Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

Bí mật về OSS và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Part 1

Năm 1995, là năm Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Cùng năm đó, tôi viết lời giới thiệu và đứng tên để xuất bản cuốn "Tại sao Việt Nam" (Why Vietnam?) của A. Patti.
Cuốn sách được xuất bản tại Mỹ 10 năm trước đó (1985). Tác giả của cuốn sách là người chỉ huy cao nhất của tổ chức tình báo chiến lược OSS (tiền thân của CIA) đã có mặt ở Việt Nam khi Cách mạng tháng Tám 1945 vừa thành công.


Nội dung cuốn sách là câu trả lời lấy từ tứ thơ của một bài ca cổ Ái Nhĩ Lan về câu chuyện gã thuỷ thủ già nỡ bắn chết con chim báo bão. Con chim báo bão chính là những ký ức lịch sử về một thời kỳ Mỹ và Hồ Chí Minh từng là đồng minh chống phát xít. Chim báo bão chết, tất nhiên con tàu của gã thuỷ thủ già bị lạc vào giông bão.


Cũng năm ấy, đoàn các cựu chiến binh của nhóm OSS cộng tác với Hồ Chí Minh đến thăm Hà Nội và gặp lại những người đồng minh từ nửa thế kỷ trước. Tôi may mắn được tham dự và chứng kiến và chợt nhận ra rằng trong lịch sử cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, lực lượng nước ngoài duy nhất đứng bên cạnh Hồ Chí Minh chỉ có… Hoa Kỳ! Năm 1997, tôi lại may mắn được tháp tùng các cụ Việt Minh sang tận New York để gặp các cụ OSS hàn huyên cho giới sử học nhiều nước cùng nghe để làm sâu sắc hơn cái ký ức đã có thời bị quên lãng ấy. Nhiều nội dung các câu chuyện kể được phản ánh trong cuốn sách này.


Có hẳn một đêm "trình diễn" tại Nhà châu Á" ở New York. Hai nhóm các cụ OSS và Việt Minh gặp nhau cùng kể lại chuyện cũ cho một cử toạ, ngoài quan khách của hai bên, số đông là những nhân viên CIA đến dự có phần vì tò mò trước câu chuyện hợp tác giữa hai bên mà trong ký ức thế hệ của họ chỉ thấy sự thù dịch trong một cuộc chiến vô cùng khốc liệt.


Cụ Charles Fenn là người cao tuổi nhất trong nhóm OSS, năm đó đã xấp xỉ 90 đi cùng một cô bạn gái rất trẻ. Cụ ít nói, chỉ quan sát. Cụ là người đầu tiên trong đơn vị gặp Hồ Chí Minh ; sau này cũng lại là người đầu tiên từ nước Mỹ viết cuốn tiểu sử đầu tiên bằng Anh ngữ và bị trục xuất vì việc làm ấy…


Trước khi chia tay, Cụ gọi tôi và một anh bạn cùng đoàn chỉ để nói một điều tâm đắc nhất: "Mỹ không có bạn, Mỹ chỉ có đồng minh. Cụ Hồ của các bạn biết Mỹ nên hợp tác được với Mỹ". Tôi hỏi: Vậy thì Đồng minh là thế nào? Cụ trả lời: Cùng có lợi!


Cũng trong hai năm 1995 và 1997 tôi lại may mắn có mặt trong cả hai cuộc gặp giữa Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Namarra và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều diễn ra ở Hà Nội.


Cả hai lần ông khách Mỹ chỉ chốt vào một câu hỏi: "Liệu có cơ hội nào bị bỏ lỡ hay không khiến hai quốc gia không thiết lập được sự hợp tác mà quay sang đánh nhau?". Thì cũng cả hai lần vị lão tướng của chúng ta đưa về một nguyên lý: "Việt Nam là nước nhỏ, chỉ mong hoà bình hợp tác với thiên hạ. Chúng ta đã từng hợp tác cho đến khi chính lợi ích của nước lớn đã khiến Mỹ chọn con đường khác".


Năm 1998. Tôi lại may mắn có mặt tại nhà riêng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc gặp con trai của cố Tổng thống Mỹ J.F. Kennedy. Năm ấy, giữa hai người tuổi cách nhau tròn nửa thế kỷ, vị Đại tướng 88 tuổi nói với vị khách Mỹ 38 tuổi rằng: thế hệ các bạn chỉ biết lịch sử mối quan hệ Việt-Mỹ là một cuộc chiến tranh tàn khốc và đầy thù hận kéo dài 30 năm, nhưng nên nhớ rằng trước đó đã có những trang sử của quan hệ tốt đẹp và của tinh thần hợp tác. Tương lai các bạn trẻ cả hai nước phải viết tiếp những trang sử tốt đẹp ấy.


Đại tướng chỉ vào những tấm ảnh chụp cùng Bác Hồ tiếp các bạn Mỹ trong những ngày Đất nước độc lập đầu tiên làm bằng chứng. Năm 2005. Tôi lại may mắn được tháp tùng vị Thủ tướng Việt Nam đầu tiên đi thăm nước Mỹ. Ở chặng đầu tiên, thành phố Seattle, có một người ra đón và tiếp kiến đầu tiên Thủ tướng của chúng ta lại chính là một cựu chiến binh OSS đã từng rất gần gũi với Bác Hồ. Đó là cụ Mac Shin người báo vụ viên được OSS cử đi theo nhà lãnh đạo Việt Minh về chiến khu Việt Bắc sớm nhất.


Rồi ở chặng cuối, thành phố Boston, ông chủ tập đoàn LDG chủ trì cuộc đón tiếp đã giương cao tấm bích chương vẽ cách cứu phi công Mỹ có in lá cờ hoa và cờ đỏ sao vàng và nói lớn với cử toạ rằng: cách đây 60 năm chúng ta đã từng hợp tác chống phát xít thì giờ đây tại sao chúng ta không hợp tác để làm giàu cho hai quốc gia? Còn ông cựu thượng nghị sĩ MacGovern nổi tiếng đại điện cử tri bang Massachusetts, đã từng ra tranh cử tổng thống với R. Nixon thì phát biểu rằng sở đĩ cương lĩnh tranh cử của ông là chống cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam bởi lẽ trong Đại chiến thế giới lần thứ Hai ông là một phi công ném bom ở vùng Đông Nam Á. Do vậy ông biết Hồ Chí Minh từng tổ chức cứu phi công Mỹ bị Nhật bắn rơi, do vậy không thể làm một cuộc chiến tranh với những người như Hồ Chí Minh. Ông nói thêm rằng, cuộc tranh cử ấy ông đã thất bại, nhưng giờ đây lịch sử chứng minh rằng những cử tri của thành phố Boston và của bang Massachusetts là những cử tri ưu tú nhất vì lịch sử chứng minh rằng rốt cuộc hai dân tộc chúng ta đã hoà bình hợp tác với nhau.


Năm 2006. Tôi lại có may mắn tham gia vào thành phần Việt Nam trong cuộc tiếp xúc giữa Quốc hội hai nước, nhân phái đoàn do Chủ tịch Hạ viện Mỹ sang thăm Hà Nội. Trong phát biểu chào mừng buổi sáng cũng như mở đầu tiệc chiêu đãi buổi tối, ông Chủ tịch Quốc hội Việt giam nhắc lại một lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1946 rằng: "Việt Nam chủ trương hoàn toàn độc lập và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ", và khẳng định rằng đó cũng là thông điệp của Việt Nam "ngày hôm nay". Và bữa tiệc chiêu dãi này hiểu theo nghĩa nào đó đã được dọn sẵn từ 60 năm trước!…


Tất cả những gì chứa đựng trong những sự kiện trên có thể tìm thấy trong cuốn sách đang có trên tay của các bạn - bản dịch "OSS và Hồ Chí Minh - đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật". Đây là một công trình nghiên cứu được coi là hoàn chỉnh nhất về lịch sử quan hệ Việt-Mỹ trong thời kỳ đại chiến Thế giới lần thứ Hai, cũng là một thời đoạn quan trọng trong tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lịch sử cuộc Cách mạng tháng Tám 1945. lỉó sẽ rất bổ ích cho những ai.dang chứng kiến những tiến triến quan trọng trong quan hệ Việt-Mỹ ngày hôm nay gắn liền với tiến trình hội nhập và không ngừng Đổi mới của dân tộc Việt Nam.


7.2007


Dương Trung Quốc


LỜI GIỚI THIỆU


Những vụ nổ làm rung chuyển Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 đã dẫn đến những thay đổi to lớn trên toàn thế giới. Cuộc tấn công của Nhật Bản đã kéo nước Mỹ vào vòng chiến bên cạnh Anh, Liên Xô và Trung quốc trong nỗ lực đánh bại thế lực quân sự Đức, Italia và Nhật Bản. Khi chiến tranh lan rộng ra khắp các mặt trận châu Âu và Thái Bình Dương, rất ít quốc gia tránh được sự tàn phá về kinh tế, quân sự chính trị và xã hội của thảm hoạ này.


Chiến tranh cũng hoà giải các dân tộc và quốc gia có đường hoàng ít nhiều đối nghịch nhau trong thời bình. Một mối quan hệ "bất ngờ" như vậy đã xuất hiện giữa người Mỹ và người Việt Nam (lúc đó được biết đến với cái tên An Nam hay Đông Dương). Người Việt Nam sống mòn mỏi dưới ách thống trị thực dân nhiều thập kỷ ở Đông Nam Á như một phần Đông Dương thuộc Pháp bao gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Campuchia.


Các mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ còn có nhiều thăng trầm, và cuối cùng đẫn đến một cuộc chiến tranh khác gần 20 năm sau. Nhưng vào năm 1941, không có người Mỹ và người Việt Nam nào dự cảm dược tương lai này. Trên thực tế, khi người Mỹ còn đang choáng váng vì cuộc tấn công Trân Châu Cảng và mới chỉ bắt đầu sẵn sàng cho cuộc chiến lâu dài phía trước, thì một số người Việt Nam đã phân tích việc nước Mỹ tham chiến có thể có ý nghĩa đối với họ và với cuộc đấu tranh vì tự do, thoát khỏi ách thực dân của họ: "Chúng ta phải ngăn ngừa ảo tưởng rằng Tưởng Giới Thạch và quân Anh - Mỹ sẽ mang lại tự do cho chúng ta", Tổng bí thư Đảng cộng sản Đông Dương Trường Chinh lên tiếng cảnh báo. "Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của chúng ta", ông nói tiếp, "rõ ràng chúng ta phải tìm kiếm các đồng minh - cho dù họ chỉ là nhất thời, dao động, hay có điều kiện - nhưng cuộc đấu tranh này phải là thành quả của những nỗ lực của chính chúng ta". Là một người cộng sản cứng rắn, hẳn ông sẽ hết sức ngạc nhiên khi biết rằng một trong những nhà tư bản nổi bật nhất ở Mỹ, luật sư triệu phú William J. Donovan, người sau đó đứng đầu một tổ chức sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc "giới thiệu" hai quốc gia, cũng đồng chia sẻ triết lý tranh thủ các đồng minh.


Donovan, giám đốc Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS), một cơ quan thời chiến trong quân đội Mỹ thực thi các chiến dịch tình báo và phản gián, còn nhận ra sự cần thiết sử dụng đồng minh trên diện rộng - dù là "nhất thời, dao động, hay có điều kiện ". Mặc dù chính ông chống đối chủ nghĩa cộng sản, nhưng trong suốt cuộc chiến, OSS của Donovan đã sát cánh cùng tổ chức bí mật của những người cộng sản trên khắp châu Âu. "OSS không phải là một tổ chức hoạch định chính sách, Donovan nhiều lần nhấn mạnh, và với nước Nga là một đồng minh cùng tham chiến, nhiệm vụ của ông là hợp tác trong mục tiêu chung - đánh bại phe Trục trong thời gian ngắn nhất có thể!". Những suy xét tương tự được các đặc vụ của Donovan tuân thủ triệt để khi hoạt động vời những người cộng sản ở châu Á, vì đôi khi họ là những người hiểu rõ nhất tình hình chính trị và quân sự trong khu vực. Nói một cách đơn giản, sứ mạng của OSS tại châu Á là nhằm đánh bại phát xít Nhật và chấm dứt sự áp bức tàn bạo của Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Và điều đó có nghĩa là, cần phải có sự hiện diện của tình báo quân đội Mỹ tại Việt Nam lúc đó đang bị Nhật Bản chiếm đóng, một khu vực nằm ngoài những quan tâm của Mỹ thời kỳ trước chiến tranh nhưng lại đặc biệt quan trọng bởi nằm kề cả Trung Quốc và đảo quốc Nhật Bản.


Do đó các nhân viên OSS buộc phải tuyển mộ đặc tình, sau đó là các nhóm vũ trang quân sự dưới sự bảo trợ của OSS rồi phái họ trở lại khu vực này. Vì vậy dường lối của hai dân tộc gặp nhau trong một thời khắc ngắn ngủi - một thời khắc vừa nguy hiểm lại vừa đầy hứa hẹn đối với tương lai của cả hai nước.


Trong ba năm tồn tại ngắn ngủi của mình, tổ chức OSS đã tham gia nhiều chiến dịch và hoạt động tình báo bí mật, đã tuyển mộ cả nam lẫn nữ phù hợp với những nhiệm vụ của nó. Edmond Taylor, một cựu thành viên của OSS, đã bày tỏ quan điểm của mình về nhân tố căn bản đằng sau tổ chức này: "Tôi nghĩ Donovan đã hy vọng chứng minh qua OSS rằng, như thường lệ nguồn dự trữ chưa được khai thác của lòng dũng cảm của con người, tài nguyên và tính năng động của ý chí cá nhân sẽ tạo thành tiền dề của chiến thắng. Vì rằng, trong một thế giới ngày càng được cơ giới hoá, nhân cách vẫn không chỉ là phẩm chất đạo đức mà còn là giá trị chiến lược". Có thể sự có mặt của chính những con người như thế trên lãnh thổ Việt Nam khiến cho tình thế mà họ đổi đầu trở nên quá phức tạp và, đôi khi quá nhiễu loạn đối với họ. Vì những người Mỹ ấy không chỉ chứng kiến sự tàn bạo của quân Nhật mà còn dối mặt với thực tế ảm đạm của chủ nghĩa thực dân Pháp từ viễn cảnh Việt Nam .


Có thể thực tế này đã được tổng kết đầy đủ nhất trong một bài ca Việt Nam nổi tiếng hồi những năm 30: "Đại hoạ thay vì quyền hành bị quân xâm lược Pháp - những kẻ vốn có dã tâm tàn bạo, cướp đoạt. Vô sỉ thay khi bày mâm ra người ta chẳng có gì để ăn ngoài rễ cây và lá; khốn khổ thay khi cầm đũa lên rồi buông tiếng thở dài vì thiếu muối".


Sự mô tả điều kiện thảm khốc và tương lai ảm đạm của hầu hết nông dân ở nông thôn Việt Nam này rõ ràng tố cáo người Pháp - "những kẻ xâm lược man rợ". Thật vậy, hầu hết người Việt Nam nhận được quá ít nhưng lại đau khổ quá nhiều dưới ách thống trị thực dân 50 năm tính đến thời điểm đó. Trong khi người Pháp tâng bốc những thành quả của sứ mạng khai hoá thì tình cảnh của nông dân càng trở nên tồi tệ hơn.


Tuy nhiên, người Pháp, tầng lớp chóp bu người Việt và người Hoa - những kẻ hợp tác với Pháp - được hưởng những thành quả lao động của người nông dân. Những báo cáo của người Việt thời kỳ này như đất đỏ, hồi ký của Trần Tử Bình có nhan đề Hồi ức của một người Việt Nam về cuộc sống tahi đồn điền cao su thuộc địa và Trần Văn Mai Ai gây ra tội ác này? đã làm sáng tỏ điều bài ca khẳng định rằng ách thống trị của Pháp rất hà khắc và rằng trung nông chịu nhiều đau khổ dưới ách thực dân. Nếu là người Pháp thì Nam Kỳ nói chung và Sài Gòn nói riêng thoả mãn hình ảnh ám chỉ danh hiệu "Hòn ngọc Viễn Đông". Nhưng có rất ít người Việt Nam được đắm mình trong vẻ đẹp lộng lẫy của hòn ngọc thuộc Pháp này.


Từ gốc rễ của nỗi thất vọng như vậy, các nhà lãnh đạo và phong trào đòi độc lập Việt Nam nổi lên. Có rất nhiều đối thủ với đủ trào lưu tư tưởng tranh đua lãnh đạo quần chúng bất mãn, kể cả những người theo chủ nghĩa quân chủ thân thật, Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ), các nhóm Mác xít cách mạng, nổi bật nhất là Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) - chính đảng nắm quyền điều khiển Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (còn gọi là Việt Minh), và những nhóm Trotskit ít tiếng tăm hơn. Tất cả đều cố gắng củng cố sức mạnh đối với quan điểm chống Pháp đang lan tràn khắp nổi. Cuối cùng, sau khi loại bỏ Quốc dân Đảng và kết nạp nhiều đối thủ của mình vào hàng ngũ Việt Minh, những người cộng sản đã chiếm ưu thế. Đến năm 1945 Việt Minh bắt đầu thu hút được một số lượng thành viên lớn chưa từng có và rõ ràng đã trở thành lực lượng nổi bật nhất trong các nhóm người Việt đấu tranh giành chính quyền và độc lập. Lúc đó, Việt Minh chủ yếu được nhìn nhận như phong trào chống thực dân, ủng hộ độc lập và có lẽ cả dân tộc chủ nghĩa chứ không như tổ chức cộng sản. Thực tế là lúc đó có rất ít người Việt Nam hiểu chủ nghĩa cộng sản đại diện cho cái gì, nhưng hầu hết đều đau đớn nhận thức được chủ nghĩa thực dân Pháp là gì trong cuộc sống của họ.


Đến cuối năm 1945, Việt Minh dường như đã hiểu rõ hơn bất kỳ chính đảng nào khác cách sử dụng khát vọng mãnh liệt của hầu hết người Việt vào mục đích lật đổ ách thực dân của mình. Nhà sử học Huỳnh Kim Khánh biện luận rằng bí quyết để Việt Minh đứng lên nắm quyền là "kỹ năng phân tích tình thế cách mạng, tổ chức, tuyên truyền, và khả năng lãnh đạo không nghi ngờ gì nữa, cực giỏi đối với tất cả, không có ngoại trừ các đảng phái chính trị Việt Nam". Tuy nhiên, ông Khánh cũng chỉ ra rằng, "những kỹ năng này đã không đem lại kết quả nếu không có thời cơ cách mạng thuận lợi". Một trong số những người đầu tiên hiểu được "thời cơ cách mạng thuận lợi" đến cuối chiến tranh sẽ nổi lên thành nhà lãnh đạo Việt Minh và rồi cuối cùng trở thành người Việt Nam được đánh giá cao nhất trên thế giới.


Sinh năm 1890 tại Nghệ An, một tỉnh có truyền thống cách mạng, phần lớn thời trai trẻ Hồ Chí Minh bôn ba năm châu bốn biển, phải làm đủ nghề lặt vặt và thử nghiệm một loạt triết lý chính trị. Ngay sau khi Chiến tranh thế giới 1 kết thúc, ông, lúc đó có tên Nguyễn Ái Quốc, đi đến kết luận rằng chủ nghĩa cộng sản đã đưa ra những luận cứ rõ ràng nhất chống lại chế độ thuộc địa và một viễn cảnh sáng sủa nhất cho công cuộc thống nhất và điều hành một nước Việt Nam độc lập. Là một nhà văn có bút lực đầy thuyết phục và là một nhà ái quốc mạnh mẽ, ông đã sống phần lớn những năm đầu của cuộc đời hoạt động ở nước ngoài và đã trở về việt Nam thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới 2 - thời điểm thích hợp nhất trong lịch sử Việt Nam.


Chiến tranh thế giới 2 đã gắn kết nhiều tầng lớp xã hội, tạo ra thời cơ vàng cho Hồ Chí Minh và Việt Minh. Năm năm chiếm đóng Hòn ngọc Viễn Đông thuộc Pháp của Nhật Bản đã làm cho cảnh bần cùng của đại bộ phận người dân Việt Nam trở nên tồi tệ hơn, và cơ bản làm suy yếu vị thế của Pháp trong mắt của cả những kẻ thực dân bị quản chế và Đồng Minh. Ngoài khả năng bảo vệ lập trường chống thực dân, Việt Minh còn có thể yêu cầu hợp tác với Đồng Minh trong cuộc chiến chống Nhật Bản. Mặc dù các hoạt động chống Nhật của Việt Minh chỉ nhỉnh hơn hoạt động quấy rối đối với quân đội Thiên Hoàng, nhưng lại có tác dụng tuyên truyền tuyệt vời đối với phong trào. Hơn nữa, Việt Minh đã hưởng nhiều thuận lợi từ cuộc đảo chính của quân Nhật diễn ra vào tháng 3 năm 1945, cuộc đảo chính đã chấm dứt một cách hiệu quả ách thực dân Pháp trong một thời gian ngắn, sau đó là thất bại của Nhật, tạo ra một khoảng trống quyền lực mà Hồ Chí Minh và Việt Minh tiến vào.


Các binh sĩ Mỹ thuộc lực lượng OSS cũng gặp phải, (đôi khi theo đúng nghĩa đen), tình huống chiến tranh này. Như một phần sứ mạng của họ, những người được chọn vào OSS thường hoạt động bí mật với nhiều nhóm kháng chiến ở châu Âu và Thái Bình Dương. Trong Chiến tranh thế giới 2, quyết định hoạt động với nhiều nhóm như vậy đã bị nghi ngờ. Đặc biệt là sự cộng tác ngắn ngủi giữa OSS và Việt Minh đã trở thành chủ đề tranh luận lớn, nhất là sau sự dính líu không thích hợp của Mỹ vào Việt Nam từ năm 1965 đến 1975. Những bất đồng về việc liệu Hồ Chí Minh có trở thành một "Tito châu Á" hay đứng về phe Liên Xô hay không đã thu hút sự chú ý của nhiều học giả. Những ý kiến tranh luận này thậm chí đã xuất hiện trong các thành viên OSS , những người biết Hồ Chí Minh từ những năm 1940. Một cựu đặc vụ của OSS cho rằng Hồ Chí Minh "hoàn toàn cứng rắn". Ông ta bổ sung thêm, "Tôi không tin rằng có cách thức nào đó để bàn bạc với ông ấy". Một người khác lại mô tả tình hình có phần hơi khác:


"Bạn phải xét đoán ai đó trên cơ sở những gì người đó muốn. Hồ Chí Minh không thể là người Pháp, và ông biết ông có thể chống Pháp trong những giới hạn của mình. Ông e ngại Trung Hoa và ông không thể bàn bạc với họ bởi họ sẽ đòi cho đủ mới thôi. Quá xa xôi, Moskva thích hợp cho việc phá cầu nhưng lại không thật thích hợp để xây chúng lại. Nếu không có chiên tranh, tất nhiên Hồ Chí Miịnh không thể có cơ hội chống lại thực dân Pháp. Nhưng lúc này ông đã lên yên cho dù không rõ con ngựa ông đang cưỡi là gì. Lúc đó chắc chắn ông đang giúp chúng ta. Chùng ta và người Pháp có thể giúp ông trong tương lai. Tôi nghĩ ông đã sẵn sàng giữ thái độ thân thương Tây".


Tuy nhiên nếu quả thực trong những năm cuối chiến tranh các thành viên OSS ở Việt Nam hiểu hết vấn đề thì họ đã thấy những ý kiến như vậy hầu hết đều không ăn nhập. Giống như các cơ quan thời chiến, OSS quan tâm đến việc giành thắng lợi và tìm kiếm đồng minh trợ giúp cho sứ mạng đó - bao gồm những người cộng sản và các nhóm dân tộc chủ nghĩa bản xứ đủ loại thành phần còn ít được biết đến. Và cho dù giám đốc OSS và nhà lãnh đạo Việt Minh không thể gặp nhau thì một số điểm tương đồng giữa hai người và những triết lý của họ đã khai sáng mối quan hệ giữa các thuộc cấp của William Donovan và Hồ Chí Minh.


Giống như Donovan, Hồ Chí Minh tin giá trị nội tại của "những nguồn dự trữ lòng can đảm của con người cùng tài nguyên chưa được khai thác", và tầm quan trọng của phẩm giá con người là yếu tố chiến lược giành thắng lời. Cả hai ông đã nhận ra tài năng, trí tuệ và phẩm chất khó diễn tả nhưng cần thiết mà nhà sử học Robin Winks gọi là "phẩm chất tiên quyết, ở những người khác. Hai ông cũng hiểu cần phải uỷ quyền cho những người có "phẩm chất tiên quyết" để thúc đẩy trao đổi, cho dù là để mở rộng sự tham gia vào Việt Minh và giải phóng Việt Nam khỏi ách cai trị của Pháp hay, trong trường hợp của Mỹ, để thu thập trên diện rộng tin tức tình báo cho việc đánh bại Nhật Bản và giải phóng các dân tộc dang sống dưới ách chiếm đóng tàn bạo của chúng.


Thoạt tiên, cả Hồ Chí Minh và Donovan tuyển mộ một số lượng lớn các học giả vào tổ chức của mình, đặc biệt là Hồ Chí Minh trong việc thành lập Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội giữa những năm 1920 và Donovan trong Ban nghiên cứu và phân tích quan trọng bậc nhất của OSS. Theo dòng thời gian, tổ chức của cả hai ông đều mở rộng, thu hút một lượng lớn thành viên thuộc mọi tầng lớp xã hội.


Bất chấp những thành tựu giáo dục nhân viên đặc vụ, cả Hồ Chí Minh và Donovan đều tin tưởng cao độ vào cộng sự cũng như vào chính bản thân mình, bởi tin rằng những người chiến đấu sát cánh bên họ phải "can đảm, dũng cảm và kiên trì", và phải đặt nhu cầu của họ phụ thuộc vào đòi hỏi của đại nghĩa. Đối mặt với những tiêu chuẩn cao như vậy, hên cho cả Việt Minh và OSS là thủ lĩnh của họ may mắn có những phẩm chất thu hút quần chúng - cái làm cho họ trở nên nổi tiếng. Cả hai được xem là những người lịch thiệp và khó bị chọc giận, có sức thuyết phục và có đầu óc cởi mở, và trên hết không thể phủ nhận họ có tinh thần ái quốc cùng quyết tâm sắt đá phụng sừ những nhu cầu cơ bản của dết nước mình. Và không nghi ngờ gì nữa, Hồ Chí Minh hẳn đã đồng ý với tuyên bố của Donovan vào năm 1941 rằng "Có một sức mạnh tinh thần trong chiến tranh, rằng về lâu về dài nó sẽ mạnh hơn bất kỳ cỗ máy nào". Hồ Chí Minh mong đợi chiến thắng cuối cùng - giành độc lập từ tay Pháp - trong khi Donovan quan tâm đến mục tiêu nhanh chóng đánh bại phe Trục hơn. Nhưng cả hai ông đều tin rằng họ tiến hành một cuộc chiến hợp đạo lý và chính nghĩa và rằng cuối cùng họ sẽ chiến thắng.


Tất nhiên, người của Donovan tin họ đang tham gia vào một cuộc chiến chính nghĩa để giải phóng thế giới khỏi móng vuốt của phát xít Đức và quân phiệt Nhật. Nhưng chiến tranh kết thúc phần lớn họ thường muốn về nhà. Tuy nhiên, với các đặc tình của OSS ở Đông Dương thuộc Pháp, nhiệm vụ của họ vẫn chưa kết thúc ngay cả sau khi Nhật thất trận: họ còn phải chuẩn bị cho sự đầu hàng chính thức và hồi hương của quân Nhật và truy lùng những tội phạm chiến tranh. Để thực hiện những mục tiêu của mình, quân Mỹ trên bộ cần phải hợp tác với người Việt Nam, người Pháp, Anh và Trung Quốc; và họ thấy sứ mạng của mình bị cản trở nghiêm trọng bởi những mục đích và lý tường thường trái ngược của các phe nhóm.


Hơn nữa, có lẽ nghĩ rằng mình không thiên vị, nhiều người Mỹ trẻ tuổi đã dốc lòng cho chủ nghĩa lý tưởng dẫn họ đến kết luận, đặc biệt là sau khi đã chứng kiến điều kiện sống ở Việt Nam, rằng chủ nghĩa thực dân Pháp cũng nên bị cáo chung cùng cuộc chiến. Nhiều thành viên OSS tin họ đang hành động theo ước nguyện của Tổng thống Franklin Roosevelt vốn được biết là có quan điểm chống chủ nghĩa thực dân Pháp và thậm chí còn đi xa đến mức đề cập một cách rõ ràng đến tình hình Đông Dương. Ngoài ra, tài hùng biện của ông trong suốt cuộc chiến và những tuyên bố chính thức của ông, như Tuyên bố Đại Tây Dương, chỉ làm tăng thêm nhận thức này. Mặc dù tất cả đều cảm thấy có lý do chính đáng để đồng cảm với người Việt Nam, nhưng nhiều thành viên OSS tại Việt Nam đã trở thành mục tiêu chỉ trích gay gắt, nhất là từ phía thực dân Pháp. Những lợi ích và lối sống mà người Pháp có được, đặc biệt là ở Sài Gòn và miền Nam, đã khiến họ không sẵn lòng thay đổi đường hướng và lòng căm ghét của mình đối với những đề xuất rằng họ nên từ bỏ quyền kiểm soát Hòn ngọc Viễn Đông. Đại diện Pháp tại Hà Nội Jean Sainteny đã đặc biệt thẳng thắn trong những chỉ trích OSS của mình khi mô tả những người phục vụ tại Việt Nam năm 1945 là "hoàn toàn chẳng biết mô tê gì" về tình hình Đông Dương và thực ra là tình hình của toàn châu Á.


Theo quan điểm của ông ta, những người đó đã tin tưởng một cách ngây thơ rằng họ ủng hộ khái niệm chống thực dân, nhưng thay vào đó, họ lại đang tham dự cả vào trò chơi "chống người da trắng" của người Nhật Bản, và Việt Nam và dọn đường để Việt Nam làm mồi cho "chủ nghĩa cộng sản châu Á". Dẫu vậy quan điểm của những người làm việc cho OSS năm 1945 không đổi mầu bởi lối nói khoa trương của chiến tranh lạnh chưa xảy ra cho đến thời điểm ấy. Thay vào đó họ đánh giá tình hình như đã chứng kiến trên thực địa vào năm 1945. Dựa vào đánh giá kinh nghiệm trong suốt ba mươi năm của mình ở Đông Dương trước chiến tranh cũng như những trải nghiệm trong cuộc chiến, sĩ quan OSS Austin Glass hẳn là không đồng ý với Sainteny. Tháng 7 năm 1945, ông viết báo cáo cuối cùng của mình cho OSS :


"Tôi không tin ngườí Pháp từng hiểu được tâm tính của người Việt Nam bởi đa số họ quá tự cao tự đại và tham lam để có thể hiểu được nguyện vọng của dân tộc khác. Quyền tự do họ đã tuyên bố cho mình lại bị từ chối đối với dân tộc khác. Họ nói quá nhiều về "phẩm giá" Pháp, nhưng lại thường xuyên nhẫn tâm chà đạp nhân quyền và phẩm giá những dân tộc bị họ nô dịch. Minh chứng cho điều đó là tình cảnh bán nô lệ của cu li đồn điền, việc cưỡng bức nông dân đào kênh mương, mở đường… hay tuyển mộ họ vào đội quân bản xứ để lao động khổ sai. Gần đây, mưu toan thống trị Syria của người Pháp đã làm thế giới kính hoàng - nhưng đó là những gì họ đã và đang làm ở Đông Dương gần 100 năm nay" .


Giống như Glass, nhiều thành viên khác của OSS đã nói hoặc viết về những lo ngại của họ trước sự phục hồi chế độ cai trị của Pháp tại Đông Dương. Các báo cáo của họ đã được đọc, được đệ trình và bị lãng quên, bởi lúc đó, "người Đông Dương" về mặt chính trị không mấy quan trọng đối với Mỹ.


Khi những tranh cãi về sự dính líu của Mỹ tại Việt Nam nổi lên, đặc biệt là trong thập niên 60 và 70, một số chính khách và nhà báo đã lật lại những báo cáo của OSS và các nhân viên đã phục vụ cơ quan này. Nhưng đến lúc đó, "hoạt động tình báo" vẫn còn mờ nhạt. Đầu năm 1946, William Donovan thuyết phục cử toạ chiếu cố đến công tác của các đặc vụ của ông và những dính líu của nó đối với tương lai: "Có nhiều thanh niên nam nữ - những người mà lòng yêu nước và kỹ năng đặc biệt trong loại hình công tác (tình báo này đã được thử thách và rèn luyện trong chiến tranh - đang thiết tha được tuyển dụng. Giá như chính phủ của chúng ta đủ khôn ngoan để sử dụng họ". Tuyên bố cuối cùng dường như làm cho đôi mắt xanh của ông bốc lửa và cử toạ thời hậu chiến có lẽ đã hiểu hầu hết những gì ông nói: "Những thanh niên nam nữ này có thể là cứu tinh của hoà bình".


Liệu tuyên bố của ông có đúng với tình hình Việt Nam hay không không nằm trong phạm vi của tác phẩm này. Tuy nhiên, những hoạt động và phối hợp của các thành viên OSS trên bộ, của các cá nhân và các nhóm mà họ cùng làm việc chỉ rõ tầm quan trọng của thời gian, địa điểm và con người, nói một cách khác là tầm quan trọng của những sự kiện ngẫu nhiên trong việc thấu hiểu mối quan hệ day dứt đã phát triển giữa Mỹ và Việt Nam. Chúng ta chỉ có thể suy đoán rằng, cuộc chiến tại khu vực này đã có thể được ngăn ngừa bởi sự sáng suốt của các điệp viên nếu họ được chú ý đến, và nếu như các ý kiến của họ không bị xếp xó.


CHƯƠNG 1


Hai tiếng "khốn khổ" đã tóm tắt cuộc sống của người nông dân Việt Nam kể từ buổi đầu dựng nước.


Bị nhà Hán xâm chiếm trong thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, Việt Nam đã đấu tranh giành lại tự do trong hơn 1000 năm, cuối cùng đánh bại phong kiến Trung Quốc và giành được độc lập năm 938 sau công nguyên. Dẫu vậy, rất khó bảo đảm sự ổn định của đất nước. Phong kiến Trung Quốc tái xâm chiếm Việt Nam một thời gian ngắn vào thế kỷ XV. Thế kỷ XVII và XVIII đã chứng kiến những cuộc xung đột thường xuyên tàn phá cả hai bên khi các dòng dõi tranh giành địa vị thống trị của mình. Tính bất ổn của triều đại đã mở đường cho ngoại bang can thiệp. Người Bồ Đào Nha là những kẻ đến trước, tiếp theo là Hà Lan và Anh, nhưng người Pháp nổi lên như một cường quốc châu Âu vượt trội trên bán đảo Đông Dương. Đến cuối thế kỷ XIX người Pháp đã thiết lập sự hiện diện vững chắc và áp đặt quyền thống trị lên khu vực này sau khi đã chiếm được những thành phố lớn như Đà Nẵng, Sài Gòn, Huế, Hà Nội và buộc vua Tự Đức phải nhượng lãnh thổ. Quân Pháp và Tây Ban Nha chiếm Sài Gòn năm 1859, và một thập kỷ sau, miền Nam Việt Nam, hay Nam Kỳ, với thủ phủ là Sài Gòn, đã trở thành một thuộc địa quan trọng của Pháp.


Trong một thời gian ngắn, Nam Kỳ đã từng là thuộc địa Việt Nam duy nhất của Pháp, nhưng phần còn lại của đất nước cũng chẳng khá hơn là mấy. Đến năm 1884 người Pháp xâm chiếm khu vực châu thổ sông Hồng ở miền Bắc và các tỉnh miền Trung, và biến chúng thành những khu vực bảo hộ đặt tên theo thứ tự là Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Mặc dù vua triều Nguyễn vẫn ngự trên ngai vàng ở Huế, nhưng người Pháp nắm trọn quyền lực.


Đến năm 1893 Pháp hoàn tất việc xâm chiếm Lào và đưa năm khu vực - Bắc Kỳ, Trung Kỳ , Nam Kỳ, Lào và Campuchia vào Liên bang Đông Dương dưới sự cai quản của Pháp.


Nam Kỳ kiêu hãnh về khí hậu nhiệt đới và đất đai phì nhiêu, và người Pháp trước tiên bắt tay vào phát triển phương Nam cho những lợi ích kinh tế. Sau đó họ quay ra Bắc, nơi cuộc sống khó khăn hơn bởi mật độ dân số cao hơn đáng kể và thời tiết khắc nghiệt hơn khiến trồng lúa khó khăn hơn.


Không miền nào mang lại lợi nhuận ngay lập tức. Trong cuốn Sự phát triển của chủ nghĩa thực dân tại thuộc địa Đông Dương (1870 - 1940), Martin Murray lưu ý rằng người Pháp "đã tiếp nhận những vùng lãnh thổ rộng lớn ở Đông Dương nổi bật bởi sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật tương đối lạc hậu và mức chênh lệch về xã hội - kinh tế thấp", nghĩa là "chi phí ban đầu về việc làm và cai trị tại những thuộc địa hải ngoại mới này vượt xa những mối lợi kinh tế có thể nhanh chóng khai thác được". Để khắc phục tình hình đó, người Pháp đã tác động để phân phối lại ruộng đất và tăng sản xuất nông nghiệp.


Cuối cùng người Pháp cũng đạt được các mục tiêu kinh tế của họ, nhưng quá trình đó đã làm thay đổi cơ bản các mô hình đời sống truyền thống của nông thôn Việt Nam . Thường thì mỗi gia đình nông dân canh tác một mảnh đất nhỏ để duy trì sự sống và trồng cấy trên đất đai chung của làng để trả những chi phí chung. Tuy nhiên, dưới thời Pháp thuộc, đất đai bị tước đoạt và phân bổ lại nhằm cho phép người Pháp và tay chân của họ có được phần đất rộng nhất, màu mỡ nhất và có lợi về chiến lược nhất. Ngoài ra, mức thuế người Việt đóng trước khi Pháp xâm lược tương đối thấp, tối đa là 6%, thì nay dưới chính quyền thực dân vọt lên 70%, thậm chí cao hơn.


Kết quả là nhan nhản nông dân không có đất đai phải cạnh tranh tìm việc làm đã cho phép địa chủ trả công cho tá điền của mình thấp hơn và dành cho họ những quyền lợi hết sức tối thiểu. Rất nhanh chóng các chủ đất nhận ra rằng có thể thu lợi lớn bằng cách làm cho những người nông dân tuyệt vọng, những người không nuôi nổi bản thân mình với những gì còn lại sau khi nộp thuế, vay tiền.


Làm trầm trọng thêm vấn dề và tăng cảm giác bị bóc lột của người nông dân, nhiều chủ nợ là Hoa Kiều đã định cư tại Việt Nam nhiều thế kỷ trước (như người tị nạn ở những giai đoạn bất ổn trong nước hay thường ở một thời kỳ nào đó phong kiến Trung Quốc xâm lược nước này), phất lên dưới thời Pháp. Ai cũng biết, mức lãi suất của cả vay ngắn và dài hạn là rất cao; và một khi dính vào nợ nần thì người nông dân còn rất ít lựa chọn. Trong tuyệt vọng, một số nông dân không có đất cắm dùi đã phải lên đường ra thành phố. Dòng chảy này đã tạo ra một cuộc cạnh tranh việc làm dữ dội, đẩy tiền lương xuống thấp hơn và làm tăng mức độ đói nghèo ở khu vực nông thôn. Nhìn chung, hệ thống thuộc địa của Pháp, một hệ thống áp đặt từ trên xuống rất ít nhạy cảm đối với thực tế đời sống của dân chúng, đã làm tăng tình trạng đói nghèo vốn có trên khắp Việt Nam , khơi sâu khổ đau và thái độ bất bình của hầu hết người Việt.


Dưới thời toàn quyền Paul Doumer, kẻ đã cai trị Đông Dương thuộc Pháp từ năm 1897 - 1902, Pháp đã thành công trong việc biến lỗ thành lãi bằng cách chuyển gánh nặng sưu thuế tài trợ thuộc địa và chính phủ bảo hộ từ vai người Pháp sang vai người Việt Nam. Doumer không những kiếm được số vốn cần thiết cho các dự án xây dựng từ người Việt Nam , mà còn làm tăng thu nhập của người Pháp bằng việc khởi xướng độc quyền của nhà nước lên sản xuất, buôn bán rượu, thuốc phiện và muối. Đương nhiên, người Pháp được thì người Việt mất. Thuốc phiện giá rẻ và khát vọng thoát khỏi thực trạng khổ đau của một số thành phần nghèo khổ nhất trong xã hội Việt Nam dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng số đệ tử của nàng tiên nâu. Nhà báo Tam Lang đã đưa ra cái nhìn chua xót về nạn nghiện thuốc phiện trong giới kéo xe tay ở Hà Nội trong bài báo viết năm 1932 có tựa đề "Tôi kéo xe tay" , đăng trên tờ Tin tức Hà Nội buổí trưa và được xuất bản dưới dạng sách năm 1935. Những tác phẩm của Tú, tác giả của "người thầy", đề cập đến cuộc sống của những người kéo xe nghèo ở Hà Nội đã tóm lược tình cảnh của nhiều người Việt Nam tuyệt vọng nhất: "Làm nghề kéo xe tay, người ta phải hùng hục suốt ngày, ăn thì vội vội vàng vàng và thời gian rảnh rỗi duy nhất nguởí ta có là khi nằm bên bàn đèn thuốc phiện".


