kháng chiến chống Pháp như trận Đông Khê, Bản Hoa, Đồi A1 (Điện Biên Phủ) để có cơ sở vận dụng trong thực hành chiến đấu.
Cái quy trình trong một trận đánh công kiên từ kháng chiến chống Pháp, bắt đầu là trận đánh Đông Khê ở biên giới Việt - Trung (1950) nay được sống lại, tất cả như còn mới nguyên, được các đơn vị đón nhận, cố học, cố luyện, cố nhớ để vận dụng khi vào trận.
Tuy có bận rộn, vất vả nhưng tôi rất hào hứng, phấn khởi thực hiện các công việc mà Bộ chỉ huy chiến dịch giao. Không khí chuẩn bị bỗng sôi nổi hào hứng trào lên, lan ra các lán dã ngoại ẩn mình dưới cánh rừng già cách căn cứ Đồng Xoài 20 ki- lô-mét về phía tây bắc (3), càng thôi thúc cổ vũ tôi làm hết sức mình với tinh thần tất cả cho trận đánh đang tới gần.
Ngày N đã đến!
Trưa ngày 9 tháng 6 các đơn vị tham chiến được lệnh rời vị trí tập kết hành quân vào chiếm lĩnh trận địa.
Từ một địa điểm giấu quân giữa cánh rừng già thuộc địa phận khu vực Chơn Thành, tôi đi cùng với đơn vị tiến vào hướng tây, tây-bắc (hướng chủ yếu của cuộc tiến công - khu phòng ngự then chốt của căn cứ, nơi đặt sở chỉ huy của chi khu).
Theo kế hoạch, 17 giờ 30 phút mới xuất phát, nhưng Bộ chỉ huy lệnh cho các đơn vị lên đường sớm một tiếng (16 giờ 30 phút) vì lúc này trời đổ mưa, một trận mưa to, xối xả ầm ầm như thác đổ bầu trời mờ đục như một tấm màn nguỵ trang thiên nhiên lý tưởng. Đoàn quân đi trong ướt lạnh, đường trơn, nhưng lại tranh thủ lúc ban ngày, vừa tạo được bất ngờ vừa có điều kiện quan sát địch; các chiến sĩ đơn vị ĐKZ, đại liên cười nói râm ran "đỡ phải mò đường, lạc bạn, đỡ bị ngã, lại được ngắm cảnh, nhìn rõ bầu trời".
Đúng 9 giờ 30 phút, các hướng, các mũi đã vào hết vị trí quy định. Tất cả đều an toàn, sung sức, đang triển khai đào công sự.
Trận đánh chưa bắt đầu mà tôi thấy niềm phấn khởi đến nhanh, cái lo giảm đi, đầu óc thanh thản, bớt căng. Tranh thủ đi kiểm tra tình hình chuẩn bị của một đơn vị, tôi thấy việc đào công sự còn sơ sài, giản đơn, chưa thật nghiêm túc, thường dựa vào gốc cây to, vào những cây gỗ đổ ngang làm vật che khuất, kế đó có hầm hố nhưng nông bờ chắn mỏng, thấp. Việc đã rồi, không còn điều kiện để khắc phục cơ bản, tôi chỉ nhắc: việc làm này còn sai, dễ bị địch sát thương trước khi tiến công chúng, cần tranh thủ sửa.
Ngay cả sở chỉ huy chiến đấu cũng vậy. Đặt ở sườn đồi phía trước là không đúng (nếu là đài quan sát thì được) dễ lộ, bị địch đánh phá. Công sự cũng sơ sài, chủ yếu dựa vào cây gỗ đổ ngang không an toàn. Tôi, anh Lê Xuân Lựu (phó chủ nhiệm chính trị), đồng chí Diễn trinh sát của Bộ và đồng chí liên lạc phải bắt tay vào việc cải tạo lại sở chỉ huy, trước hết là đào hố ẩn nấp cá nhân. Qua thực tế này tôi thấy ý thức đánh phân tán, nhỏ lẻ, tự do lựa chọn, chắc ăn thì đánh, không chắc ăn bỏ vẫn tồn tại; mặt khác cũng do khuyết điểm của chúng tôi, việc giáo dục, hướng dẫn chuẩn bị chiến đấu cho bộ đội chưa kỹ, chưa bao quát đầy đủ các nội dung đồng bộ của một nhận thức về cách đánh mới.