Mặc dù vậy, chính những người Việt Nam và người Hoa giàu có lại đóng góp cho két bạc của thuộc địa nhiều nhất thông qua mua bán thuốc phiện. Tiền từ độc quyền thuốc phiện, rượu, và muối cuối cùng đã cung cấp 70% cho ngân sách thuộc địa của Pháp.


Đến đầu thế kỷ XX, miền Nam Việt Nam xuất khẩu cả gạo và cao su với số lượng lớn. Hàng trăm ngàn héc ta đất trồng lúa mới khai khẩn được đưa vào sản xuất. Việc bóc lột tá điền và những người lĩnh canh bản xứ vì thế cũng gia tăng. Năm 1860, 57.000 tấn gạo đã được xuất sang Campuchia; đến năm 1929 con số này đã tăng lên 1.223.000 tấn. Như trông đợi, lợi nhuận của người Pháp tăng vọt, giới thượng lưu người Việt và người Hoa sống sung túc, nhưng đại bộ phận nông dân tiếp tục sống trong khổ cực. Có lẽ ví dụ ô nhục nhất về bóc lột và cuộc sống cơ cực của người nông dân là đồn điền cao su của Pháp. Vì những nhà tư bản châu Âu kiếm lời dễ dàng thông qua đầu tư vào sản xuất cao su ở thuộc địa, nên thứ mủ rỉ ra từ cây cao su trở nên nổi tiếng với tên gọi "vàng trắng". Để đảm bảo rằng dòng lợi nhuận tiếp tục chảy, chính quyền thực dân đã kết hợp với giới chủ đồn điền ngăn chặn, và khi cần thì đàn áp hoặc dàn xếp những yêu sách của người lao động.


Trong những năm 1930, chính quyền Pháp đã có một số cải thiện điều kiện của người lao động như xây dựng bệnh viện và trường học, nhưng muốn tới đó người ta phải trả giá cao. Dưới áp lực không ngừng tăng tối đa lợi nhuận và giảm tối thiểu chi phí, các chủ đồn diễn thường không bằng lòng với sự can thiệp của nhà nước vào cái mà họ cho là những lĩnh vực riêng. "Trong những hoàn cảnh đó", Martin Murray viết: các nhà quản lý châu Âu coi những điều chỉnh và những chính sách có tính cải lương của nhà nước là phiền phức, và những bất bình của công nhân là hệ quả của sự lười biếng và bội ơn có tính "bẩm sinh". Nếu các nhà tư bản Châu Âu gọi mủ cao su là "vàng trắng" thì công nhân đồn điền lại tìm một cái tên khác để mô tả nó: "máu trắng".


Trần Tử Bình, một trong những người cung cấp thông tin tốt nhất của chúng tôi về vấn đề thuộc địa, hẳn cũng đồng ý với mô tả đó. Sau khi bị đuổi khỏi một trường dòng ở miền Bắc Việt Nam , Trần Tử Bình lên một tàu Pháp vào Nam . Tại đây ông đăng ký đi làm phu đồn điền cho dù với khả năng nói và viết tiếng Pháp lưu loát của mình, ông hoàn toàn có thể tìm một công việc khác. "ông dứt khoát ra đi theo đuổi cuộc phiêu lưu để kiểm tra sức mạnh thể chất và tinh thần của mình ở miền đất lạ". Tại đồn điền cao su Phú Riềng, cả sức mạnh thể chất và tinh thần của ông đã được thử thách đến nơi đến chốn. Ở Phú Riềng, người công nhân không còn là những cá nhân nữa mà trở thành vật sở hữu được tính đến nhưng không đáng phải quan tâm.


"Mỗí người được phát một miếng gỗ nhỏ có ghi số để đeo vào cổ như số tù vậy. Mỗi buổi sáng, chúng tôi thức dậy vào lúc 4 giờ để nấu ăn. 5 giờ 3o, tất cả chúng tôi phảí xếp hàng tại sân làng để các đốc công điểm danh. Trong khi làm việc đó một số đốc công có thể sử dụng cả ba toong của chúng vừa đánh mạnh vào đầu công nhân vừa đếm. Không ai trong số chúng lại không chơi trò này…


Sau khi điểm danh, đám đốc công lùa chúng tôi tới nơi làm việc. Chúng tôi phải làm việc quần quật dưới cái nóng như thiêu như đốt của ánh nắng mặt trời suốt từ 6 giờ sáng đến 5 giờ tối, chỉ trừ 15 phút buổi trưa được ngơi tay để ăn uống và tiểu tiện…


Cuối ngày, ngưòí ta không còn chút sức lực nào và chẳng muốn gì hơn là được chui vào lều đánh một giấc đến hôm sau khi tiếng còi của đốc công một lần nữa vang lên, lại phảí thức dậy, ăn vội ăn vàng và bắt đầu một ngày làm việc kiệt sức nữa. Mỗi ngày trôi qua, mỗi người lại kiệt sức hơn một tý, má tóp răng long, mắt sâu thêm với những quầng thâm viền quanh, quần áo như được treo trên những bộ xương. Tất cả dường như đã chết, và thực tế thì, cuối cùng hầu hết mọi người đều chết" .


Trong khi đồn điền thống trị miền Nam thì phần lớn những ngược đãi nông dân ghê tởm nhất ở miền Bắc lại diễn ra tại vùng mỏ. Mặc đù những khu mỏ ở miền Bắc không đạt được mức hiệu quả trong sử dụng lao động nông dân như các đồn điền miền Nam , nhưng phu mỏ cũng phải chịu những bất công tương tự. Giống như các đồn điền cao su, người lao động thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà ở, phải làm việc nhiều giờ đồng hồ trong những điều kiện xấu và thường xuyên bị đối xử tồi tệ để đổi lấy đồng lương còm thấp hơn nhiều so với mức nghèo khổ.


Cuộc sống của chủ đồn điền và các viên chức thì khác hẳn. Ngay cả đốc công người Việt cũng được hưởng một cuộc sống gần như thiên đường so với công nhân. Đốc công có nhà riêng với những đồ đạc hiện đại, đồ ăn và đồ mặc đủ cho một cuộc sống sung túc. Đồn điền và điền trang phô bày tất cả những đồ xa xỉ có ở Việt Nam và nhập những thứ khác từ métropole (Pháp). Khác biệt mức sống giữa công nhân và giới chủ, đốc công đã làm tăng sự giận dữ và oán giận của tầng lớp dưới. Tình cảnh khốn cùng của nông dân và nỗi cay đắng mà nó gây ra cuối cùng đã dấy lên những phong trào đòi độc lập trên toàn khu vực.


Có những trái ngược bề ngoài, số đông người Pháp không hoàn toàn hướng tới lợi nhuận. Mục đích tự xưng của "sứ mạng khai hoá văn minh" của Pháp nhằm mở mang cho người Việt Nam thông qua một nền giáo dục phương Tây (đặc biệt là lịch sử, ngôn ngữ và văn hoá Pháp), cải đạo sang Thiên Chúa giáo, sát nhập vào hệ thống tư bản thế giới - nhưng như thuộc địa chịu ơn và chỉ dành riêng cho lợi ích của pháp.


Từ thời điểm đặt chân lên Đông Dương, người Pháp đã coi người Việt Nam là một dân tộc lạc hậu và cần phát triển đáng kể trước khi có thể hy vọng trở thành một dân tộc "hiện đại" trên trường quốc tế. Nhà sử học Jacques Dalloz đã nhận xét:


Đối với kẻ thực dân, sự thống trị được biện minh chủ yếu bằng những gì đạt được, và thứ này được chính quyền ca tụng theo đúng nghi thức. Những kẻ chinh phục áp đặt an nính trật tự cho dù chỉ những người rất già còn nhớ những băng cướp có thời hoành hành nơi thôn dã là đánh giá cao việc này. Người Pháp nhìn nhận mình như những kẻ khai sáng và tự hào về những thành tựu của họ trong giáo dục .


Hệ thống giáo dục của người Pháp ngăn cản việc học chữ Hán và khuyến khích học tiếng Pháp. Ở một mức độ nào đó, học tiếng Việt trở nên dễ dàng hơn nhờ tăng cường sử dụng chữ quốc ngữ. Được các nhà truyền giáo dòng Tên Bồ Đào Nha tạo ra như một phương tiện truyền đạo cho người Việt, chữ quốc ngữ được được các giáo sĩ dòng Tên người Pháp hoàn thiện. Tuy thế, tỷ lệ mù chữ căn bản của người Việt, gần 80% khi Pháp bắt đầu đô hộ, đã giảm xuống. Nhiều thanh niên Việt Nam xuất thân trong gia đình khá giả đã chống lại nền giáo dục thuộc địa. Một số lượng thậm chí còn lớn hơn vẫn chưa được học hành bởi gia đình họ cần người làm việc để đóng vô số loại thuế bị áp đặt dưới thể chế của người pháp. Khi Chiến tranh thế giới 2 nổ ra, chưa đầy 20% nam sinh người Việt đến tuổi đến trường đang theo học ở trình độ thấp nhất và chỉ có khoảng 1% lên được phổ thông cơ sở.


Việc mở rộng cơ sở hạ tầng lao động là một dấu hiệu rõ ràng hơn về sự khuếch trương của người Pháp ở Việt Nam . Chính quyền Pháp tập trung vào xây đựng đường sá và cầu cống để xúc tiến vận chuyển cả người và hàng hoá trên cả nước. Trong nhiệm kỳ năm năm của mình, Doumer đã làm thay đổi Việt Nam bằng việc xây dựng nhà hát opera, đường bộ, đường sắt và một cây cầu bắc qua sông Hồng tại Hà Nội cho đến năm 1954 còn được biết đến với tên gọi cầu Doumer(1) . Tuy nhiên, trong hồi ký của mình, Trần Tử Bình cho rằng, làn sóng xây đựng chẳng giải quyết được gì nhiều cho người lao động.


"Các công trình xây dựng, làm đường cao tốc và cầu cống phát triển rất nhanh. Toàn bộ vốn liếng, nhân lực và vật lực ném vào giai đoạn bóc lột này đều được bòn rút từ xương máu người dân chúng tôi… Ai mà biết được có bao nhiêu loại thuế tàn nhẫn và điên rồ đã được ban bố rồi đổ lên đầu lên cổ những người đã bị bần cùng hoá, làm cho họ đã nghèo lại nghèo thêm ". Làn sóng xây dựng mới tiếp tục vào đầu thể kỷ XX, nhưng số lượng trường học và bệnh viện mới "là quá ít và chỉ đành cho cư dân thành thị. Lợi ích thực tế dành cho người nông dân chỉ là con số 0" .


Những độc quyền cũng như điều kiện ở các đồn điền cao su tại các khu mỏ và trong các đô thị kích thích mạnh mẽ cuộc đấu tranh đang tồn tại của người Việt, đặc biệt là trong giới trí thức của những năm 1920, chống lại ách thống trị của Pháp. Trong cuốn sách được đánh giá cao "Truyền thông được thử nghiệm của người Việt Nam " nhà sử học David Marr nhận xét:


Nhìn nhận viễn cảnh 80 năm hoạt động của thuộc địa Pháp, giaí đoạn duy nhất kéo dài 8 năm, từ 1922 đến 1929, là có các điều kiện thực sự thuận lợi cho toàn bộ tiến trình khai thác kinh tế tư bản tại Đông Dương. Sự yếu ớt của nền kinh tế kêt hợp với tình trạng bấp bênh của chính quyền đã giải thích cho toàn bộ hoạt động thuộc địa. Các dự án được bắt đầu và bỏ dở hay bị sửa đổi nhằm thu lợi từ những cắt xén vẫn tồn tại nhưng không cải thiện về mặt xã hội. Ưu điểm cơ bản đó của chủ nghĩa thực dân Pháp trước đây mà ngay cả những nhà quan sát Việt Nam sắc sảo nhất cũng không cảm nhận được đã trở thành chủ đề phân tích nghiếm túc trong giới trí thức thế hệ mới .


Người nổi tiếng nhất của thế hệ mới xuất hiện trên chính trường là Nguyễn Tất Thành - được biết đến nhiều hơn dưới tên Nguyễn Ái Quốc và sau này là Hồ Chí Minh. Nguyễn Tất Thành sinh năm 1890 tại tỉnh Nghệ An, miền Trung Việt Nam . William Duiker, tác giả của cuốn tiểu sử xuất sắc về Hồ Chí Minh, mô tả địa phương này và ý nghĩa của nó:


Một miền đất có những dải bờ biển bình yên và những ngọn núi màu đá, có những cánh đồng lúa ngút ngát màu xanh lục và những cánh rừng màu xanh sẫm, Nghệ An… còn là miền đất của gió Lào và những trận mưa thu xối xả đè bẹp những thân lúa và nhấn chìm đồng lúa của nông dân. Đất đai ít và nghèo dinh dưỡng, lại thường xuyên bị nước biển tràn vào. Mối đe doạ của tai ương luôn treo lơ lửng trên đầu, và khi xảy ra, đôi khi nó đẩy người nông dân đến những biện pháp cực đoan. Có lẽ đíều đó giải thích lý do trong lịch sử người dân Nghệ An nổi tiếng là cứng rắn và bất khuất nhất trong cộng đồng người Việt, hoàn toàn xứng với biệt hiệu truyền thống trong những ngưòí đồng xứ "Châu Nghệ An".


Nhiều người trong số tổ tiên của Nguyễn Tất Thành là những nông dân cần cù làm việc trên mảnh đất tuyệt đẹp nhưng đầy rẫy khó khăn ở miền Trung Việt Nam . Tuy thế, cha Thành, Nguyễn Sinh Sắc, ngay từ nhỏ đã có năng khiếu học hành và may mắn tìm được người bảo trợ cho con đường khoa bảng của mình. Khi ra làm việc, Sắc giành được một trong những vị trí cao nhất tồn tại trong hệ thống chính trị của triều đình, và theo truyền thống thời ấy, lẽ ra ông có thể kiếm được một vị trí béo bở trong bộ máy quan lại của triều đình. Nhưng ông đã không làm thế. Nguyễn Sinh Sắc vẫn là một nhà quản lý cấp bậc tương đối thấp và là một thầy giáo và phải đương đầu với những khó khăn về tài chính trong suốt sự nghiệp của mình. Không nghi ngờ gì nữa, nhiều người cùng thời với ông đã bị sốc vì quyết định này, nhưng Sắc đã bị sự vô dụng của triều đình làm cho tỉnh ngộ và "không còn muốn tiếp tục làm việc trong bộ máy quan lại, nhất là khi nước mất nhà tan".


Cả tài năng và thái độ đối với chính phủ (triều đình Việt Nam và thực dân Pháp) của Nguyễn Sinh Sắc đều đọng lại ở Nguyễn Tất Thành. Trong học hành, Thành không giống như hầu hết con cái các gia đình quan lại. Người thầy quan trọng đầu tiên của ông - một trong những người bạn có học vấn của cha ông - "đã loại bỏ phương pháp thông thái rởm truyền thống bắt học trò phải thuộc bài, nhưng lại chú ý nhiều đến việc dạy họ cốt lõi chủ nghĩa nhân đạo trong các tác phẩm cổ diễn của nho giáo, đồng thời truyền cho họ tinh thần ái quốc mãnh liệt đối với một nước Việt Nam độc lập. Năm 16 tuổi Thành bắt đầu học tiếng Pháp và văn hoá Pháp cũng như chữ Quốc ngữ. Ông hiểu rõ những tác phẩm của những trí thức theo chủ nghĩa dân tộc hàng đầu, trong số đó có Phan Bội Châu - người đã viết rằng chỉ có đấu tranh vũ trang mới có thể giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của Pháp. Năm 1908 Thành trực tiếp tham gia vào một cuộc nổi dậy bất thành của nông dân chống lại sưu cao thuế nặng và phu phen khi tình nguyện dịch những thỉnh cầu của nông dân gửi lên công sứ (đại diện của Chính phủ Pháp). Đàm phán đổ vỡ. Lính Pháp được điều tới đàn áp cuộc nổi dậy, và ngày hôm sau Thành bị đuổi khỏi trường.


Cuối cùng, với nghề nghiệp là một sinh viên, Thành bắt đầu lên dường vào Nam . Để nuôi sống chính bản thân mình, ông đã dạy học một năm, và trong quá trình giảng dạy, ông thể hiện cả nhiệt huyết của một người theo phong trào đòi độc lập, lẫn một tài năng thiên bẩm trong việc thuyết phục những người khác tin tưởng vào quan điểm của mình - cả hai thứ đó đều tăng lên trong những năm tiếp theo.


Ngày 5 tháng 6 năm 1911 Thành rời Việt Nam với mục đích khám phá thế giới bên ngoài sự thống trị của thực dân Pháp bằng cách nhận việc làm trên một con tầu Pháp. Công việc của ông trên tầu Admiral Latouche - Tréville là hết sức nặng nhọc - rửa bát đĩa, cọ sàn và chuyển than - dẫu vậy, hai năm lênh đênh trên biển cả đã cho phép ông thấy nhiều nơi trên thế giới, trong đó có những thuộc địa khác như Singapore , Ấn Độ và Algerie. Ông cũng đã đến Pháp, Anh, và Mỹ sau này, khi đã nổi tiếng khắp thế giới với tên gọi Hồ Chí Minh, Thành mới giải thích quyết định rời tổ quốc cho phóng viên Mỹ Anna Louise Strong: "Người dân Việt Nam, kể cả cha tôi thưòng tự hỏi ai có thể giúp họ gỡ bỏ ách áp bức của thực dân Pháp. Một số nói là Nhật Bản, những người khác bảo là Anh, và một số lại cho là Mỹ. Tôi nhận thấy mình phải xuất dương để tự tìm lời giải đáp. Sau khi đã tìm hiểu họ song ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào mình".


Càng biết rõ điều kiện sống của các dân tộc thuộc địa, quan điểm chống thực dân của ông càng trở nên mạnh hơn, và ông càng tập trung hơn vào hoạt động chính trị.


Sau khi chứng kiến một nhóm người Phi bị dìm chết trong giông tố ngoài khơi Dakar trong khi những tên thực dân đã bắt họ đi liên lạc với con tầu nơi ông làm việc không hề tỏ ra thương xót, Thành viết: "Tất cả người Pháp ở chính quốc đều tốt nhưng những tên thực dân Pháp lại rất tàn bạo và không có tính người. Nơi nào cũng thế. Ở quê nhà tôi đã chứng kiến những điều tuơng tự xảy ra tại Phan Rang. Nqười Pháp phá lên cười trong khi đồng bào tôi vì chúng mà chết đuối. Đối với những kẻ thực dân, cuộc sống của một người châu Á hay châu Phi không đáng giá một xu".


Không lâu sau, Thành từ bỏ cuộc sống trên biển và những năm đầu Chiến tranh thế giới 1 ông sống tại Anh, học tiếng Anh và làm nhiều nghề lặt vặt - từ quét tuyết đến làm việc trong nhà bếp của đầu bếp lừng danh Auguste Escoffier. Đến cuối năm 1917, ông đến Paris, ở đó ông tham dự những cuộc họp của Đảng Xã hội Pháp và làm quen với giới trí thức Pháp cũng như Việt kiều thuộc mọi thành phần xã hội. Mặc dù tên tuổi được thừa nhận trong các nhóm ủng hộ chủ nghĩa xã hội và ngoại kiều, nhưng cơ bản Thành vẫn là người vô danh. Nhưng với chiến thắng của Đồng Minh và tiếp đó là hội nghị hoà bình diễn ra vào tháng 6 năm 1919, điều đó bắt đầu thay đổi.


Nhờ sự giúp đỡ của một luật sư yêu nước người Việt thạo tiếng Pháp hơn, Thành đã thảo đơn kiến nghị gửi các nhà lãnh đạo nhóm họp tại Versailles yêu cầu áp dụng 14 điểm của Tổng thống Woodrow Wilson đối với Việt Nam, đặc biệt là những điều khoản đối với quyền tự quyết của các dân tộc.


Trong kiến nghị "Yêu sách của người dân An Nam ", Thành yêu cầu Việt Nam tự trị; tự do liên hiệp, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do đi lại; ân xá tù chính trị; quyền bình đẳng giữa người Việt và người Pháp; bãi bỏ thuế muối, đi phu, và các chính sách của Pháp cưỡng bức tiêu thụ rượu và thuốc phiện nhằm thu lợi. Ông ký vào đơn kiến nghị với bí danh sẽ làm ông nổi tiếng: Nguyễn Ái Quốc.


Bất chấp tài hùng biện và chủ nghĩa lý tưởng trong tuyên bố 14 điểm của Wilson, trên thực tế, mô hình lý tưởng về quyền tự quyết ít hấp dẫn những nước thực dân, nhất là Anh và Pháp - những quốc gia luôn chống lại quan niệm này và cho rằng nó không mấy quan trọng. Kiến nghị của Nguyễn Ái Quốc giành được ít sự quan tâm, ngoại trừ từ phía cảnh sát Pháp, Bộ Thuộc địa và người Việt ở Paris và Hà Nội - những người đọc nó. Sau hội nghị Versailles , Nguyễn Tất Thành - lúc này là Nguyễn Ái Quốc - "hiểu rằng những tuyên bố về tự do mà các chính khách đưa ra trong thời gian chiến tranh chỉ là cái bánh vẽ được sử dụng để lừa gạt dân chúng" . "Nếu muốn được giải phóng ", ông nhận xét, "các dân tộc phải dựa vào chính mình, vào sức mạnh của mình ".


Dù không còn ảo tưởng vào các nhà lãnh đạo thế giới tại hội nghị Versailles , nhưng Nguyễn Ái Quốc mới chỉ bắt đầu theo đuổi sự nghiệp giải phóng Việt Nam . Năm 1920, ông tiếp tục nhấn mạnh ý kiến của mình về tình hình Việt Nam tại một cuộc họp của Đảng Xã hội Pháp. Nhắc lại thực trạng người Việt thiếu những quyền tự do sơ đẳng, ông bổ sung thêm:


"Chúng tôi bị cưõng bức sống trong cảnh dột nát và tầm thường vì chúng tôi không có quyền được học hành. Ở Đông Dương, những kẻ thực dân tìm mọi cách và mọi biện pháp ép chúng tôi hút thuốc phiện và uống rượu nhằm đầu độc và cám dỗ chúng tôi. Hàng ngàn người Việt Nam đã bị đẩy đến cái chết từ từ hoặc bị tàn sát vì những lợi ích của dân tộc khác".


Mặc dù phát biểu của ông được chào đón bằng những tràng vỗ tay vang dội từ các đại biểu tham dự phiên họp, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn thất vọng bởi người ta không chú tâm một cách nghiêm túc đến tình hình thuộc địa. Điều khó chịu đó kết hợp với lời giới thiệu "Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Vladimir Ilich Lenin của ông đã thúc đẩy ông cùng những đồng chí có quan điểm cấp tiến rời bỏ Đảng Xã hội hiện hành để thành lập Đảng Cộng sản Pháp.


William Duiker viết rằng luận cương của Lenin gắn việc tiêu diệt chủ nghĩa tư bản với sự cáo chung của hệ thống thuộc địa nuôi dưỡng nó "đã đặt Nguyễn Ái Quốc vào một hướng đi biến đổi ông từ một người yêu nước bình thường có kiến thức xã hội thành một nhà cách mạng mác xít".


Vài năm sau, Nguyễn Ái Quốc không chỉ tiếp tục viết và lên tiếng thay mặt cho những dân tộc bị áp bức, chủ yếu tại các thuộc địa, mà còn cho đăng một bài báo về luật hành hình Lynch đối với người da đen ở Mỹ. Cảnh sát Pháp giám sát ông như một kẻ phá hoại, nhưng ông đã thoát được chốn lao tù. Năm 1923 ông rời nước Pháp để nghiên cứu và làm việc cho Quốc tế Cộng sản tại Liên Xô. Tuy nhiên ông nóng lòng muốn về nhà và truyền bá cách mạng vào Việt Nam . Nhưng năm 1924 ông được Quốc tế Cộng sản phái đến Trung Quốc để hoạt động cùng phong trào cách mạng đang lớn mạnh của Trung Quốc cũng như cùng một số lượng lớn Việt kiều ở miền Nam nước này.


Công tác của Nguyễn Ái Quốc tại Trung Quốc vừa hoàn thành, đạt kết quả tốt. Đến giữa năm 1925, ông đã thành công trong việc thành lập Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội với tham vọng giành tự do từ ách cai trị thực dân của Pháp và phát động một cuộc cách mạng xã hội. Khi ở Trung Quốc, ông còn tham gia giảng dạy tại Học viện Chính trị đặc biệt dành cho cách mạng Việt Nam và thực tế cho thấy những tài năng đặc biệt trong việc truyền thụ kiến thức cho các học viên mà ông đã hướng dẫn trước đó ở Việt Nam.


Thông điệp của Lenin do Nguyễn Ái Quốc dịch là lực hấp dẫn mạnh mẽ đối với hầu hết những thanh niên đến với Hội.


Trong tác phẩm "Lenin và phương Đông" , Nguyễn Ái Quốc ca ngợi vị lãnh tụ mới qua đời là "người đầu tiên cương quyết phản đối những định kiến chống lại các dân tộc thuộc địa", và "là người đầu tiên nhận ra và nhấn mạnh đến toàn bộ tầm quan trọng của giải pháp đúng đắn cho vấn đề thuộc địa như một phần đóng góp cho cách mạng thế giới". Và có lẽ quan trọng hơn với Quốc và các học viên của ông, luận cương của Lenin về việc tiến hành cách mạng phù hợp với chính mục đích của họ đối với Việt Nam: "Bằng sự thông tuệ thiên bẩm của mình", Nguyễn Ái Quốc viết: "Lenin đã nhận ra rằng để tiến hành hoạt động có kết quả tại các thuộc địa thì cần phải biết cách nắm bắt toàn bộ lợi thế của phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển có kết quả ở những quốc gia này. Người nhận ra rằng, với sự giúp đỡ của vô sản trên toàn thêm giới dành cho phong trào của Người, chúng ta sẽ có những đồng minh mới hùng mạnh trong cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội chủ nghĩa".


Được khích lệ bởi tài hùng biện đầy tính thuyết phục tại Học viện Chính trị đặc biệt, hầu hết học trò của Nguyễn Ái Quốc nô nức ra nhập Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, đến năm 1929 đã có hơn 1700 thành viên của tổ chức này hoạt động tại Đông Dương.


Tuy nhiên, thành công của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội cũng phải trả giá. Những hoạt động cấp tiến của Nguyễn Ái Quốc đã thu hút sự chú ý của nhà cầm quyền Trung Quốc và ông thường xuyên bị theo dõi. Bị buộc phải rời khỏi miền Nam Trung Quốc, ông bí mật đến Hồng kông.


Được tổng hành dinh Quốc tế Cộng sản chỉ thị trở lại Pháp nhưng ông nhận thấy không thể hoạt động tại đó bởi vẫn bị cơ quan mật vụ theo dõi với hy vọng dẹp yên những chỉ trích chính sách cai trị của Pháp. Đang nóng lòng quay về hoạt động ở châu Á thì Nguyễn Ái Quốc được cử đến Xiêm.


Tháng 7 năm 1928 ông bắt đầu hoạt động trong những cộng đồng người Việt có tổ chức rất tốt ở đó. Mặc dù Nguyễn Ái Quốc và tư tưởng của ông nhìn chung được tiếp nhận tốt, nhưng đến lúc này Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội nảy sinh hai vấn đề nghiêm trọng. Vấn đề thứ nhất là một chính đảng mới - Việt Nam Quốc dân Đảng (dập theo mô hình Quốc dân Đảng ở Trung Quốc) - ráo riết cạnh tranh thu hút thành viên với Hội. Vấn đề thứ hai là bất đồng trong hàng ngũ lãnh đạo Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội về mục tiêu hàng đầu cách mạng xã hội hay độc lập dân tộc - đe doạ sự tiếp tục tồn tại của tổ chức này.


Trong một nỗ lực giải quyết bất đồng, năm 1930, một tổ chức mới có tên Đảng Cộng sản Việt Nam (VCP) được thành lập trên cơ sở hợp nhất những phần còn lại của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội cũng như các thành viên của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vốn bất đồng quan điểm. Dẫu vậy, vai trò đấu tranh giành độc lập dân tộc trong VCP tiếp tục có vấn đề. Quốc tế Cộng sản nhất định đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải trở thành Đảng Cộng sản Đông Dương vì "việc bỏ qua những gì liên quan đến Việt Nam đã chuyển sự chú ý ra khỏi sự nghiệp độc lập dân tộc - lúc này được Moskva xem là mối quan tâm tiểu tư sản - đến cuộc đấu tranh giai cấp".


Dù chính sách mới của Quốc tế Cộng sản không thừa nhận những gì Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành xuất sắc - tập hợp các cá nhân thuộc các thành phần xã hội rộng rãi cho sự nghiệp độc lập và sau đó là cho những tư tưởng Leninist - nhưng ông vẫn tiến về phía trước cùng với chỉ thị mới và thông báo việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP).


Trong những nhận xét có tính kết luận của mình, ông nhấn mạnh đến đường lối của Đảng khi tuyên bố ICP mới là "chính đáng của giai cấp lao động". "Đảng sẽ", ông công khai tuyên bố, "giúp giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng đấu tranh vì những người dân bị áp bức và bóc lột". Ông chỉ thị cho các đồng chí của mình tuân thủ mười nguyên tắc giúp Đảng, trong đó nguyên tắc thứ hai, chỉ kém nguyên tắc "đánh bại đế quốc Pháp, phong kiến, giai cấp tư bản Việt Nam phản động", là "làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Nguyễn Ái Quốc vẫn ở lại Hồng Kông nhưng ông bị vô hiệu hoá và không thể làm đại sự từ nơi đó; những tranh cãi vẫn tiếp diễn với những thành viên trẻ hơn trong Đảng vốn khẳng định rằng họ có hiểu biết đúng đắn hơn những chính sách cộng sản trong tình hình hiện tại. Năm 1931, trong khi vẫn đề nghị Quốc tế Cộng sản cử mình đến một nơi nào đó hoạt động thì ông bị cảnh sát Anh bắt vì tội lật đổ và chịu cảnh giam cầm (cả trong trại giam và bệnh viện) gần 18 tháng trước khi các đồng minh can thiệp trả tự do cho ông với điều kiện ông phải rời khỏi thuộc địa.


Sau một số khởi đầu không suôn sẻ, ông đến Trung Quốc và sau đó là Liên Xô, tại đây sức khoẻ phục hồi, ông đi dự giờ và giảng bài, truyền đạt kinh nghiệm cho những thanh niên Việt Nam đang theo học tại Moskva. Tuy nhiên, thành tích trong công tác của ông tại Moskva dường như, theo hầu hết các tiêu chuẩn, lại nổi bật và cạnh tranh với các lãnh đạo ICP - những người tiếp tục phê phán quan điểm của ông. Nhưng đến đầu quý tư năm 1934, Quốc tế Cộng sản thay đổi quan điểm chính thức để một lần nữa ủng hộ sự hợp tác rộng rãi và sử dụng những khẩu hiệu độc lập dân tộc các những mục đích xa hơn của đảng. Bấy giờ Nguyễn Ái Quốc một nhà cách mạng dày dạn trong sử dụng chiến thuật này, vẫn ở lại Liên Xô trong suốt những năm 1930 và khép mình kín đáo. Trong khi đó, tình hình ở Việt Nam dường như rất cần đến sự có mặt của ông. Sự khởi sắc của nền kinh tế những năm 1920 đã chấm dứt và đến đầu những năm 1930, Đông Dương thuộc Pháp chao đảo dưới ảnh hưởng của cuộc Đại suy thoái toàn cầu. "Khi giá cả trên thị trường quốc tế xuống thậm chí thấp hơn chi phí thấp nhất của các nhà sản xuất (bất chấp mức trợ giá ồ ạt của nhà nước, đặc biệt là trong sản xuất cao su xuất khẩu của phương đông hầu như chững lại" . Thảm bại của hệ thống kinh tế Pháp nhấn mạnh những thất bại khác của sứ mạng khai hoá . Bất chấp tất cả những điều này, ICP ở Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong việc tăng cường sức kéo.


Tình trạng kinh tế xấu đi do suy thoái đã làm tăng bất bình và chán nản trong công nhân và nông dân. Trong khi nhiều người lo ngại rằng những khó khăn tiếp theo sẽ là hậu quả của việc họ liên kết với những người cộng sản thì những nông dân bị đẩy vào tình cảnh khốn cùng ở Nghệ Tĩnh được hỗ trợ bởi cơ sở đảng địa phương đã nổi dậy. Cho dù đã lật đổ chính quyền địa phương và thành lập ra các xô viết, nhưng thành công của họ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và nhanh chóng bị Pháp đàn áp. Trong một thời gian dài, một thành quả còn đáng sợ hơn việc huỷ diệt các xô viết Nghệ Tĩnh là nỗ lực được tăng cường của người Pháp nhằm diệt trừ tận gốc những cán bộ cộng sản cao cấp.


Tại Sài Gòn - nơi lúc đầu ICP đặt đại bản doanh - ban lãnh đạo bị tổn thất một phần mười trong các cuộc bố ráp của mật thám trong mùa hè năm 1931 và không khôi phục được cho đến khi xuất hiện người cộng sản trẻ tuổi Trần Văn Giàu năm 1933. Với cả Nam Kỳ và Trung Kỳ tạm thời yên tĩnh và với việc ICP không có hoạt động đáng kể nào ở Bắc Kỳ cho đến năm 1934, Đông Dương dường như một lần nữa lại yên bình đối với những ông chủ thực dân. Thậm chí những thay đổi hệ trọng - nhưng ngắn ngủi - trong chính sách của Pháp được mở đầu bởi cuộc Đại suy thoái còn quan trọng hơn những cuộc nổi dậy chóng vánh do cuộc khủng hoảng kinh tế đầu những năm 1930 gây ra. Đến năm 1936, kinh tế bắt đầu hồi phục và Chính phủ Mặt trận Bình dân mới trúng cử ở Pháp cho phép giới trí thức, cả ở chính quốc và với mức độ hạn chế hơn ở Đông Dương, được chỉ trích tình hình thuộc địa một cách công khai hơn. Vẫn ẩn danh tại Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc thúc giục các đồng chí của mình trong ICP nắm lấy cơ hội do tán Chính phủ xã hội của Leon Blum(2) tạo ra. "Thắng lợi của Mặt trận Bình dân tại Pháp là một cơ hội hiếm hoi và chúng ta không được bỏ qua", ông đưa ra lời khuyên. "Vấn đề cốt yếu hiện nay là đảm bảo sự thống nhất hoàn toàn trong Đảng, đặc biệt là giữa các Đảng bộ trong và ngoài nước". Tinh thần lạc quan của ông về cơ hội mà việc lên nắm quyền của những người theo chủ nghĩa xã hội ở Pháp mang lại bị tác động bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa Quốc xã ở nước Đức. "Phải hết sức nỗ lực thành lập một mặt trận dân chủ chống phát xít và chiến tranh". Ông kết luận và bổ sung thêm rằng "mặt trận này phải tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước, tất cả những ai muốn chiến đấu bảo vệ tổ quốc". Trong "Đường lối của Đảng giai đoạn Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939)", Nguyễn Ái Quốc một lần nữa làm rõ niềm tin của ông vào sự cần thiết phải có một thành phần ủng hộ rộng rãi.


Trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ông viết:


"Mặt trận này không chỉ bao gồm người dân Đông Dương mà còn cả những người Pháp tiến bộ sống tại Đông Dương, không chỉ những người lao động mà còn cả thành phần tư sản dân tộc, phải cố gắng thu hút họ vào Mặt trận, phải giành được những yếu tố có thể giành được và trung lập hoá những ai có thể trung lập. Chúng ta phải bằng mọi cách không để họ đứng ngoài Mặt trận, e rằng họ có thể ngả về phía kẻ thù của cách mạng và làm tăng sức mạnh của những thế lực phản động ".


Trong khi ICP tại Việt Nam lớn mạnh trong kỷ nguyên Mặt trận Bình dân thì còn bão tố báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới nữa, như Nguyễn Ái Quốc đã viết, có thể nghe thấy từ rất xa. Khi lực lượng xã hội bị truất quyền vào năm 1939, người Việt Nam nhanh chóng mất những quyền tự do mới mà họ giành được trước đó, nhưng Chiến tranh thế giới 2 bất ngờ nổ ra đã mang đến một loạt cơ hội và thách thức mới. Một trong số đó là Nguyễn Ái Quốc trở về châu Á. Sau khi nhắc lại yêu cầu tích cực công tác, năm 1938 Nguyễn Ái Quốc lại được cử trở lại Trung Quốc để hoạt động cùng Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) đang lớn mạnh. Lúc này CCP gặp rất nhiều khó khăn. Họ phải đối mặt với hai kẻ thù hùng mạnh là Tưởng Giới Thạch và lực lượng Quốc dân Đảng của ông ta (những kẻ tiếp tục quấy nhiễu những người cộng sản mà không đếm xỉa đến thoả ước ngừng bắn tạm thời) và quân đội Nhật Hoàng. Họ có quá ít đồng minh.


Nhưng Nguyễn Ái Quốc được đón nhận chu đáo như một nhà cách mạng quan trọng và được bố trí làm nhà báo viết về tình hình Trung Quốc. Có lẽ quan trọng hơn cả là lúc này ông có thể liên lạc trực tiếp với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động tại miền Nam Trung Hoa và có thể trở về với trọng tâm sự nghiệp của đời ông: giải phóng Việt Nam khỏi ách cai trị của Pháp. Cuối cùng thì việc này cũng trở nên dễ dàng khi ông liên lạc được với "Chi nhánh Đảng Hải ngoại" của ICP ở Côn Minh năm 1940. Chiến tranh thế giới 2 nổ ra, cả sự quyết định địa điểm và thời điểm lịch sử đều ủng hộ ông. Mọi thứ dường như đang ủng hộ Nguyễn Ái Quốc.


Cuối mùa xuân, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng, hai đảng viên cựu trào trước đó đã đến Trung Quốc để "tập huấn thêm hoạt động cách mạng", đã gặp ông. Một nhóm hạt nhân vững mạnh của ICP đang lộ diện, nhưng tình hình ở miền Nam Trung Quốc vẫn chưa thuận lợi cho những người cộng sản của bất kỳ quốc gia nào. Nhằm tăng cường cơ hội thành công và giảm thiểu nghi ngờ của những nhà lãnh dạo chống cộng, Nguyễn Ái Quốc đã "đề nghị thành lập một tổ chức rộng rãi có khả năng tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước trong cuộc đấu tranh chung đánh đuổi thực dân Pháp". Mặt trận thống nhất mới, được biết đến với tên gọi Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội hay Việt Minh, đã được thành lập một cách thận trọng để "dễ dàng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và sự chỉ đạo của ICP". Tuy vậy, "vai trò của Đảng sẽ phải được che giấu một cách thận trọng để làm dịu lo ngại của những thành phần không phải là cộng sản ở Đông Dương và nước ngoài về khuynh hướng chính trị của mặt trận". Tổ chức mới được chính thức công nhận tại Trung Quốc, và Nguyễn Ái Quốc cùng những đồng chí khác bắt đầu gắn Việt Minh vào mối quan tâm đang hiện hữu.


Đến tháng Giêng năm 1941, Nguyễn Ái Quốc một lần nữa lại huấn luyện học viên và tuyển mộ hội viên - lần này là theo "Chương trình huấn luyện của Đảng" tại Tĩnh Tây, Trung Quốc, và chuẩn bị cho hội nghị Ban chấp hành Trung ương ICP sắp diễn ra được triệu tập vào giữa tháng 5, hội nghị này được tổ chức trong một hang đá gần làng Pác Bó ở Bắc Kỳ, cách biên giới Trung Quốc không xa. Mặc dù xung quanh là những nhà cách mạng nhiệt thành khác, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn nổi bật như một nhà lãnh đạo của tổ chức đang trở thành phong trào chính trị quan trọng nhất Việt Nam tại thời điểm hiển nhiên thích hợp đó. Quốc và các đồng chí của ông nhanh chóng hành động để mở rộng và củng cố cả ICP và Việt Minh. Nhà sử học Huỳnh Kim Khánh lưu ý rằng hội nghị đã "công bố một sự tái minh định cấp tiến về bản chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam", đòi hỏi phải tiến hành "cách mạng giải phóng dân tộc" và "tạm hoãn đấu tranh giai cấp".


Sau khi hội nghị bế mạc, Nguyễn Ái Quốc ở lại Pác Bó viết cho báo của Việt Minh, biên soạn một cuốn sách hướng dẫn ngắn gọn về tiến hành chiến tranh du kích, bảo trợ những chương trình xoá nạn mù chữ và dạy học. Trong "những lá thư từ hải ngoại" được ông viết sau hội nghị Trung ương, ông kêu gọi mọi người dân tham gia vào cuộc đấu tranh: "Cứu nguy dân tộc là sự nghíệp chung đối với mọi người dân chúng ta. Mỗi người Việt Nam phải tham xía vào sự nghiệp này. Ai có tiền thì góp tiền, ai có sức thì góp sức ai có tài năng thì góp tại năng. Tôi nguyện sử dụng toàn bộ khả năng có hạn của mình để đi theo các bạn và tôi sẵn sàng hy sinh chính bản thân mình".