Không gian lúc này im ắng. Căn cứ địch chìm trong màn đêm không một động tĩnh. Tôi quay sang anh Lựu:
- Yếu tố bất ngờ như vậy là tốt.
- Vâng, đúng là như thế! - Xuân Lựu vui vẻ hưởng ứng và giơ tay xem đồng hồ rồi tiếp - đã 22 giờ rồi anh ạ.
Vừa nói, Xuân Lựu vừa giơ đồng hồ sát mặt tôi để chứng minh rằng mắt mình còn tinh - Anh nhìn này có đúng là kim chỉ 22 giờ không.
Mặt đồng hồ dạ quang sáng trong đêm tối, hai kim lúc này thành hình góc nhọn, bé hơn 90 độ, đúng như Lựu nói.
Hai chúng tôi cười đủ nghe để chia sẻ niềm vui cho nhau trong giây phút chờ đợi đầy hồi hộp, rồi lại nhanh chóng trở về im lặng mà trận đánh đang đòi hỏi, tránh mọi động tĩnh cho đến phút chót.
Nhưng với tôi im lặng chỉ là hình thức, cái thanh thản chỉ thoáng nhanh, cái lo lắng, phấp phỏng, bồn chồn lại rộn lên, bởi còn những 2 giờ nữa mới nổ súng. Ai mà biết được từ đây đến đấy cái gì sẽ xảy ra. Thời gian lúc này sao mà dài thế!
Đồng chí liên lạc đang giúp tôi đắp thêm bờ chắn miệng hầm cao thêm thì pháo 105 ly từ trong đồn địch bắn ra, phá tan không gian im lặng. Xuân Lựu từ hầm bên nói vọng sang:
- Báo cáo anh, lúc này là 22 giờ 40 phút.
Liền sau đó hầu như các loại súng trong chi khu bắn ra các hướng rất dữ dội, chủ yếu là hướng tây, tây-bắc và hướng bắc.
Một quả rơi vào sở chỉ huy. Diễn, tiểu đoàn trường trinh sát của bộ và đồng chí giữ máy điện thoại hy sinh, đồng chí liên lạc bị thương, chỉ có tôi và Xuân Lựu an toàn.
Súng phía trước vẫn nổ ngày eàng dữ dội. Có cái gì đó như không bình thường. Tôi quay sang hầm Xuân Lựu trao đổi:
- Anh ở lại đây nắm máy điện thoại liên lạc với anh Tấn ở sở chỉ huy chiến dịch, tôi xuống sở chỉ huy Trung đoàn 2 xem sao.
Tôi vừa đi được vài bước thì gặp Năm Phòng đi lên:
- Báo cáo anh tình hình gay, có lẽ bị lộ, địch bắn dữ.
- Có ai bị thương không? - Tôi hỏi.
- Dạ, chưa rõ.
- Pháo ta đã bắn chưa?
- Dạ, chưa - Năm Phòng tiếp - anh Sáu Khâm đề nghị anh xuống.
Đúng lúc quá! Tôi đang trên đường xuống chỗ các anh. Ngoảnh lại thấy Xuân Lựu đứng bên, anh muốn cùng chia sẻ khó khăn chứ không chịu ngồi ôm máy điện thoại.
Vừa đến nơi tình hình im ắng trở lại. Xuân Lựu ghé sát tai tôi nói vui:
- Địch sợ tướng Hoàng Cầm đấy!
Căn cứ vào diễn biến thực tế cho đến lúc này, nhìn đồng hồ kim đã chỉ 23 giờ, chúng tôi trao đổi, đều nhất trí nhận định ta chưa bị lộ, vì loạt đạn pháo 105 ly đầu tiên địch bắn về hướng nam, chứng tỏ chúng bắn tập báo động như mọi đêm.
Sau đó tôi có nối dây điện thoại để báo cáo anh Tấn và trao đổi với anh Sáu Khâm (trung đoàn trường), Năm Phòng (chính uỷ) lệnh cho các đơn vị chuẩn bị sẵn sàng, phải tranh thủ tối đa yếu tố bất ngờ, cho kiểm tra xem có đơn vị nào bắn lại. Nếu có cho đơn vị đó lùi ra, xoá dấu vết đề phòng địch phát hiện. Tôi sẽ xuống các đại đội, tiểu đoàn kiểm tra.
- Anh khỏi phải xuống, để tụi tôi lo - Sáu Khâm nói.