Nguyễn Ái Quốc ở lại Bắc Kỳ, ông làm việc tại Pác Bó và sau đó là tại căn cứ mới của Việt Minh ở Lam Sơn, phía bắc Cao Bằng, cho đến mùa hè năm 1942. Công tác của ông và của những cán bộ khác hoạt động tại khu vực này là đẩy mạnh cả tuyên truyền và chiến thuật chiến tranh du kích có ý nghĩa quyết định đối với thành công cuối cùng của phong trào. Từ những nghiên cứu của mình về việc thành lập những cơ sở đu kích đầu tiên tại Việt Nam, Greg Lockhart đã viết một cách đầy thuyết phục: "Với chiến thuật du kích và tuyên truyền vũ trang hướng tới một mô hình lý tưởng về sức mạnh và một cuộc sống tốt đẹp hơn trong thế giới hiện đại, Việt Minh đã bắt đầu động viên sức mạnh của toàn dân tộc". Đến tháng Tám, cảm thấy tin tưởng rằng tình hình tại Việt Bắc, vùng giải phóng ở miền núi Bắc Việt Nam , đang tiến triển thuận lợi, Nguyễn Ái Quốc lên đường sang Trung Quốc tìm kiếm hậu thuẫn từ bên ngoài cho sự nghiệp của mình. Được cung cấp giấy tờ giả, ông khởi hành dưới vỏ bọc là một phóng viên Trung Hoa ở hải ngoại với bí danh mới: Hồ Chí Minh.


Không may, làn khói mỏng phủ trên những giấy tờ giả đã làm cho chính quyền địa phương Trung Quốc tin rằng Hồ Chí Minh "không những chỉ là người nguy hiểm mà còn là một nhân vật chính trị quan trọng ". Sau khi bị đưa ra xét xử tại toà án Quốc dân Đảng (KMT) ngày 29 tháng 8, ông bị giam giữ cho đến năm sau. Trong khi nỗ lực tìm cách giải thoát ông, bạn bè và động chí của ông vẫn tiếp tục hoạt động cả trong và ngoài Việt Nam , vì sự nghiệp chung xây dựng cơ sở của Việt Minh.


Đến năm 1942, nhiều người trong số họ nhận ra thời điểm lịch sử trọng đại và hy vọng vào những cơ hội mà chiến tranh mang lại, cho dù thành viên quan trọng nhất của họ vẫn còn bị giam giữ chưa biết đến bao giờ tại Trung Quốc.


Lúc đầu có vẻ như Chiến tranh thế giới 2 không ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam, mặc dù cuộc tấn công xâm lược của Nhật Bản chống Trung Quốc năm 1937 và mỹ từ Khối Thịnh vượng chung Đại Đông A (GEACPS) đã khiến nhiều người cảnh giác trước sức mạnh đang gia tăng chưa từng thấy và khát vọng uy quyền hung bạo của xứ Mặt trời mọc. Tuy nhiên, sang năm 1939, Nhật Bản đã thất bại trong việc đè bẹp cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc và càng sa lầy hơn trong nỗ lực đánh bại Chính phủ của Tưởng Giới Thạch. Tại châu Âu, nước Đức của Aldolf Hitler bắt đầu tìm kiếm "Không gian sinh tồn" của mình ở Rhineland, Áo, và Sudetenland. Mùa thu năm 1939, Hitler xâm lược Ba Lan, lôi Anh, Pháp vào vòng chiến. Tuy nước Anh thành công trong việc chống lại những đợt không kích của Đức, nhưng Pháp thì nhanh chóng thất thủ trước sức mạnh của lực lượng không quân và bộ binh Đức. Tháng 6 năm 1940 Pháp đầu hàng và gần hai phần ba đất nước nằm dưới ách chiếm đóng của chủ nghĩa Quốc xã. Khu vực lãnh thổ còn chưa bị chiếm đóng do Chính phủ bù nhìn Vichy đứng đầu là thống chế Pétain cai quản. Charles de Gaulle tuyên bố về sự tồn tại của "Nước Pháp tự do" do chính ông lãnh đạo và thành lập Chính phủ Pháp lưu vong tại Lon don. Giữa năm 1940, cả hai chính phủ Pháp về cơ bản đều sao nhãng thuộc địa Đông Dương của mình. Ngay cả trước khi bị Đức xâm chiếm, nước Pháp đã gặp những khó khăn trong xử lý các vấn đề của nó tại Đông Dương. Nhật Bản liên tục phàn nàn với Pháp về các nguồn tiếp tế tiếp tục được chuyển đến cho lực lượng KMT của Tưởng Giới Thạch qua tuyến đường sắt Hải Phòng - Vân Nam.


Tuyến đường này đã trở thành con đường huyết mạch đối với Tưởng Giới Thạch, riêng đoạn Hải Phòng - Côn Minh đã vận chuyển 48% những nhu yếu phẩm quan trọng nhất cho lực lượng Quốc dân Đảng. Năm 1939, khi Nhật Bản một lần nửa yêu cầu chính quyền thực dân Pháp tại Việt Nam phải chấm dứt vận chuyển hàng hoá cho Tưởng Giới Thạch, thì "mẫu quốc, chỉ còn rất ít khả năng bảo vệ thuộc địa này.


Giới lãnh đạo quân đội Nhật tin rằng, cắt đứt đường tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch có thể đẩy nhanh chiến thắng của Nhật Bản, và họ vô cùng tức giận khi toàn quyền Georges Catroux đã không làm điều đó. Nhận ra sự bất lực của chính phủ không do dân bầu ở Pháp trong việc bảo vệ đế chế Đông Nam Á của mình, Catroux trong nỗ lực ngăn cản triệt để sự chiếm đóng của quân đội Thiên Hoàng vốn mạnh hơn, đã nhượng bộ một số yêu cầu của Nhật. Trong vòng vài tháng, việc vận chuyển vũ khí đến Trùng Khánh gần như chấm dứt, nhưng nguồn cung ứng lương thực và thuốc men quan trọng vẫn tiếp tục đến Trung Hoa Dân Quốc. Nhằm cắt đứt tuyến đường tiếp tế này, Nhật đã ném bom đường sắt, song không mấy tác dụng. Suốt những tháng còn lại của năm 1939, Nhật tiếp tục yêu cầu đóng cửa tuyến đường sắt đến miền Nam Trung Quốc còn Catroux tiếp tục né tránh những yêu cầu của Nhật.


Tuy nhiên, sau khi Pháp thất thủ tháng 6 năm 1940, Catroux thấy mình đang phụng sự Chính phủ Vichy nên quyết định rằng những nhượng bộ thêm có giới hạn đối với Nhật Bản là lựa chọn tốt hơn rất nhiều so với bị mất toàn bộ thuộc địa này. Tin rằng nếu mặc cả một cách sáng suốt thì ông ta có thể giữ Đông Dương như thành luỹ cuối cùng của vùng lãnh thổ độc lập của Pháp, Catroux đã cho phép các thanh sát viên Nhật Bản giám sát việc vận chuyển nguyên vật liệu vào Trung Quốc. Đến ngày 29 tháng 6, chỉ bảy ngày sau khi Pháp thất thủ, các trạm kiểm soát của Nhật đã được thiết lập tại Hải Phòng, Hà Giang, Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn và Fort Bayard (Một địa danh nằm trên bờ biển phía nam Quảng Đông, Trung Quốc). Tuy đây dường như là nhượng bộ tương đối nhỏ đối với Nhật, nhưng Chính phủ Vichy không hài lòng bởi Catroux đã thất bại trong việc giành được phê chuẩn chính thức trước khi hành động. Ngày 25 tháng 6, Tổng thống Vichy, Albert Lebrun đã thay thế Catroux bằng phó đô đốc Jean Decoux, chỉ huy lực lượng Hải quân Pháp ở châu Á.


Trong khi chờ Decoux tới nhận nhiệm sở tại đại bản doanh của mình ở Sài Gòn, Catroux tiếp tục đàm phán với phái đoàn Nhật do thiếu tướng Nishihara Issaku dẫn đầu. Từ lập trường của hai bên, những cuộc hội đàm có vẻ hữu ích. Pháp kiên quyết duy trì quyền kiểm soát của mình tại Đông Dương. Nhật cuối cùng cũng tạm thời thoả mãn với vị trí của họ. Nhà sử học Miami Yoshizawa viết: "Bởi Đông Dương thuộc Pháp cho phép phái đoàn của Nishihara tham gia vào những hoạt động vượt quá chức năng giám sát, nên đương nhiên giới chức Tokyo đánh giá toàn quyền Catroux và chính quyền thuộc địa có tinh thần hợp tác và hoà giải. Một văn kiện của Bộ ngoại giao Nhật Bản thậm chí còn mô tả chính quyền thuộc địa là "chủ tâm thể hiện càng nhiều thiện chí càng tốt". Họ không biết có thể trông chờ những gì từ Decoux. Ngày 20 tháng 7, phó đô đốc Decoux sang tiếp nhận chức vụ toàn quyền. Nhưng vị trí Decoux đảm nhiệm không hề dễ dàng, và nhiệm kỳ của ông ta trên cương vị toàn quyền sẽ mãi mãi làm hoen ố thanh danh ông ta vì cương vị do Vichy bổ nhiệm và sự hợp tác của ông ta với Nhật Bản dù sao đôi lúc cũng thiếu quyết đoán.


Cuối mùa hè năm 1940, Chính phủ Vichy thoả thuận "Công nhận những quyền lợi tối cao của Nhật Bản trong các lĩnh vực kinh tế và chính trị ở Viễn Đông" với hy vọng sự chiếm đóng của Nhật sẽ chỉ là tạm thời và giới hạn ở Bắc Kỳ.


Và Nhật Bản tiếp tục trấn an Chính phủ Vichy về chủ quyền của Pháp trên toàn Đông Dương. Cuối tháng 8 năm 1940, Bộ trưởng ngoại giao Nhật Bản Matsuoka Yosuke đã viết cho Charles Arsene-Henry, đại sứ của Vichy tại Nhật, thông báo với ông này rằng: "Chính phủ Nhật Bản luôn có chủ đích tôn trọng quyền lợi của Pháp tại Viễn Đông, đặc biệt là sự toàn vẹn lãnh thổ của Đông Dương và chủ quyền của Pháp trên toàn Liên bang Đông Dương". Nhật Bản đã sớm xác định rằng, phương pháp hiệu quả nhất mà lại ít nhàm chán nhất của việc cai quản miền đất mới "giành được" của mình là cho phép chính quyền Decoux tiếp tục chức năng điều hành. Vì vậy chỉ cần một ít lính tráng để kiểm soát Việt Nam là quân đội Nhật được rảnh tay để theo đuổi những mục tiêu lãnh thổ khác ở châu Á. Thậm chí đến cuối năm 1944, chỉ có 40.000 quân Nhật đồn trú trên khắp Đông Dương. Các nhà quản lý Pháp, cảnh sát và giới thương gia trên thực tế phải chịu trách nhiệm duy trì trật tự và điều hành Việt Nam như một cơ sở tiếp tế và hậu cần hiệu quả cho quân đội Thiên triều.


Tuy nhiên, sau khi ký Hiệp ước tay ba với Đức và Italia tháng 9 năm 1940, Nhật Bản đã ở vào vị thế mạnh hơn để đòi hỏi Pháp. Ngày 22 tháng 9, Chính phủ Vichy đã chấp thuận yêu sách của Nhật đối với bốn căn cứ không quân ở miền Bắc Việt Nam . Để bảo vệ những sân bay mới giành được, khoảng 5000 đến 6000 quân Nhật đã được điều động tới đồn trú tại Bắc Kỳ. Ngoài ra, quân Nhật gần như giành được độc quyền quá cảnh trên hệ thống đường sắt Bắc Kỳ, vì thế ngăn chặn được nguồn tiếp tế cho quân Tưởng qua cảng Hải Phòng và đồng thời bảo đảm (chí ít là bước đầu) tiếp nhận các nguyên vật liệu chiến tranh cho quân Nhật đang chiến đấu tại miền Nam Trung Quốc.


Khi các cuộc đàm phán của Decoux đang hoàn tất những điều khoản cho sự tiến vào không phải bàn cãi của các lực lượng vũ trang thật, thì quân Nhật từ miền lam Trung Quốc tiến vào Việt Nam . Ngày 22 tháng 9, cùng ngày Pháp và Nhật đạt được thoả thuận, quân Nhật tấn công các đồn binh Pháp ở Bắc Kỳ. Quá thất vọng trước sự lưỡng lự của Pháp cho họ tự do đi qua thuộc địa, những chỉ huy địa phương của Nhật đã nhanh chóng xua quân tràn vào hai đồn binh ở Lạng Sơn và Đồng Đăng đánh bại lực lượng hỗn hợp Pháp - Việt trong vài trận đánh ác liệt nhất mà quân Nhật tham gia tại Việt Nam.


Lạng Sơn và Đồng Đăng thất thủ đã cho chính quyền Pháp cả ở thuộc địa và mẫu quốc thấy rằng, bất chấp những tuyên bố mạnh miệng, họ vẫn không thể chống lại sức mạnh của quân Nhật. Cộng tác và thoả hiệp vẫn là lựa chọn thực tế duy nhất nếu Pháp muốn duy trì quyền kiểm soát Đông Dương. Những tác động kết hợp giữa thất bại của các tiền đồn Pháp, vụ ném bom Hải Phòng ngày 26 tháng 9 và chấp nhận cuối cùng của Decoux đối với tất cả những yêu cầu của Nhật đã nhấn chìm sự kháng cự hiệu quả của Pháp chống lại những kẻ cai trị mới của Đông Dương.


Về mặt chiến lược, Việt Nam là vị trí lý tưởng đối với sự tiến quân của Nhật. Đến tháng 7 năm 1941, quân Nhật đã tiến vào Nam Việt Nam mà không gặp phải kháng cự, giành quyền kiểm soát các sân bay và hải cảng, bao gồm khu vực xung quanh vịnh Cam Ranh và các sân bay quanh Sài Gòn. Nhật sử dụng các căn cứ ở Đông Dương để hậu thuẫn cho cuộc tấn công mở rộng Đế chế Mặt trời mọc xuống Đông Nam Á. Trên thực tế, máy bay Nhật được bố trí ở miền Nam Việt Nam đã đóng vai trò cốt tử trong cuộc đánh chiếm thành công Malaysia thuộc Anh. Đến đầu năm 1942, quân đội của Nhật Hoàng Hirohito đã chinh phục không chỉ những vùng đất đo Anh kiểm soát, mà còn cả thuộc địa của Mỹ ở Philippines và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Đến lúc đó, Singapore cũng đã thất thủ và Đội quân số 15 của Nhật đã thọc vào Burma(3) , đe doạ Ấn Độ, niềm kiêu hãnh của Đế quốc Anh. Phải chi tiêu bởi chiến tranh và quyết định tránh bố trí quá nhiều quân giữ đế chế đang được mở rộng của mình, Nhật tiếp tục cho phép Pháp duy trì mức tự trị cao trong quản lý Việt Nam . Trong thời gian chiến tranh, các sĩ quan Nhật và Pháp thường tiếp xúc với nhau như những đồng nghiệp, thường mời nhau chè chén. Trong một nỗ lực nhằm đạt được vẻ hài hoà trong công việc, Uỷ ban hỗn hợp Pháp - Nhật đã được thành lập để giải quyết "nhiều khó khăn được tạo ra bởi cuộc chung sống không xuôi chèo mát mái của hai đế quốc".


Sự thân mật hời hợt này không tạo ra tình hữu nghị đích thực, cũng như không giấu được tình hình thực tế: thật là kẻ ra lệnh, và khi cần thiết, Pháp phải nghe lời. Ngược lại, Pháp được bảo đảm tiếp tục cai trị người Việt - những người vẫn ở nấc thấp nhất của chiếc thang thuộc địa. Có lẽ Hồ Chí Minh đã giải thích tình hình tốt nhất: "Người Nhật trở thành chủ nhân đích thực. Người Pháp trở thành một dạng nô lệ được tôn trọng. Người dân Đông Dương phải chịu cảnh một cổ hai tròng - làm nô lệ không chỉ cho người Nhật mà còn là nô lệ của nô lệ - người Pháp".


Song tình hình này còn tuỳ thuộc vào những cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, Pháp tiếp tục coi người Việt không hơn những thần dân thuộc địa. Mặt khác, chí ít là về mặt lý thuyết, Nhật cũng đem lại cho người Việt đôi chút hy vọng.


Có thể nêu ra vài ví dụ trong đó thật thể hiện sự đối xử ưu đãi đối với những đồng bào châu Á của mình. Thật thú vị, những người lính Việt Nam chiến đấu trong hàng ngũ Pháp bị bắt tại Lạng Sơn và Đồng Đăng đã ngạc nhiên với cách người thật phân biệt đối xử họ và các cấp chỉ huy người Pháp của họ. Trong một báo cáo năm 1945 của nhóm Cộng sản An Nam (được biết đến nhiều hơn là Việt Minh) gửi cho OSS, tác giả bình luận rằng "Trong vụ Lạng Sơn, lính Nhật đối xử tử tế với các tù binh Đông Dương, trong khi đó lại bắt binh lính và sĩ quan Pháp bỏ giày để làm những công việc nặng nhọc. Tất nhiên, tình hình đó chỉ diễn ra một thời gian ngắn; trong vòng một tháng tất cả tù binh đều được phóng thích và các đồn binh đều được trả lại cho Pháp. Nhưng thật vẫn tiếp tục quảng bá ý tưởng cùng chung "giống nòi" Á châu. Mô hình "toàn Á" bề ngoài muốn nói đến sự tham gia của Việt Nam vào GEACPS dưới khẩu hiệu "châu Á vì người châu Á". Hầu hết người Việt, và thực ra là hầu hết cộng đồng quốc tế, xem cả GEACPS và khái niệm "châu Á vì người châu Á" với thái độ hoài nghi và ngờ vực. GEACPS, có lẽ gọi là Khối Thịnh vượng Đại Nhật Bản thì thích hợp hơn bởi mục đích của nó là hợp tác kinh tế giữa các nước châu Á vì những lợi ích hàng đầu của Nhật.


Trong một mối quan hệ thuộc địa cổ điển, Trung Quốc, Mãn Châu, Đông Ấn thuộc Hà Lan và Đông Dương thuộc Pháp sẽ cung cấp nguyên liệu thô cho guồng máy công nghiệp Nhật Bản. Tại đây, chúng được chế tạo thành hàng hoá rồi bán lại cho các nước châu Á. Nhật Bản còn nhập lương thực, thực phẩm của Đông Dương và Đông Nam Á để thoả mãn nhu cầu trong nước. Nhật Bản tuyên bố rằng trong GEACPS, tất cả người dân châu Á đều có lợi, cả về mặt tài chính và tứ sự dìu dắt của Nhật. Mỉa mai thay, Bộ trưởng ngoại giao Nhật Matsuoka là người đầu tiên công bố thuật ngữ "Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á" thì cũng ngay trong tháng đó lại hứa hẹn "tôn trọng quyền lợi" của Pháp, đặc biệt là ở Đông Dương.


Đề án GEACPS là mối quan hệ thực dân cơ bản được che giấu bằng mỹ từ toàn Á, và - có thể có ý nghĩa nhất đối với người Việt Nam - nó khác chút ít với tính vụ lợi của Pháp. Mặc dù một số nhóm người Việt như giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo và tuỳ tùng của Hoàng thân Cường Để (một thành viên có tư tưởng chống đối trong hoàng tộc và khao khát ngai vàng), ít ra lúc đầu cũng ủng hộ Nhật, một khối liên minh theo hướng "châu Á vì người châu Á" không bao giờ xuất hiện. Có những thành viên của Chính phủ thật như Magata Yasukichi ở Bộ ngoại giao, kẻ "tán thành tập hợp những người yêu nước ủng hộ độc lập, khuyến khích phong trào độc lập và đưa nước Việt Nam độc lập vào Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á". Nhưng mục đích cuối cùng, thậm chí đối với những người như Nagata - từng là tổng lãnh sự tại Hà Nội từ năm 1930 đến 1933, và tương đối thông thạo đất nước này - không phải là giải phóng Việt Nam vì chính lợi ích của họ mà là "cổ vũ cho phong trào độc lập thân Nhật, và vì vậy phải lái phong trào dân tộc bản xứ vào mục đích của Nhật". Quan điểm chủ đạo đó của Nhật được hình thành bởi sứ mạng lớn lao hơn của họ: giành thắng lợi trong cuộc chiến Thái Bình Dương. Biên bản cuộc họp tháng 11 năm 1941 của Hội đồng Chiến tranh Tối cao Nhật Bản đã kết luận quan điểm của Nhật về quản lý các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng như sau:


"Thứ nhất, giành được các nguồn nguyên liệu thô, thứ hai, đảm bảo tự do vận chuyển nguyên liệu thô và binh lính; thứ ba, trong việc hoàn tất hai mục tiêu này chúng ta không được phép do dự đàn áp người bản xứ như ở Trung Quốcc. Mặt khác chúng ta sẽ không can thiệp vào những vấn đề chi tiết của chính phủ như chúng ta đã làm ở Trung Quốc, nhưng sẽ tranh thủ những tổ chức hiện hành và tôn trọng các phong tục của đia phương ".


Nhật Bản theo đuổi hai mục tiêu đầu quyết liệt nhất vì Việt Nam có nhiều thứ đóng góp cho kế hoạch kinh tế tổng thể của Nhật. Đặc biệt, Việt Nam là nguồn nông sản, nhất là gạo và cao su, có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế chiến tranh của Nhật. Gạo của Việt Nam được sử dụng để nuôi quân Nhật và xuất khẩu sang đảo quốc này. Gạo và ngô còn được dùng để chưng cất thành cồn bù vào sự thiếu hụt xăng dầu. Tuy vậy, sẽ đến lúc gạo và ngô bị những nông sản hàng đầu thay thế, nông dân bị bắt phải trồng đay và những cây cho dầu như lạc với số lượng không ngừng gia tăng để giúp bù đắp nạn thiếu vải, dầu và dầu nhờn dành cho xe cộ và máy móc.


Hai năm đầu Nhật cai trị Việt Nam diễn ra tương đối yên tĩnh, và gánh nặng áp bức của Nhật tương đối nhẹ, nhất là khi làm phép so sánh với tình hình Philippines, nơi cuộc kháng chiến chống Nhật đã làm tăng sự đàn áp man rợ và tàn bạo.


Tuy nhiên, vì chiến tranh tiếp diễn, nên Nhật gặp phải nhiều khó khăn trên con đường giành chiến thắng. Đến cuối năm 1942, khi nhu cầu về cao su, gạo và khoáng sản tăng, giá cả đã bắt đầu đột ngột phi mã. Năm 1943, dòng hàng hoá đổ vào Nhật Bản bị hãm lại vì tầu ngầm Mỹ tiến hành đánh phá đội thương thuyền quốc gia xứ này. Ngoài ra, những cuộc ném bom của Đồng Minh vào tuyến đường sắt Nam - Bắc, tuyến hàng hải ven biển và đường bộ đã phá huỷ phần lớn hệ thống giao thông của Đông Dương.


Cùng lúc đó, những cuộc ném bom của Anh - Mỹ cũng phá huỷ nhiều trung tâm công nghiệp và thương mại vốn ít ỏi của Việt Nam . Mặc dù phần lớn người Pháp và người Việt hờ hững với thực trạng nguồn tiếp tế đến Nhật Bản bị ngưng trệ, nhưng họ lại rất lo lắng về sự gián đoạn vận chuyển gạo từ vùng châu thổ sông Mê Kông giàu có ra miền Bắc.


Châu thổ sống Mê Kông và sông Hồng có vị trí đặc biệt quan trọng vì là những vùng trồng lúa nước chủ yếu của Việt Nam . Đây còn là hai trung tâm dân cư và chính trị chính. Điều này đặc biệt đúng đối với châu thổ sông Hồng, nơi có mật độ dân cư cao nhất và nhu cầu lúa gạo lớn nhất. Vì vậy những loại thuế của Nhật đánh vào lúa gạo mà chính quyền Pháp phải thi hành và những tổn thất giáng xuống tuyến đường sắt và đường biển gần bờ kết hợp lại làm tăng cảnh nghèo khổ của người nông dân. Ở miền Bắc, nơi phần lớn nông dân ngay cả lúc thuận lợi cũng sống dựa vào sinh kế bấp bênh, mùa mưa gây ra những trận lũ lụt có sức tàn phá lớn, và nạn đói là phổ biến. Thêm vào đó, những yêu cầu của Nhật bắt nông dân ở Bắc Kỳ phải trồng những cây cho hạt lấy đầu, bông, lạc và đay đã làm giảm hơn nữa diện tích trồng lúa nước truyền thống, khiến người dân miền Bắc phụ thuộc vào nguồn gạo từ Nam Kỳ cho bữa ăn hàng ngày của họ. Đến mùa thu năm 1943, nhiều vùng ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ đã trải qua nạn đói. Đầu năm 1944, tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi Nam Kỳ cũng phải chịu những yêu cầu trồng trọt mới, lượng lúa gạo lại bị giảm thêm. Ở miền Nam thổ nhưỡng phì nhiêu hơn, phần lớn các gia đình có thể tồn tại. Người Việt ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ lâm vào cảnh cực kỳ khó khăn cuối năm 1944 và đầu 1945, khi những trận bão hung dữ khiến mùa màng thất bát ở hầu khắp khu vực phía Bắc. Những đánh giá chính thức về số nạn nhân rất khác nhau, tuy nhiên nhìn chung đều nhất trí rằng có từ 1 đến 2 triệu người Việt Nam chết trong nạn đói 1944 - 1945. Đối với người Việt Nam , đây có lẽ là minh chứng rõ ràng nhất về cái giá quá đắt phải trả cho đòi hỏi của hai ông chủ - những kẻ quan tâm quá ít đến nhu cầu của họ. Nạn đói này được quy cho sự kết hợp các chính sách của Nhật và Pháp, mùa màng thất bát và những trận dội bom của Đồng Minh. Nhưng đại bộ phận người Việt đã quy trách nhiệm cho Pháp. Trong cuốn "Ai gây ra tội ác này?" tác giả Trần Văn Mai viết: "Nhằm đảm bảo rằng nhân dân sẽ không nổi đậy những kẻ thực dân đã sử dụng những biện pháp cực kỳ "khoa học" để tạo ra nạn đói kéo dài và khốc liệt". Ngô Vĩnh Long bổ sung thêm, "May mắn lắm người ta mới có thể phát hiện ra rằng người Pháp rất hồ nghi về tương lai của chính mình và đang tích trữ lúa gạo và áp dụng những biện pháp "phòng ngừa" - những cái cùng với các nhân tố khác đã gây ra nạn đói".


Bất chấp tác động của chiến dịch ném bom đo Đồng Minh tiến hành nhằm vào mạng lưới giao thông có ý nghĩa sống còn đối với việc vận chuyển lúa gạo từ miền Nam ra Bắc Kỳ, một số người Pháp và người Việt đã đổ lỗi cho Đồng Minh gây ra nạn đói. Còn trên thực tế, phần lớn người Việt - những người nhớ đến tình hình lúc đó - đã kiên quyết quy trách nhiệm cho Pháp, và, một mức độ nào đó, cả Nhật Bản, họ xem Đồng Minh như những người bạn chiến đấu. Không nghi ngờ gì nữa, Hồ Chí Minh và Việt Minh là một phần trong cuộc tranh đấu rộng lớn hơn chống Nhật, cho dù quan điểm của ICP về chiến thắng trong cách mạng thế giới đương nhiên không phù hợp với nhìn nhận của hầu hết các nước Đồng Minh. Nhưng để khuyến khích đồng bào mình đoàn kết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh lưu ý rằng:


"Một mặt Nhật đang sa lầy tại Trung quốc, mặt khác chúng bị lực lượng Anh - Mỹ làm tê liệt nên nhất định không thể sử dụng toàn bộ lực lượng để đối phó với chúng ta".


Tuy nhiên, phần lớn năm 1943 Hồ Chí Minh vẫn bị giam giữ và Việt Minh, dẫu đang lớn mạnh, nhưng không vũ trang và huấn luyện được cho chiến sĩ.


Nhưng may mắn sắp đổi chiều đến với Hồ Chí Minh. Tháng 9 năm 1943, ông được giải thoát khỏi lao tù theo chỉ thị của tướng Quốc dân Đảng Trương Phát Khuê, kẻ hy vọng lợi dụng được ông và danh tiếng của ông để quy tụ những người theo chủ nghĩa dân tộc ở miền Nam Trung Quốc vào một tổ chức bị chi phối bởi những mối quan tâm của ông ta ngõ hầu có thể sử dụng chống lại quân luật ở Đông Dương. Những tháng sau đó, tổ chức của Trương, Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, về cơ bản đã hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Sử dụng các phẩm chất làm việc gian khổ, khả năng thuyết phục và thận trọng đưa ra lý lẽ, Hồ Chí Minh đã thuyết phục được nhiều người Việt Nam gia nhập Hội.


Tháng 8 năm 1944, ông dề nghị được cung cấp giấy tờ và nguồn giúp đỡ cần thiết cho phép ông trở về Việt Nam thành lập căn cứ du kích. Trương đồng ý và cung cấp cho ông thuốc men và tài chính nhưng không thể, có lẽ là không muốn, cung cấp cho ông vũ khí để trang bị cho các chiến sĩ của ông. Cuối mùa hè năm 1944 Hồ Chí Minh trở về Bắc Kỳ khi mà ở đó tình hình kinh tế mỗi lúc một thêm khó khăn chồng chất. Mặc dù cuối năm 1944 Nhật rõ ràng đang thua trận, nhưng Việt Minh vẫn còn xa chiến thắng thật và Pháp như mong đợi. Sự thực thì Pháp và Nhật dường như đã dàn xếp êm ái mối quan hệ thời chiến ở thuộc địa này. Nhật cho phép chế độ Vichy giữ lại quyền sở hữu về mặt lý thuyết và quản lý viên ngọc thuộc địa của đế quốc Pháp. Và hầu hết người Pháp đều kìm hãm người Việt, biến họ thành những kẻ dễ sai khiến, quị luỵ và được việc như các thế lực đế quốc mong muốn. Các mối quan hệ giữa Pháp và Nhật có lẽ tốt nhất được mô tả như một mô hình lịch thiệp của điệu nhảy cổ diễn mơnuet mà mỗi bên bước theo nhịp điệu của chính mình khi bản nhạc tiếp tục ngân nga.


Nhưng lúc này hầu hết những kẻ thực dân đã rõ rằng Nhật cuối cùng sẽ bại trận và dư luận trong số những người Pháp ở Đông Dương có thể thấy đã thay đổi có lợi cho Đồng Minh. Tuy thế, một nhà quan sát người Mỹ, thiếu tá Justin Glass, người đã sống ba thập kỷ ở Đông Dương, đã lưu ý rằng "Dư luận Pháp vốn thất thường và có thể thay đổi chỉ trong một đêm từ thái cực này sang thái cực khác". Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dư luận trong những kẻ thực dân, bao gồm chiều hướng thuận lợi trong cuộc chiến của Đồng Minh chống Đức, Nhật Bản bại trận ở Thái Bình Dương, nỗi oán hận chất chứa lâu ngày đối với quân Nhật ở Đông Dương và sự vượt trội của chúng - cái không khi nào ngưng làm giới tinh hoa thực dân tức giận. Nhưng ngay cả lúc lý lẽ đáng như mách bảo rằng thực dân ủng hộ Đồng Minh thì nhiều kẻ vẫn kín đáo trung thành với sự nghiệp đó dù không rõ lập trường của Đồng Minh về tình trạng pháp lý của các thuộc địa thời hậu chiến. Đặc biệt, những mỹ từ của Tổng thống Roosevelt liên quan đến chủ nghĩa đế quốc châu Âu đã làm nhiều người Pháp bối rối. Nhưng chính mỹ từ chống đế quốc đó đã thu hút sự chú ý của những người Việt Nam có óc quan sát như Hồ Chí Minh và ông tự hỏi liệu sự nghiệp của Đồng Minh có liên kết với sự nghiệp của chính mình hay không.


Chú thích:
(1) Cầu Long Biên
(2) Leon Blum (1872 - 1950) 3 lần làm thủ tướng Pháp: 1936 - 1937, 1 tháng của năm 1938, và 1946 - 1947.
(3) Myanmar ngày nay.
(4) Colons trong nguyên bản.


CHƯƠNG 2


Như hầu hết người Mỹ, Franklin D. Roosevelt ít quan tâm hoặc biết đến Đông Dương thuộc Pháp trước khi Chiến tranh thế giới 2 bùng nổ. Đầu thế kỷ mới, ngay cả những người Mỹ có học vấn cao, dạn dày kinh nghiệm quốc tế như Roosevelt vẫn dành mối quan tâm hàng đầu cho châu Âu - nơi vẫn được nhiều người xem như trung tâm đích thực của tầng lớp quyền quý - hay khu vực Mỹ Latin kế bên. Mối quan tâm đến những vấn đề quốc tế của Roosevelt sớm được thấm nhuần nhờ cha mẹ ông, "những nhà quý tộc của thung lũng sông Hudsson". Và trong thời gian theo học ở Groton, nơi thầy hiệu trưởng dạy các trò rằng người Mỹ có đặc quyền cần phải tham gia làm giảm những tai ương của quốc gia và quốc tế những bài học của thầy hiệu trưởng đã ăn sâu vào thế giới quan của chàng trai Franklin, người được nuôi dưỡng trong một gia đình nổi tiếng vì ý thức bẩm sinh giữ trọng trách càng cao trách nhiệm càng nặng nề; đặc biệt là người anh họ Theodore Roosevelt của Franklin luôn bảo vệ chính nghĩa trong suốt sự nghiệp của mình.


Cho dù kinh nghiệm của Franklin Roosevelt ở nước ngoài chủ yếu chỉ giới hạn trong tầng lớp tinh hoa Tây Âu, nhưng ông đã tham gia tranh luận tại Groton tập trung vào vấn đề "thôn tính Hawaii, trách nhiệm của Anh và Mỹ về sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc, độc lập của Philippines và chiến tranh của người Boer". Roosevelt và những người cùng thời với ông dĩ nhiên hiểu được những tranh cãi về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc phụ thuộc từng lan rộng trong thời thanh niên của mình. Các ý kiến thay đổi từ quan điểm của Mark Twain rằng chủ nghĩa đế quốc sẽ để lại nước Mỹ "tâm hồn tràn đầy sự hèn kém, túi căng phồng những đồng tiền bẩn thỉu và cái miệng đầy đạo đức giả", đến tuyên bố của Thượng nghị sĩ tiểu bang Indiana Albert Beveridge rằng người Mỹ là "dân tộc được lựa chọn" từ trước bởi thượng đế "để lãnh đạo trong cuộc hồi sinh thế giới"; và những tranh cãi xuyên qua xã hội Mỹ lúc chuyển giao thế kỷ đã đưa Roosevelt đến hai khía cạnh của một vấn đề mà ông sẽ phải giải quyết trong nhiệm kỳ tổng thống của mình.


Sau khi tốt nghiệp trường Groton , Franklin đến Harvard và trường Luật Columbia . Năm 1907, ông thực hành nghề luật tại phố Wall và mơ ước được làm chính trị theo gương người anh họ Theodore. Khát vọng của ông nhanh chóng trở thành hiện thực: ông được bầu vào Thượng viện tiểu bang New York năm 1910, và sau đó được bổ nhiệm làm trợ lý hải quân trong chính quyền của Woodrow Wilson. Là một người khát khao hải quân, Roosevelt ủng hộ chi tiêu nhiều cho hạm dội và thúc giục tân tổng thống khẳng định sức mạnh Mỹ với cả Nhật Bản và Mexico . Sử gia của tổng thống, Robert Dallek viết:


"Tính chiến đấu của Roosevelt là sản phẩm không chỉ của khát vọng giành được danh tiêng và thần tiên trong sự nghiệp chính trí của ông, mà còn là cam kết ngay thẳng của ông đối với những ý tưởng mà ông đã học được trong những năm trước đó, và bây giờ chia sẻ với giới ngoại giao, (quân sự và chính trị mà ông cùng cộng tác ở Washington. Giống như họ, ông tin rằng vai trò to lớn của nước Mỹ trong các vấn đề quốc tế sẽ phục vụ cả hạnh phúc dân tộc lẫn nhu cầu của những dân tộc chậm tiến trên toàn thế giới" .


Sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới 2 chỉ làm tăng khát vọng dính líu tích cực vào lĩnh vực quốc tế của Roosevelt . Mặc dù lúc đầu ông hy vọng tham gia vào cuộc chiến, nhưng hoàn cảnh đã ngăn cản ông đến với quân dội, và đo đó những bài học mà ông rút ra từ kỷ nguyên mới, từ những nỗ lực chấm dứt chiến tranh nhiều hơn là bản thân cuộc chiến. Theo dõi và lắng nghe tổng thống và phản ứng của công chúng khi Wilson kêu gọi chủ nghĩa lý tưởng Mỹ bằng Chương trình 14 điểm, Roosevelt trở thành người ủng hộ chủ nghĩa thực dụng của Wilson . Được hoàn cảnh thuyết phục, Roosevelt hiểu rằng "một chính khách có tham vọng cùng những cam kết theo chủ nghĩa quốc tế lúc này không thể tiến lên cùng thành tích quân sự và các mỹ từ, mà người anh họ của ông trước đó đã sử dụng rất hiệu quả "Khẩu hiệu" dành cho công chúng thời hậu Chiến tranh thế giới I là "Giải trừ quân bị và hoà bình". Mười năm sau đó, Roosevelt tiếp tục xây dựng danh tiếng chính trị của mình: đặt cơ quan cao nhất của đất nước vào tầm ngắm của ông. Là một chính khách tốt, ông theo dõi sát sao tâm trạng của công chúng và đưa ý kiến của nhân dân vào những mục tiêu của chính sách đối ngoại của chính ông. Bằng cách đó, khi xuất hiện những vấn đề quốc tế trong quá trình vận động tranh cử của Roosevelt, ông tập trung vào chủ nghĩa hoà bình - cái "Chế ngự suy nghĩ của công chúng ở bất cứ đâu", và ông tin đó là "chủ nghĩa hiện thực chính trị đơn giản hậu thuẫn cho nỗ lực quốc tế vì hoà bình". Roosevelt hiểu toàn bộ khát vọng của người dân Mỹ là không muốn vướng vào những cuộc chiến của châu Âu vốn được cho là một phần của toà nhà đế quốc. Ông viết: "Toàn bộ xu thế của thời đại đêu chống chiến tranh mở rộng thuộc địa".


Khi cuộc Đại suy thoái ập đến, Roosevelt tập trung vào những yếu kém của nền kinh tế Mỹ, và trong khi thừa nhận tình cảm của công chúng đối với việc tránh những dính líu quốc tế hao tiền tốn của, ông vẫn giữ thái độ im lặng đối với các vấn đề chính sách đối ngoại. Cái im lặng này trong nhiều trường hợp khiến mọi người lầm tưởng cảm giác thực của ông về sự phụ thuộc lẫn nhau cơ bản của các dân tộc, và làm xa lánh một số người có cảm tưởng rằng ông đã từ bỏ những quan điểm theo chủ nghĩa quốc tế của mình.


Những chiến lược vận động tranh cử tập trung vào những rủi ro của quốc gia thay cho quốc tế của ông đã phát huy tác dụng và ông được bầu làm tổng thống năm 1932. Theo quy luật tất yếu, nhiệm kỳ đầu tiên ông tập trung vào chế ngự những vấn đề quốc nội khốc liệt của thời đại. Mặc dù có lẽ đã tiên liệu tình trạng rối loạn toàn cầu sắp đến, nhưng Roosevelt không thể hành động dựa vào những nghi ngờ của ông ngay cả khi chúng hiện hữu.


Trong số những dấu hiệu cảnh báo sớm về việc chiến tranh sắp nổ ra là cuộc xâm lăng của Nhật vào miền Bắc Trung Quốc. Bất kỳ ai tìm kiếm phát súng cảnh báo của Chiến tranh thế giới 2 đều không cần để ý xa hơn việc Nhật Bản chiếm Mãn Châu bằng vũ lực năm 1931. Dù Roosevelt, giống như hầu hết các chính khách trên thế giới, chỉ trích Nhật Bản xâm lược và sau đó sát nhập Mãn Châu, được người Nhật đổi tên thành Mãn Châu quốc, nhưng ông không có ý định can dự vào cuộc tranh chấp xa xôi này. Tuy nhiên ở đầu nhiệm kỳ thứ hai của ông (1936 - 1940), những hoạt động của Nhật Bản một lần nữa gây ra lo lắng. Năm 1937, khi chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, Roosevelt một lần nữa lên án những hoạt động quân sự của Nhật Bản nhưng không cố gắng ngăn chặn sức mạnh quân sự của Thiên Hoàng lúc này đã sẵn sàng giày xéo hầu hết những khu vực đông dân và sản xuất của Trung Quốc. Sự bất hành động của Roosevelt có thể thấy phổ biến trong tính thực dụng chính trị được điều khiển bởi những mối quan tâm trong nước vì đương nhiên công chúng Mỹ không ủng hộ những hành động quân sự của Mỹ nhằm bảo vệ Trung Quốc - dẫu rằng hầu hết người Mỹ thông hiểu tình hình đều muốn Nhật bại trận. Thiện cảm của Roosevelt rõ ràng còn dành cho người Trung Quốc. Nền tảng giáo dục mà ông sớm có được, ở nhà và tại trường, (nền tảng ấy nhấn mạnh nhu cầu tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc cũng như lợi ích thương mại của Mỹ trong khu vực) khát vọng thúc đẩy hoà bình quốc tế, và tất nhiên, mức độ lo lắng về những gì Nhật Bản có thể làm tiếp theo - tất cả đã thuyết phục ông giúp Trung Quốc nếu có thể, nhưng bằng những cách không gây đối kháng với cả Nhật Bản lẫn những người theo chủ nghĩa biệt lập Mỹ.