Chúng tôi vừa kết thúc những vấn đề cần xử lý trước mắt thì súng từ trong chi khu tiếp tục bắn dữ dội về hướng tây, tây-bắc, có cả súng của ta từ hướng đó bắn trả lại. Mặt đất rung lên, bầu trời hiện lên một quầng sáng vì ánh lửa đạn và pháo sáng địch liên tục bắn lên.
Chưa biết rõ nguyên nhân nhưng tất cả chúng tôi đều có chung nhận định - dấu hiệu bị lộ đã rõ, khả năng bất ngờ không còn nữa.
Tình huống thay đổi mau lẹ. Từ kỳ tập chúng tôi phải chuyển sang cường tập, phát huy tối đa các loại hoả lực sơn pháo 75 ly, ĐKZ 75, súng cối 82 bắn chế áp mạnh mẽ hỗ trợ cho các mũi, các hướng đồng loạt tiến công. Cuộc chiến đấu từ đây diễn ra rất gay go, ác liệt. Số thương vong tăng lên, phần lớn các chiến sĩ đánh bộc phá bị thương và hy sinh, một số trận địa pháo bắn thẳng bị trúng đạn, pháo bị hỏng. Sau hai mươi phút đầu nổ súng, các hướng mới mở được hai đến ba lớp hàng rào, chưa mũi nào vào được chi khu.
Sau khi khẩn trương vận chuyển thương binh về phía sau cứu chữa, chấn chỉnh, bổ sung lực lượng, điều trận địa hoả lực lên gần hơn để nâng hiệu quả bắn chế áp hoả điểm địch, chúng tôi hạ lệnh đợt đột phá lần thứ hai vào lúc một giờ sáng ngày 10 tháng 6, kéo dài đến 5 giờ mới kết thúc, ta chiếm phần lớn các mục tiêu trong chi khu.
Nhiệm vụ đã hoàn thành, trận địa đã im tiếng súng, vậy mà cả hai anh Sáu Khâm, Năm Phòng đều khóc, với nét mặt ngậm ngùi, thương cảm, vì ta bị thương vong quá nhiều (4)
Chiến thắng mà buồn lo, giống như tôi đã ôm khóc nức nở vì thương xót đại đội trưởng Trần Cừ hy sinh trong trận đánh chiếm cứ điểm quân sự Đông Khê (trong chiến dịch Biên Giới Thu Đông năm 1950), khóc vì ân hận, vì hôm trước tôi nặng lời, do hiểu lầm anh!
Hiểu được phút yếu đuối chân thật đời thường, không thể có lý do trách cứ, tôi lựa lời trao đổi với hai anh:
- Thương vong không ai muốn nhưng cũng là điều tất nhiên. Có chiến thắng nào lại không mất mát, điều quan trọng là phải nghiêm khắc kiểm điểm, biết rút kinh nghiệm để các trận đánh sau tránh được những vấp ngã không đáng có.
Trời chưa sáng rõ. Không gian vẫn yên tĩnh. Tranh thủ khoảnh khắc quý hiếm này, tôi lại tiếp: "Không sợ mất sức chiến đấu, vì ta tiến công địch trong đội hình sư đoàn, theo phương thức đánh lớn, ngoài Trung đoàn 2 còn có Trung đoàn 1, Trung đoàn 8 sẵn sàng thay thế làm nhiệm vụ tiếp sau. Cuộc chiến đấu còn dài, không phải hết thời cơ sửa chữa khuyết điểm. Bây giờ là lúc đòi hỏi phải biến đau thương thành sức mạnh, thành hành động cụ thể. Trước mắt tôi đề nghị các anh tranh thủ thời gian cho điều chỉnh củng cố lại lực lượng sẵn có, hình thành ngay thế bố trí trụ bám chiến đấu, bằng bất cứ giá nào không cho địch tăng viện bằng đường không xuống căn cứ Đồng Xoài, tạo điều kiện cho đơn vị bạn đánh viện như đã nêu trong kế hoạch hiệp đồng chiến đấu chung.