Số đông các quốc gia khác cũng theo dõi cuộc xung đột Trung - Nhật, nhưng các nước Tây Âu có những tài sản thuộc địa ở châu Á thì đặc biệt lo lắng. Cả Anh và Pháp đều có lý do xác đáng để quan ngại. Đến đầu năm 1938, Hồng Kông thuộc Anh và Đông Dương thuộc Pháp là hai trong số những điểm còn lại mà từ đó các phương tiện chiến tranh có thể được chuyển vào Trung Quốc. Những nguồn tiếp tế này đặc biệt cần cho sự tồn tại của chính quyền Tưởng Giới Thạch, và Nhật Bản nhận thức rõ thực tế đó. Người Pháp đặc biệt lo ngại Nhật Bản có thể tấn công Bắc Kỳ, nơi những trang thiết bị có tầm quan trọng sống còn được vận chuyển bằng đường thuỷ đến Hải Phòng và từ đó theo đường sắt đến Vân Nam hoặc Lạng Sơn rồi theo đường bộ vào trung tâm Trung Quốc.


Vì lý do đó, Toàn quyền Catroux đã "miễn cưỡng" cho phép vận chuyển đạn được cho Tưởng Giới Thạch qua ngả Hải phòng "vì sợ Nhật trả đũa". Đặc biệt, ông ta lo rằng Nhật Bản có thể ném bom đường sắt bằng những máy bay xuất phát từ các hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi đảo Hải Nam . Như đã lưu ý từ trước, Catroux nhận ra rằng mình đang "đơn thương độc mã", rằng rất khó xoay sở nên ông ta đã có một số nhượng bộ đối với Nhật Bản nhưng vẫn cho phép một ít hàng viện trợ đến Trung Quốc.


Trong khi theo dõi tình hình châu Á, Roosevelt đã thúc giục các cố vấn của ông tìm kiếm những biện pháp hoà bình giúp tiếp tục mở những tuyến tiếp tế đến trung tâm Trung Quốc, nhưng ông không thể - về mặt chính trị và quân sự - gửi quân tới bảo vệ Đông Dương hay bất kỳ thuộc địa nào khác của châu Âu.


Những lo ngại về khả năng bành trướng của Nhật tiếp tục kéo dài sang năm 1939 và được bổ sung thêm bằng những tranh chấp giữa Pháp và Nhật về quyền sở hữu quần đảo Trường Sa (nằm giữa Việt Nam và Philippines trên biển Đông). Lúc đó chính quyền Roosevelt đã tạo ra một sự khác biệt ôn hoà giữa những yêu sách của Pháp đối với Đông Dương và quần đảo Trường Sa.


Trong một cuộc đàm luận với đại sứ Pháp Ren Doynel de Saint-Quétin về mối đe doạ của Nhật, Maxwell Hamilton, một nhân viên ngoại giao Mỹ, đã nói rõ: "Những suy xét tương tự có khả năng tác động đến Chính phủ về sự chiếm đoạt lãnh thổ bằng sức mạnh ở châu Âu cũng có thể áp dụng đối với việc Nhật Bản giành lãnh thổ bằng sức mạnh như trường hợp Hồng Kông hay Đông Dương thuộc Pháp". Khi được vị đại sứ hỏi liệu những suy xét tương tự có được áp dụng đối với trường hợp Nhật xâm chiếm quần đảo Trường Sa hay không, Hamilton đã phác ra quan điểm của Mỹ: "Có thể có sự chiếm đoạt không đặt thành vấn đề như trường hợp Anh sở hữu Hồng Kông hay Pháp sở hữu Đông Dương, trái lại có tới hai yêu sách một của Pháp và một của Nhật, đòi chủ quyền quần đảo Trường Sa. Rõ ràng, Đông Dương thuộc Pháp đã đi vào khung câu trúc tinh thần của tổng thống và nhân viên trong Bộ Ngoại giao, nhưng như một khu vực địa lý không thể phủ nhận dưới sự kiểm soát của Pháp, và quan trọng đối với chính phủ kiên gan của Tưỏng Giới Thạch, chứ không như một vùng đất của nguởí bản xứ có những quyền và khát vọng của riêng mình".


Tình hình trở nên phức tạp hơn đáng kể trong năm 1940. Khi Roosevelt phát động chiến dịch tranh cử tổng thống nhiệm kỳ ba, ông phải hành động trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: trung hoà yêu cầu đòi đứng ngoài cả tình trạng hỗn độn ở Trung Quốc lẫn chiến tranh đang ngày một khốc liệt ở châu Âu của những người ủng hộ chính sách biệt lập và niềm tin của chính ông rằng, Mỹ sẽ phải vào cuộc để bảo vệ nền dân chủ và tự do thương mại cực kỳ quý giá đối với Mỹ và bị chỉ trích trong thiết lập cũng như duy trì hoà bình thế giới. Được an ủi phần nào rằng niềm tin của chính Roosevelt cuối cùng có thể có ảnh hướng lớn nhưng khi nhận ra những khó khăn của ông với công luận Mỹ, thì cả Anh và Pháp đều sợ rằng sự can thiệp của Mỹ đơn giản là sẽ không xảy ra. Ngày 16 tháng 6 năm 1940, tại một trong những yêu cầu cuối cùng của mình nhờ Mỹ trợ giúp khi quân Đức đang tràn qua nước Pháp, Thủ tướng Pháp Paul Reynaud đã công khai tuyên bố: "Tôi phải nói với ngài… Nếu ngài không bảo đảm với nước Pháp trong những giờ tới rằng Mỹ sẽ tham chiến ngay lập tức thì bộ mặt của thế giới sẽ thay đổi. Rồi ngài sẽ thấy nước Pháp chìm nghỉm như một kẻ đang chết đuối và biến mất sau khi đã mỏi mắt nhìn về xứ sở của tự do mà từ đó nó tìm kiếm sự bảo vệ". Mặc dù Roosevelt đã cung cấp nhiều nguyên vật liệu bằng tất cả khả năng của ông trong những giới hạn của pháp luật Mỹ và sự phê chuẩn của nghị viện, nhưng ông không thể đề nghị can thiệp quân sự và ông không thể ngăn chặn việc nước Pháp đầu hàng.


Với sự sụp đổ của Pháp trước Đức Quốc xã, việc Đông Dương cuối cùng sẽ rơi vào tay một thành viên trong phe Trục xem ra không thể tránh được. Nhật Bản tiếp tục gây sức ép lên Chính phủ Vichy đòi thêm nhượng bộ và Mỹ tiếp tục phản đối những hành động của Nhật. Tuy nhiên không phải mãi đến khi Nhật bắt đầu chiếm đóng miền Bắc Việt Nam vào tháng Chín thì áp lực của nền kinh tế Mỹ mới được đem ra để áp đặt một lệnh cấm vận đầy đủ về sắt và thép rời. Nhưng, bất chấp những cố gắng lớn nhất của chính quyền Roosevelt, không một trừng phạt kinh tế và tài ngoại giao nào có vẻ có tác dụng trong năm 1940 và chắc chắn cả trong năm 1941, hai chính phủ Nhật Bản và Mỹ đang nhảy nhót theo những điệu nhạc khác nhau.


Roosevelt cố ngăn chặn sự bành trướng của quân Nhật vào phần còn lại của Việt Nam và sự lan rộng hơn nữa của chiến tranh Thái Bình Dương bằng đề nghị trung lập hoá Đông Dương thuộc Pháp như một nước giống Thuỵ Sĩ cùng với mở rộng cửa tiếp cận thương mại. Nhật Bản bác bỏ đề nghị đó.


Đến cuối mùa hè năm 1941, quân Nhật tiến vào miền Nam Việt Nam . Đáp lại, Mỹ đóng băng các tài sản của Nhật. Tuy nhiên, việc này không cho thấy dự định đáng tin cậy nhằm "bảo vệ" Việt Nam, hay thậm chí Trung Quốc trước Nhật Bản. Các nhà ngoại giao Mỹ tiếp tục các cuộc thảo luận với Tokyo hy vọng trì hoãn, thậm chí có thể cả tránh, một cuộc chiến tranh trên Thái Bình Dương dựa trên "những lo ngại vẫn tiếp diễn" của Roosevelt rằng "những nguồn tài nguyên khan hiểm phải được huy động chống Hitler". Nhưng khi hè chuyển sang thu, "Báo chí, công chúng và ý kiến chính thức đều đồng loạt phản đối bất kỳ chính sách nhượng bộ nào đối với Nhật Bản". Và với thất bại ngoại giao của cả hai phía, cuộc tấn công Trân Châu Cảng tháng Mười hai đã đưa nước Mỹ vào vòng xoáy của chiến tranh thế giới chống lại cả ba cường quốc trong phe Trục và kéo căng các nguồn lực của nước Mỹ giữa hai mặt trận.


Khi Mỹ trở thành nước tham chiến chính thức trong Chiến tranh thế giới 2, thì quan điểm của Roosevelt về Pháp và Đông Dương thuộc Pháp cũng dần thay đổi. Cuối cùng tổng thống và các phụ tá của ông tiếp tục cam kết với người Pháp rằng vị thế quốc tế của họ, cả ở châu Âu và như một cường quốc thuộc thực dân, sẽ được bảo đảm trong thời hậu chiến.


Chẳng hạn, tháng 1 năm 1942, trong một nỗ lực ngăn chặn hợp tác của Vichy với phe Trục, Roosevelt đã chuyển một bức thông điệp năm điểm cho đại sứ Mỹ ở Pháp, đô đốc William Leahy, để sử dụng nếu điều kiện cho phép - hoặc là với thống chế Pétain hoặc với tướng Weygand". Điểm số hai đề cập trực tiếp đến các thuộc địa của nước Pháp khẳng định rằng: "Từ Pháp trong tâm trí tổng thống bao gồm Đế chế thực dân Pháp". Cũng trong thông điệp đó, tổng thống đã bảo Vichy coi chừng bất kỳ sự quy phục khả dĩ nào nếu Đức tấn công hoặc nước Pháp hoặc bất cứ thuộc địa nào của Pháp. Ông khuyến cáo rằng: "Việc sẵn sàng chấp nhận một cuộc tấn công như vậy" của họ chỉ có thể được xem như "chơi trò chơi của Đức".


Tuy chính phủ Vichy rõ ràng muốn tránh xung đột thêm hoặc với những kẻ chiếm đóng Đức hoặc người Mỹ, nhưng họ không hoàn toàn hợp tác với bất kỳ bên nào. Cũng tháng đó, đại sứ Leahy chuyển đi những nội dung trao đổi giữa ông với đô đốc Jean François Darlan và toàn bộ những ấn tượng của ông khi xem Vichy như đồng minh. Về Đông Dương thuộc Pháp, Leahy viết: "Tôi tham khảo những bản tin trên báo về một cuộc tấn công của Đồng Minh vào một sân bay bị Nhật chiếm đóng tại Hà Nội và bày tỏ ý kiến rằng ở nước Pháp chúng tôi phải được chuẩn bị cho hoạt động quân sự của Đồng Minh chống Đông Dương bị Nhật chiếm đóng, đặc biệt là các căn cứ và hải cảng bị Nhật sử dụng. Darlan đáp lại rằng không có các căn cứ ở Đông Dương và các hải cảng không hữu ích . Khẳng định của Darlan, tất nhiên, chẳng hơn gì một lời nói dối trơ trẽn không làm gì để giảm bớt những nghi ngờ của người Mỹ. "Ấn tượng chung của tôi như kết quả của cuộc trao đổi này", Leahy kết luận, "Mỹ không thể hy vọng vào bất kỳ sự hợp tác nào của Vichy ".


Trong những cuộc trao đổi với người Anh vào tháng 1 năm 1942 Roosevelt đã có quan điểm hơi khác về thuộc địa. Mặc dù mục đích tối thượng của ông là thiết lập một quan hệ đối tác thời chiến vững vàng giữa hai nước, nhưng Roosevelt cố gắng làm cho nhà lãnh đạo Anh Winston Churchill nhận thức rõ một số quan điểm của công luận Mỹ đối với chủ nghĩa đế quốc và nhu cầu "đồng cảm với những mục tiêu phi vật chất thời hậu chiến" đối với Anh. Cụ thể, Ấn Độ là điểm bất đồng.


Với việc quân Nhật tiến về hòn ngọc trên vương miện của đế quốc Anh, "tiếng nói phản đối gia tăng tại Mỹ đòi Anh phải thay đổi chính sách đế quốc của nước này". Về phần mình, người Anh không khóc mà cũng chẳng cười trước sự can thiệp của Mỹ vào công việc của nước họ.


Trong một phát biểu gây ấn tượng mạnh, Roosevelt than với phu nhân của tác giả Louis Adamic(1) rằng Churchill "không hiểu phần lớn người dân chúng tôi có cảm giác ra sao về nước Anh và vai trò của nó trong đời sống của các dân tộc khác… Tất nhiên có nhiều loại người Mỹ, nhưng là một dân tộc là một quốc gia, chúng tôi phản đối chủ nghĩa đế quốc - chúng tôi không thể chịu đựng được nó". Mặc dù cảm tưởng của Roosevelt về quan điểm của công chúng Mỹ có thể chứa đựng nhiều sự thật, nhưng dĩ nhiên ở đó không hề có quyết tâm lớn nhằm cáo chung chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn cầu. Ví dụ, sự đồng cảm, tuy đôi khi kiêu ngạo, biểu lộ đối với người Ấn Độ và khát vọng độc lập của họ hiển nhiên không mở rộng đến Burma, cũng là một thuộc địa của Anh có những nhà ái quốc dầy khao khát. Như một phần giác thư gửi Churchill năm 1942 đề cập đến những cộng tác viên Burma, Roosevelt đã thể hiện rõ sự thiếu bằng chứng xác thực với những người bị chủ nghĩa thực dân áp bức:


"Tôi chưa từng thích Burma và người Burma ! Và người dân nước ngoài hẳn là đã có khoảnh thời gian khủng khiếp với họ từ 5o năm qua. Ơn Chúa là các ngài khoá chặt NÓ - THẤY CHÚNG TA - THẤY CÁC BẠN - THẤY (ám chỉ chính khách Burma gây nhiều tranh cãi U Saw)(2). Tôi ước chi ngài tống chúng vào một chiếc chảo rán có tường bao quanh và mặc xác chúng trong món nước sốt của chính chúng" .


Để giữ công luận Mỹ ủng hộ Anh, Roosevelt đã tế nhị thúc giục Churchill thay đổi một số biện pháp ở Ấn Độ, ngoại trừ Burma không được mấy quan tâm. Các thuộc địa của Pháp về cơ bản rơi vào cùng một hạng như Burma . Đặc biệt vì ít người Mỹ biết rõ về những nước này huống hồ là về những khát vọng dân tộc chủ nghĩa của họ, nên Roosevelt có thể đề cập đến người Pháp và đế chế của họ như những nhu cầu quân sự và ngoại giao thời chiến phù hợp nhất không theo tình cảm ngạo mạn của những người chống đế quốc hay khát vọng của các dân tộc thuộc địa. Ví dụ, khi Mỹ mưu toan thiết lập lãnh sự quán của mình tại Brazzaville, Equatorial Africa thuộc Pháp (nay là Congo), thứ trưởng Bộ ngoại giao Sumner Welles một lần nữa cố xoa dịu lo ngại của người Pháp về thế giới thời hậu chiến: như đã vài lần thông báo với chính phủ các ngài, chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ công nhận quyền hạn tối thượng của người Pháp đối với lãnh thổ Pháp và các thuộc địa của Pháp ở hải ngoại. Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ thiết tha hy vọng có thể thấy sự tái thiết độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước Pháp".


Những tuyên bố có tính an ủi này được lặp lại ít thường xuyên hơn trong năm sau khi Roosevelt trở nên tỉnh ngộ hơn với cách điều hành của cả nước Pháp Vichy và nước Pháp Tự do dưới sự lãnh đạo của De Gaulle, người mà ông không tin tưởng và thân thiện. Nhằm tạo dựng một thế giới hoà bình sau chiến tranh, khai thác chủ nghĩa lý tưởng, giành được sự đồng thuận của công chúng Mỹ, và tạo ra cảm giác tin tưởng đối với Đồng Minh trong người dân Mỹ, Roosevelt bắt đầu nói về trong số nhiều vấn đề khác, khả năng uỷ trị quốc tế thời hậu chiến.


Trong cuộc đàm đạo với Bộ trưởng ngoại giao Nga Vyacheslav Molotov giữa năm 1942, Roosevelt "đã bày tỏ niềm tin tưởng của ông rằng sự cáo chung của các thuộc địa sẽ đáp ứng hoà bình thế giới bằng ngăn chặn những cuộc đấu tranh thời hậu chiến đòi độc lập và rằng sự uỷ trị quốc tế cần được thiết lập đại diện cho các thuộc địa cũ cho đến khi chúng sẵn sàng cho một chính phủ tự trị". Trong ảo tưởng của Roosevelt về thế giới sau chiến tranh, Mỹ, Liên Xô, Anh và có khả năng cả Trung Quốc sẽ là các "sen đầm" thế giới chịu trách nhiệm về an ninh quốc tế, kể cả giám sát những quốc gia được uỷ trị. Mặc dù kế hoạch uỷ trị nếu được thực hiện có thể gặp phải sự phản đối dữ dội trong những người Mỹ không ủng hộ chủ nghĩa thực dân, nhưng nó cũng mang nhiều nỗi kinh hoàng đến cho những kẻ nắm giữ các đế quốc - nhất là Anh và Pháp. Như sẽ thấy, Roosevelt có khuynh hướng làm dịu những vấn đề với nước Anh, ông nhấn mạnh rằng những thuộc địa trong tình trạng tranh chấp như Triều Tiên sẽ là vùng lãnh thổ đầu tiên được đặt dưới sự uỷ trị, nhưng ông trở nên cực kỳ căm ghét đế quốc Pháp.


Suốt năm 1943 Roosevelt đưa ra nhiều tuyên bố về kế hoạch uỷ trị đã được thiết lập một cách lỏng lẻo của ông và về tình hình thuộc địa nói chung, nhấn mạnh đến mối liên kết giữa chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh. Trong một cuộc trao đổi với con trai Elliott, Roosevelt nói rõ học thuyết của ông rằng nếu không có thay đổi trong hệ thống thuộc địa trước chiến tranh thì thế giới sẽ còn lâm vào một cuộc chiến tranh nữa ngay khi kết thúc cuộc chiến này. Tất nhiên ông không xa rời mục đích. "Vấn đề là", ông tuyên bố, "hệ thống thuộc địa có nghĩa là chiến tranh. Cứ bóc lột các nguồn tài nguyên của Ấn Độ, Burma, Java; cứ lấy đi của cải của những nước này nhưng không đem lại cho họ thứ gì như giáo dục, mức sống tử tế, những nhu cầu tối thiểu về y tế - tất cả những gì người ta đang làm là tích trữ rắc rối dẫn đến chiến tranh".


Thật thú vị, đến năm 1943, Burma , nước mà ông đã đề cập đến một cách mỉa mai trong giác thư gửi Churchill chỉ một năm trước, lại trở thành một trong những ví dụ về một dân tộc bị áp bức xứng đáng được thay đổi. Nhưng tuyên bố này và những tuyên bố tương tự khác liên quan đến các thuộc địa của Anh và Hà Lan có vẻ quá ôn hoà khi so sánh với những chỉ trích người Pháp của Roosevelt . Đặc biệt, ông đã nhấn mạnh một cách khác thường đến Đông Dương thuộc Pháp - khác thường bởi mặc dù sự thống trị của đế quốc Pháp đã mang đến cho người nông dân Việt Nam cảnh bần hàn, nhưng đấy dĩ nhiên không phải là hoàn cảnh đặc thù trong thế giới thuộc địa. Trong một cuộc trao đổi với Elliott, ông đã lên án sự cai trị của Pháp:


"Người Nhật lúc này kiểm soát thuộc địa đó. Tại sao Nhật lại quá dễ dàng xâm chiếm vùng đất ấy? Người dân Đông Dương đã bị áp bức trắng trợn đến mức họ tự nhủ: Bất kỳ cái gì cũng hẳn tốt hơn phải sống dưới ách thống trị của Pháp! Một miền đất có nên thuộc về Pháp hay không? Theo logic nào, theo tục lệ hay theo quy luật lịch sử nào? … Cha đang nói về một cuộc chiến khác, Elliott ạ… Cha đang nói về những gì sẽ xảy ra với thế giới của chúng ta nếu sau cuộc chiến tranh này chúng ta lại bỏ mặc hàng triệu người trở lại tình trạng bán nô lệ như cũ" .


Một lựa chọn đối với quyền lực thuộc địa của Pháp, tổng thống đề nghị người Anh rằng Đông Dương thuộc Pháp cũng như Triều Tiên, nên trở thành những quốc gia được Mỹ, Liên Xô và có thể cả Trung Quốc uỷ trị. Chính phủ Anh không ủng hộ ý tưởng này và nêu rõ, trong số những vấn đề khác, rằng Trung Quốc không phải và không thể được xếp loại như một cường quốc thế giới bên cạnh Anh, Mỹ và Liên Xô. Tuy nhiên theo Roosevelt , đề nghị này có một ý nghĩa hoàn hảo. Với nhiều người Mỹ, Trung Quốc là "đồng minh được mến chuộng nhất" bởi nước này "chưa bị đổi màu bởi chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa đế quốc, là nạn nhân hơn là kẻ thực hành quan điểm chính trị dựa trên sức mạnh. Trung Quốc trên tất thảy, được xem như một đồng minh dân chủ tự nhiên của Mỹ". Và có vẻ logic là, chia sẻ sự gần gũi về địa lý với cả hai quốc gia, Trung Quốc nên có chân trong việc dẫn dắt hai thuộc địa theo hướng chế độ tự trị dân chủ. Trung Quốc bị tác động bởi nạn tham nhũng và tranh chấp nội bộ, vì vậy chỉ là một lựa chọn không đáng kể với tư cách quốc gia trông coi một lãnh thổ được uỷ thác quốc tế. Song nếu một chính phủ vững chắc về mặt chính trị thân thiện với Mỹ xuất hiện tại đó thì kế hoạch uỷ trị trọn vẹn của Roosevelt đã có tiềm năng.


Giả dụ rằng tình trạng của các thuộc địa là chiếc chìa khoá đích thực cho nền hoà bình bền vững sau chiến tranh và góp phần xây dựng sức mạnh quân sự và kinh tế Mỹ, thì Roosevelt "đã hy vọng hệ thống uỷ trị sẽ cho phép Mỹ thiết lập các căn cứ hải quân và không quân dài hạn tại những vị trí chiến lược trên Thái Bình Dương và bất kỳ nơi nào không phải đương đầu với mối ác cảm Mỹ truyền thống đối với quan điểm chính trị dựa vào sức mạnh". Trong ý kiến của Roosevelt, "một hệ thống quyền lực tập thể vì lợi ích của các nước đang nổi lên sẽ làm giảm quyền năng quân sự của Mỹ" và "có thể cung cấp tài chính cả trợ giúp những dân tộc bị bóc lột lẫn một hệ thống an ninh khả thi khu vực Thái Bình Dương cho tối thiểu hai mươi năm". Roosevelt nhìn nhận Đông Dương như một yếu tố quan trọng đảm bảo an ninh châu Á sau chiến tranh, vì thế điều duy nhất phù hợp là ông cần trao cho thuộc địa đó vai trò chính trong kế hoạch uỷ trị. Trung Quốc và Liên Xô, cả hai có vấn đề của riêng mình, hầu như chỉ biết phục tùng kế hoạch của Mỹ.


Trên thực tế, những chỉ trích người Pháp của Joseph Stalin rõ ràng cũng tương tự của Roosevelt . Tóm lại là "toàn bộ giai cấp thống trị Pháp đã mục ruỗng đến lõi", và "đang tích cực tiếp tay cho kẻ thù của chúng ta". Stalin đã xác định rằng "giao vào tay Pháp bất kỳ vị trí chiến lược nào sau chiến tranh sẽ chẳng những không đúng đắn mà còn nguy hiểm nữa", và Đông Dương thuộc Pháp rơi vào loại đó. Những nghi ngờ về ý định và mục đích của kế hoạch uỷ trị chỉ làm tăng sự phản đối của Anh đối với các cuộc tranh luận về vị thế của Đông Dương sau chiến tranh. Những phản đối nóng nảy của Churchill tại Hội nghị Teheran năm 1943 đã bị Roosevelt đáp trả gay gắt: "Xem đây, thưa ngài Winston", ông vặn lại, "về vấn đề Đông Dương thuộc Pháp ngài đã thua với tỷ số phiếu".


Thậm chí sau những hội nghị năm 1943 tổ chức ở Cairo và Teheran, Roosevelt tiếp tục nói về vấn đề chấm dứt ách thực dân của Pháp, đặc biệt là ở Đông Dương và thuộc địa châu Phi Dakar, cả hai được xem là cần thiết cho các căn cứ quân sự Mỹ nhằm bảo đảm an ninh thời hậu chiến. Và nước Anh tiếp tục phản đối kế hoạch này một phần vì những ẩn ý về số phận của Đế quốc Anh. Mặc dù Churchill nhất quyết là sự tan rã của đế quốc không xảy ra trong nhiệm kỳ của ông, bằng việc ký kết Tuyên bố Đại Tây Dương bên cạnh Roosevelt tháng 8 năm 1941, ông đã mở toang cửa tranh luận về ý nghĩa của sự giải phóng, tự quyết và những thuật ngữ này có thể ứng với ai. Thực vậy, điểm Ba của Tuyên bố đã gây ra nhiều bất ổn trong người Pháp và dem lại hy vọng cho những người theo phong trào đòi độc lập trên toàn thế giới, trong đó có người Việt Nam . Điểm này ghi rõ: "Các bên tôn trọng quyền của tất cả các dân tọc lựa chọn hình thái chính phủ tương lai của mình, và hy vọng chứng kiến các quyền tối thượng và tự quản được khôi phục cho tất cả những ai đã bị tước đoạt các quyền đó bằng vũ lực".


Trong bối cảnh Chiến tranh thế giới 2, tuyên bố này có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một mặt, cách diễn đạt bảo thủ ám chỉ khát vọng chỉ đối với sự giải phóng các lãnh thổ bị Đức Quốc xã và Nhật Bản chiếm đóng. Mặt khác, cách diến đạt thoáng hơn ám chỉ một cam kết cáo chung toàn bộ chủ nghĩa thực dân, bênh vực cho những dân tộc phụ thuộc đã thực sự bị tước đoạt các quyền của mình. Cả Roosevelt và Churchill đều hy vọng rằng những mục tiêu khái quát được thể hiện trong Tuyên bố Đại Tây Dương , bao gồm cả điểm Ba, sẽ giúp gắn công luận Mỹ vào nỗ lực chiến tranh của Anh và đặt nền tảng cho tăng cường viện trợ của Mỹ trong cuộc chiến chống chủ nghĩa Quốc xã. Sau khi Mỹ chính thức tham chiến, Tuyên bố Đại Tây Dương còn trở nên quan trọng hơn, như một trong những mối liên kết chủ yếu gắn cuộc chiến tranh này với một thế giới lý tưởng hơn thời hậu chiến.


Đến cuối năm 1944, những tuyên bố của Franklin Roosevelt cho thấy, chí ít trong những trường hợp đã được lựa chọn, ông đã quy cho lối giải thích gây tranh cãi hơn của điểm Ba. Với chủ trương thay đổi hệ thống thuộc địa, Roosevelt tiếp tục đưa Pháp ra chỉ trích đồng thời đặc biệt nhấn mạnh đến tình hình Đông Dương. Theo quan điểm của ông, trong suốt thời kỳ chiếm đóng Việt Nam, Pháp đã thất bại trong cải thiện mức sống của người dân và, vì những thất bại của họ, đã từ bỏ quyền cai trị. Ngoài ra, Bộ trưởng ngoại giao Cordell Hull tin rằng một trong những nguyên nhân Roosevelt quá quan tâm đến Đông Dương là vùng đất này đã là "bàn đạp cho cuộc tấn công của Nhật vào Philippines , Malaysia và Đông Ấn thuộc Hà Lan". Vào tháng Giêng, Roosevelt gửi một giác thư cho Hull , nêu rõ:


Dù mối quan tâm của Roosevelt về Đông Dương thuộc Pháp bắt nguồn từ khát vọng trừng phạt Pháp chủ yếu là vì những nhà thực dân "tồi" hay chủ yếu vì thất bại của họ trong việc "đương đầu" với Đức và thật thì vẫn rõ ràng Đông Dương đã trở thành một yếu tố quan trọng trong suy nghĩ của Roosevelt về chủ nghĩa thực dân. Ngoài xem xét những gì pháp đã và không làm được, Roosevelt còn tập trung vào vấn đề tình hình thuộc địa có ý nghĩa gì đối với Mỹ "trong bối cảnh ông lo ngại thất bại trong trợ giúp những khát vọng đòi độc lập ở châu Á sẽ làm mất thể diện của Mỹ trong mắt một tỷ con người". Một kế hoạch uỷ trị quốc tế "có thể giúp nâng cao sự nghiệp chính nghĩa của Đồng Minh trong các dân tộc thuộc địa bởi nó có thể cho thấy rằng mục đích của chiến tranh không phải là tái thiết các đế quốc châu Âu". Kế hoạch này có ý nghĩa đa quốc gia hơn là quên lãng các cựu thuộc địa của Mỹ và "sự gắn bó bên ngoài của nó với chế độ tự quản quốc gia" có thể giúp tạo ra dư luận trong nước "kiên quyết hậu thuẫn việc Mỹ tiếp tục can dự vào những vấn đề hải ngoại".


Tình cảm chống thực dân của Roosevelt hầu như là sự bày tỏ ý kiến của công chúng có học thức, nhưng không phải lúc nào chúng cũng được chia sẻ bởi những nhân vật quân sự chủ chốt - những kẻ chắc chắn phải chịu trách nhiệm về xử lý tình trạng tách rời các thuộc địa cũ của châu Âu. Tuy nhiên, tại Trung Quốc, tướng Joseph Stilwell và Albert Wedemeyer là những người chống thực dân và "nói chung kiên quyết phản đối việc châu Âu chiếm giữ lãnh thổ châu Á như những thuộc địa chính thức. Họ tin tưởng một cách đơn giản rằng chủ nghĩa thực dân sai, hơn nữa còn nghĩ rằng các cường quốc thực dân như Anh, Pháp, Hà Lan và Trung Hoa Dân Quốc quá yếu ở châu Á để có thể làm được nhiều trong cuộc chiến thực sự chống Nhật Bản". Theo dõi kế hoạch của các cường quốc thực dân, năm 1944 Wedemeyer báo cáo rằng Anh, Hà Lan và Pháp đã có mọi dự định giữ lại các thuộc địa của họ, và ông cảm thấy, như nhà sử học Bradley Smith đã tổng kết, "không nghi ngờ gì nữa, chính phủ ba nước đó dứt khoát đã đạt được một thoả thuận riêng rẽ về những vấn đề này". Để minh chứng, Wedemeyer dẫn ra việc Pháp huấn luyện lính dù, những người sau đó sẽ được tha xuống Đông Dương, ở Ấn Độ.


Ông được thuyết phục rằng, những nước đế quốc dự định đòi lại quyền thống trị thuộc địa của mình sau khi đánh bại Nhật với sự giúp đỡ của Mỹ, và ông cương quyết đề nghị Mỹ phải xem xét "một cách thận trọng tất cả những yêu cầu về nguyên vật liệu để đảm bảo chắc chắn rằng người ta có thể "đẩy mạnh nỗ lực chiến tranh hơn là những mục đích thời hậu chiến". Có lẽ John Davies, cố vấn chính trị của Stilwell, đã tổng kết khúc triết nhất những gì nằm trong ý nghĩ của nhiều người Mỹ - những người, theo lời Roosevelt, "không tiêu hoá được" chủ nghĩa đế quốc: "Tại sao thanh niên Mỹ lại cần phải chết để tái tạo các đế chế thực dân của Anh cùng các chư hầu Hà Lan và Pháp của họ chứ?".


Tất nhiên, có những người ở cả trong giời quân sự và chính quyền không chống đế quốc và vẫn duy trì mối quan hệ tương đối hữu hảo với những đối tác châu Âu của họ, trong đó có người Pháp. Giám đốc OSS , William J. Donovan là một trong số những người này. Mặc dù cả Roosevelt và Donovan đều là người New York và muốn nổi danh trong nước cũng như quốc tế, nhưng thành phần của hai ông hoàn toàn khác nhau. Trong khi Roosevelt nhảy cỡn lên với giới tinh hoa châu Âu thì Donovan giao du với đám trẻ cần lao trong cộng đồng Ai-len ở Buffalo và giành được biệt danh "Bill liều"(3) , biệt danh này theo ông suốt sự nghiệp của mình.


Sinh năm 1883 trong một gia đình Công giáo Ai-len công nhân đường sắt thuộc thế hệ đầu tiên, William Joseph Donovan thành thạo công việc nặng nhọc và hiểu rõ những hy sinh mà ông bà gốc Ai-len di cư của mình đã phải trả để đến Mỹ. Ông đã phải làm việc vào ban đêm và mùa hè để kiếm tiền trang trải học phí đại học và giúp việc với tư cách là quản lý trụ sở nam sinh viên để đổi lấy chỗ ở và cơm tháng.


Donovan nổi trội trên sân bóng nhưng lại trình diễn rất tồi trong lớp học, tuy nhiên nhân cách và cố gắng của ông đã mang lại cho ông kết quả cuối cùng ở cả hai lĩnh vực. Ông tiếp tục theo học tại Đại học Luật Columbia như Franklin Roosevelt, cho dù cả hai ông thuộc về những giới xã hội khác nhau khi ở đó.


Sau khi tốt nghiệp Donovan bắt đầu hành nghề luật, sau đó gia nhập một nhóm những người trẻ tuổi mưu toan thành lập đơn vị Bảo vệ Quốc gia địa phương. Tháng 5 năm 1912, ông trở thành thành viên danh dự của Phân dội I thuộc Binh đoàn Kỵ binh New York thứ nhất, và đến tháng 10 được thăng hàm đại uý. Con đường thăng tiến của Donovan tiếp tục với việc ông làm rể một gia đình giàu có ở Buffalo và lời mời năm 1916 của John D. Rockefeller đi châu Âu lúc đó đang điêu đứng vì Chiến tranh thế giới lần thứ I nhằm giành được sự chuẩn y từ những nước tham chiến cung cấp đồ cứu trợ chiến tranh cho Ba Lan - lúc đó đang bị giày xéo bởi ý định tiêu diệt nước Nga Sa hoàng của quân Đức.


Khi Donovan đã quen với London và châu Âu như một phần sứ mạng của ông thì nghĩa vụ quân sự đòi hỏi ông quay về Mỹ. Năm 1916, Donovan và Binh đoàn Kỵ binh New York thứ nhất nhanh chóng được điều tới Texas giúp dàn xếp những rắc rối với nhà cách mạng người Mexico, Pancho Villa, người đã thao túng thị trấn nhỏ Columbos ở New Mexico.


Donovan đã dành ra sáu tháng cưỡi ngựa theo sau Villa và huấn luyện người của ông ta thành những chiến binh cứng rắn. Vì ông, cũng giống như Roosevelt và nhiều người khác, tin rằng nước Mỹ sẽ không thể tránh khỏi việc tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới vẫn chưa có hồi kết.


Ngày 15 tháng 3 năm 1917, chỉ ba ngày sau khi Donovan từ Mexico trở về, ông lại ra trình diện, lần này trở thành chỉ huy Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn bộ binh 69, được biết đến với tên gọi Người Ai-len chiến đấu và được phiên chế vào đơn vị bộ binh 165, Sư đoàn Cầu vồng 42, sau đó lên đường đến những chiến hào đẫm máu của nước Pháp. Ở đó, Donovan và binh lính của ông thu được nhiều kinh nghiệm quân sự - cái mà Roosevelt bị từ chối. Donovan, lúc này là thiếu tá, và người của ông chiến đấu dũng cảm và tiếng tăm của ông nổi như cồn. Dẫu khét tiếng vì quy định nghiêm ngặt về uống rượu và huấn luyện không ngừng, nhưng viên thiếu tá vẫn được binh sĩ ngưỡng mộ. Một trong số những người cổ vũ nồng nhiệt cho ông, cha tuyên uý của trung đoàn Patrick Duffy, đã viết: "Kết quả của việc theo dõi Donovan qua 6 ngày chiến đấu - sự bình tĩnh, thái độ sẵn sàng, tài xoay sở của ông cho thấy lúc này lòng ngưỡng mộ (của binh lính) đối với ông là không có giới hạn". Không bao giờ chấp nhận ngồi ở nơi an toàn trong khi binh sĩ của mình đang trong vòng nguy hiểm, Donovan chiến đấu sát cánh cùng những chiến binh người Ai-len chiến đấu, định hàng loạt vết thương và được tặng Huân chương Trái tim màu Tía có hai bó sồi. Ông nhận Huân chương Chữ thập vì thành tích trong trận đánh thứ hai tại Marne và được thăng chức trung tá. Tinh thần "thường bất chấp hiểm nguy và thành tích trong chiến thắng quân thù tại Landres-et- St. George đã đem lại cho ông Huân chương Danh dự và quân hàm đại tá".


William Donovan trở lại New York như một người con nổi tiếng, được tôn kính và có nhiều cơ hội. Sự trung thành triệt để của ông đối với triết lý lời nói đi đôi với việc làm, nhanh chóng đưa danh tiếng nổi như cồn của ông vốn gắn với chủ nghĩa anh hùng trên chiến trường đến chỗ bị xã hội ruồng bỏ.


Nhờ tiếng tăm trận mạc, ông đã được mời tham gia một trong những câu lạc bộ nam có chọn lọc nhất Buffalo, nơi những nhà lãnh đạo quan trọng và có ảnh hưởng lớn nhất thành phố được hưởng đều đặn nguồn cung ứng tiền lãi rượu Whiskey - sau này mới bị cấm bởi Luật cấm nấu và bán rượu(4) . Nhưng ngôi sao chiếu mệnh của Donovan cũng đã mọc, và đến năm 1922 ông trở thành công tố viên. Trên cương vị này ông đã hậu thuẫn cho những sửa đổi không được lòng người. Những cuộc bố ráp bất ngờ theo lệnh Donovan vào chính câu lạc bộ của ông và việc bắt bớ nhiều thành viên của nó là nguyên nhân khiến ông bị tẩy chay khỏi giới thượng lưu Buffalo một thời gian và gây ra khó khăn nghiêm trọng cho sự nghiệp từng có lúc đầy hứa hẹn của ông. Nỗ lực tranh chức thống đốc New York vào năm 1932 của ông thất bại, nhưng sự nghiệp pháp lý của ông tiếp tục tiến triển tốt trong suốt những năm 1920 và 1930, và ông vẫn duy trì quan hệ với nhiều chính khách, đáng chú ý nhất là Herbert Hoover(5) trong thời gian ứng cử tổng thống khá thành công của ông này năm 1928.


Song song với việc để mắt đến tình hình trong nước, Donovan còn thường xuyên đi công cán nước ngoài, và giống Roosevelt , ông cho rằng tình trạng hỗn loạn đang gia tăng ở cả châu Âu và châu Á chắc chắn sẽ dẫn đến một cuộc chiến mà nước Mỹ không thể tránh được. Donovan, nhà viết tiểu sử Richard Dunlap giải thích, sẽ "đi đến đóng vai trò chủ đạo trong cộng đồng người Mỹ, những người vì lý do yêu nước đã theo kịp những diễn biến quan trọng ở nước ngoài. Cùng lúc đó ông tỏ ra thích thú với những sự kiện lý thú và nguy hiểm tiêu biểu cho diện mạo sát chiến tranh". Tự quảng cáo mình là một luật sư giàu có đại diện cho một số tổ hợp lớn nhất nước Mỹ và lợi dụng danh tiếng quân sự của mình, Donovan đã thuyết phục nhà độc tài Italia Benito Mussolini cho phép ông đi thăm và đánh giá tình hình quân đội nước này ở châu Phi.


Donovan đến Ethiopia tháng 12 năm 1935, với tư cách là đại diện của Mussolini ông được phép tiếp cận tất cả những gì ông mong ước đánh giá - vũ khí, triển khai quân, tinh thần và sức khoẻ của binh lính, tình trạng đường sá - và để lại châu lục này dự báo về một chiến thắng nhanh chóng của Italia, và tiếp theo là bước thiết lập thuộc địa của Rome.


Donovan, người có báo cáo trái ngược với những thông tin của Hội Quốc Liên và những tổ chức khác ở cả châu Âu và Mỹ - những người mong muốn Italia thất bại, được triệu tập về gặp Mussolini và sau đó là đại diện Hội Quốc Liên của Mỹ ở Geneva. Trở về Mỹ, ông chuyển những đánh giá tình hình Italia lên Hội đồng Chiến tranh và viết một báo cáo riêng gửi Tổng thống Roosevelt . Trong vòng vài tuần, đúng như Donovan dự đoán, Ethiopia rơi vào tay Italia. Dẫu vậy, nghề nghiệp mới của Donovan - theo dõi và danh giá tình trạng hỗn loạn đang gia tăng ở nước ngoài - vẫn chưa thực sự bắt đầu.


Trong khi theo đuổi nghề luật dầy hứa hẹn, Donovan vẫn tiếp tục những chuyến đi dài hơi đến châu Âu với tư cách cá nhân. Mùa xuân năm 1937 ông tới Đức, Czechoslovakia, Balkans, Tây Ban Nha và luôn luôn đánh giá tình hình chính trị, kinh tế, quân sự một cách cẩn trọng như thể ông đang lên kế hoạch chiến tranh. Phát biểu của ông tại Học viện Chiến tranh quân sự sau khi ông trở về có thể lấy ra từ một bài viết sau chiến tranh: "Chúng ta đang đối mặt với một loại hình chiến tranh mới", ông tuyên bố, "không có nhiều trong quan điểm tiến hành chiến tranh, bởi vì trong chiến tranh những nguyên lý cơ bản vẫn giữ nguyên, nhưng cuộc chiến mới liên quan tới máy móc và vũ khí. Hơn thế nữa, cuộc chiến tranh này diễn ra với tốc độ mới… Đặc trưng thứ hai của cuộc chiến mới là sự kết hợp hoàn hảo hán giữa không quân và bộ binh". Nhưng dù cho có là một "cựu" anh hùng và ông biết chính xác những gì mình nói, lúc đó nhiều người đã không thèm đếm xỉa đến và thậm chí còn phẫn nộ với việc ngài uỷ viên công tố giàu có xâm phạm lãnh địa của chính quyền Đảng Cộng hoà của Roosevelt - nơi ông chưa thuộc về cho đến thời điểm đó. Tuy nhiên, tổng thống đã lắng nghe báo cáo của Donovan - và phần lớn những gì ông nói đều phù hợp với những lo ngại về tình hình quốc tế của chính Roosevelt .


Tháng 10 đó, khi Roosevelt đọc bài diễn văn được gọi là "Cách ly"(6) tại Chicago thì Donovan là một trong số ít đảng viên Dân chủ tầm cỡ vừa tán thành vừa lên tiếng ủng hộ cảnh báo của tổng thống:


"Nếu chúng ta có một thế giới mà ở đó chúng ta có thể tự do hít thở và sống trong tình bằng hữu, thì các dân tộc yêu chuộng hoà bình phải có những nỗ lực cụ thể để giữ gìn pháp luật và Các nguyên tắc bảo đảm hoà bình. Chiến tranh là một căn bệnh truyền nhiễm cho dù có được tuyên chiến hay không. Chiến tranh có thể nhấn chìm các quôc gia và các dân tộc cách xa khu vực chiến sự. Chúng ta cương quyết tránh chiến tranh, nhưng chúng ta không thể bảo đảm sinh mạng mình trước những tác động thảm khốc của chiến tranh và những nguy hiểm liên quan. Chúng ta sẽ áp dụng những biện pháp giảm thiểu tối đa rủi ro liên quan, nhưng chúng ta không thể hoàn toàn yên ổn trong một thế giới hỗn loạn, nới lòng tin và an ninh đã bị sụp đổ".


Những chiến thắng chớp nhoáng của quân đội Hitler tại châu Âu năm 1939 và 1940 đã đưa Donovan và Roosevelt lại gần nhau hơn. Lo ngại về vai trò của lực lượng phá hoại thứ năm trong sự sụp đổ nhanh chóng của các nước Tây Âu và tâm lý bị quan về khả năng người Anh chống trả các cuộc tấn công của quân Đức, mùa hè năm 1940, Roosevelt cử Donovan đến London để cùng phóng viên Nhật báo Chicago Edgar Mowrer đánh giá tình hình. Sứ mạng này hoàn toàn không chính thức, với Donovan đây được coi là chuyến công cán cá nhân. Tuy nhiên, những nhân vật quan trọng, trong đó có vua và nữ hoàng, Churchill và đại tá Steward Menzies - "trùm mật vụ Anh" - đã được thông báo tình hình thực tế và mở cửa tiếp kiến ông. Ngay sau khi trở về Mỹ, Donovan đã được Roosevelt mời cùng đi nghỉ một kỳ nghỉ ngắn tại New England, và trong hai ngày tháng 8 đó ông đã có "cái tai của tổng thống", ông tiếp tục nói những gì tổng thống muốn nghe - những điều hoàn toàn trái ngược với những dự báo u ám và khắc nghiệt của đại sứ Mỹ tại Anh Joseph Kenedy. Lượng "bửu bối" ông đặt lên bàn rất phong phú: nhiều mối quan hệ của ông, cả trong và ngoài nước; khả năng thận trọng tiếp cận tình hình quốc tế dựa trên những suy xét về quân sự, kinh tế chính trị và xã hội; và thực tế là thông điệp của ông phù hợp với chương trình nghị sự đang tiến triển của Roosevelt.


Tất cả những cái đó, kết hợp với một ít giúp đỡ của người bạn "danh giá" Frank Knox, đã đem lại cho Donovan một vị trí trong chính quyền Roosevelt .


Knox trở thành trợ lý hải quân của Roosevelt vào tháng 6 năm 1940. Là một đảng viên Đảng Cộng hoà thân Đồng Minh, Knox mang lại cả trạng thái lưỡng viện cho nội các của Roosevelt và vô số ý tưởng được trù tính ủng hộ nỗ lực chiến đấu của Anh. Một trong những ý tưởng của Knox là đưa người bạn thân và là thành viên Đảng Cộng hoà, Bill Donovan, vào chính quyền Roosevelt . Mặc dù dự định ban đầu của ông thất bại nhưng chính nhờ gợi ý của Knox cho Roosevelt mà Donovan có sứ mạng "bí mật" ra nước ngoài. Tháng 12 năm 1940, Donovan rời nước Mỹ cùng William Stephenson, chỉ huy tác chiến của Cơ quan Tình báo Anh (MI6) tại Mỹ. Cả hai ông đều đã quen biết nhau. Trên thực tế, chính Stephenson là người đã mở đường cho Donovan tới thăm Menzies(7) trong "sứ mạng" đầu tiên của ông, và họ nhanh chóng trở nên thân thiết, tin tưởng lẫn nhau trên cương vị đứng đầu ngành tình báo. Donovan đã dành hơn hai tháng công du. Từ Anh ông đến Tây Ban Nha, Bắc Phi, Đông Âu và Trung Đông, lắng nghe lãnh đạo các địa phương, quân đội, hải quân, đảng phái và bắt chước những điệu bộ đánh giá của họ cùng cuộc chiến đang diễn ra.


Danh tiếng của Donovan cũng tăng lên cùng chuyến đi này. Trong cuộc tiếp xúc báo giới nhân chuyến trở về, các phóng viên nhận thấy Donovan "không có gì để nói" sau khi đã đi 30.000 dặm trong vòng 14 tuần. Những ký giả hoài nghi đã đúng khi gán cho ông biệt danh "Người đàn ông bí ẩn, "Thầy tế im lặng". Donovan rõ ràng khoái những biệt danh này cùng địa vị của người nổi tiếng. Ông đã sử dụng "danh tiếng" của mình để gửi thông điệp cho người dân Mỹ. Tin rằng Mỹ sẽ phải tham chiến bên cạnh Anh, biết rõ sức mạnh và hiểu được mục đích của chế độ Quốc xã, vào tháng Sáu, Donovan đã đọc diễn văn gửi đến thính giả của Hệ thống Truyền thông Columbia. Ông đã cảnh báo họ không được để mình bị phỉnh phờ bởi tuyên truyền của chế độ Quốc xã và tình cảm biệt lập tại quê nhà - cái khuyến khích người Mỹ tin rằng nước Mỹ an toàn trước cuộc chiến ở châu Âu. Donovan khuyến cáo:


Nếu dân chủ Cơ đốc giáo có thể không thích chiến tranh, nhưng chúng ta không được bỏ qua thực tế là chúng ta có thể buộc phải chấp nhận chiến tranh để sinh tồn. Nếu Hitler thắng, những quyền lợi cốt tử của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng.


Chúng ta sẽ phải phác thảo lại các kế hoạch cho tương lai nền mậu dịch của chúng ta, mức sống của chúng ta, quan niệm của chúng ta về cuộc sống con người, tất cả sẽ có nguy cơ bị tổn hại. Chúng ta sẽ phải đối chọi lại quân đội và hải quân Đức chỉ đơn thuần và để tồn tại. Vì cuộc xung đột giữa hai hệ thống và một mất một còn và không thể tránh được…


Hitler tấn công bất cứ thứ gì, điều đó ảnh hưởng đến nguyện vọng của chúng ta, của các bạn và của tôi. Hắn cố đặt đội quân thứ năm vào trái tim của mỗi chúng ta - đội quân thứ năm của nghi ngờ và chia rẽ. Nếu những vũ khí đó phát huy tác dụng và đẩy chúng ta ra khỏi Đại Tây Dương, hay nếu hắn ngăn chặn được chúng ta gửi những chuyến hàng viện trợ thiết yếu, thì thất bại trong cuộc chiến Đại Tây Dương sẽ thuộc về người Anh và chúng ta. Với thất bại đó, trở ngại cuối cùng của nước Đức trên con đường thống trị châu Âu được dỡ bỏ. Tấm lá chắn bảo vệ phía sau mà chúng ta có thể chuẩn bị và trở nên mạnh mẽ bị đập tan. Chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa Mỹ quắc sẽ mặt đối mặt. Một nước Đức hùng cường và tự tin cảm nhận sự thôi thúc mạnh mẽ cho một cuộc chinh phạt mới và một nước Mỹ không có đồng minh, chưa sẵn sàng một mình đối mặt với một kẻ thù mạnh đến nhường ấy… Không ai có thể phủ nhận một cách tương đối rằng nguy hiểm đang đe doạ nền cộng hoà của chúng ta. Chúng ta sẽ đối đầu với nguy hiểm bằng tinh thần của các thế hệ ấy, những người đã đi trước chúng ta, hay chúng ta sẽ chờ đợi cho đến khi hiểm hoạ vượt qua ngưỡng cửa nhà chúng ta và chạm đến gia đình và bàn thờ của chúng ta?


Trở về, Donovan cũng phải đến gặp tổng thống, nhưng chỉ đạt kết quả tối thiểu. Mặc dù Roosevelt bắt đầu nghĩ tới giải pháp thay thế "tình trạng lộn xộn của tình báo Mỹ", song ông không đi đến kết luận mà Donovan là một phần câu trả lời. Nhưng những người khác thì có. Knox, người đã khích lệ Donovan viết ra những ý kiến của mình về việc thành lập một cơ quan tình báo trung ương, và những nhân vật có quan hệ gần gũi với Stephenson cũng như Cơ quan Tình báo Anh tin rằng Donovan là người cứu chữa những thiếu sót của tình báo Mỹ.


Trong một sứ mệnh khám phá sự thật được phác thảo một cách cơ bản nhất nhằm "lôi kéo Mỹ vào mạng lưới tình báo Anh", đô đốc John Godfrey, giám đốc Cơ quan Tình báo Hải quân Anh, sĩ quan Ian Fleming (sau này lừng danh với nhân vật James Borg) đã họp bàn với các nhân viên tình báo đại diện cho Quân đội, Hải quân, Bộ ngoại giao và Cục Điều tra Liên Bang Mỹ (FBI). Mặc dù Godfrey và Fleming nhận thấy nhiều ban bệ rõ ràng có hợp tác, nhưng họ lấy làm ngạc nhiên trước cả sự thiếu cộng tác liên ngành và mức cạnh tranh cao độ trong các cơ quan này.


Ngài đô đốc đã rút ra kết luận:


Không có Cục Mật vụ của Mỹ. Người Mỹ có xu hướng trông cậy vào "S.I.S"(8) của họ, nhưng qua đó họ muốn nói tới lực lượng "đặc nhiệm" nhỏ bé và không có khả năng phối hợp, những người lên đường ra nước ngoài thay mặt cho cơ quan này hay cơ quan khác của chính phủ. Những "đặc vụ" này thường là nghiệp dư có những phẩm chất đặc biệt và không được huấn luyện tại lò quan sát. Họ không có các phương tiện liên lạc đặc biệt hay các trang thiết bị khác và ít khi có chỉ dẫn rõ ràng hơn là "đi và nhìn" .


Kế hoạch tình báo của Donovan dĩ nhiên nhằm chữa trị tình hình đó. Những theo hệ thống tình báo Anh và trên diện rộng là sản phẩm của nhiều cuộc trao đổi đầy kết quả của ông với Stephenson, Donovan đề xuất một cơ quan "duy nhất thực thi nhiệm vụ tình báo ở nước ngoài" mà giám đốc phải là người đứng trên các đảng phái chính trị và chỉ chịu trách nhiệm trước tổng thống. Mặc dù cố vấn hải quân hài lòng với phác thảo của bạn ông ta, nhưng những người khác trong nội các của Roosevelt thì không. Chẳng hạn, hồi đáp của Bộ Chiến tranh rằng đề xuất "siêu cơ quan kiểm soát toàn bộ tin tức tình báo" và "rất có thể dưới trướng đại tá Donovan" có thể "trở nên cực kỳ bất lợi, nếu không nói là tai hoạ", phản ánh quan điểm của FBI và những nhân vật khác, những kẻ không muốn thấy quyền kiểm soát thông tin của mình bị thu nhỏ. Vì mặc dù sự phối hợp thông tin có thể có lợi cho tất cả, nhưng "đố kỵ và cạnh tranh, người Mỹ đã thử nghiệm giả thuyết kiến thức là sức mạnh, song khi kiến thức bị chia sẻ thì quyền lực cũng giảm bớt". Tuy thế, nhận thức được nhu cầu sửa chữa sự thiếu phối hợp thông tin của mình, ngày 17 tháng 1 năm 1941 Roosevelt đã chỉ thị thành lập Cơ quan phối hợp Tin tức tình báo nhằm thông báo một cách hiệu quả cho ông "về những sự kiện quốc tế có thể đe doạ an ninh, hay chí ít là những mối quan tâm của nước ngoài" về Mỹ.


Trước sự kinh ngạc của Bộ Chiến tranh và những kẻ lo sợ quyền lực của mình sẽ giảm bớt, Roosevelt chỉ định Donovan làm người điều phối thông tin.


Khi mới được thành lập, cơ quan của Donovan, được biết đến với tên gọi chung là COI(9) , tập hợp tám đơn vị tình báo riêng biệt trong chính phủ Mỹ: Quân đội G-2, Cơ quan Tình báo Hải quân (ONI), FBI trong Bộ Tư pháp, Tình báo Đối nội thuộc Bộ ngoại giao, Thanh tra Hải quan Bộ Thương mại, Cơ quan Tình báo Bộ Tài chính, Thanh tra Di dân và nhập tịch, Bộ Lao động và Tình báo của Uỷ ban Thông tin Quốc gia. Những vấn đề nảy sinh với một hệ thống như vậy là hiển nhiên: cho dù một số lượng lớn tài liệu thô có thể được tập trung, nhưng đó là chủ đề cho ít nhất tám cách diễn giải khác nhau. Thậm chí ngay cả khi xét đến những ý định tốt nhất, thì thời gian và nỗ lực cần thiết để phân loại, danh giá và chuyển thông tin cũng thường cản trở việc chia sẻ thông tin được phát hiện giữa các đơn vị với nhau. Trong trường hợp tồi tệ nhất, việc bảo vệ mối quan tâm của riêng từng đơn vị thường ngăn chặn liên ngành chia sẻ và mặc cho tất cả mọi người bị điếc tai bởi tiếng ồn màu trắng(10) của thông tin và thông tin sai lệch. Còn có nhiều vấn đề khác nữa.


Cho đến khi mở rộng COI, ở đây không có lãnh đạo tập trung, không có phòng xử lý thông tin và không có mối liên kết trực tiếp đến người ra quyết định cuối cùng - Roosevelt . Trong kịch bản tối ưu, những đặc vụ làm việc cho COI sẽ "tổng hợp và truyền bá thông tin tình báo" thu được từ cả tám đơn vị và chuyển nó cho những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước.


Donovan sẽ hành động như mối liên lạc trực tiếp với tổng thống. Nhiệm vụ của COI về lý thuyết là bí mật, nhưng COI và Donovan đã được công luận chú ý không lâu sau khi thành lập cơ quan này. Tháng Giêng năm 1942, bài báo của ký giả Walter Karig có tựa đề "Cơ quan bí mật nhất ở Washington" xuất hiện trên tờ Tự do không úp mở ca ngợi cả Donovan và COI. "COI", Karig viết, "là cơ quan siêu gián điệp và phản gián của chính phủ. Biên chế của nó là tập hợp lớn nhất những bộ não đồ sộ và trí tuệ nhanh nhạy mà một chính phủ từng huy động được từ các giảng đường đại học, cơ sở quân sự các đoàn ngoại giao và cơ quan báo chí". Những bộ não đồ sộ của COI liên quan tới "thông tin mật thu thập được bởi tất cả các cơ quan mật vụ liên bang khác" và đặt "rắc rối lên bàn tổng thống" chuẩn bị tuyên truyền và phản tuyên truyền thông qua Ban Thông tin Đối ngoại, và bố trí nhân viên cho Vụ nghiên cứu và Phân tích, trung tâm trí tuệ của COI.


Song, ngay từ đầu COI đã có kẻ thù. Giám đốc FBI J. Edgar Hoover đã mô tả COI là "sự điên rồ của Roosevelt", và cố ý làm phá sản ít nhất một sứ mạng của COI nhằm bảo vệ thế lực của chính mình. Trong khi đó ONI và G-2 rất ít ngỏ lời hợp tác và, trong một vài trường hợp, đã cố tình giữ lại thông tin đối với nhóm của Donovan. Ngay trong COI cũng có bất đồng - về thủ tục, cách diễn giải và vai trò của Donovan. Những vấn đề của COI đã thúc đẩy Roosevelt bãi bỏ cơ quan này ngày 13 tháng 6 năm 1942.


Vì nhiều nguyên nhân, COI đã thất bại, nhưng khái niệm cơ quan mật vụ tập trung được Donovan đỡ đầu đã có chỗ đứng vững chắc. Cùng ngày COI sụp đổ, Donovan trở thành giám đốc kẻ kế vị của nó, Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS ) được thành lập bởi mệnh lệnh quân sự theo thẩm quyền của Ban Cố vấn Quân sự Liên quân (JCS). Sắp xếp mới dưới quyền JCS không diễn ra một cách dễ dàng. Ngay từ đầu quân đội đã chống đối Donovan; ông là dân thường tham gia vào lĩnh vực quân sự theo kiểu tài tử hoặc đề xuất các chiến dịch mà họ phê phán. Trong cả hai trường hợp ông đều là kẻ chen ngang thiếu kinh nghiệm có những kế hoạch đe doạ an ninh, hiệu quả, và thành công quân sự". Tuy thế, JCS cũng đành miễn cưỡng đồng ý tiếp nhận Donovan và OSS với hy vọng kiểm soát được cả ông và tổ chức này.


Bất chấp những lo ngại của JCS, OSS nhanh chóng phát triển các chi nhánh chủ yếu của nó và thuê nhân viên. Một trong năm chi nhánh quan trọng là Chi nhánh nghiên cứu và phân tích (R&A) khá giống với COI; nó tuyển dụng một số người xuất chúng nhất nước Mỹ; chẳng hạn Ralph Bunche(11) được thuê để "xử lý những vấn đề về chính sách và chính quyền thuộc địa, vấn đề của người bản xứ và các quan hệ chủng tộc trong Đế quốc Anh". Các chuyên gia R&A lựa chọn và phân tích dữ liệu rồi chuẩn bị các báo cáo tình báo cho cơ quan và tổng thống. Các chi nhánh khác, bao gồm Chi nhánh Tình báo (SI) tham gia thu thập bí mật tin tức tình báo; Chi nhánh Phản gián (X-2) chủ yếu đối phó với những hoạt động gián điệp, Chi nhánh Công tác Đặc biệt (SO) hoạt động sau phòng tuyến địch, huấn luyện và giúp các nhóm kháng chiến trên khắp châu Âu và châu Á, cung cấp tin tức về mục tiêu, giúp các phi công bị bắn rơi; và Chi nhánh Công tác Tinh thần (MO) có nhiệm vụ tạo ra và phân phát sản phẩm tuyên truyền "đen", tức là loại hình tuyên truyền được làm giả một cách tinh vi. Đến khi OSS bị bãi bỏ ngày 1 tháng 10 năm 1945, cơ quan này đã phát triển được "hơn 40 chi nhánh và đơn vị với một đội ngũ nhân viên được tuyển chọn kỹ lưỡng lên đến gần 13.000 người" .


Suốt chiến tranh thế giới 2, những nam nữ thành viên OSS có nhiều phương thức hoạt động - từ chiến đấu cùng Kháng chiến Pháp phía sau phòng tuyến dịch đến chuẩn bị những báo cáo thống kê về dân số Burma - ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các sĩ quan được OSS lựa chọn và những ai không được Donovan hay nhân viên của ông tuyển mộ thì phải xin được phục vụ. "Hầu hết những bổ nhiệm vào chức vụ cao nhất trong OSS nghiêng về phía các ứng viên Wasp(12) , đặc biệt là những người tốt nghiệp nhóm các trường đại học nổi tiếng ở miền Đông nước Mỹ", nhà sử học Lawrence Mcdonalđ viết, "kích thích những người chỉ trích giễu cợt rằng những chữ viết tắt tên của cơ quan này là "Ôi, xã hội quá ta"(13) và "Ôi, trưởng giả học làm sang"(14) . Giành được một vị trí trong OSS - đặc biệt là tại Chi nhánh Nghiên cứu và Phân tích - đối với một số người là ngon lành để phục vụ đất nước mà không phải dấn thân vào nguy hiểm chết người. Barry Katz viết:


Chí nhánh Nghiên cứu và Phân tích đã huy động một tiểu đoàn đáng nể toàn những học giả tiên tiến - những người có thiên hướng sử dụng tưởng tượng, hiểu chiến tranh trong các thuật ngữ chính trị và muốn góp sức. Washington thời chiến không phảí là dưới thời Pericles, Florence dưới thời Medici hay Weimar của Goethe, nhưng ở đây vẫn còn cái gì đó truyền cảm hứng về nó, cho dù động cơ của những cá nhân riêng biệt thường thực dụng hơn: chuyển đến OSS, nơi được biết đến trong quân đội như những uỷ ban trong suốt" - người ta có thề nhìn xuyên qua nhưng không thể phác thảo chúng .


R&A không phải là nơi duy nhất bị chỉ trích. Robert Sherwood, đã từng là sếp của Ban Thông tin Đối ngoại thuộc COI và là người viết diễn văn cho Roosevelt, một tác giả kịch bản (ông đã nhận 4 Giải thưởng Báo chí Pulitzer từ năm 1936 đến 1949), không mặn mà với MO và không đồng tình với sự ưa thích sử dụng biện pháp tuyên truyền đen của Donovan.


Sherwood và những người khác nêu ý kiến rằng tuyên truyền bắt nguồn từ nước Mỹ nên chủ yếu dựa vào sự thật chứ không phải những điều giả dối. Cho dù một số người tin rằng dẫu công tác rất cơ bản của MO trái đạo đức, nhưng tầm quan trọng của việc sử dụng những nhân viên đặc vụ mật, những người loan truyền tin đồn và thông i:n sai lạc nhằm gây ra và làm trầm trọng hơn các mối bất hoà trong nội bộ đã được biết đến từ nhiều thế kỷ, và quan điểm của Donovan rõ ràng đã thắng những ý kiến không đồng tình. Trong OSS, MO trở thành bộ phận quan trọng của các chiến dịch diễn ra trên toàn thế giới.


Không kể những người phản đối sử dụng tuyên truyền đen, ở đây còn có những người chỉ trích đích thân Donovan.


Để chống Donovan, một vài người trong số họ còn sử dụng biệt danh cũ "Bill liều", mô tả cả Donovan và cơ quan của ông là hiếu chiến và vô trách nhiệm. Nhớ về OSS và Donovan, cựu Giám đốc CIA Ray S. Cline viết:


"Bill liều" xứng là biệt hiệu của ông ta vì hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, ông ta cho phép phát triển một dạng hỗn loạn hành chính và thủ tục liều lĩnh nhất, cẩu thả nhất, trong khi tập trung vào tuyên mộ nhân tài ở bất kỳ nơi nào ông ta tìm được - tại các trường đại học, các cơ sở kinh doanh văn phòng luật sư, trong các đơn vị quân đội, tại các bữa tiệc đứng ở Georgetown, mà thực ra là ở bất cứ đâu ông ta tình cờ gặp hay nghe thấy có những chàng trai, cô gái trẻ thông mình và đầy nhiệt huyết muốn góp sức mình. Những trung uý thân cận của ông ta và trợ lý của họ đều làm cùng một công việc tại cơ quan, và điều đó diễn ra trong một thời gian dài trước khi các phương pháp hệ thông cơ cấu nhân sự nhiều thứ tiếng bổ sung được soạn thảo. Donovan thực ra cũng chẳng quan tâm. Ông ta tin tưởng một số người trẻ tuổi có năng lực đến từ hãng luật của mình ở New York có thể gíải quyết ổn thoả những bừa bộn hành chính tồi tệ nhất với lý lẽ rằng thành tích, nếu tốt, sẽ bào chữa cho cơ quan của ông ta và châm trước cho tất cả những bật hợp lý và lộn xộn .


Donovan và thuộc cấp hầu như rất may mắn trong việc tuyển mộ những thanh niên Mỹ có năng lực về làm cho OSS .


Thực vậy, chính uy tín và huyền thoại cá nhân của Donovan đã lôi cuốn một số người đến với tổ chức này. Ký giả và là điệp viên của OSS Edmond Taylor nhớ lại sự thất vọng đôi lúc xảy ra đối với chính sách của OSS và quan hệ của ông với Donovan.


Tôi phục vụ trong OSS - Taylor hồi tưởng - Mặc dù đôi khi gắn bó với nó chẳng vì điều gì rõ ràng hơn sự hiện diện vô hình của Donovan trong tâm trí tối… Donovan là người đặc biệt tin vào học tập bằng làm việc, và chất tài tử đầy cảm hứng của ông vốn đã giúp tạo dựng bầu không khí trong OSS đôi khi gởi lại những tác phẩm trữ tình của Compton Mackenzie hay Evelyn Waugh. Mặt khác, thực tế là nhiều người còn chưa qua huấn luyện hay huấn luyện chưa đến nơi đến chốn, nhiều người Mỹ trẻ tuổi thoát chết trong những nhiệm vụ dựng tóc gáy của OSS và giành được những thành tích vẻ vang, thậm chí gây ấn tượng sâu sắc. Tất cả nói lên tằng triết lý của Donovan không hoàn toàn bất ổn .


Dĩ nhiên là có nhiều điệp viên, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động mà OSS không đạt được các mục tiêu đã dự định của nó. Trong bài báo "Sự ra đời của các chiến dịch đặc biệt", Noel Poirier giải thích rằng "thiếu sót của OSS là kết quả của những nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và kém hiệu quả", và nhà sử học Gian Sutherland nói rõ, "các chiến dịch của OSS ở Bắc Phi không có giá trị chiến lược". Nhưng đặc biệt ở châu Âu, đóng góp của OSS là rất lớn. Đơn cử chiến dịch Italia, "nhiều sư đoàn OSS , từ từng cá nhân trên chiến trường đến những nhà hoạch địch chính sách ở Toà Bạch Ốc" đều góp phần vào thắng lợi cuối cùng của Đồng Minh. Ngoài ra, các nhóm Jedburgh (những đơn vị đặc nhiệm 3 người nhảy dù xuống hậu phương địch để giúp các nhóm kháng chiến) ở Pháp đã phá hoại cơ sở hạ tầng then chốt địch đang sử dụng và được xem là đã làm chậm phản ứng của Đức 48 tiếng đồng hồ trước cuộc đổ bộ ngày D.


Hoạt động của OSS tại châu Á khó khăn hơn nhiều so với ở châu Âu vì nhiều nguyên nhân, trong đó có đặc trưng chủng tộc lớn hơn, vấn đề ngôn ngữ và những khác biệt văn hoá mà các điệp viên phải giải quyết trên thực địa. Tuy nhiên, ở đó cũng có những vấn đề về triết lý liên quan đến việc tái lập các thuộc địa của châu Âu.


Là người gần gũi với Roosevelt , không nghi ngờ gì nữa, Donovan đã nghe được tình trạng bất bình nhưng không nói ra liên quan đến sự tham gia của Mỹ hay sự phản đối trao trả các thuộc địa ở châu Á cho các chủ cũ châu Âu, nhất là pháp. Dẫu vậy, vị trí cá nhân của Donovan trong vấn đề này không được rõ ràng. Hiển nhiên, Donovan là (và đã từng là trong suốt sự nghiệp của ông) người ủng hộ mạnh mẽ cho Anh và những nỗ lực chiến đấu của nước này. Nhưng Donovan có lẽ cũng phê phán chính sách thuộc địa của Anh. Tác giả Anthony Cave Brown, người được tiếp cận nhiều hồ sơ giấy tờ về đời tư của cả Donovan và người bạn đồng thời là đồng nghiệp của ông - Otto C. Doering, đã viết: "Hồ sơ của ông Donovanl cho thấy ông đã lấy làm tiếc về những khía cạnh nào đó của chủ nghĩa tư bản và đế quốc Anh sau Chiến tranh Thế giới thứ 1, đặc biệt là về ách thống trị của Anh tại Ấn Độ".


Nhà sử học Stein Tonnesson đã đi đến những kết luận khác, đặc biệt liên quan đến chủ nghĩa thực dân Pháp: "Vị giám đốc OSS không chia sẻ về mặt cá nhân với thái độ chống Pháp và chủ nghĩa thực dân của Roosevelt, Tonnesson viết, "nên ông có lẽ chỉ là lựa chọn bất đắc dĩ cho việc thực thi tham vọng chống Pháp của tổng thống". Mặc dù bản chất chính xác trong quan điểm về chủ nghĩa thực dân của Donovan còn chưa rõ ràng, nhưng có thể thấy Donovan duy trì thành công các mối quan hệ hữu hảo với rất nhiều người châu Âu. Tác giả Brown, giống như những người khác, khâm phục tình bạn khăng khít giữa Donovan và Stephenson ở MI6 và quan hệ công tác tốt đẹp với ngài Louis Mountbatten - cả hai đều chứng minh rõ ràng rằng Donovan có thái độ làm việc thân ái với người Anh trong cố gắng chung của họ vì chiến thắng của Đồng Minh. Donovan cũng có "tình yêu sâu sắc nước Pháp", và ông duy trì mối quan hệ chân thành với de Gaulle và với giám đốc tình báo, đại tá Andre Dewavrin cũng như với nhiều người Pháp khác. Dẫu Tonnesson nhất trí rằng Donovan có thái độ thân Pháp, nhưng ông cũng chống chế rằng về Đông Dương thuộc Pháp, "lòng trung thành đối với Roosevelt của Donovan hầu như nặng ký hơn tình cảm thân Pháp của ông".


Không nghi ngờ gì nữa, Donovan trung thành với Roosevelt và làm theo những chỉ thị chính thức được gửi đến cho ông. Nhưng Donovan rõ ràng còn là một nhà tư tưởng độc lập và là một người hành động như biệt danh "Bill liều" của ông biểu thị. Lòng trung thành của ông đối với Roosevelt trong bối cảnh này hàm ý rằng Donovan có thể tránh ủng hộ người Pháp trong nỗ lực cuối cùng giành lại thuộc địa của họ. Nhưng Donovan là một người say mê sâu sắc vai trò của tình báo và quan niệm thắng cuộc chiến. Thiếu những chính sách rõ ràng về vị trí của Mỹ trên các đế chế của châu Âu, Donovan và OSS hầu như tự do theo đuổi công tác tình báo ở những nơi và với những ai mà họ thấy phù hợp - trong đó có Pháp, những kẻ khát khao giành lại thuộc địa như đã khát khao chiến thắng kẻ thù.


Dù sao chăng nữa, như đã bàn đến trong chương I, hầu như trong Chiến tranh thế giới thứ II, Đông Dương thuộc Pháp là một trong những khu vực yên tĩnh hơn của mặt trận Thái Bình Dương. Đến năm 1944, bất chấp cuộc tấn công quyết liệt nhằm giành lại vùng lãnh thổ bị thật chiếm đang diễn ra, không có một chiến dịch lớn nào của Đồng Minh được tiến hành tại Đông Dương và nơi này cũng không nằm trong danh sách có vị trí chiến lược hàng đầu để phát động tấn công. Nhưng Đông Dương cũng không hẳn là không quan trọng. Đã có cân nhắc tấn công Indonesia để mở mặt trận phía nam chống quân Nhật tại Trung Quốc. Những thông báo về thời tiết cũng như sự chuyển quân và đồ tiếp tế cũng có ý nghĩa quan trọng đối với lực lượng Mỹ ở Trung Quốc, đặc biệt là Không đoàn 14 của tướng Claire Chennault. Donovan đã biết bao nhiêu, đặc biệt là về tình hình Đông Dương thuộc Pháp, thật "khó mà xác định", nhưng đối với ông nó không quan trọng bằng Trung Quốc và Philippines trên mặt trận Thái Bình Dương và dĩ nhiên không bì kịp tầm quan trọng của chiến trường châu Âu.


Tuy nhiên, trong trường hợp Đồng Minh có thể tấn công Đông Dương thuộc Pháp thì năm 1944, Kháng chiến Pháp dường như là nguồn cung cấp thông tin tốt nhất cho Mỹ.


Trong một giác thư gửi Tổng thống Roosevelt vào tháng 7, Donovan báo cáo rằng cả de Gaulle và tướng Antoine Bethouart đã nói với ông về phong trào kháng chiến ở Đông Dương. Lúc đó OSS đang cộng tác với tướng Zinovi Petchkoff (người mà Tưởng Giới Thạch gọi là "đại sứ" Pháp tại Trung Quốc) về "vấn đề khoảng 500 lính Pháp", những người được "huấn luyện cho các chiến dịch đặc biệt và sẽ, vào thời gian thích hợp, nhảy dù xuống Đông Dương". Nếu điều đó được thực hiện thì các đặc vụ Pháp có thể đem lại sự giúp đỡ quý giá cho nỗ lực chiến tranh của Đồng Minh. Ngoài ra họ có thể tập trung chuẩn bị cho việc Pháp đòi lại Đông Dương sau chiến tranh. Tuy quan ngại của Donovan trong sử dụng lính dù Pháp đã khép lại vấn đề thực thi quyền hạn mặt trận (liệu chiến dịch này vào tay tướng Anh Mountbatten ở Ấn Độ hay tướng Mỹ Stilwell ở Trung Quốc) nhưng lại không chấm dứt những ý kiến chỉ trích triết lý về bản chất đế quốc có thể chấp nhận được của chiến dịch đặc biệt này.


Mùa hè năm 1944 nhiệm vụ quan trọng nhất của Donovan là cung cấp cho tổng thống, JCS và các chỉ huy quân đội thông tin tình báo cần thiết để giành chiến thắng. Lập trường của Donovan là đứng ngoài vấn đề đế quốc, nhiều giới chức trong OSS biết rõ quan điểm của Roosevelt về chủ nghĩa thực dân Pháp và đồng tình với ông. Nhờ có họ, và có thể nhờ Donovan, "OSS đã trở thành công cụ chính đối với thái độ và chính sách của Roosevelt ". Bradley Smith viết: "Các quan chức cấp cao Mỹ còn khó chịu và lúng túng rằng "một nước Mỹ dân chủ lại liên minh với những đế quốc bóc lột nhưng yếu đuối ở châu Á". Nhưng ngay cả "những người của Donovan thực sự nản lòng bởi viễn cảnh đứng cùng các đế quốc châu Âu" cũng cộng tác tốt với nhau, nhất là với người Anh, vì một sự nghiệp lớn lao hơn. Các điệp viên OSS có khả năng bị lộ diện trước chủ nghĩa thực dân nhất nằm bên ngoài tôn ty của tổ chức và chắc là đã tự tập hợp vào trong công chúng Mỹ - những người Roosevelt tin là "không thể tiêu hoá" chủ nghĩa để quốc. Nhưng những thanh niên nam nữ này cũng được tập trung vào mục đích chính của họ - giành chiến thắng. Và việc đạt được mục tiêu thực tế đó để lại rất ít cơ hội cho tranh luận tư tưởng về khả năng tạo ra một "thế giới tự do" không có những dấu hiệu tồi tệ hơn của chủ nghĩa đế quốc mà Roosevelt mường tượng trong những thời điểm thích hợp hơn của mình.


Tại Đông Dương, cố gắng cung cấp viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến chống Nhật Bản đồng thời ngăn cản nỗ lực giành lại thuộc địa của nước này đã chứng thực một nhiệm vụ khó khăn cho tất cả các bên liên quan - từ những kẻ đưa ra quyết định cấp cao nhất đến những người có mặt trên thực địa tại Đông Dương. Dứt khoát không thể bảo đảm rằng viện trợ chống Nhật Bản sau đó sẽ (thậm chí còn cùng một lúc) được sử dụng chống lại người Việt Nam. Lúc đó Mỹ đã yêu cầu thông tin về tình hình dân chúng tại Đông Dương và cần ai đó thu thập tin tức cho họ. Trong khi OSS đang vật lộn để tìm chỗ đứng của mình ở Đông Dương thuộc Pháp thì những người khác đã tìm ra phương pháp thu thập tin tức tình báo trong khu vực này, và OSS sau đó sẽ cố gắng lợi dụng thành công của họ, đặc biệt là kinh nghiệm của đại uý Milton Miles của Hải quân Mỹ, và nhóm 3 người có hiệu quả cao trên phạm vi quốc tế còn được biết đến với cái tên GBT.


Chú thích:
(1) Louis Adamic (1899 - 1951) sinh tại Áo - Hung, năm 1913 di cư sang Mỹ. Có nhiều tác phẩm nổi tiếng như "Tiếng cười trong rừng rậm", "Cái nôi của cuộc sống", "Nước Mỹ của tôi".
(2) U Saw: Nhại sang tiếng Anh "you saw" nghĩa là "các bạn thấy".
(3) Wild Bill trong nguyên bản
(4) Prohibition: Luật cấm sản xuất, vận chuyển và buôn bán rượu có hiệu lực từ 1920-1933 tại Mỹ.
(5) Herbert Hoover (1874-1964): Tổng thống thứ 31 của nước Mỹ từ năm 1929 đến năm 1933.
(6) Roosevelt đọc Diễn văn Cách ly (Quarantine Speech) ngày 5/10/1937 kêu gọi cộng đồng quốc tế cách ly các quốc gia xâm lược.
(7) Robert Gordon Menzies (1894-1978), chính trị gia người Australia , giữ chức thủ tướng nước này hơn 18 năm.
(8) Secret Intelligence Service: Cục Tình báo.
(9) Central Office of Information: Cơ quan Thông tin Trung ương
(10) White noise: Thông ồn ngẫu nhiên có cùng một mức năng lượng âm trong các tần số.
(11) Ralph Johnson Bunche (1904 - 1971): Nhà khoa học và ngoại giao Mỹ, nhận giải Nobel Hoà bình năm 1950.
(12) White Anglo-Saxon Protestant: Người Allglo-Saxon da trắng theo đạo Tin lành.
(13) "Oh So Social" trong nguyên bản.
(14) "Oh Such Snobs" trong nguyên bản.


CHƯƠNG 3


Mỹ không phải là quốc gia duy nhất quan tâm đến việc thu thập tin tức tình báo về Đông Dương thuộc Pháp. Anh, Nước Pháp tự do và Trung Quốc cũng tìm kiếm thông tin liên quan đến sức mạnh và di chuyển của quân đội Nhật với hy vọng lấy được những đầu mối cho kế hoạch tương lai của họ. Người Anh theo dõi rất chặt chẽ vì sợ thật thành công trong việc đưa Ấn Độ vào GEACPS. Nước Pháp tự do dưới sự lãnh đạo của de Gaulle cố xác nhận vị thế như một chính phủ hợp hiến của Pháp nhưng không gây nguy hại cho yêu sách đòi chủ quyền của người dân trên khắp Đông Dương. Người Trung Quốc, sợ rằng một cuộc tấn công vào sườn phía nam của họ có thể buộc Tưởng Giới Thạch và các bộ trưởng của ông ta phải rút lui, thậm chí sâu hơn vào nội địa. Cả bốn nước này là kẻ thù của Nhật và nước Pháp của chế độ Vichy do hoàn cảnh, nhưng không nước nào ở tư thế thích hợp để nhận được thông tin trực tiếp từ Việt Nam . Vì vậy, câu hỏi then chốt dành cho họ là làm sao có thể thu được thông tin tình báo cần thiết. Câu trả lời đến dưới dạng nhóm 3 điệp viên duy nhất còn được gọi là GBT.