Như một công thức, nhưng lúc này những điều tôi vừa trao đổi lại có tác dụng an ủi động viên lẫn nhau, tăng thêm cảm thông, gắn bó và tinh thần trách nhiệm cộng đồng giữa trên dưới, để cùng nhau xốc tới, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Ngay sau đó anh Sáu Khâm, anh Năm Phòng cùng với các cấp phó trong ban chỉ huy Trung đoàn 2 lấy lại được khí thế ban đầu, chỉ huy đơn vị đương đầu với địch trong điều kiện mới đầy thử thách gay go - trụ bám đánh địch giữa ban ngày, chịu đói chịu khát, chịu liên tục nhiều đợt máy bay phản lực Mỹ từ sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất đến bắn phá, để yểm trợ cho máy bay lên thẳng đến đổ quân xuống phản kích chiếm lại khu vực chúng đã mất, nhưng chúng đã thất bại. Lại có thêm cán bộ, chiến sĩ ta hy sinh và bị thương. Nhưng cái được thật lớn, buộc địch phải thay đổi kế hoạch. Ngày 10 tháng 6 địch cho máy bay lên thẳng đổ tiểu đoàn 1 trung đoàn 7 (sư đoàn 5) xuống khu vực Thuận Lợi cách Đồng Xoài 7 ki-lô-mét về phía bắc, đã bị Trung đoàn 1 bố trí sẵn ở đây tiêu diệt. Ngày 12 tháng 6, ta lại tiêu diệt gọn tiểu đoàn 7 khi chúng vừa được máy bay lên thẳng đổ xuống tăng viện chưa kịp phản kích chiếm lại Đồng Xoài.
Đến đây bạn đọc đã rõ: Đồng Xoài là trận tiến công then chết của chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài, nhưng không nằm trong kế hoạch tác chiến ban đầu; nó chỉ được hình thành sau khi ta đánh thắng địch ở Phước Long, Phước Bình. Vì vậy khoảng cách giữa hai đợt tiến công khá xa, trên dưới một tháng (đợt một từ 10 đến 11 tháng 5 đánh Phước Long, Phước Bình; đợt hai từ 9 đến 11 tháng 6 đánh Đồng Xoài). Tuy hình thành sau nhưng cuộc tiến công căn cứ Đồng Xoài không phải do ngẫu hứng, bị động mà trái lại, nó được cấp trên trù liệu từ rất sớm trong nghệ thuật chỉ đạo tạo thế trên chiến trường Nam Bộ nói chung, Đông Nam Bộ nói riêng. Năm 1961, trung ương và Bộ Chính trị đã có chỉ thị rất cơ bản về đường lối và phương pháp công tác cho cách mạng miền Nam, trong đó nhấn mạnh "căn cứ lâu dài cho toàn miền Nam là khu vực rừng núi Tây Nguyên và Đông Nam Bộ".
Để thực hiện yêu cầu này, Bộ Chính trị còn nêu phương châm công tác cụ thể ở các vùng rừng núi lấy "đấu tranh quân sự làm chủ yếu".
Ngay khi họp giao nhiệm vụ cho chúng tôi tổ chức triển khai mở chiến dịch tiến công Phước Long, Phước Bình, anh Thanh có nhắc đến mục tiêu quân sự Đồng Xoài nhưng anh lại không đưa nó vào kế hoạch chung.
Theo cảm thụ của tôi, tương quan lực lượng lúc đó chưa cho phép cùng một lúc mở rộng không gian chiến dịch. Mặt khác các đơn vị chủ lực Đông Nam Bộ ở thời điểm này vẫn chưa quen đánh lớn, đánh hiệp đồng binh chủng, đánh địch trong công sự vững chắc. mà phải vừa đánh vừa rút kinh nghiệm từ thấp đến cao, phải có thời gian chuẩn bị về nhận thức, tư tưởng, huấn luyện chiến thuật kỹ thuật mới. Tuy không phải là chiến dịch riêng lẻ, nhưng do ý nghĩa quan trọng và tiếng vang lớn của trận then chốt chiến dịch diễn ra ở Đồng Xoài, nên tên gọi phổ biến sau này là chiến dịch Đồng Xoài.
Thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh Miền, chúng tôi tổ chức tổng kết chiến dịch, có cả đại biểu Trung ương Cục, Quân uỷ Miền xuống dự, có mời cả Quân khu 7 và đặc khu Sài Gòn - Gia Định, vì đây là chiến dịch lớn đầu tiên ở chiến trường B2, có nhiều bài học thực tiễn về chì đạo chiến dịch và chỉ huy chiến đấu rất cần cho hoạt động quân sự tiếp sau.