"GBT" được tạo thành từ những chữ cái dầu của họ của ba cá nhân đặc biệt: Laurence "Laurie" Gordon, Harry Bernard và Frank "Frankie" Tan. Nhiều năm trước khi mạng lưới GBT sụp đổ, Gordon đã cung cấp thông tin cho người Anh, Bernard cho người Mỹ và Tan cho người Trung Quốc trong cái mà một cựu quân nhân của OSS mô tả là "một ví dụ thực sự sáng ngời của hợp tác quốc tế". Gordon được chấp nhận là lãnh đạo nhóm, nhiều người nói một cách đơn giản là bộ ba và mạng lưới thông tin mà GBT thiết lập là nhóm Gordon. Gordon là người có mối quan hệ rộng rãi. Sinh tại Canada, ông là công dân Anh, có tư gia tại California, nhưng nhiều dự án kinh doanh đã đưa ông đi khắp thế giới. Sau khi bán đồn điền cà phê của mình ở Kenya, ông thử kinh doanh dầu sinh lời cao, quản lý những hoạt động khoan phá ở Ai Cập, Trung Quốc và Madagascar. Năm 1938 ông đến Hải Phòng, Đông Dương thuộc Pháp, quản lý các công ty kinh doanh dầu cho Tổ hợp Cal-Texaco có trụ sở tại Beaumont, Texas. Mùa thu năm 1940, khi quân Nhật kéo vào khu vực này, ông đã rời miền Bắc Việt Nam để về Mỹ.


Sau khi ổn định bản thân và gia đình tại California đầu năm 1941, ông báo cho chủ về việc thay đổi chỗ ở của mình, nhưng Cal - Texaco muốn thuê ông trở lại Đông Nam Á để "trông nom nhưng lợi ích của hãng". Gordon đồng ý và bắt đầu thu xếp cho chuyến đi, nhưng nhưng sự kiện tháng 12 năm 1941 đã thay đổi đáng kể kế hoạch của ông. Với việc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng và hai bên tuyên chiến, đi tới Đông Dương đòi hỏi phải qua một nước bị kẻ thù chiếm đóng - một kỳ công không dễ dàng từ bên kia đại dương. Vì vậy Cal - Texaco đã nghĩ ra một kế hoạch cài Gordon vào Đông Dương dưới "vỏ bọc bán chính thức".


Thật là một sự trùng khớp ngẫu nhiên, chính người bạn đồng liêu của Bill Donovan, ngài William Stephenson, lại cung cấp vỏ bọc cho Gordon. Stephenson - "người có tên Dũng cảm" của Winston Churchill - đã giúp Gordon gia nhập Cơ quan Tình báo Anh, và Gordon được "bí mật bổ nhiệm làm đại uý tình báo quân đội". Nhiệm vụ của ông là thiết lập một mạng lưới tình báo ở Đông Dương phối hợp với Phái bộ quân sự của Nước Pháp tự do (FMM) đóng cùng chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh, nhưng nhiệm vụ của Gordon nói dễ hơn làm nhiều.


Bất luận là quốc tịch nước nào, thu thập tin tức tình báo ở mặt trận Trung Quốc đều rất khó khăn. Tướng Tai Li, giám đốc tổ chức tình báo của Tưởng Giới Thạch, cố gắng kiểm soát tất cả mọi việc và mọi người ở Trung Quốc, nhất là về việc mua thông tin. Khi Tai Li còn tại vị ông ta đã làm như vậy với một bàn tay sắt dưới điều khoản bảo vệ cá nhân chính ông ta. Danh tiếng của Tai Li lan xa: ông ta được biết đến trên khắp Trung Quốc và trong cộng đồng tình báo Mỹ, Anh và Pháp. Tại Washington ông ta được biết đến như một kẻ ám sát (Tai Li được cho là đã hạ sát ngay cả mẹ đẻ của mình) đã lập ra các trại tập trung để giam hãm những kẻ thù chính trị của ông ta. Ông ta không thích và không tin cả người Pháp lẫn người Anh, và họ thấy rất khó làm việc với ông ta ngay trong những hoàn cảnh tốt nhất. Đi lại bên trong Trung Quốc rất khó khăn nếu không được tổ chức của Tai Li cho phép, và gần như không làm được bất kỳ việc gì nếu không có "những quan hệ" cực kỳ quan trọng. Có được giấy thông hành và những giới thiệu cần thiết đòi hỏi những thủ tục rắc rồi chỉ ít người biết đến. Vì thế, tháng 6 năm 1942 khi Gordon bước ra khỏi máy bay xuất phát từ New Delhi với hai chiếc radio xách tay mà ông đã kiếm được từ một người bạn tại đó ông đã bước vào một thế giới phức tạp của các thế lực chính trị cả Trung Hoa và Pháp.


Gordon nhanh chóng phát hiện ra những khó khăn khi cố gắng làm việc theo nguyên tắc chỉ đạo của Tai Li và những rào cản ghê gớm hơn liên quan đến hoạt động với FMM ở Trùng Khánh. Năm 1942, de Gaulle không phải là nhà lãnh đạo tuyệt đối của Nước Pháp tự do. Dù dương nhiên ông có những người ủng hộ, song nhiều người vẫn trông cậy vào vai trò lãnh đạo của tướng Henri Giraud, một nhân vật kháng chiến có tên tuổi. Còn có những kình địch trong các sĩ quan của FMM, và mưu toan làm việc với một nhóm bất kỳ nào cũng tạo ra sự chống đối từ nhóm khác. Gordon thấy mình không thể hoạt động dễ dàng trong FMM và bắt đầu tìm kiếm hậu thuẫn ở nơi khác. Tuỳ viên quân sự Mỹ, đại tá Morris B. Depass Jr. đã giới thiệu ông với đô đốc Trung Quốc Yang Hsuan-cheng, một người có uy tín "đã uỷ quyền cho Gordon kinh doanh tại tỉnh Quảng Tây với điều kiện là ông không được cộng tác với tình báo Pháp".


Nằm ở biên giới đông bắc Bắc Kỳ, Quảng Tây là địa bàn tuyệt vời cho hoạt động kinh doanh. Để bảo vệ lợi ích của công ty, Gordon bắt đầu bằng việc lặng lẽ liên kết với các nhân viên của Cal-Texaco còn ở lại trong khu vực, nhưng công việc của ông sau đó thể hiện một thiên hướng khác. Đại uý Archimedes Patti, một điệp viên của OSS từng điều tra GBT như một phần trọng trách của ông ở Đông Dương tháng 2 năm 1945, phát hiện ra rằng:


Sau đó, dưới vỏ bọc một nhân viên làm nghề tự do, ông ta (Gordon) đã qua Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ để nối lại những mối liên hệ cũ, tập hợp lại những người Pháp và Việt Nam trung thành, mua nhưng lượng lớn xăng dầu và các mặt hàng khác cung ứng cho thị trường chợ den Trung Quốc, cùng lúc đó tổ chức một mạng lưới chỉ điểm vì lợi ích của việc thu hồi tài sản của công ty. Những gì lúc đầu có lẽ là sự sắp đặt tình cờ sau đó bắt đầu mang dáng dấp của một tổ chức tình báo nghiệp dư .


Trong năm hoạt động đầu tiên của mình, để dền đáp lại việc cung cấp thông tin, Gordon đã xoay được quỹ, trang thiết bị từ người Anh và nhân sự từ người Trung Quốc. Quan trọng hơn, ông kiếm được hai bạn hàng người. Đấy ỹ là Harry Bernard và Frank "Frankie" Tan. Bernard là một viên chức của hãng British-owned Asian Tobacco Monopoly và là cựu nhân viên của Cal-Texaco. Được mô tả là "nói ít và biết nhiều", ông là một nhân vật bí ẩn và thú vị. Cái đầu lạnh, cảm giác mạnh về năng lực và sẵn sàng cư xử kín đáo đã khiến ông trở thành một viên chức mẫu mực trong thời bình và bây giờ làm ông trở thành tài sản vô giá đối với Gordon. Trong những năm đầu của GBT, vai trò của ông thường bị che khuất bởi một Gordon tràn đầy nghị lực. Tuy nhiên sự hiện diện của Bernard bảo đảm cho bộ ba rằng những nhiệm vụ kém phần hấp dẫn của mạng lưới sẽ được hoàn thành mỹ mãn. Cho đến đầu năm 1945 các báo cáo của OSS và người Pháp có xu hướng xếp Bernard và Tan như hai thành viên phụ của GBT. Dù vậy, vào thời gian đó Tan đã tạo dựng cho mình tiếng tăm đủ để dệt nên thiên sử hấp dẫn nhất của mình.


Là thành viên trẻ nhất trong nhóm, Tan mang trong mình hai dòng máu Trung Quốc và Mỹ. Sinh ra tại Mỹ và học tại trường Boston Latin, Tan xuất thân trong một gia đình am hiểu cách mạng: người cha đã dính líu đến cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ nhà Thanh. Sau khi di cư sang Mỹ, cha Tan trở thành một bác sĩ thành đạt nhưng vẫn cảm thấy một hàng rào ngăn cách giữa ông và những người đồng tuế và "bị phân biệt đối xử với người da trắng". Vì vậy, với những cơ hội có vẻ đang mở ra trên đất nước Trung Quốc đầu những năm 1930, gia đình Tan chọn con đường hồi hương giúp Trung Hoa Dân Quốc xây dựng một đất nước ổn định và thịnh vượng. Sau khi tốt nghiệp đại học ngành cơ khí, Frank Tan đi làm cho General Small tại trụ sở riêng của Tưởng Giới Thạch, qua đó tạo được nhiều đầu mối trong cộng đồng người Hoa.


Thông thạo cả tiếng Anh và tiếng Trung, ông có thể hoạt động hiệu quả trong nhiều môi trường và với nhiều dân tộc khác nhau. Tan cũng liên hệ với người Anh. Dù chuyên môn kỹ sư của ông tỏ ra có ích trong công việc với General Small, nhưng nó không chuẩn bị cho ông đến với vô số vai ông sẽ đóng với tư cách một thành viên của nhóm Gordon. Giống như Gordon, Tan nhận trợ giúp của người Anh - Cơ quan Tình báo Anh (MI5) đã huấn luyện Tan một số kỹ năng hoạt động bí mật. Ông cũng được huấn luyện cùng Đơn vị kỵ binh Rajputana 10. Năm 1938, Tan đến Đông Dương thuộc Pháp, nơi ông sẽ trực tiếp liên quan trong 7 năm sau đó.


Tan chỉ mới 26 tuổi khi gặp Gordon tại Hà Nội năm 1938. Mặc dù ông và Gordon sớm trở thành những người bạn tốt, nhưng hai người vẫn không cùng định đến hoạt động tình báo cho đến chuyến trở lại Đông Dương bí mật của Gordon năm 1942. Tuy vậy Tan không nhàn rỗi chút nào trong những năm tháng đó. Thành tích ban đầu của Tan đã cung cấp cho ông vô số kỹ năng làm nên thành công của GBT, và sau cuộc đảo chính của Nhật vào tháng 3 năm 1945 chính điều này đã làm Tan có tư thế hoàn hảo được trở thành người Mỹ đầu tiên đến Đông Dương cùng Hồ Chí Minh.


Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến Nhật - Trung, Tan chuyển lậu hàng quân sự Mỹ vào Trung Quốc, một nhiệm vụ không chỉ đòi hỏi những kỹ năng che đậy mà còn cả lòng can đảm và sự từng trải. Tất cả những đặc tính đó đã sớm được thử thách khi ông bị Nhật bắt năm 1941 sau khi lên một con tầu dự định khởi hành đi Hồng Kông. Tan đã sử dụng nhiều mối quan hệ của ông trên khắp Việt Nam để làm cho việc đi lại của ông với tư cách là liên lạc viên bí mật giữa Trung Quốc và Đông Dương trở nên dễ dàng. Nghi ngờ những hoạt động của Tan, một tầu tuần tra Nhật đã kéo con tầu kia vào bến và bắt Tan để thẩm vấn. Ý thức được hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc của mình, Tan nhìn quanh căn phòng thẩm vấn bé nhỏ hầu tìm ra biện pháp trốn thoát khả thi nhưng vô vọng.


Bất chợt Tan than với lính Nhật rằng ông bị bệnh lỵ nặng và cần đi vệ sinh. Cho đây chỉ là trò bịp bợm, quân Nhật từ chối đề nghị của ông. Tuy nhiên Tan đâu dễ chịu buông tay. Ông lại than vãn và bắt đầu kéo quần xuống như thể để giải quyết "nỗi buồn". Đến nước này các sĩ quan Nhật buộc phải cho ông vào nhà vệ sinh, khoá cửa và cử người gác bên ngoài.


Tan nhảy qua cửa sổ và trốn thoát vào Hãng Texaco của Mỹ. Vì thật và Mỹ lúc đó còn chưa tuyên chiến nên quân Nhật không thể dùng vũ lực bắt một công dân Mỹ. Nửa đêm Tan được ấn lên thùng một chiếc xe và đưa ra cảng. Tại đây thuyền trưởng một con tầu của của Na Uy chuẩn bị đi Hồng Kông đã cho ông lên boong. Quân Nhật tiếp tục truy đuổi, nhưng khi tầu của một nước trung lập đang trên hành trình chúng không thể bắt nó dừng lại. Thất bại ê chề, chiếc tầu tuần tra Nhật kè sát con tầu chở Tân với hy vọng được phép lên boong bắt Tan. May thay, chúng không nhận được cái chúng cần và Tan đến được Hồng Kông an toàn. Từ đây những thành tích chói lọi của ông tiếp tục gắn với sứ mạng quân sự của người Anh đến Burma Road (1) .


Cuộc đào thoát của Tan lên tầu Na Uy, một nước trung lập không phải là cuối cùng vì sau cuộc ném bom Trân Châu Cảng những tầu Na Uy và thuyền trưởng của chúng còn trở nên hữu dụng hơn đối với Tan và GBT. Mạng lưới đã thuê những con tầu trung lập để vận chuyển hàng quân sự từ các kho hàng ở Đông Dương thuộc Pháp sang Thượng Hải. Hàng được chuyển qua trước mũi quân Nhật khi GBT đưa chúng ra khỏi cảng Hải Phòng để lên đường tới Rangoon và Burma Road . Trong một sứ mạng như thế Tan lại bị quân Nhật bắt.


Ông vừa hoàn thành một hợp đồng bán xăng máy bay cho người Pháp để ngăn không cho rơi vào tay Nhật và đang chuẩn bị khởi hành về Việt Nam thì bị Nhật bắt lần thứ hai.


Chứng cứ về những hoạt động của ông thời gian đó, một tấm séc nhận từ người Pháp có mệnh giá 40.000 đô la nằm trong ví của ông. quân Nhật đã thẩm vấn và khám xét ông nhưng chúng lại quên kiểm tra những thứ đựng trong chiếc ví. Ông được thả và nhanh chóng lên một chiếc tầu Na Uy. Một lần nữa, lần này còn có cả nguồn tiền bạc đáng kể, Tan lại về được lãnh thổ của Đồng Minh bình an vô sự.


Tan cho thành công của mình và GBT là do khả năng "bắt đầu từ dưới đáy". Mỗi thành viên trong nhóm bắt đầu với những nhiệm vụ bí mật đơn giản nhất và rồi phát triển năng lực của mình qua thời gian. Hầu như ngay lập tức cả ba người có thể cung cấp cho Đồng Minh cái mà Tan gọi là "phần đại cương của công tác tình báo", hay kiến thức chung như thông tin về vùng quê và "cách đi từ A đến B sao cho không ai thấy bạn". "Kiến thức chung", Tan chỉ rõ, "không thể có được một sớm một chiều. Nó được hiểu là một việc làm hợp pháp đưa bạn đến một xứ sở để bạn hiểu xứ đó và người dân ở đó. Bạn biết ai có thể tin tưởng". Cả ba ông đều có việc làm hợp pháp trong nước. Vì điều hành kinh doanh chính thức tại Việt Nam trước khi chiến tranh bùng phát nên họ có thể tiếp tục sinh hoạt trong những nhóm xã hội có cùng nghề nghiệp chính thức và đưa những người bạn và đồng nghiệp gần gũi nhất từ trước Chiến tranh thế giới 2 vào mạng lưới của mình.


Những mối quan hệ không đếm xuể này đã cung cấp cho họ cơ sở hỗ trợ rộng lớn. Gordon báo cáo rằng ông "có thể ghé thăm nhóm những người bạn Pháp trung thành - những người biết và tin tôi". Điệp viên "số 2" của Gordon trong mạng lưới người Pháp là Helen Tong, thư ký của ông, một người Hoa tỵ nạn đến từ Việt Nam . Chị gái của Helen là Janet cũng làm việc tại văn phòng của GBT và mẹ họ, bà Tong, điều hành "hộ gia đình" GBT. Cả ba là những nhân viên quý giá - như khả năng phiên dịch từ tiếng Trung sang cả tiếng Anh và tiếng Pháp, kỹ năng văn phòng và tổ chức của họ. "Số I" của Gordon hay điệp viên quan trọng nhất là Andre Lan, được biết đến dưới mã số "nhân viên số 22", một người quốc tịch Pháp đã có nhiều năm sống ở Đông Dương và đã chỉ đạo đưa nhiều người Pháp vào mạng lưới. Sau này Lan đã được tặng thưởng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh vì những thành tích của mình.


Bernard hoạt động tương đối đễ dàng trong giai đoạn trước khi Nhật đảo chính. Thực vậy, những thường dân Mỹ từ Việt Nam trở về đầu năm 1943 báo cáo với các nhân viên OSS ở Trung Quốc rằng họ được đi lại "tự do" trong thành phố và còn có thể kiếm được cả giấy phép ra ngoài thành phố nữa. Những đầu mối liên lạc người Hoa của Tan cũng hết sức cần thiết. Khi nhóm cần vào Sài Gòn một cách bí mật, họ đến gặp một nhân viên Texaco người Hoa, một trong những đầu mối của Tan, để nhờ giúp đỡ và được đáp ứng. Nói chung, mạng lưới của GBT được tạo dựng bởi "gia đình của những người tình nguyện" gồm nhiều quốc tịch: Canada, Mỹ, Pháp; Trung Quốc, Việt Nam và Na Uy.


Không ai trong số ba thành viên kiếm tiền cho những nỗ lực của mình mặc dù chi phí của họ thường được các cá nhân và tổ chức khác đài thọ. Cuối cùng GBT đại diện cho quyền lợi và nhận nguồn tài chính từ những người Hoa, đặc biệt là đô đốc Yang - người đứng đầu cơ quan tình báo của Hội đồng Quân sự Trung Hoa Dân Quốc (dưới trướng Tai Li) và tướng Trương Phát Khuê - chỉ huy quân đội Quốc Dân Đảng ở các tỉnh miền nam Quảng Tây và Quảng Đông; cơ quan tình báo MI5 của Anh, Nước Pháp Tự do và nhiều người Mỹ, trong đó có các tướng Stilwell và Wedemayer, tướng Chennault - chỉ huy Không đoàn 14 đóng tại Trung Quốc. Gordon, Bernard và Lan tự xem mình là đại diện cá nhân của Chennault và có giấy phép hoạt động thay mặt cho ông ở bất kỳ nơi nào có cơ sở của Không đoàn 14. Bởi tầm quan trọng của các thông tin tình báo từ Việt Nam nên tất cả các nhóm này đều muốn kiểm soát các hoạt động của GBT và tiếp cận nhân viên trong mạng lưới của họ. Tuy nhiên, đến giữa năm 1942 thành công của họ có thể được cho là nhờ họ sẵn sàng làm việc với bất kỳ ai trong khi vẫn không phụ thuộc người nào. Dù nhiều người trông cậy nhóm Gordon cung cấp tin tình báo về Đông Dương, nhưng GBT không phải là tổ chức duy nhất vật lộn nhằm phát triển một mạng lưới hiệu quả.


OSS đã hoạt động không mệt mỏi từ khi nổ ra khi chiến tranh Thái Bình Dương để tạo dựng sự hiện diện tại mặt trận đó nhưng không mấy thành công. Tướng Douglas McArthur có cơ quan tình báo riêng và thấy không cần đến OSS trong khu vực tác chiến của mình. Nhưng như nhà sử học R. Harris Smith đã giải thích: "Việc ngăn chặn hoàn toàn OSS khỏi Nam Thái Bình Dương có một tác dụng phụ quan trọng về mặt tổ chức - Donovan bị buộc phải duy trì một căn cứ Trung Quốc cho các chiến dịch ở châu Á". Việc thành lập "căn cứ Trung Quốc" sau đó cũng đẩy OSS vào các vấn đề của Đông Dương. Tuy nhiên, như với bất kỳ vấn đề nào ở Trung Quốc trong những năm 1940, việc thành lập một căn cứ tác chiến là nhiệm vụ không dễ dàng. Vì thế Donovan buộc phải tìm một người hiểu biết về Trung Quốc và có thể đạt được một số thành công khi làm việc trong và xung quanh những ranh giới do Tai Li và Tưởng Giới Thạch tạo ra. Người được lựa chọn cho việc này là đại uý Hải quân Mỹ Milton "Mary" Miles.


Tổng thống Roosevelt đã trao trách nhiệm quan trọng thu thập tin tình báo ở Trung Quốc cho hải quân ngay tứ đầu chiến tranh, và tháng 3 năm 1942 Miles được cử đến Trùng Khánh để lãnh đạo Nhóm Hải quân Trung Quốc. Nhiệm vụ chính của ông là phát triển các trạm khí tượng và một hệ thống cảnh giời bờ biển để hỗ trợ cho Hạm đội Thái Bình Dương. Trong nhiều lý đo, Miles là lựa chọn hoàn hảo cho vị trí này. Sau khi tốt nghiệp Học viện Hải quân năm 1922, ông bắt đầu chuyến công tác kéo dài 5 năm tại Hương Cảng. Kết quá là Miles trở nên thông thuộc một sổ lượng lớn các hải cảng dọc miền duyên hải Trung Quốc cũng như những con sông chảy ra ngoài lãnh thổ nước này. Ông say mê văn hoá và lịch sử Trung Hoa và học được tiếng Quảng Đông và Quan thoại. Sự sành sỏi các món ăn và ngôn ngữ Trung Hoa của ông đã gây được thiện cảm của nhân vật quan trọng nhất - Tai Li. Miles và Tai Li nhanh chóng phát triển mối quan hệ công tác tốt và Tai Li đồng ý giúp Miles theo đuổi mục đích tình báo của mình. Bởi nhóm Hải quân Trung Quốc hoạt động nhằm làm vui lòng chính phủ Trung Quốc nên Miles rút ra kết luận, cách tốt nhất để thực hiện nhiệm vụ của mình là tạo dựng một "kế hoạch hữu nghị" nhằm kết hợp một mạng lưới tình báo của Mỹ và Trung Quốc. Dường như có những chữ ký dịch thực từ các chính phủ đáng kính của họ, kế hoạch hữu nghị đã tiến triển, với Hải quân Mỹ đi đầu trong việc thu thập tin tức tình báo ở Trung Quốc và Đông Dương láng giềng. Mùa thu năm 1942, Donovan "hăm hở thực hiện một cách liều lĩnh nhiều hoạt động quy mô của OSS ở một nơi nào đó", hy vọng mối quan hệ của Miles với người Trung Quốc cũng là cơ hội đối với OSS . Điệp viên Donovan cử đi đánh giá mối quan hệ Miles - Tai Li đã báo cáo về rằng Miles "đã giải quyết được toàn cảnh lục đục nguy hại, và OSS có thể hoặc chấp nhận đề nghị của ông ta và được đặt vào tư thế hành động, hoặc từ chối nó và có ít cơ hội phát triển căn cứ tác chiến ở đó", Chấp nhận độc quyền của hải quân về tin tình báo trong khu vực, ít nhất cũng là tạm thời, tháng 12, Donovan chỉ định Miles làm giám đốc OSS khu vực Viễn Đông.


Kế hoạch hữu nghị được chính thức hoá và tháng 4 năm 1943 được chính phủ phê chuẩn như Tổ chức Hợp tác Hán - Mỹ (SACO) với Tai Li làm giám đốc và Miles làm phó giám đốc SACO sẽ tham gia huấn luyện du kích, gián điệp, hoạt động phá hoại và ngăn chặn điện đài. Phía Trung Quốc cung cấp nhân lực và Mỹ chịu trách nhiệm huấn luyện, cung cấp vũ khí, cơ sở vật chất và các trang thiết bị khác. Miles đã dày công tạo ra những mối quan hệ cần thiết khiến SACO làm việc cho Hải quân Mỹ và Trung Quốc, và ông không mấy vui khi được bổ nhiệm tại OSS . Một điệp viên được Donovan cử đi thẩm định Miles và kế hoạch hữu nghị đã báo về rằng Miles "100 phần trăm là Hải Quân, và 0 phần trăm OSS ". Hơn nữa, Miles cũng nói rõ với điệp viên này là ông sẽ không tha thứ cho bất kỳ "sự can thiệp" nào từ phía OSS và sẽ không chấp nhận "bất kỳ nhân viên nào không do ông chọn lựa", và cũng không hành động dựa vào bất kỳ "chỉ thị nào mà ông không cho là sáng suốt". Thậm chí Miles còn doạ "gửi tất cả các đường dây cho OSS nếu các điều kiện của ông không được chấp nhận". Quan hệ của Miles với OSS căng thẳng thậm chí trước khi SACO mở đầu suôn sẻ. Đầu năm 1943 tại Washington Miles hội kiến Donovan và Uỷ ban Kế hoạch của OSS và lo ngại trước những gì tai nghe mắt thấy. Với Miles, vốn tự cho mình là người bạn gần gũi của Trung Quốc, thái độ của những người có mặt là không thể tha thứ. Ông viết: "Cái làm tôi khó chịu nhất là trong những người có mặt có một số thương gia châu Á trước chiến tranh vẫn bám chặt vào đường lối "uy quyền tối cao của người da trắng " cũng như một vài kẻ khác "theo đuôi đường lối Đế quốc Anh ", thậm chí còn có một hoặc hai quý ông "hãy thay đổi Trung Quốc già cỗi và nghèo đói.. Về những văn phòng OSS ở Washington thì tại đó có vài kẻ chẳng mấy quan tâm đến chủ quyền của Trung Quốc và không ưa gì chính phủ của Tưởng Giới Thạch".


Bởi vậy, ngay từ đầu việc Miles liên kết với OSS đã diễn ra không xuôi chèo mát mái. Bradley Smith, tác giả cuốn "Những chiến binh bóng tối: OSS và nguồn gốc của CIA" , đã kết luận rằng: "Vì cả Tai Li và Miles đều không muốn thấy OSS phát triển và thành công nên thoả thuận của SACO là một trở ngại, một thời gian dài đã hạn chế và kim hãm các hoạt động của OSS ở Viễn Đông". Nhóm tình báo của Miles đã góp phần vào những thành công tại Trung Quốc. Tướng Chennault đã ra lệnh cho một "nhóm khá lớn sĩ quan Hải quân của Miles", những người đã cung cấp cho Không đoàn 14 "tin tình báo về tầu bè, phải giải thích bằng hình ảnh và giữ cho chúng tôi liên lạc thường xuyên với Hạm đội Thái Bình Dương". "Mối liên lạc hiệu quả này", Chennault tuyên bố, "mang lại nhiều lợi ích cho những cuộc tấn công tầu thuyền địch". Lời ca ngợi của ông có ảnh hưởng lớn trên mặt trận Trung Quốc, và trong trường hợp của GBT cũng vậy, sự chấp thuận của ông đã cho phép SACO nhiều tự do hành động. Khi SACO đang được chính thức hoá tại Washington và Trùng Khánh, Miles vỡ lẽ ra là Đông Dương cũng rơi vào tầm hoạt động của ông.


Trong nghiên cứu ban đầu về tình hình miền Bắc Việt Nam , Miles nhận thấy trong những thuật ngữ tình báo, "Không có những hoạt động như vậy" diễn ra, và hơn nữa "tướng Tai Li hầu như không thể làm gì liên quan đến Đông Dương". Vì vậy Miles đã phải trông chờ một nơi nào đó để thực hiện bổn phận của mình. Trở ngại đầu tiên của Miles trong mở rộng thành phần cảnh giới bờ biển dọc theo miền duyên hải Bắc Kỳ liên quan đến quyết định cộng tác với ai ở Việt Nam . Tướng Tai giải thích với ông rằng ở đó có "các nhóm người Pháp, người Anh và người Hoa cũng như một vài nhóm người bản xứ khác, mỗi nhóm có những mục đích và tư tưởng riêng" và rằng trong cộng đồng người Pháp có rất nhiều nhóm đang tranh giành quyền lực. Mùa xuân năm 1943, Miles yêu cầu Donovan giúp giải quyết tình hình này. Donovan cử ông trở lại Trung Quốc nhưng ra lệnh cho ông trên đường đi dừng lại ở Bắc Phi.


Cũng vào mùa xuân năm 1943, tướng Henry Honoré Giraud đảm đương quyền kiểm soát Bắc Phi thuộc Pháp, lúc này đã giành lại tự do từ tay chính phủ Vichy và Đức, và rất vui được tiếp kiến Miles theo thỉnh cầu của Donovan. Giraud đề nghị Miles liên lạc với một anh hùng trẻ tuổi của Hải quân Pháp, sĩ quan Robert Meynier, người tạm thời chưa được bố trí sau khi nhận Huân chương Chữ thập chiến(2) vì đã dũng cảm tấn công tầu ngầm Đức và Italia. Miles và Meynier có thiện cảm với nhau ngay lập tức, và Miles đi đến kết luận rằng ông đã tìm được người giúp đỡ mình. Tuy nhiên ở đây lại nảy sinh bất ổn: Nếu Miles muốn thuê Meynier thì ông phải chấp nhận vợ Meynier như một phần của hợp đồng. Đã được nghe về người người phụ nữ trẻ, người sẽ được biết đến như "công nương của SACO ", Miles hăm hở cho bà tham gia hoạt động.


Katiou Meynier, một phụ nữ khả ái mang hai dòng máu Âu và Á xuất thân trong một gia đình Việt Nam danh tiếng. Theo các nguồn tin của Miles thì bác của bà, Hoàng Trọng Phu, là tổng trấn Bắc Kỳ và là một thành viên của Uỷ ban Bí mật của Quốc vương Bảo Đại. Ảnh hưởng của ông, như đã được báo cáo, bao trùm khắp đất nước, trong đó có cả khả năng kiểm soát nhóm chính trị được lựa chọn lớn nhất Đông Dương. Cha bà, Đỗ Hữu Thịnh, là một người có quyền lực thực tế. Theo tường trình thì ông kiểm soát những nhóm chính trị lớn ở Nam Kỳ. Trong nhật ký của mình Miles đã viết những dòng sau đây về Meynier và cha bà:


Cha bà là lãnh đạo nhóm quốc dâm cách mạng lớn nhất Nam Kỳ. Tựu chung họ được gọi là những người Cộng sản, Đỏ, Cách mạng và Bônsevich. Trên thực tế, phần lớn bọn họ là đáng lo ngại không phái vì muốn lật đổ chính phủ mà vì họ trở thành đại diện lớn hơn cho thành phần dân tộc trong chính phủ do Pháp điều hành. Bật luận thế nào họ cũng không xem mình hoàn toàn có khả năng đánh đuổi Pháp cũng như điều hành chính phủ nếu như Pháp bị đánh đuối. Tối không tin từ tất cả những gì nghe được rằng nhìn chung họ muốn người Pháp ra đi cho dù ở đây có một số hành động xúi giục theo hướng đó. Vai trò nổi bật nhất mà họ đóng là đại diện lớn hơn cho người bản xứ trong nghị viện. Vài năm trước, khi nhóm có quy mô lớn mà cha bà Meynier là lãnh đạo được chính phủ Pháp nhượng bộ, thì họ đã tách ra khỏi thành phần Đỏ tả khuynh hơn và trở thành cái được biết là cánh Dân chủ hay Đảng Dân chủ Đông Dương. Cha bà Meynier là lãnh đạo của nhóm này và đem theo hầu hết môn đệ của mình. Họ dường như đổi tên nhóm của mình một cách hú hoạ cho phù hợp với tình hình. Một số người tin rằng họ chống Pháp. Đã sống với họ suốt cả đời mình, bà Meynier có thể được xem là một chuyện gia về vấn đề này .


Bà Meynier, Miles kết luận, "đặc biệt khao khát được báo vệ người dân nước mình trước cả Pháp và Nhật Bản cũng như trước tất cả những thế lực nước ngoài khác", một tình cảm phù hợp với yêu cầu của Miles cũng như của chính bà. Do đó Miles kết luận, có nhiều cái lợi thu được từ bà Meynier và ảnh hưởng của gia đình bà. Tuy nhiên, tướng Giraud thông báo cho ông rằng đưa người nhà Meynier vào nhóm có thể đặt ra, như ông trình bày, "chút ít khó khăn".


"Khó khăn" là Katiou Meynier bị giam trong một trại giam Đức trên đất Pháp. Miles đồng ý với điều kiện giải thoát bà và để OSS thu xếp cho bà đào thoát. OSS yêu cầu Lực lượng Đặc nhiệm Anh (SOE) cả tướng Giraud và de Gaulle cũng giúp lên kế hoạch giải thoát bà. Mặc dù một "đơn vị biệt kích" Pháp đã dàn dựng thành công một vụ "vượt ngục" nhưng ba điệp viên Anh và bảy điệp viên Pháp đã thiệt mạng để giải thoát người phụ nữ sẽ có lúc được gọi là Nữ hoàng của SACO. Dù đau lòng về cái chết của những người Pháp, nhưng tướng Giraud liên tục cho là cuộc tập kích "xứng với tổn thất vì danh tiếng của bà (Katiou Meynier) ở Đông Dương".


Rõ ràng là người An Nam sùng bái cái nền tảng mà ở đó bà hiện diện vì bà vừa là một nữ hoàng lại vừa là một Nữ tu.


Theo Katiou Meynier, sau khi được tự do bà đã đi khắp nước Pháp giống như một "lá thư có dán tem" cho đến khi được bay sang London, nơi bà được tiến sĩ Wellington Ku, đại sứ Trung Quốc tại Anh, đón tiếp. Không may cho Katiou Meynier, khi bà đến, chính quyền Anh có một số nghi ngờ đối với bà. SOE đã bị làm cho có ấn tượng sai về bản chất đích thực của chiến dịch giải cứu bà Meynier. Một lần nữa bất đồng trong quan điểm chính trị của người Pháp lại phát huy tác dụng: SOE hậu thuẫn de Gaulle và kế hoạch đưa Miles và Meynier lại với nhau được hậu thuẫn chủ yếu bởi Giraud. Tuy nhiên, Miles đã thu xếp giữ Katiou Meynier trong vòng bí mật tại London . Chỉ huy OSS Dunius Morgan đã né tránh người Anh và đăng ký cho bà vào khách sạn Ritz dưới tên Paula Martin, thành viên Quân đoàn nữ hỗ trợ Đồng Minh của quân đội Mỹ (USWAC). Bà được chỉ thị phải giả vờ bị viêm họng không thể nói được và người bạn gái nói tiếng Anh của bà sẽ đối đáp thay bà khi cần thiết. Katiou vào vai rất tốt, và với nét mặt cùng phong cách tao nhã, bà đã yên ổn trải qua khoảng thời gian lưu lại London . Vài ngày sau bà được bay đến Calcutta , nơi bà được đoàn tụ với người chồng đang cháy bỏng niềm mong mỏi của bà.


Dẫu vậy vẫn còn một khó khăn khác liên quan đến thiết lập sứ mạng của Meynier tại Đông Dương. Để đơn giản hoá việc tạo ra mạng lưới ở Đông Dương, Robert Meynier đã xoay xoả cho một nhóm người An Nam trẻ tuổi, sĩ quan Pháp và các tu sĩ "được thả" khỏi trại tù binh chiến tranh của Đức ở Bắc Phi. Người Anh cũng có một số nghi ngờ với nhóm này.


Để lẩn tránh nhà đương cục, nhóm đã khoác tấm bình phong "Quân đội Tự do Philippines" và đáp máy bay vận tải của Anh đến Bombay. Họ đến nơi mà không gặp bất kỳ sự cố nào bởi, theo Miles, "không ai trong số những người họ tiếp xúc biết về sự khác biệt giữa ngôn ngữ và ngoại hình của người Philippines và An Nam". Cả nhóm, bao gồm cả vợ chồng Meynier, giấu mình tại Calcutta trong một ngôi nhà do USWAC và "người Philippines" thuê cho đến khi Miles có thể thu xếp cho họ đến Trùng Khánh.


Với những nhiệm vụ phải triển khai, Miles và Meynier có thể tập trung lên kế hoạch cho sứ mạng của họ: phát triển một mạng lưới tình báo tại Đông Dương. Ngày 15 tháng 10 năm 1943 Miles báo cáo rằng "hơn một năm qua tôi đã điều tra các hoạt động chính trị ở Đông Dương, đã trao đổi với nhiều người theo phong trào đòi độc lập về vấn đề này và bây giờ tôi có dưới quyền mình một đến vị người Pháp và An Nam hoàn toàn nhận thức được những điều kiện tại quê hương họ cả trong quá khứ cũng như hiện tại". Nhưng dù Miles có lạc quan thì hoàn cảnh vẫn không diễn ra như ông mong đợi. Vợ chồng Meynier và những người "Philippines " gặp rắc rối ngay từ khi đến Trung Quốc.


Giấy tờ của Robert Meynier, do cả Giraud và de Gaulle ký, cho thấy ông sẽ trình điện tướng Zinovi Petchkoff và đại tá tham mưu trưởng Emblanc của FMM ở Trùng Khánh. Cả Petchkoff và Emblanc đều bất bình vì không được tham gia chuẩn bị cho nhóm Meynier và không "hoàn toàn kiểm soát" nhóm này. Những cuộc họp đầu tiên với cả hai ông là một thảm hoạ. Trong cơn nóng giận, đại tá Emblanc nói rằng ông sẽ không cho họ vào Đông Dương. Tướng Petchkoff doạ bỏ đi Bắc Phi ngay lập tức và "đưa những chiến sĩ Pháp của ông đi cùng". Sử dụng sự lôi cuốn cuốn của mình, Meynier cố tái cam đoan với vị tướng rằng sứ mệnh của Meynier không hề đe doạ vị trí của Petchkoff cũng như FMM nói chung. Dẫu vậy Petchkoff một lần nữa lại trở nên "cực kỳ bực mình khi ông nghe nói bà Meynier cũng có mặt trong nhóm" bởi vì, ông cho rằng, "vì bà ta là một người An Nam, điều đó sẽ giúp tăng cường sức mạnh chống Pháp của người An Nam ở Đông Dương". May thay, Meynier tìm ra cách xoa dịu FMM, chí ít cũng trong một thời gian ngắn. Meynier phát hiện ra rằng FMM không hề nhận được bất kỳ nguồn tài chính nào từ người Anh (những người mà họ phụ thuộc) trong vài tháng và ông "có thể làm dịu tình hình chút ít bằng chuyển giao hơn 2 hoặc 3 ngàn đô la của quỹ OSS để "ngăn không cho họ chết đói".


Kết quả là FMM cho phép Miles và OSS chia sẻ một số tin tức tình báo của họ đến từ Đông Dương. Petchkoff đồng ý phái Meynier đi làm nhiệm vụ tạm thời với SACO, và ông cùng những "người Philippines" bắt đầu kế hoạch một cách nghiêm chỉnh. Lạc quan về thành công của cuộc phiêu lưu mới này, Miles báo cáo Donovan, người vào tháng 3 đã trở thành thiếu tướng, rằng "trong vòng vài tháng chúng tôi có thế có từ 200 đến 300 điệp viên làm việc cho chúng tôi tại Đông Dương nếu chúng tôi cần đến họ".


Nếu sứ mạng của Meynier hoàn toàn thành công thì OSS sẽ có một mạng lưới bí mật tuyệt vời tại Việt Nam . Meynier lên kế hoạch phát triển một hệ thống chỉ điểm và đặc vụ, những người sẽ "tuyên truyền cho người bản xứ và cổ vũ cuộc không chiến chống Nhật của họ"; "phá huỷ" và "quấy phá" tầu Nhật; buôn lậu nguyên vật liệu vào Trung Quốc; và "thuyết phục các sĩ quan hải quân Pháp và binh lính đánh đắm tầu của họ vào thời điểm thích hợp nếu không thể đưa chúng ra chiến đấu cùng chúng ta". Và đến giữa tháng 10 Miles đã xác định được phần lớn nhiệm vụ của mình ở Đông Dương. Trong một chuẩn y yêu cầu ghi nhớ rải truyền đơn tại Việt Nam, Miles lưu ý rằng có những nhóm cách mạng nào đó với nhiều thành viên tồn tại ở phía tây thành phố Sài Gòn. "Những nhóm cách mạng này", Miles bổ sung, "không thân thật, nhìn chung, họ ủng hộ người bản xứ". Miles tin truyền đơn, do cả người Việt và Pháp chuẩn bị, sẽ rất có tác dụng trong việc thuyết phục không chỉ những nhóm này mà cả những nhóm khác ở Nam Kỳ ủng hộ sự nghiệp của Đồng Minh. Một nguyên nhân khiến ông lạc quan là ông tin tưởng Katiou Meynier sẽ thành công rực rỡ trong việc thay mặt nước Mỹ tuyên truyền cho người Việt Nam . Trong nhật ký của mình, ông khoác lác rằng "bà rất kính trọng người Mỹ và đã nhận thức được thực tế là trong tất cả các nước liên quan đến Đông Dương, duy chỉ có người Mỹ là không có tham vọng về lãnh thổ". Hơn nữa, ông xem bà là "người lý tưởng" trong quan hệ với người bản xứ", một phần vì Katiou Meynier có sự phê chuẩn chính thức và vì "bà là công nương theo tiêu chuẩn của mình cũng như công nương của người An Nam". Ngoài phả hệ ra, Katiou Meynier còn học rất nhanh tiếng Anh và tiếng Trung và được ghi vào danh sách dưới bí danh Paula Martin với tư cách là tác giả kế hoạch tuyên truyền cho Đông Dương của Miles. Kế hoạch này nhằm vào Đảng Dân chủ Đông Dương, trong số nhiều chính đảng khác, không nghi ngờ gì nữa bởi sự tham gia của cha bà vào đó. Đảng này được mô tả là "bao gồm tất cả những người có quốc tịch Đông Dương hoặc gốc Pháp", nhưng bà Meynier khẳng định, phân loại thành "chống Pháp" là sai lầm bởi đấy chỉ là cái mác, các thành viên của nó chỉ mong muốn Việt Nam độc lập. Trong khi viết báo cáo, bà hết sức thận trọng khiến mọi người chấp nhận "Đảng Dân chủ Đông Dương" và "7 hoặc 8 nhóm được gọi là "những nhà cách mạng dân tộc" vừa thiên về chủ nghĩa quốc gia vừa chống Nhật. Mục C của kế hoạch nêu rõ: "Không được quên rằng đối với người Nam Kỳ, không chỉ có "các nhà cách mạng dân tộc" được hưởng sự bảo vệ vũ trang của Nhật mà còn cả chính quyền, thường dân và quân Pháp. Như toàn quyền Decoux vẫn thường nói, người Nhật đang giúp chúng ta bảo vệ Đông Dương và duy trì chủ quyền của Pháp ở nơi này".


Katiou Meynierl được mô tả là "người nhỏ bé, xinh đẹp, tròn trịa và đã từng chiến thắng trong một cuộc thi hoa hậu", rõ ràng đã gây ấn tượng và bỏ bùa mê cho Mi1es cũng như nhiều người khác quanh bà, nhưng bà cũng không tránh được nhiều người gièm pha. Trung uý hải quân Robert Larson tuyên bố rằng ông "không muốn tập thói quen đi cùng một người đàn bà hư hỏng". Khi đến Nam kinh cùng nhóm của Meynier, Larson đã viết cho Miles về chuyến đi và địa điểm mới của họ và không thể tránh đưa vào báo cáo của mình một đoạn chỉ trích bà Meynier. Thái độ bực dọc của ông thể hiện cả ở việc bà được nuôi dạy như một "công nương", và thực tế là Larson đang tiến hành một sứ mạng quân sự với công việc phải làm và dĩ nhiên không trông đợi mua vui cho "công nương" trên đường. Bức công văn của ông về bà Meynier đã bổ sung không cố ý một mức độ hài hước vào báo cáo hàng ngày. Ông giận dữ:


Nếu muốn đi tiểu vào lúc nửa đêm thì bà ta đánh thức chồng (Meynier) dậy, cho nên cả tôi cũng phải dậy luôn, cốt để ông ấy có thể đi cùng bà ta. Một trong số những con mèo của bà ta bị mất thế là tất cả mọi việc đều phải dừng lại lúc 5 giờ 30 sáng để tìm con vật. Còn về mua sắm, tôi ngạc nhiên là ngài chỉ huy có bao nhiêu là tiền và nếu muốn cái gì là bà ta bám riết cho đến khi có được mới thôi .


Chắc chắn nhận thức được thiện cảm ngày một lớn của Miles dành cho gia đình Meynier nên Larson xuống giọng và bổ sung, "Tôi vẫn nghĩ bà Meynier rất hấp dẫn, rất đáng yêu và hội đủ mọi tố chất mà một người đàn bà cần có".


Khi đã an toạ tại Nam Kinh, nhóm của Meynier, gồm cả Katiou, nhanh chóng bắt đầu công việc kinh doanh, siết chặt an ninh nơi ở cho mình và những người Việt Nam làm việc cùng họ, thiết lập một trạm điện đài ở vùng nông thôn bên ngoài thành phố. Tuy nhiên, nhiều vấn đề đối với nhóm đang gia tăng. Các điệp viên OSS đang dùng mánh lới để giành được nhiều hơn quyền kiểm soát sản xuất và sử dụng tuyên truyền, sử dụng "chiến tranh tâm lý". OSS cử thiếu tá Jack de Sibour làm lãnh đạo nhóm "Sứ mạng Đông Dương" dưới quyền Miles. Meynier theo dự tính sẽ làm việc trực tiếp với de Sibour mặc dù về mặt kỹ thuật vẫn dưới quyền Miles và SACO đồng thời liên kết chính thức với FMM. Điện tín gửi cho Miles thông báo việc bổ sung de Sibour rõ ràng đã chia rẽ những người được OSS huấn luyện với những người được huấn luyện từ nơi khác. Những "Chiến dịch tinh thần" (Tuyên truyền lật đổ), viết tắt là MO, hoàn toàn là trách nhiệm của OSS , bức điện viết: "Những kế hoạch tổng thể phải được hợp tác cẩn thận bởi đó là lĩnh vực phải được kéo dài và điều hành cẩn thận bởi những người được đào tạo". De Sibour là, bức điện lưu ý, một trong số những người đó. Bản ghi nhớ thông báo bổ nhiệm de Sibour còn nêu rõ chỗ nào có thể được hiểu như lời chỉ trích chống sứ mạng của Meynier mà người Trung Quốc có thể "có nhìn nhận không thiện ý về mối quan hệ gần gũi giữa quyền lợi của Mỷ và Pháp ở mức độ ảnh hưởng tới Đông Dương".


Về phần mình, de Sibour cũng đã sẵn sàng lập những kế hoạch đáng tin cậy về công tác MO tại Việt Nam . Ông đã bày tỏ sự tin tưởng chắc chắn rằng vì phía MO không làm bất cứ điều gì "ngoài Sứ mạng SO của Pháp", nên một bộ phận MO của Mỹ cần được thiết lập càng nhanh càng tốt. Và mặc dù rõ ràng liên kết với Miles và SACO , nhưng nhóm của Meynier được xem như một đội của Pháp với những khó khăn hiện hữu. Ví dụ, dù kế hoạch MO thừa nhận rằng Katiou Meynier chính thức hoạt động với nhóm, nhưng những mối quan hệ của gia đình bà được mô tả là từng "có thời gian chống Pháp" nhưng sau "đã ngả theo cách nghĩ của người Pháp" và "hợp tác với họ". Thêm vào đó, de Sibour chỉ ra vô số vấn đề liên quan đến cuộc giằng co chính trị về vai trò lãnh đạo FMM và nhóm của Meynier mà Giraud và de Gaulle dường như đang thực hiện. Nhưng gạt tất cả những chuyện này sang bên, de Sibour kết luận, những phẩm chất quý giá của nhóm Meynier "hiểu biết hoàn hảo của họ về đất nước", kỹ năng ngôn ngữ, và "sự khan hiếm những điệp viên đáng tin cậy" khi so sánh với "những gì đã có dưới sự quản lý của họ" - đã làm cho họ trở thành lựa chọn tốt nhất của người Mỹ cho việc thâm nhập thành công vào Việt Nam thông qua "những lời đồn, tin tức và giấy tờ giả, mua chuộc và chương trình phát thanh "đen".


Tuy nhiên, dù de Sibour và OSS có kết luận những gì đi chăng nữa thì tình thế của Pháp ở Trùng Khánh thời gian đó cũng ngăn cản Miles, Meynier và de Sibour thiết lập những mục đích của họ ở Việt Nam. Sự chia rẽ giữa những người ủng hộ de Gaulle và Giraud làm cho quan điểm của Meynier không được bảo vệ: Meynier càng ngày càng được xem là người được Giraud bổ nhiệm, trong khi FMM ở Trùng Khánh lại được de Gaulle hậu thuẫn. Thực tế là việc Tai Li (cũng như Miles) hậu thuẫn cho nhóm của Meynier chẳng giúp được gì nhiều cho vị thế của họ. Tai Li buộc tội FMM ở Trùng Khánh do thám chính phủ Trung Quốc, và người Pháp phản công bằng cáo buộc Tai Li ám sát công dân Pháp "để đảm bảo hoạt động phá hoại người Việt ở Bắc Kỳ của Trung Quốc không bị cản trở".


Kết quả của sự tranh giành quyền lực đang diễn ra là gia đình Meynier không được phép vào Đông Dương. Dù sao thì một nhóm người "Philippines" cũng đã được tiếp nhận. Đặc biệt, một tu sĩ người Việt, cha Bec, đã liên lạc với giới tu sĩ Thiên Chúa giáo khác ở Đông Dương và, cùng với những người trong nhóm Meynier, đã chuyển tin tức ra khỏi Việt Nam. Cha Bec đặc biệt quan tâm đến những phi công Mỹ bị bắn rơi. Ông đã trả lại tên của những phi công Mỹ có máy bay bị bắn hạ và thông tin về số phận của họ. Ông còn phân phát truyền đơn kêu gọi người dân Đông Dương biết đồng cảm và giúp đỡ những phi công Mỹ bị bắn rời. Miles báo cáo rằng Chennault và người của ông ta "rất hăng hái" và rằng họ "thậm chí còn đề nghị giúp đưa đại diện của nhóm Meynier vào nước này bằng nhảy dù". Song, theo Miles, "càng hoàn hảo bao nhiêu thì nhóm của Meynier càng gặp phải thái độ thù địch từ nhóm của người Pháp ở Trùng Khánh bấy nhiêu".


Cha Bec đã phải è lưng cõng gánh nặng chủ yếu này một thời gian dài vì ông là "một người làm việc quá nổi tiếng". Những đánh giá về khả năng của nhóm Meynier không giống nhau. Nhà sử học Ronald Spector nói rõ rằng Meynier đã thiết lập thành công một mạng lưới điệp viên ở Đông Dương, nhiều người trong số họ "đã hoạt động trong các cơ quan chính quyền Pháp và thậm chí trong cả cơ quan tình báo Pháp". "Họ gửi về", ông tiếp tục, "những dòng thông tin đều đặn về bố phòng, chuyển quân, các mục tiêu ném bom, những diễn biến chính trị tại địa phương". Miles thì cho rằng cho đến hết chiến tranh ông "đã liên tục nhận được thông tin về thời tiết, tù binh, tình trạng của thương binh, tin tình báo về tầu thuyền, các báo cáo về không quân Nhật - và một lượng đáng kinh ngạc tin tức về hải cảng và hàng hải". Đương nhiên công tác chuẩn bị đã đạt kết quả tốt đẹp vào tháng 10 năm 1943 khi các trạm quan sát bờ biển báo tin một đoàn từ 9 đến 10 tầu Nhật đang trên đường đến Hải Phòng. Thông tin đáng giá này được chuyển tiếp cho Chennault, người đã thành công trong việc thả thuỷ lôi ở cảng Hải Phòng trong khi những máy bay khác danh lạc hướng bằng phi vụ ném bom quân Nhật tại sân bay Hải Phòng. Miles báo cáo, nhiệm vụ đã thành công tốt đẹp: "Khi máy bay xuất hiện, tầu địch trên cảng hoảng sợ. Chiếc tầu vận tải ba ngàn tấn trong khi vội vã tháo chạy đã húc phải thuỷ lôi mới thả và nổ tung ngay tại chỗ, bít kín lối ra vào. Đường vào cảng Hải Phòng không bao giờ được khai thông trọn vẹn một lần nữa cho đến hết chiến tranh". Ngoài ra, đô đốc William F. Halsey Jr. cũng nhận thấy mạng lưới của Meynier rất hiệu quả. Như Miles đã viết:


Ngày 11 tháng Giêng năm 1945, các trạm quan sát bờ biển Đông Dương mà đại uý Meynier và người vợ công nương của ông đưa vào hoạt động thành công đã đền đáp đầy đủ cho những hy sinh và nỗ lực cộng tác với họ của chúng tôi. Điều đó xảy ra bởi khi đang chuẩn bị một cuộc tấn công mà chúng tôi không biết gì về nó, đô đốc William F. Halsey Jr đã hỏi chúng tôi những mục tiêu trên hải phận Đông Dương.


Trưóc câu hỏi này chúng tôi nhanh chóng báo động cho các nhân viên cảng vụ như người gác đèn hải đăng, nhân viên hải quan và những người khác. Họ được lệnh phát điện khẩn theo lệnh của đại uý Miles. Mặc dù bản thân Meynier đã ra đi nhiều tháng nhưng mạng lưới mà ông và vợ ông thiết lập đã đáp lại ngay lập tức. Trong vòng vài tiếng đồng hồ, ngồi tại Trùng Khánh chúng tôi đã có trong tay một bản danh sách đầy đủ về tầu thuyền ở vịnh Cam Ranh, Sài Gòn và những hải cảng khác do Nhật kiểm soát. Thậm chí chúng tôi còn biết rõ cả kích cỡ, tốc độ và hàng hoá của chúng. Một người gác hải đăng báo tin một đoàn tầu 26 chiếc đã đi qua sáng hôm đó, người này cung cấp cả hướng đi và tốc độ của đoàn tầu. Điện báo cung cấp thông tin để chúng tôi chuyển cho đô đốc Halsey nhiều đến mức sau đó ông cho tôi biết là trong chừng mực nào đó cứ rối như canh hẹ. Với lượng thông tin phải xử lý lớn như thế, ông đã buộc phải thay đổi nhiều quyết định ủa mình. Dưòng như ông đã điều vừa đủ số máy bay cho mỗi mục tiêu và kết quả là ông có thể "kiểm soát được khu vực bến cảng. " Trên thực tế, các phi công của ông thành công đến mức chỉ trong nội ngày hôm đó đã đánh đắm 40 tầu với tổng trọng tải lên đến 120. 000 tấn, trong số chúng có một hàng không mẫu hạm và 11 máy bay của hải quân Nhật .


Sĩ quan OSS Archimedes Patti lại có cái nhìn khác. Nhóm của Meynier, vốn đảm nhận quá nhiều trọng trách trong việc chia rẽ người Pháp, là một thất bại ê chề đối với OSS , ông viết. "Nó đạt được rất ít tiến bộ trong thâm nhập vào Đông Dương, và OSS không nhận được thông tin quân sự mà Donovan đã tiên liệu và Miles từng hứa hẹn". Đánh giá thực tế nhất về cố gắng của họ, chao ôi, lại còn tạp pí lù hơn. Không nghi ngờ gì nữa, mạng lưới của Meynier chưa từng đem về những tin tình báo đắt giá mà Donovan đã hy vọng. Nhưng như cả Chennault và Halsey đã chỉ rõ, nhóm của Meynier đã cung cấp được những tin tức có giá trị về các mục tiêu ném bom và tầu thuyền.


Ngoài mạng lưới của Meynier, Miles còn có một kế hoạch khác liên quan đến Việt Nam . Ông đã có kế hoạch lợi dụng "những sắc tộc miền núi" ở cao nguyên để "tiến hành chiến tranh du kích và gián điệp chống Nhật". "Kế hoạch quân sự đặc biệt cho Đông Dương" này được đề xuất bởi một thành viên trong bộ máy nhân sự của Miles, trung uý George Devereaux - người trước chiến tranh đã nghiên cứu dân tộc H'mông. Theo kế hoạch, những điệp viên được huấn luyện đặc biệt sẽ nhảy dù và thiết lập những mối quan hệ thân thiện với các sắc tộc miền núi. Tiếp đó sẽ thành lập và huấn luyện họ cho chiến tranh du kích, vũ khí, thuốc men và các trang bị khác sẽ được thả dù xuống căn cứ của họ. Kể hoạch được OSS, Hải quân Mỹ, Không đoàn 14 chấp thuận, và Chennault thậm chí còn "hứa phát động một cuộc oanh tạc đánh lạc hướng nhằm yểm hộ cho việc thả dù". Cho dù được nhiều phía hậu thuẫn nhưng Kế hoạch quân sự đặc biệt cho Đông Dương của Miles vẫn chẳng nên cơm cháo gì.


Trên thực tế, nhiệm vụ của Miles tại khu vực này nhanh chóng bị gác lại. Cam kết về sứ mạng của Meynier mới chỉ thực hiện được một phần bởi những khó khăn liên tiếp và từ hai phía với OSS đã làm tăng nỗi thất vọng của ông. Donovan và những người khác thường phàn nàn, mặc dù trên danh nghĩa là một sĩ quan OSS, nhưng Miles đã tỏ rõ thái độ không trung thành với tổ chức này và cung cấp toàn bộ những tin tình báo loại một cho hải quân trước. Về phần mình, Miles liên tục bị làm cho bực mình bởi những gì ông quan niệm là nỗ lực giành quyền kiểm soát mọi thứ liên quan đến tin tức tình báo ở Trung Quốc của OSS . Ngoài ra, trong khi OSS vẫn tự nhận là thân thiện và cởi mở với Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, thì Miles lại bị số lượng vượt trội của "những kiều dân hoài cổ ở Trung Quốc" trong OSS làm cho phẫn nộ; theo ý kiến ông, họ không có khả năng làm việc với người Trung Quốc. Thái độ không hài lòng lẫn nhau đã dẫn đến việc Miles rời vị trí giám đốc OSS khu vực Viễn Đông và Donovan chỉ trích ông kịch liệt trong một cuộc trao đổi đáng thất vọng nhất diễn ra vào tháng 12 năm 1943. Tuy nhiên, ngay cả sau khi Miles không còn làm việc cho OSS ở Viễn Đông thì nhóm Meynier vẫn tiếp tục hoạt động suốt cả năm 1944. Trung uý Larson trở thành sĩ quan phụ trách liên lạc với Robert Meynier ở Nam Ninh.


Các báo cáo của trung uý Larson giải thích cho nghiên cứu và hiểu biết ngày càng tăng của ông về Việt Nam . "Câu châm ngôn "nhập gia tuỳ tục" không nơi nào có ý nghĩa quan trọng hơn ở Đông Dương lúc này", Larson viết. "Sự chiếm đóng khu vực này của người Nhật được tiến hành theo một phong cách hấp dẫn. Chính phủ hầu như đã được trao vào tay nhân dân - hay ít nhất cũng là các "công bộc" và quan lại những kẻ có quyền thế trước chiến tranh". Tiếc là Larson đã nói quá nhiều điều tốt về hiệu quả cai trị của người Nhật hơn là về sự hữu hiệu của những nỗ lực tuyên truyền của OSS mà ông mô tả là "không thoả đáng một cách đáng buồn" và "gây tác hại nhiều hơn bất kỳ hoạt động nào khác". Nỗ lực tuyên truyền của người Mỹ, Larson quả quyết, thể hiện "sự thiếu hiểu biết về đất nước này. Đây không phải là một dân tộc thời nguyên thuỷ. Thật vậy, khi xâm chiếm nước này năm 1858, người Pháp đã thấy ở đây có một tổ chức chính trị và xã hội và nó tiếp tục làm cơ sở cho chính quyền của họ". những trang tiếp theo, Larson nói về những sĩ quan pháp như đại uý hải quân H. Rieunier, người đã ca ngợi "trí thông minh của chủng tộc" trong tiên đoán sự lãnh đạo "toàn vương quốc" của người Việt trong những năm tới - để chứng minh cho ý kiến trước đó của ông là người Việt Nam cần phải được tiếp cận như một xã hội phát triển. Larson cũng chỉ ra những yếu kém của ách thống trị thực dân và thói quen của người Pháp vừa khen ngợi lại vừa đè nén tàn nhẫn dân chúng Đông Dương, những người đã chính đáng yêu cầu có được tiếng nói ở đất nước của chính họ. Mặc dù rõ ràng Larson đã chuẩn bị cho tình huống này, nhưng vẫn có thể nhận ra ảnh hưởng của Katiou Meynier:


Nếu nhiều người An Nam đòi có tiếng nói lớn hơn trong chính phủ của họ thì đó không phải là một bước phát triển mỏi, và không phải là chiêu bài hàm ý theo nghĩa đen của bốn tiếng "Cách mạng dân tộc" mà họ hướng tới". Hiển nhiên họ khao khát độc lập cho đất nước mình nhưng họ thừa nhận rằng đây không phải là khả năng tức thời. Phương diện quan trọng của tuyên truyền nhằm vào Đông Dương cần phải nhấn mạnh đến thiện chí của Liên Hợp Quốc dần chuẩn bị cho tự do của đất nước… Ví dụ của Philippines đã làm cho chúng ta có được thiện ý của người An Nam bởi vì họ muốn và xứng đáng được hưởng một chính sách tương tự trên đất nước mình. Họ cũng xem sự đối xử với Cuba của chúng ta như bằng chứng chúng ta không có tham vọng thuộc địa và chúng ta tin vào quyền tự trị .


Những báo cáo của Larson từ tháng 2 đến tháng 9 đã thể hiện sự thất vọng đang tăng lên của cả ông và Robert Meynier đối với tình hình. Larson quy những nỗ lực bất thành của nhóm cho người kế vị tổ chức OSS của Miles, trung tá John Coughlin, và người Pháp. Tháng 3 năm 1944, Larson cam đoan rằng "OSS có ít nhất 20 bộ điện đài xách tay nhưng đôi khi không sử dụng được. Có lúc tôi cứ phải hét lên mà chẳng được tích sự gì và tôi hết sức bất mãn khi thấy Coughlin không chỉ kêu ca về việc thiếu kết quả từ nơi đây, mà còn đứng về phía Emblanc và không gửi cho chúng tôi tài liệu chúng tôi cần". Ông nói tiếp, "Cái làm tôi bực mình hơn cả là mưu toan (của OSS ) xếp nhóm của Meynier vào loại gián điệp (những kẻ xúi giục) và làm họ sợ. Sẽ không có ai trong chúng tôi sợ hãi". Khi điệp viên OSS Austin Glass, người được giao trách nhiệm phát triển mạng lưới SI cho Đông Dương, tới thăm, cơn giận của Larson lại càng dữ dội bởi cái mà ông cho là sự công kích cực kỳ tiểu nhân. Larson viết cho chỉ huy Hải quân D.D. Wight như sau:


Trong những vấn đề khác Glass thừa nhận rằng Coughlin đã ra lệnh cho ông ấy thẩm tra lời đồn tôi đã ngủ với bà Meynier. Hầu như chắc chắn những lõi đồn đại loại như vậy là chuyện thuận tình trong một công tác như thế này, và tôi có thể bỏ qua khi chúng đến từ những người ngoài cuộc. Tuy nhiên, khi một ngưỏỉ như Coughlin xía vào chuyện này mà không thèm đếm xỉa đến tôi thì tôi cực kỳ ghê tởm .


Kết thúc chuyến thăm của Glass, Larson cảm thấy tương đối tin tưởng con người này và những báo cáo ông sẽ viết cho OSS và ông càng hy vọng sẽ nhận được điện đài cùng những trang bị khác mà ông đã yêu cầu nhưng ông vẫn rất căm ghét Coughlin. Trong một bức thư mật gửi cho Wight ông giải thích:


Tin tưởng vào giá tri tiềm tàng của tổ chức của Meynier và với niềm tôn kính cá nhân cao cả dành cho chúng tôi. Glass hết sức ngạc nhiên với những gì đã diễn ra trong quá khứ. Tôi cho là ông ấy sẽ cố, nhưng với Coughlin tôi không nghĩ ông ấy sẽ gặt hái nhiều thành công. Coughlin chỉ hon tôi khoảng 7 tuổi, vậy mà nhiều lần tôi đã nghĩ ông ta hành xử thậm chí còn trẻ con hơn tôi và ít kinh nghiệm hơn tôi .


Thật ra, Larson dường như bị xúc phạm bởi suy đoán rằng ông là một phần của OSS . "Coughlin báo cho Glass rằng tôi là một sĩ quan OSS ", Larson nổi nóng: "Tôi không được tham khảo ý kiến về vấn đề này và tôi không được thông báo sự việc đúng là như vậy. Tôi không mảy may ao ước được trở thành một trong những sĩ quan của ông ta hay trở thành một thành viên của tổ chức OSS ". Larson tiếp tục nói rằng ông xem mình là "một sĩ quan Hải quân và dưới quyền của đại tá Miles" và không phục tùng Coughlin. Ông hứa làm "mọi việc trong thẩm quyền của mình" để tạo ra sự hợp tác giữa OSS và nhóm của Meynier, nhưng ông tranh cãi kịch liệt với cả Glass và Wight rằng ông "cần nhiều hơn chút đỉnh so với bị chẹn họng từ phía khác" để làm cho điều đó xảy ra. Meynier, Larson nói rõ, chán OSS chẳng kém gì FMM và liên tục doạ "rũ áo ra đi".


Mặc dù thông cảm với những phàn nàn của Larson và thất vọng của Meynier, nhưng Wight vẫn động viên cả hai tiếp tục công việc của mình. Trong phúc đáp lá thư của Larson ngày 26 tháng 3, Wight viết: "Tôi hy vọng ngài sẽ làm hết sức mình để ngăn ngài chỉ huy (Meynier) phản kháng. Cho dù điều đó có thể không giống như nhìn nhận từ Nam Ninh, tôi cho rằng ở dây đã có một số tiến bộ và tiến bộ này có thể bị mất tác dụng hoàn toàn nếu Meynier chịu thua". Có lẽ, những mối quan hệ của OSS với Emblanc và FMM đã tô hồng quan điểm của Larson và Meynier về OSS và ngược lại; dẫu vậy, bất kể nguyên nhân có là gì đi chăng nữa thì những mối quan hệ giữa các phe nhóm thường là không được cải thiện. Những phản đối của Larson tiếp tục kéo dài trong vài tháng nữa và đến tháng 6 thì kèm theo sự bất mãn của cả một tổ chức khác mà Larson tin là chịu ảnh hưởng của OSS .


Đại uý Mullens của cái mà Larson gọi là "Lực lượng không quân giải cứu trên bộ" có căn cứ ở Côn Minh còn cắt giảm thêm các hoạt động của Meynier và Larson. Mullens yêu cầu Larson và Meynier "không được mó tay" vào các chiến dịch giải cứu ở Đông Dương. Cả hai ông đều tin đây là một yêu cầu khá kỳ lạ bởi "(người Mỹ) chẳng làm quái gì ở Đông Dương (cho những phi công bị bắn rơi)" "một ấn tượng được nhấn mạnh hết lần này đến lần khác bởi chính những phi công thực hiện những phi vụ trên đất nước này". Larson nhắc lại những gì ông tin là hàng núi khả năng dành cho các chiến dịch giải cứu và đề nghị Mullens phải có lời giải thích. Mullens báo cho ông, vấn đề đó đơn giản là "thiếu sự tin tưởng" giữa tổ chức của ông ta và nhóm của Meynier. Mặc dù Larson đã trình bày lại lai lịch và quá trình huấn luyện (hầu hết do người Mỹ thực hiện) của các thành viên của tổ chức, nhưng kết quả chẳng được bao lăm. Hình như cả người Mỹ và người Pháp đều không tin tưởng nhóm của Meynier. Larson tin rằng tiếng xấu của họ xuất phát từ những mưu mẹo của Gordon và người Pháp. Trong báo cáo năm 1944 của mình Larson đã trình bày cuộc trao đối giữa ông và Mullens rồi nói rõ: "Tôi đã lại thấy những hoạt động của Gordon ở đó".

Dựa vào khung thời gian, Larson hầu như chắc chắn sẽ có phản ứng đối với nguồn dự trữ sẵn có dành cho GBT và sự khen ngợi GBT không tiếc lời của các tổ chức và cá nhân đã giúp nhóm của chính ông ít hơn là chỉ trích. Về người Pháp, Larson tổng kết hai điểm chính. Thứ nhất, "thái độ ngờ vực Mỹ của chính quyền Pháp" rõ ràng không có gì đáng ngạc nhiên. Tuy vậy, điểm thứ hai còn đáng lo ngại hơn. Larson tin rằng người Pháp đang cố "chơi trò OSS chống lại Hải quân" để cản trở bất kỳ sự hợp tác nào giữa hai quân chủng, nhất là trong các quan hệ với người Trung Quốc. Sự phối hợp giữa Tai Li với Miles và nhóm của Meynier đã làm trầm trọng thêm mối quan hệ vốn đã căng thẳng giữa Mỹ và Pháp. Có lẽ chỉ là bình thường đối với người Pháp nếu thừa nhận rạn nứt trong các quan hệ Hán - Mỹ sẽ giúp cho sự nghiệp của chính họ. Song Larson cam đoan "nếu người Pháp cảm thấy họ có thể sử dụng người Mỹ để chơi xỏ người Trung Quốc thì quả là bé cái nhầm và sẽ gặp rắc rối". Khi sự chống đối hoạt động của Miles - Meynier leo thang thì thái độ thù địch giữa Tai Li, bạn bè của Miles với cấp lãnh đạo trong SACO và FMM cũng gia tăng. Kết quả là, Tai Li ra lệnh cho FMM đóng cửa các cơ sở liên lạc với Đông Dương trên đất Trung Quốc. Patti rút ra kết luận là việc này "làm tê liệt hoạt động của lực lượng thân de Gaulle cho đến hết chiến tranh". Hậu quả của sự nghi ngờ lẫn nhau thật nhãn tiền, mùa hè năm 1944 Robert Meynier bị rút khỏi vị trí công tác và gia đình Meynier rời Trung Quốc. Nhìn chung, Miles rất thất vọng về sự sụp đổ của nhóm Meynier, về OSS, và cuối cùng, về vai trò của Mỹ trong lịch sử Việt Nam. Liên quan đến vấn đề thứ nhất, ông nói rõ: "Với sự ra đi của gia đình Meynier, chúng tôi cũng rời Đông Dương, để lại một khoảng trống cho Nhật trám vào". Nhìn lai tình hình năm 1943, ông thậm chí còn bị chính phủ của mình và lãnh đạo OSS làm đau lòng hơn:


Với áp lực nhiều hơn từ giới chóp bu trong chính quyền Mỹ phải giữ nguyên những cuộc cãi vã của người Pháp, chúng ta hẳn đã, trong vấn đề Đông Dương, tạo ra nhiều điều kỳ diệu. Nhưng bất chấp những nguyên tắc cao quý đã được nêu ra trong Tuyên bố Đại Tây Dương, chúng ta đã không theo đuổi được ngôi sao tự do của chúng ta. Thay vì đi đầu, chúng ta lại chơi trò lãnh đạo - theo - sau ở Viễn Đông. Vô tình hay cố ý - tôi không biết cái nào - chúng ta đã cho phép mình chịu quá nhiều tác động của Anh và Pháp, những nước mà quyền lợi và lịch sử gắn chặt với nô dịch - không phải là giảí phóng - các dân tộc Viễn Đông. Thời đại đó đã kết thúc, như hầu hết các nhà quan sát đã biết, nhưng Donovan, vì những nguyên nhân tôi không bao giờ hiểu được, đã liên kết chặt chẽ với những kẻ mơ ước giữ nguyên tình trạng châu Á trước chiến tranh. Miles lặp lại những ý kiến thường thể hiện thái độ chống chủ nghĩa đế quốc của Roosevelt trong hai năm trước khi ông mất. Mặc dù Miles không hề cho thấy ông biết tường tận kế hoạch uỷ trị của Roosevelt, nhưng cố nhiên ông tin tưởng nước Mỹ nên đóng vai trò thực dụng trong việc ủng hộ "chủ nghĩa dân tộc" ở châu Á. Dù ông quan tâm nhất đến bảo vệ và củng cố chính quyền Tưởng Giới Thạch, nhưng chủ nghĩa thực dụng của ông vượt ra ngoài đất nước này. Kinh nghiệm của ông với Robert Meynier, Công nương của SACO và "những người Philippines" thuyết phục ông rằng dĩ nhiên thành phần tinh hoa trong những người Việt Nam hoàn toàn có thể lãnh đạo đất nước mình. Việc Miles tán thành những ước mong có tiếng nói mạnh hơn trong chính phủ của người Việt Nam được thể hiện rõ ràng trong nhật ký của ông .


Như đã nói ở trên, Larson, cấp dưới của Miles, cũng đi đến kết luận này thông qua công tác của chính mình với nhóm của Meynier. Trong một chừng mực nào đó, quan điểm làm sao để hoạt động hiệu quả ở Đông Dương thuộc Pháp của Larson còn sắc bén hơn. Mặc dù các mối quan hệ của Robert Meynier chủ yếu là người Pháp, nhưng ông đã sớm kết luận "sẽ không có bất kỳ hoạt động nào thành công ở Đông Dương nếu thiếu hỗ trợ tại chỗ". Larson tin tưởng chắc chắn rằng người Mỹ chiếm ưu thế trong việc giành được sự ủng hộ ở Đông Dương vì Mỹ được xem là "đỉnh cao của dân chủ và tự trị" lại "không có tham vọng về thuộc địa" ở châu Á. Tuy nhiên, Larson cho rằng người dân phải thường xuyên được bảo đảm mục đích chiến tranh của Mỹ không chỉ nhằm "loại bỏ những lời nói suông" và yêu cầu dân tộc này phải được nói tới như người Việt Nam. "Chúng ta nên nhìn xa [đủ] để không nói đến thuật ngữ "An Nam" mà đúng hơn phải là "Việt Nam ", Larson viết. Theo nghĩa đen, "An Nam" có nghĩa là "phương nam bị bình định" và nhắc người An Nam nhớ đến lịch sử bị người Trung Quốc nô dịch, trong khi đó "Việt Nam" là cái tên mà họ, chính họ, đã đặt cho tổ quốc của mình".


Ngoài Miles và Larson, và có lẽ bổ sung thêm vào nỗi ngạc nhiên của họ, nhiều sĩ quan OSS trẻ tuổi cũng lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Đông Nam Á và ủng hộ chủ nghĩa dân tộc của người Việt Nam . Những trải nghiệm về Chiến tranh thế giới 2 của những sĩ quan OSS này trùng với những trải nghiệm của Miles và Larson vì họ thường xuyên gặp gỡ và làm việc với những người Việt Nam tốt nhất và thông minh nhất, đấy là chưa kể đến một số người thân Mỹ nhất. Họ cũng có thể gặp một số điều chán nản tương tự khi cố làm việc, và sử dụng âm mưu khi cần thiết, trong thế giới phức tạp của quan điểm chính trị Pháp. Bất chấp bình luận của Miles về chính sách của Mỹ, sự ra đi của gia đình Meynier không tạo ra "khoảng trống để Nhật trám vào". Dù mất những kiến thức đã được tích luỹ và liên hệ với Miles, Larson, và toàn bộ tổ chức của Meynier chẳng khác gì một đại hoạ nhưng GBT, vẫn trụ vững trong năm 1944, lại hiệu quả hơn bao giờ hết.


Qua vài năm đầu của chiến tranh, GBT tiếp tục chuyển tin từ mạng lưới rộng lớn của mình ở Việt Nam cho Trung Quốc, Anh, Nước Pháp Tự do và một số nhóm khác nhau của Mỹ, đáng kể nhất là Không đoàn 14 của Chennault. Một điển hình về tin tức mà mạng lưới của GBT cung cấp cho tất cả các binh chủng là một loạt báo cáo đề cập đến sự chuyển quân đang diễn ra và có thể diễn ra trong hơn ba ngày vào tháng 11 năm 1944. Dù đơn giản nhưng sự truyền tin cho thấy mức độ chi tiết phi thường về những hoạt động của quân Nhật. Ngày 25 tháng 11, các điệp viên báo tin 800 quân đã "có kế hoạch rời Bắc Ninh về Lạng Sơn". Đêm hôm sau họ báo quân Nhật "rời Sept Pagodas(3) và Vĩnh Yên để đến Lạng Sơn bằng tầu hoả và xe tải", và ngày 27 là "chuyến tàu quân sự số 3048 của Nhật theo lịch trình sẽ đến Phủ Lạng Thương lúc 1:15 phút sáng, Lạng Sơn lúc 6:22 phút chiều và 9:44 phút tối đến Nacham. Những thông tin như vậy cho phép Không đoàn 14 phối hợp ném bom đường sắt đồng thời nâng cao hình ảnh của Đồng Minh trong mắt người dân Việt Nam. Một điệp viên chiến trường báo rằng "tất cả mọi người tin rằng vụ ném bom hai đoàn tầu chở đầy quân Nhật, vũ khí và ngựa đã đạt kết quả tốt và vui mừng về điều đó".


Không đoàn 14 liên tục nhận được những thông tin quý giá từ GBT và đánh giá cao mạng lưới của họ. Đại tá Jesse Williams thuộc đơn vị Hổ bay của Chennault báo cho Coughlin rằng GBT "đã gửi về những thông tin tốt nhất từ Đông Dương".


Williams nói rõ, nhiều phi vụ đã dựa vào tin tức của GBT, và so với tin tình báo do mạng lưới của FMM và Meynier cung cấp thì tin của GBT "tốt hơn tất cả những nguồn kia cộng lại". Giới thiệu tuyệt hảo của Williams có kết quả ngay lập tức: OSS đã cấp cho GBT "một số máy thu vô tuyến, một máy phát, hai máy phát điện nhỏ và khoảng 1.000.000 đô la" quy ra tiền Trung Quốc. Mặc dù OSS đã biết rõ về GBT nhưng không phải đến khi Miles bị thải hồi khỏi OSS và tiếp đó là sự sụp đổ mọi niềm hy vọng về nhóm của Meynier thì nhóm của Donovan mới bắt đầu điều tra Gordon, Bernard, Tan và mạng lưới thông tin mà họ đã gây dựng.


Sử dụng điện đài do người Anh cung cấp, OSS , Chennault và GBT đã thiết lập một mạng lưới chỉ điểm và người đưa tin. Những người này chuyển thông tin đi và đến hàng loạt các trạm điện đài bí mật của GBT. Mạng lưới liên quan đến một lực lượng điệp viên đông đảo, bao gồm cả người Pháp và Việt Nam . Họ cung cấp nhân lực cho các trạm thu phát điện đài.


Khoản viện trợ bổ sung đến dưới các hình thức khác. Nhà sử học David Marr đã viết rằng một tu sĩ người Pháp là thành viên "cốt cán" của GBT đã giúp tài trợ cho những nỗ lực của họ bằng quyên góp "tài sản của hội truyền giáo ở Đông Dương".


Toàn bộ hoạt động tình báo này được phối hợp từ tổng hành dinh của Gordon ở Long Châu (tỉnh có tầm quan trọng chiến lược Quảng Tây) và được phân cho rất nhiều nhà bảo trợ. Sử dụng thông tin được cung cấp qua ngả Gordon làm ví dụ, nhà sử học Bernard Fall nhấn mạnh vai trò của người Pháp trong việc giúp đỡ cả người Anh và Mỹ. Trong cuốn "Chính sách của Mỹ về Việt Nam", ông viết rằng: "Kháng chiến Pháp đã cung cấp những thông tin then chốt về sự di chuyển quân đội và hải quân Nhật cho Gordon, đến lượt mình Gordon lại chuyển tiếp cho Chennault". Fall khẳng định những thông tin này đã cho phép Không đoàn 14 "thực hiện những cuộc tấn công chính xác vào các mục tiêu quân sự của Nhật".


Các học giả khác thì nhấn mạnh đến vai trò của người Việt Nam trong GBT. Theo Cecil B. Currey, từ năm 1942 các cán bộ Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng… đã cung cấp những thông tin hữu ích cho hoạt động tình báo của Đồng Minh - nhóm GBT. Phóng viên Robert Shaplen có quan điểm hơi khác về sự hợp tác này. Ông nhấn mạnh hợp tác của GBT với Việt Minh nhiều hơn là ngược lại: "Đến với ông (Hồ Chí Minh) là đại diện của nhóm dân sự các cựu doanh nghiệp Mỹ ở Đông Dương đã có thời cộng tác với người của ông". Vì mạng lưới của Gordon - Tan rõ ràng đã có những mối liên lạc tốt nên OSS biết cơ quan này cần tìm hiểu nhiều hơn về họ cũng như về toàn bộ tình hình tại Đông Dương thuộc Pháp.


Được giao nhiệm vụ tháo gỡ những bí mật của GBT là thiếu tá Austin Glass - người cũng đã được Coughlin phái đi điều tra Larson và tổ chức của Meynier. Glass rời Washington đến mặt trận Trung Quốc tháng 1 năm 1944 và dành cả năm tiếp theo thực hiện công tác tình báo bí mật (SI) trong và ngoài Đông Dương. Trên phần lớn các phương diện, ông là lựa chọn tuyệt vời cho vị trí này. Sau khi học tập 4 năm tại Đại học Michigan , mới ngoài 20 tuổi Glass đã lên đường sang Việt Nam . Hai mươi nhăm năm tiếp theo ông làm cho Hãng Dầu lửa Standard, lập gia đình với một phụ nữ Việt Nam . Năm 1937 ông về hưu, sống cuộc sống tương đối nhàn nhã như "một người làm vườn và trồng lúa" gần Hải Phòng. Mùa xuân năm 1942 ông được hồi hương trong đợt trao đổi tù binh dân sự và ngoại giao lần thứ nhất với Nhật Bản. Ông trở về Mỹ trên tầu Gripsholm của Thuỵ Điển rồi ra nhập quân đội. Cuối năm đó ông vào OSS . Đã từng sống ở Đông Dương 30 năm, Glass thông thạo tiếng Pháp cũng như "các thứ tiếng bản xứ", ông được mô tả là "được cả người Pháp cũng như người bản xứ yêu mến một cách khác thường" và có hiểu biết sâu rộng "về đất nước và con người khu vực này" mà "không một người Mỹ nào sánh kịp". Vì thế ông rất thích hợp với công tác tình báo bí mật - "đưa các điệp viên lọt vào Đông Dương và giữ liên lạc chặt chẽ với người Pháp và các tổ chức bí mật của người bản xứ".


Thời gian ở Trung Quốc Glass công tác gần gũi với FMM, một số người Việt Nam và nhiều đầu mối cá nhân khác, báo về mọi tin tức từ tình hình kinh tế đến số lượng máy bay Nhật tại sân bay Gia Lâm và Tân Sơn Nhất. Trong yêu cầu lấy được thông tin đáng tin cậy và chính xác của mình ông đã khám phá ra GBT. Báo cáo cho OSS, Glass nêu rõ ông đã có đủ cơ sở để "chứng minh một cách chắc chắn" rằng GBT "được trang bị tốt nhất cả ở trong lẫn bên ngoài FIC (Đông Dương thuộc Pháp) để thu thập tin tức từ khu vực quan trọng này".


Ông mô tả Gordon, Bernard và Tan như "những đường dây sống, những nhân viên mẫn cán và có năng lực". Ông tiếp tục:


Họ là những người thực dụng nhất trong việc lấy thông tin có giá trị chiến thuật cao cả về chính trị và kinh tế. Họ còn lấy được nhiều bản sao của tờ Hành động, nhật báo Hà Nội, Đông Dương - tờ tạp chí phát hành hàng tuần tại Hà Nội, và tờ báo chính thức của chính quyền Đông Dương thuộc Pháp. Phần lớn những thông tin hữu ích loại thông thường được lấy từ nguồn này. Thật ngạc nhiên là cả về số lượng và giá trị, tin tức nhận từ nhóm này lại vượt quá nhưng gì thu được từ phái bộ quân sự Pháp .


Mặc dù ca ngợi GBT hết lời, nhưng Glass dĩ nhiên không đơn độc trong công tác điều tra nhóm này. Những thành viên OSS khác cũng bắt đầu biết rõ GBT và có những báo cáo tương tự chỉ với đôi chút khác biệt về giọng điệu. Đại tá Robert B. Hall mô tả các mối liên kết của OSS với GBT là "quanh co". Ông hạ thấp tầm quan trọng của các đầu mối người Pháp của nhóm - cái rõ ràng là điểm mạnh của Gordon - có lợi cho các mối quan hệ của họ với Trung Quốc. Nhìn chung Hall xem đấy là những biểu hiện tích cực:


Nhóm Bernard - Cordon không dám hợp tác với người Pháp vi họ có được sự trợ giúp (không phải về tài chính) mạnh mẽ của người Trung Quốc… Hậu thuẫn chủ yếu đến từ người Anh, nhưng Không đoàn 14 cũng giúp cho một thời gian dài. Họ đã làm một công việc vĩ đại và rất tự chủ. Các mối quan tâm của họ không phải lúc nào cũng trùng với của Đế chế Pháp. Bởi vậy, báo cáo của họ thường không có sự thiên lệch ngoại lệ này. FMM muốn loại họ ra khỏi đường đua hay ít ra là tiếp cận được các nguồn cung cấp thông tin của họ .


Bất chấp Hall đã mô tả quan hệ giữa OSS và GBT là "quanh co", nhưng hai tổ chức này vẫn có mối liên kết tương đối mạnh, dù không công khai: Hall báo cáo rằng "để có được sự giúp đỡ chắc chắn", GBT đã "cung cấp nguồn tài chính của mình cho AGFRTS". AGFRTS là viết tắt của Air and Ground Forces Resources Technical Staff (Ban Tham mưu Kỹ thuật cho Không quân và Lục quân) số 5329 được tướng Donovan đặt tên thánh vào tháng 4 năm 1944 như một nhóm bí mật của OSS. Đầu năm 1944, Donovan vẫn còn đấu tranh nhằm phá vỡ mạng lưới của người Trung Quốc, nhưng thoả thuận của Miles với Tai Li vẫn tiếp tục có hiệu lực và SACO về pháp lý là cơ quan thu thập tin tức tình báo tại mặt trận Trung Quốc. Nhóm bí mật AGFRTS được thiết lập để đảm đương "toàn bộ trách nhiệm tình báo cho Không đoàn 14 của Chennault" và vì thế thoát khỏi sự kiểm soát của SACO. Khỏi cần phải nói, dòng thông tin từ GBT chuyển đến AGFRTS vô cùng quan trọng không chỉ với Không đoàn 14 mà còn với cả OSS nói chung.


Gordon đã vạch ra một loạt kế hoạch nhằm tăng cường thu thập thông tin ở Đông Dương, một trong số đó ông đã trình bày với Coughlin ngày 11 tháng 9 năm 1944. Trong cuộc gặp với Coughlin, Gordon đã phác thảo một kế hoạch toàn diện cho cuộc kháng chiến của thường dân Pháp tại Việt Nam . Gordon báo cho Coughlin rằng lực lượng bí mật Pháp đã liên lạc với ông và "người Pháp ở FIC cảm thấy thời cơ đã đến" với họ để "tham gia tích cực hơn vào cuộc chiến chống Nhật Bản". Gordon giải thích rằng ngoại trừ ở "một khu vực tách biệt, nhóm kháng chiến hoàn toàn là người Pháp; và có tổ chức cao nhất ở khu vực miền Bắc và miền Trung, có 17 nhóm kháng chiến với tổng số 412 thành viên ở Bắc Kỳ và 8 nhóm không chiến ở Trung Kỳ với 94 thành viên nữa". Theo Gordon, Kháng chiến Pháp không cần tiền nhưng dứt khoát cần quân nhu và trang thiết bị, nhất là vũ khí. Vì lý do đó ông đã thăm dò OSS . Coughlin đã nêu những nét chính, dẫn giải và đưa ra ý kiến về "Bản kế hoạch Gordon" rồi ngày 20 tháng 9 ông gửi nó cùng đánh giá của mình đi Washington.


Kế hoạch của Gordon trước tiên là cố gắng đưa ra đảm bảo cụ thể cho Kháng chiến Pháp mà chính phủ Mỹ có thế sẵn sàng trợ giúp và trang bị cũng như cấp cho họ "những chỉ thị phối hợp với chiến lược của Đồng Minh". Kháng chiến Pháp muốn người Mỹ đến gặp họ, đánh giá nhu cầu và khả năng của họ, giúp họ thiết lập thêm những trạm điện đài. Về phần mình, họ sẽ tiếp tục giúp các phi công Mỹ và tù binh chiến tranh, và Gordon thậm chí còn "cảm thấy chắc chắn" rằng các hoạt động phối hợp giữa OSS và Kháng chiến có thể "bảo đảm giải thoát toàn bộ trại giam (một trại giam tù binh chiến tranh lớn ở Sài Gòn) hay chỉ những thành viên mà những người lập kế hoạch cần đến". Kháng chiến đề nghị sử dụng điện đài của họ "với tần số, mật mã và lịch liên lạc cần thiết" để liên lạc với các tầu ngầm ngoài khơi. Tầu ngầm có thể được sử dụng "cho các cá nhân đến và đi an toàn", thậm chí cho "việc bắt cóc những cá nhân nào đó rồi chuyển về cho Đồng Minh". Coughlin giải thích, các nhóm kháng chiến dân sự được "tổ chức nhằm mục đích phá hoại", và cho dù "đối với Gordon và người Pháp, kế hoạch này chủ yếu liên quan tới kháng chiến, thì sản phẩm phụ rất tự nhiên của một kế hoạch như thế sẽ là tình báo".


Mối quan tâm của Coughlin về những khả năng thu thập tin tình báo đã thúc giục ông ta tán thành xét duyệt kế hoạch Gordon. Ông ta đề nghị OSS "lợi dụng tổ chức này", kèm thêm huấn thị "việc này phải được chỉ đạo thông qua Gordon, ít nhất cũng là trong thời gian đầu". Coughlin nhấn mạnh mối quan hệ tích cực của Gordon với người Trung Quốc và thực tế họ đã cho phép GBT "hoạt động mà không gặp bất kỳ cản trở nào" trong mặt trận của họ như một lý do quá đủ để tiếp tục sử dụng Gordon làm liên lạc chính.


Để làm bằng chứng, từ ngày 1 tháng 9 năm 1944 ông ta đã gửi sơ đồ "Bố trí các nhóm chiến đấu và phá hoại" của Gordon đi khắp Bắc Kỳ và Trung Kỳ và còn gửi kèm cả bản đồ Đông Dương của GBT xác định những vị trí thích hợp cho nhảy dù hoặc hạ cánh máy bay cho quân Mỹ, những sân bay có thể "dùng được ngay", và các vị trí liên lạc điện đài. Coughlin kết luận vắn tắt về vị trí của GBT:


Chiến trường Đông Dương thuộc Pháp xuất hiện nhiều vấn đề khác xa với ở Trung Quốc. Vì lý do đó GBT không chuyên về bất cứ vấn đề nào. Họ đang quản lý tình báo, viện trợ đường không, phát hiện mục tiêu cho không quân, tấn công và phá hoại. Họ mong muốn duy trì mối quan tâm tích cực nhưng muốn chắc chắn rằng từng mục phải được xử lý một cách đúng đắn và tất cả các hoạt động lớn sẽ diễn ra đồng bộ. Cuối cùng họ muốn nhận được chỉ thị và sự giúp đỡ đặc biệt, và được tham vấn để cho kinh nghiẹm cũng như khả năng của họ có thể được khai thác triệt để.


Trong khi Gordon và GBT rõ ràng rất thận trọng tính đến toàn bộ nhân sự cần thiết sao cho không làm hại hoặc nhiệm vụ hoặc mạng lưới của mình thì họ cũng cẩn trọng không kém đối với vấn đề độc lập. Coughlin làm rõ, "Gordon không mời chúng tôi tham gia vào cơ quan tình báo [GBT] và tuyên bố ông ta không cần giúp đỡ để duy trì cơ quan đó. Ông ta không tiết lộ các điệp viên cũng như cơ cấu tổ chức của mình với người ngoài". Dẫu vậy Coughlin vẫn lạc quan về tương lai của sự hợp tác OSS - GBT. "Tôi tin rằng liên lạc và kết hợp với ông ta [Gordonl có thể cho phép chúng ta tìm hiểu đầy đủ về tổ chức của ông ta đồng thời cho phép chúng ta thiết lập một tổ chức của chính mình".


Tháng 11 năm 1944, nhóm GBT đề nghị thảo luận về "Bản báo cáo Đông Dương thuộc Pháp", trong số các chủ đề thảo luận có nhu cầu đối với cuộc kháng chiến của nhân dân và vị thế hiện tại của cuộc kháng chiến này. GBT chỉ ra rằng mặc dù "Quân đội Pháp ở Đông Dương là lực lượng khá nhất để chống lại Nhật", nhưng rõ ràng đội quân này có những hạn chế nghiêm trọng như mối lo thường trực sẽ bị Nhật giải giáp". Vì vậy, có vẻ hiển nhiên với Gordon là "một nhóm dân thường khoẻ mạnh được phiên chế vào các đơn vị chiến đấu và phá hoại sẽ có giá trị lớn lao". GBT tin những thành viên đáng tin cậy nhất của Kháng chiến Pháp là những người như nhóm 22. Nhóm 22 được GBT bảo trợ và là tổ chức dân sự có tầm cỡ duy nhất tồn tại ở Việt Nam trước khi nước Pháp được giải phóng. Gordon đánh giá cao các thành viên của nhóm 22: "Được lựa chọn trong những ngày đầu khi bạn hữu như lá mùa thu và đã chứng minh được lòng trung thành, khả năng, mục đích kiên định của mình", ông viết: "Họ, theo tôi, không chỉ là nhóm xuất sắc nhất mà đương nhiên là nhóm duy nhất đáng tin cậy ở nước này". Gordon bày tỏ sự quan ngại sâu sắc rằng nhóm 22 đang bị suy yếu bởi sự kết hợp giữa quan điểm chính trị Pháp và thất bại trong một bộ phận của Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ, trong việc công nhận và hậu thuẫn họ. Ông cảnh cáo người Mỹ rằng từ tháng 8, khi Paris được giải phóng, các nhóm kháng chiến thân Đồng Minh "mọc lên như nấm trên khắp đất nước", hầu hết "cố chứng tỏ thiện ý trong mắt Đồng Minh".


Giờ đây Paris đã sạch bóng thù, mối quan tâm của Pháp tập trung vào giải phóng và duy trì đế chế. Trong một nỗ lực kiến lập một hình thức hợp pháp nào đó với Đồng Minh, tướng Pháp Gabriel Sabattier, chỉ huy Quân đội thuộc địa ở Bắc Kỳ, đã gửi điện cho Gordon qua nhóm 22, thuyết phục ông tạo lập quan hệ chính thức với Kháng chiến Pháp thông qua FMM ở Trùng Khánh. Với việc bổ nhiệm tướng Eugene Mordant làm tư lệnh Kháng chiến, việc này trở nên khó khăn hơn. Mordant bắt đầu chiến dịch vận động thành lập nhóm kháng chiến dân sự của chính ông ta ngay sau khi nhậm chức. Ông ta báo cho nhóm 22 rằng họ nên được sáp nhập vào cơ cấu của lực lượng kháng chiến rộng lớn hơn của ông ta và được đề nghị lực chọn "những nhiệm vụ nào đó". Nhóm 22 bày tỏ sự bất bình của họ với Gordon và nhấn mạnh mong muốn một nhà lãnh đạo có "kế hoạch rõ ràng và được Đồng Minh hậu thuẫn". Họ trình bày với ông chi tiết lý do phản đối Mordant và phe lũ của ông ta ở ba điểm chính:


- Họ đại diện cho thất bại về năng lực trong quá khứ.


- Họ không chỉ là những kẻ phản bội tìm kiếm an toàn cho riêng mình mà còn vu cho nhóm 22 chống Pháp bởi nhóm này đã đòi hỏi có được chỉ thị và sự họp tác của Đồng Minh.


- Hai ví dụ gần nhất về mệnh lệnh của Mordant được một nguồn tin đáng tin cậy báo cáo tự chúng đã nói lên, không cần giải thích:


Trong một tờ truyền đơn được chuẩn bị vào tháng 10 năm 1944, biểu tượng tuyển người vào Kháng chiến Dân sự không khác gì vũ khí chống "Đế quốc Mỹ" . Việc làm ghê tởm đó hầu như chỉ nhằm mục đích gây cười, nhưng minh chứng một cách đầy đủ chính sách dao động trong nhóm người này.


Với tư cách là bước đầu tiên huấn luyện dân thường, mọi người bị dồn lên xe quân sự ở Hà Nội và giữa thanh thiên bạch nhật bị đưa ra khỏi thành phố vài dặm tới doanh trại Pháp để huấn luyện. Tất cả những người chứng kiến đều hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Việc làm này đã cho lính Nhật cơ hội kiểm tra những cá nhân được tuyển mộ và yếu tố bất ngờ của Phong trào Dân sự đang được điều chỉnh một cách vô vọng.


Tương lai sẽ chứng minh nhóm 22 đúng trên nhiều phương diện. Giải phóng nước Pháp đã cổ vũ nhiều người Pháp ở Đông Dương hy vọng vào chiến thắng của Đồng Minh trên mặt trận Thái Bình Dương trong một tương lai gần, còn Nhật thì theo dõi hoạt động ủng hộ Đồng Minh của thực dân đã gia tăng. Dĩ nhiên, sự khuyến khích kháng chiến chống Nhật của GBT đã làm họ thay đổi việc thu thập và phân tán thông tin liên quan đến cái mà nhà sử học David Marr mô tả là "đánh giá thái độ chính trị và cổ vũ lực lượng vũ trang bí mật chống Nhật". Đương nhiên, khả năng đánh giá các nguồn thông tin và báo cáo về chúng của Gordon rõ như thanh thiên bạch nhật đối với nhiều người, trong đó có OSS và Không đoàn 14. Tuy thế OSS lại không hoàn toàn thích sử dụng GBT vì có những biểu hiện nào đó làm cả Coughlin và người tiền nhiệm của ông ta, Donovan, lo lắng.


Trong những lời chỉ trích "Kế hoạch Gordon", Coughlin tính đến quan sát của chính cá nhân ông ta về từng người trong số ba thành viên cơ bản của GBT. Coughlin thú nhận rằng ông ta vẫn chưa gặp Frank Tan, nhưng cho biết ông ta chấp nhận mô tả tính cách Tan "như một người Hoa hoàn toàn đáng tin cậy" của Gordon. Ông ta còn thêm rằng Tan "phụ thuộc vào Gordon vì vị trí của mình sau chiến tranh thế giới". Coughlin bình luận, so với Gordon, Harry Bernard "không sắc sảo bằng", và không có cùng "nghị lực". Tuy nhiên Coughlin nêu rõ "Bernard mong muốn tột bực được giúp người Mỹ bằng mọi cách có thể". Điều này trái ngược với Gordon - người được Coughlin mô tả là "cực kỳ thân Anh" và "suy nghĩ dưới dạng duy trì Đế quốc Anh". Ông ta bổ sung, "Tôi không hề nghĩ rằng chúng ta nhận được tất cả những tin tình báo mà ông ấy thu được, nhưng phần chúng ta nhận được cho đến lúc này cũng đã nhiều hơn những gì đã trả cho sự giúp đỡ mà chúng ta phải đáp lại"


Donovan cũng nghi ngờ các mối liên hệ của Gordon.


Trong các cuộc trao đổi với tưởng Petchkoff tại Trùng Khánh, Donovan đổ lỗi cho GBT đã gây ra những hiểu lầm giữa Mỹ và Pháp. Trong các cuộc điều tra Gordon của mình, đại tá Paul Helliwell, sếp của SI tại tổng hành dinh OSS ở Côn Minh, lại tìm thấy những điều rất trái ngược. Helliwell báo cáo rằng Gordon mô tả người Anh gia nhập "FLC bằng nỗ lực của chính mình, không hề có sự phối hợp chiến trường", và người Pháp "hoàn toàn không đáng tin cậy". Thậm chí nếu không có những hoài nghi liên quan đến các mối liên hệ của Gordon thì Donovan cũng khó mà chấm dứt kế hoạch của Gordon. Đề nghị viện trợ cho các nhóm của Kháng chiến Pháp của OSS đã gặp khó khăn tại Washington . Tổng thống Roosevelt đã đáp lại ý tưởng này trong một giác thư gửi ngoại trưởng Hull .


Ông viết: "Về vấn đề Đông Dương, ý kiến của tôi là lúc này chúng ta không nên làm bất kỳ điều gì liên quan đến các nhóm kháng chiến hay liên quan đến Đông Dương". Mặc dù Kế hoạch Gordon đã suy yếu, nhưng OSS vẫn nóng lòng tăng cường vai trò tình báo của nó tại Đông Dương thuộc Pháp, ở một giới hạn nào đó bằng cách giành được sự tiếp cận lớn hơn đến mạng lưới đang tồn tại của GBT. Để làm được việc này cũng như để canh chừng Gordon, OSS đã bổ nhiệm trung uý Charles Fenn làm liên lạc viên của nó cho GBT. Fenn, Coughlin tuyên bố, "là người duy nhất ông ta muốn tin tưởng giao phó nhiệm vụ này".


Trong ba tháng cuối cùng của năm 1944, Charles Fenn là sĩ quan OSS duy nhất làm việc cùng GBT và báo cáo về các hoạt động của nó, và khi năm 1945 đến gần, Fenn đã có đầy đủ lý do để hy vọng rằng mối quan hệ tốt đẹp của OSS với GBT sẽ tiếp tục. Tuy nhiên, quan hệ của OSS với GBT sẽ sớm thay đổi.


Tự trấn an mình về khả năng gần như vô hạn của nhóm, Donovan đã quyết định cố đưa nó vào vòng kiểm soát hoàn toàn của OSS . Cho dù nhiều thành công của GBT có thể được gán cho sự độc lập tương đối của nó đi chăng nữa thì cũng dễ phỏng đoán phản ứng của Gordon, Bernard và Tan trước bất kỳ nỗ lực nào muốn chiếm quyền kiểm soát nhóm này. Vì thế trong khi Gordon lên đường đi Washington để giải quyết khó khăn mới nảy sinh thì Fenn liên hệ mật thiết hơn với hai thành viên khác của nhóm. Với sự có mặt của Bernard và Tan, Fenn đã gặp một thành viên mới người Việt được giới thiệu dưới bí danh Hồ Chí Minh.


Chú thích:
(1) Con đường nối Burma với Trung Quốc, tổng chiều dài 1.130 km , được xây dựng trong hai năm 1937 - 1938.
(2) Croix de Guerre trong nguyên bản
(3) Sept Pagodas: 7 chùa trên địa bàn tỉnh Nam Định gồm Đại Bi, Phổ Minh, Phúc Lâm, Cổ Lễ, Chùa Đệ tứ Trần Nhật Duật, Keo và Vọng Cung.


CHƯƠNG 4


Trong lời tựa cuốn sách xuất bản năm 1973 của mình có tựa đề Hồ Chí Minh. Giới thiệu tiểu sử, cựu thành viên OSS Charles Fenn viết:


Dưới chế độ thực dân, kẻ thống trị và người bị trị dường như có số phận nhơ nhuốc như nhau. Kẻ thống trị trở nên vụ lợi ngạo mạn, khinh người, cố chấp, và một số trở nên độc ác. Người bị trị trở nên hèn hạ, biếng nhác, xảo trá, bất tín, và một số trở nên bất trị. Điều đó xảy ra khi kẻ thống trị trở nên đặc biệt độc ác đến mức người bị trị trở nên đặc biệt bất trị. Trong chúng ta những người đủ lớn tuổi để nhìn lại kỷ nguyên thuộc địa vẫn nhớ với nỗi lo lắng khôn nguôi rằng hầu như chúng ta chấp nhận việc khoá miệng người Việt Nam, người Phi, Ấn Độ, Burma, Indonesia và các chủng tộc bị nô dịch khác như một phần mô hình chung của xã hội đã được thiết lập. Nếu ngẫu nhiên chúng ta là người Anh, người Pháp, người Đức, người Hà Lan, Bỉ hay Italia thì chúng ta cũng tự hào khoác lác về "tài sản" của chúng ta nhiều như chúng ta tự hào khoác lác về "tổng sản phẩm quốc dân" của chúng ta hôm nay". Chúng ta thoả mãn rằng người Phi, chẳng hạn, thấp hơn trong nấc thang tiến hoá; và rằng người châu Á, mặc dù có quyền được gọi là con người, cũng không thể được mô tả là giống người khôn ngoan, người ta chỉ phải nhớ những cái tên ứng với những kẻ thống trị (ông chủ, chủ nhân, ngàí) tương phản với một từ miệt thị định cho những kẻ bị nô dịch (người bản xứ). Trước tiên là một thuật ngữ hữu ích để mô tả người bản xứ, cuối cùng nó phân loại kẻ đó với một thân phận chỉ cách loài chó trong gang tấc .


Những kết luận được Fenn đưa ra trong năm 1973 được thai nghén từ những trải nghiệm trong Chiến tranh thế giới 2 của ông, lúc đầu là phóng viên đưa tin năm đầu của cuộc chiến, sau đó là trung uý thuỷ quân lục chiến làm việc với OSS và GBT. Sự đa dạng trong các cuộc phiêu lưu của Fenn đã sớm thuyết phục ông rằng làm việc với một số trong những người Đông Dương bất trị nhất - ít nhất cũng là trong mắt người Pháp - có thể dẫn đến những kết quả tình báo mà người Mỹ cần. Kết luận tiếp theo của Fenn có thể gây phiền toái cho lãnh đạo GBT, một số thành viên OSS và cuối cùng là cả hai chính phủ Anh, Mỹ. Bất kể điều đó có xảy ra, Fenn cũng tác động đến những sự kiện không cân xứng với vai trò bình thường không đáng kể của ông; cả người chỉ trích và người thán phục đều cho là Fenn đã ủng hộ Hồ Chí Minh trở thành nhà lãnh đạo tuyệt đối của Việt Minh năm 1945. Những kẻ gièm pha đổ lỗi cho ông, ít ra cũng ở một giới hạn nào đó, về sự mạnh lên của Việt Minh, thất bại sau đó của Đế chế Pháp trước những người cộng sản và thậm chí cả những khó khăn mà Mỹ gặp phải ở nước này. Phái ủng hộ thấy Fenn có đôi chút nhìn xa trông rộng, người đã nhận ra sức mạnh và ý chí của Hồ Chí Minh và phong trào Việt Minh của ông ngay từ đầu, người đã làm cho những lý lẽ của mình được chú ý lẽ ra đã có thể ngăn chặn những tổn thất to lớn về nhân mạng cho tất cả các bên từ năm 1946 đến 1975.


Charles Fenn sinh năm 1909 tại Vương quốc Anh. Năm 17 tuổi ông lên đường ra biển làm phụ trách tiếp viên hạng vé du lịch trên tầu Aquitania của Hãng R.M.S. Sau khi làm việc được 5 năm trên cương vị đó ông di cư tới Mỹ, định cư tại Philadelphia. Không lâu sau ông được nhập quốc tịch Mỹ và bắt đầu làm chân chào hàng dệt may. Dù thành đạt ở nghề này nhưng cuộc hôn nhân của ông với hoạ sĩ nổi tiếng Marion Greenwood đã khuyến khích ông khám phá thêm khía cạnh nghệ thuật của mình. Ông trở thành phóng viên ảnh cho tạp chí ảnh Friday và đến năm 1940 ông lên đường sang Trung Quốc chụp ảnh hậu quả của sự chiếm đóng của Nhật Bản.


Hình thức của tờ Friday cũng tương tự như tạp chí Life , nhưng tính đại chúng của Life và những quan điểm chính trị cánh tả của Friday đã ngăn cản tạp chí này tăng thêm lượng phát hành vốn hạn chế của mình. Cho dù thích Friday ở nhiều khía cạnh nhưng sau đó Fenn lại tìm một công việc chắc chắn và có thu nhập cao hơn. Giữa năm 1941 ông trở thành phóng viên và nhiếp ảnh gia chiến trường cho hãng AP. Hơn 2 năm sau đó ông đưa tin chiến tranh ở Bắc Phi và châu Á, trong đó có chiến dịch quân sự của Nhật vào Burma. Đầu những năm 40 các phóng viên mới được trả lương theo sản phẩm chứ không phải lương công nhật và Fenn nhanh chóng nhận thấy nguồn sống của mình bị căng quá mỏng. Năm 1943 ông trở lại thành phố New York tìm việc làm. Tại một dạ tiệc ông gặp Buckminster Fuller, quyền cố vấn cho OSS, và được mời đến Washington phỏng vấn.


Fuller đã nhận ra tài năng của Fenn trên cương vị phóng viên và nhiếp ảnh gia cũng như những phẩm chất tiềm tàng đối với OSS nhưng kinh nghiệm của Fenn về Trung Quốc và khả năng nói tiếng Quan Thoại ở mức độ vừa phải mới làm ông ta quan tâm nhiều hơn. Vì thế Fenn trở thành một trong những "chuyên gia" của tổ chức. Thoạt đầu có vẻ như Fenn sẽ khó hội nhập. Các thành viên OSS rõ ràng là "tinh hoa, có chọn lọc, cánh hữu và tốt nghiệp đại học", ông nhớ lại, và rõ ràng "những chuyên gia như tôi có lẽ không có tất cả những thuộc tính đáng mơ ước này". Quả thực, Fenn dường như không có một thuộc tính nào trong số đó. Là một kẻ di cư xuất thân từ một gia đình lao động Anh, ông không thể được xem là thành phần tinh hoa, và việc ông rời trường phổ thông trước khi tốt nghiệp khiến ông còn xa mới đạt tới trình độ đại học. Có lẽ, khó hiểu nhất là, trong một tổ chức "cánh hữu" riêng ông lại thuộc về cánh tả. Rõ ràng những khác biệt cơ bản này phần nào là nguyên nhân làm Fenn khác với hầu hết thượng cấp của ông và gây chia rẽ liên tục giữa ông với OSS trong năm 1945.


Sau khi tham gia OSS vào năm 1943, Fenn, người vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ quân dịch, gia nhập Quân đoàn Thuỷ quân Lục chiến và, hẳn là để có điều kiện giấu mình trong công tác của OSS, được bổ nhiệm trung uý nhất. Sau khoá huấn luyện cơ bản, ông vào học trường huấn luyện của OSS.


Tại đây ông quen với năm chi nhánh của OSS (Công tác đặc biệt (SO), Tình báo (SI), Nghiên cứu và Phân tích (R&A), Phản gián (CI), Công tác tinh thần (MO). Fenn nổi trội ở chi nhánh cuối cùng và được chỉ định vào MO khu vực Viễn Đông. Công việc của ông là "nghĩ ra mọi biện pháp có thể để dành lừa kẻ dịch về ý đồ, khả năng hay thời điểm" và "chép các bản tin, truyền đơn, tạp chí, báo và ảnh thành các bản sao chính xác nhưng với những thay đổi tinh vi làm hại kẻ thù". Mặc dù về nguyên tắc được phân công về MO, nhưng công việc của Fenn chẳng mấy chốc cũng đưa ông đến với SO và SI. Nhiệm vụ đầu tiên của Fenn là cùng trung tá Herbert Little phát triển một kế hoạch của MO nhằm hậu thuẫn các kế hoạch quân sự giành lại Burma. Sau khi hoạt động tại Burma ba tháng, ông được điều về Trung Quốc với chỉ thị từ Hải quân Mỹ cho phép ông đi "bất cứ đâu" trên mặt trận Trung Quốc - Burma - Ấn Độ mà "nhiệm vụ yêu cầu". Những chỉ thị này tạo điều kiện cho Fenn tự do đi lại. Tự do đi lại cho phép ông thực thi công vụ trọn vẹn nhất. Nó cũng đem lại ông đầy đủ cơ hội chuốc lấy oán hận từ các sĩ quan cấp trên, những người phản đối những "cuộc rong chơi" không bị hạn chế mà ông thực hiện không cần có sự chấp thuận của họ.


Trong lần đến Côn Minh năm 1944, cấp trên trong OSS của Fenn, John Coughlin, chỉ thị cho ông bắt đầu hoạt động dưới vỏ bọc AGFRTS với sự phê chuẩn của tướng Chennault tư lệnh Không đoàn 14.


Cuộc gặp của Fenn với Chennault diễn ra vui vẻ và có kết quả. Ông biết vị tướng "quá rõ" tứ những lần đưa tin về đơn vị này khi còn làm cho hãng AP và Chennault dễ dàng chấp thuận kế hoạch MO của Fenn, bao gồm sử dụng một số bạn hữu người Hoa của Fenn làm điệp viên. Chennault muốn các điệp viên MO giúp đỡ ông triển khai phương án tác chiến tâm lý cho các phi công của mình. Ông tin những điệp viên này có thể huấn luyện phi công của ông chống lại "những tác động và phản ứng đối với các cuộc ném bom dân thường tại những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng". Chennault đặc biệt quan tâm đến những khu vực như Đông Dương thuộc Pháp, nơi ông biết là "có người định cư da trắng nhưng dưới quyền kiểm soát của Nhật". Dù Fenn đã được phép sử dụng các điệp viên người Hoa, nhưng còn ít thời gian để làm điều đó lúc khởi đầu. Với việc Nhật bắt đầu tấn công trên khắp miền Đông Nam Trung Quốc, từ Hán Khẩu đến Quảng Châu trong năm 1944, hoàn cảnh đã bắt Fenn phải hành động một mình. Nhiệm vụ của ông là loan truyền tin đồn nhằm "chống lại những tin tức bịa đặt và có tính chất gây rối mà quân Nhật ở mặt trận Hành Dương, Quế Lâm và nhưng nơi khác đã reo rắc trước cuộc tấn công của chúng". Bởi đà tấn công nhanh chóng của Nhật nên ông "hoạt động đơn thương độc mã… loan truyền tin thất thiệt ít nhiều với tư cách cá nhân".


Fenn được khen ngợi vì thành tích hoạt động nhanh chóng và dũng cảm nhưng được thuyết phục mở rộng mạng lưới của mình ra ngoài giới hạn của MO và tham gia vào hoạt động của SI giúp Không quân. Không đoàn 14 cần thông tin về các mục tiêu, bố phòng và chuyển quân của Nhật, và hơn hết là điều kiện thời tiết. Vì vậy, ngay từ đầu nhiệm kỳ công tác của mình tại Trung Quốc ông đã biết rõ SI "quan trọng hơn hẳn" các hoạt động tinh thần. Mạng lưới phát triển rất nhanh và các điệp viên người Hoa của Fenn đã cung cấp những tin tình báo quý giá cho Chennault, OSS và GBT suốt chiến tranh.


Công tác của Fenn có bước ngoặt bất ngờ tại một nói bất ngờ vào mùa hè năm 1944. Trong lúc chờ chuyển bay đi Côn Minh tại Quế Lâm, Fenn vào phòng ăn của OSS uống một tách cà phê. Tại đây ông ngẫu nhiên trò chuyện với hai người lạ đó là "một cặp chẳng giống ai", ông nhớ lại, "một người miền Tây cao lớn, và một người Hoa lùn đến khác thường, cả hai đều mặc đồ ka ki dân sự". Hai người đó là Laurie Gordon và Frankie Tan. Mặc dù cuộc nói chuyện đầu tiên diễn ra thận trọng vì tính chất nghề nghiệp của họ, nhưng cuộc gặp gỡ bất ngờ thú vị này sau đó có ý nghĩa nhiều hơn mong đợi. Vào tháng Chín, một lần nữa Coughlin lại triệu tập Fenn đến văn phòng của ông ta để thảo luận về GBT.


Khi Coughlin đề cập đến ý kiến làm việc cùng nhóm Gordon thì phản ứng đầu tiên của Fenn là tích cực cho dù đã báo trước ông "chẳng biết mô tê gì về Đông Dương". Vì công tác của Fenn đến thời điểm đó, trước hết là ở MO, giới hạn ở Burma và Trung Quốc, nên ông có thể đã cảm thấy không đủ tư cách, tuy nhiên, căn cứ vào hiểu biết có phần hạn chế về Đông Dương trong toàn bộ OSS thì Fenn là người cừ nhất mà người ta có và ông đã chứng tỏ là một lựa chọn tuyệt vời.


Coughlin còn giải thích thêm rằng OSS muốn "tiếp quản toàn bộ hoạt động của GBT, chấm hết", nhưng Gordon "không chấp nhận điều đó" và nhất mực cho rằng hoạt động của ông ta thành công "phụ thuộc vào việc ông ta được độc lập". Sau một hồi tranh luận Coughlin nói rõ, cả OSS và Gordon đã đi đến thoả hiệp: OSS sẽ cung cấp tài chính nhưng Gordon phái "nhận một sĩ quan OSS vào nhóm". Điều đó hoá ra vô cùng thuận lợi vì Coughlin xem Fenn là "người duy nhất muốn được giao công việc này", bởi vì Gordon cũng đưa ra một điều kiện:"Fenn là cái tên duy nhất ông ta đồng ý".


OSS ngạc nhiên với thành tích của GBT, nhưng sự kín đáo của Gordon đã khiến nhiều người trong tổ chức muốn tiếp cận mạng lưới của ông phải nản lòng và bực tức. Vai trò của Fenn là hoạt động với GBT nhưng đồng thời phải phát hiện cho OSS "Gordon thực sự có quan hệ ra sao với các tổ chức khác mà ông ta đã kết nối" và liệu ông ta có phải là "điệp viên Anh" hay làm việc cho FMM, thậm chí là cho Tai Li" hay không. Được chỉ thị như thế, Fenn lên đường cùng Gordon đến tổng hành dinh của GBT tại Long Châu, một điểm quan trọng trong mạng lưới kinh doanh giữa Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam, khoảng 100 dặm về phía tây nam Nam kinh, gần biên giới Đông Dương. Fenn được báo trước rằng đến dinh thự của GBT sẽ hết một tuần đi bằng thuyền tam bản - kiếm được thông qua Fatty, một trong những doanh nghiệp Trung Quốc liên đới thời xưa của Gordon" - ngược dòng một con sông chảy xiết. Có cu li chống sào và vợ chủ thuyền lo việc ăn uống, Gordon và Fenn có nhiều tiếng đồng hồ trò chuyện và tìm hiểu lẫn nhau. Gordon dành thời gian giải thích cặn kẽ về hoạt động của ông. Gordon khoe rằng đến lúc đó (mùa hè năm 1944) ông đã có "một chục người bạn (tất cả là người Pháp nhưng rất thân Đồng Minh) tại Đông Dương gửi báo cáo về: hai báo cáo được gửi bằng điện đài, số còn lại theo đường thư".


Dù Fenn và Gordon đã trở thành bạn bè thân thiết nhưng Fenn vẫn thường xuyên liên lạc với OSS thông qua đại tá Robert Hall, hai thiếu tá Glass và de Sibour. Khi ông và Gordon còn đang trên đường, Fenn ngay lập tức bắt đầu làm theo chỉ thị thăm dò nguồn gốc lòng trung thành của Gordon.


Fenn thấy Gordon "nhìn chung thân Pháp", nhưng làm việc cho FMM không nhiều hơn cho người Anh, Mỹ hay Trung Quốc. Fenn mô tả Gordon là "hoà hợp với người Anh và Mỹ", nhưng ông mô tả điều đó bằng phát biểu rằng nếu Gordon "thân thiện hơn với người Anh thì phần nhiều bởi họ thân thiện hơn đối với ông ấy".


Từ quan điểm của Gordon, trường hợp đó là tất nhiên. Người Anh, nhất là MI5, đã cung cấp tất cả những trợ giúp mà họ có thể chỉ với duy nhất một điều kiện kèm theo: GBT cung cấp cho họ tất cả những tin tình báo thích hợp. Người Mỹ yêu cầu nhiều hơn một chút. Rõ ràng Chennault và Lực lượng không quân giải cứu trên Bộ (AGAS) đánh giá cao mạng lưới của GBT và thường giúp đỡ những nỗ lực của họ.


Sau khi chứng kiến những cuộc trao đổi giữa Gordon và người của Chennault được cử đến để thảo luận về mục tiêu và những hoạt động khả thi tại Đông Dương", Fenn đã báo cáo về: "Không nghi ngờ gì nữa, Gordon có những mối quan hệ tuyệt hảo với những người này cũng như với Hsiu (Hsiu Kwang-yin), một trong số những tay chân của Tai Li phụ trách Nam Ninh. OSS ít hài lòng làm bên nhận thông tin bình thường của GBT, và ngay từ đầu nó đã cố nuốt chửng nhóm này, một bước đi mà Gordon vừa chống lại và vừa phẫn nộ.


Về phần mình, Gordon quá rõ căn nguyên của OSS và lý do Fenn được cử tới làm việc với GBT: "Với việc hạm đội Mỹ đang di chuyển tới Biển Đông, (sự dính líu của Mỹ vào Đông Dương) là không thể tránh khỏi. Khi các hàng không mẫu hạm tới gần bờ biển Đông Dương, người ta sẽ cần biết thời tiết các mục tiêu và bố phòng của Nhật. Đó là lý do Coughlin được lệnh tham gia chiến dịch này và không được chậm trễ. Cách duy nhất hiệu quả mà ông ta có thể làm việc đó là thông qua cơ cấu của chúng tôi. Từ đây khát vọng của ông ta đưa chúng tôi lại với nhau".


Khi Gordon và Fenn tiếp tục ngược dòng, họ đã đón Frankie Tan. Fenn và Tan cũng tâm đầu ý hợp và hành trình đến Long Châu diễn ra vui vẻ. Đến tổng hành đinh GBT, "một ngôi nhà gạch đồ sộ có khoảng mười phòng", Fenn gặp thành viên thứ ba của nhóm, Harry Bernard, cũng như nhân viên hành chính gần gũi của Gordon, bà Tong và hai con gái bà là Helen và Janet. Một lần nữa Fenn đánh giá cao tính cách và khả năng của Bernard và trở thành người bạn thân thiết của ông và thư ký của Gordon, Helen Tong.


Sau một thời gian ngắn, Long Châu đã chứng tỏ là môi trường làm việc lý tưởng đối với Fenn và GBT. Vì Mỹ và Anh đang hợp tác và giúp đỡ Trung Hoa Dân Quốc nên các thành viên GBT có