Anh Nguyễn Chí Thanh có mặt từ đầu đến cuối hội nghị tổng kết. Ngoài nghe phát biểu chung, anh tranh thủ gặp gỡ nhiều cán bộ, chiến sĩ để tìm hiểu về nhận thức, hỏi sâu các vấn đề xử lý cụ thể trong quá trình chiến đấu. Anh vẫn sôi nổi, giản dị và chan hoà. Gặp tôi anh hỏi:
- Sút gầy thế này thì chịu được mấy chiến dịch (vì sau chiến dịch tôi gầy đi 8 ki-lô-gam).
- Báo cáo anh, sẽ quen.
- Có nhiều khó khăn không? - Anh Thanh hỏi tiếp.
- Báo cáo anh tương tự như Điện Biên Phủ.
Anh Thanh phát biểu trước khi hội nghị kết thúc. Sau khi biểu dương tinh thần khắc phục khó khăn, chiến đấu dũng cảm của các đơn vị tham gia chiến dịch, anh phân tích ý nghĩa chiến thắng và bài học rút ra về chỉ đạo chiến dịch. Anh nói:
- Thắng lợi của chiến dịch Sông Bé - Đồng Xoài đã giáng một đòn quyết định góp phần làm phá sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ. Các đồng chí đã tiêu diệt được Đồng Xoài thì có thể diệt được các căn cứ chi khu khác ở miền Đông Nam Bộ.
Cuối cùng anh nhấn mạnh:
- Bài học mà tất cả chúng ta đều thấy là muốn tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, làm chuyển biến cục diện thì phải thực hiện đánh lớn, hiệp đồng binh chủng, tức là phải có quả đấm chủ lực.
Ngày 2-9-1965, lễ thành lập sư đoàn 9 được cử hành giản dị mà trang nghiêm bên bờ suối Nhung thuộc địa phận Phước Thành.
Lễ thành lập sư đoàn diễn ra trong điều kiện rất đặc biệt, đậm nét màu sắc chiến trường. Vì các trung đoàn lúc này đang phân tán, ở xa làm nhiệm vụ chiến đấu, nên chỉ triệu tập đại biểu cán bộ phụ trách từ đại đội trở lên về dự lễ ra mắt.
Thay mặt Bộ tư lệnh và Quân uỷ Miền, anh Nguyễn Chí Thanh (cùng đi còn có luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) xuống công bố quyết định thành lập sư đoàn.
Không khí trang nghiêm mà thân mật ấm tình đồng chí. Tất cả chúng tôi đều yên lặng lắng nghe anh Thanh đọc quyết định và chỉ thị. Sư đoàn 9 là đơn vị chủ lực đầu tiên của B2 và Đông Nam Bộ, có vai trò rất quan trọng trong nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch cỡ binh đoàn, góp phần đánh bại hoàn toàn chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Nhưng muốn đánh bại loại chiến tranh này chúng ta phải phá vỡ hệ thống ấp chiến lược, đánh bại thủ đoạn phòng thủ diện địa, tiêu diệt tiểu đoàn, chiến đoàn, sư đoàn địch. Thắng lợi vừa qua là lớn, nhưng chưa đủ. Lực lượng địch còn đông, chúng phát triển thành nhiều sư đoàn, hình thành quân khu, quân đoàn, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều quả đấm chủ lực. Trước mắt cần có kế hoạch tiêu diệt quận lỵ Dầu Tiếng, kết hợp đánh viện, phát triển về Bầu Bàng, Lai Khê, Bình Dương, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế, mở rộng lực lượng chuẩn bị sẵn sàng đánh Mỹ.

Chú thích:

(1) Phước Long là tên chiến dịch trong kế hoạch ban đầu.
(2) Vừa nhằm hiệu chỉnh tầm hướng. vừa tập báo động hù doạ đối phương rằng chúng luôn tỉnh táo sẵn sàng đánh trả nếu bị ta tấn công.
(3) Địa điểm trú quân của đội hình chiến dịch ở bắc đường 14 nhằm phân tán sự phán đoán của địch: đối phương sẽ đánh Đồng Xoài hay Chơn Thành?
(4) Theo số thống kê, riêng trận tiến công chi khu quân sự Đồng Xoài, số thương vong 424 (trong đó có 134 đồng chí hy sinh).


 Chặng đường 10.000 ngày - Hồi ký của thượng tướng Hoàng Cầm (Phần 2)

Không có nhận xét nào: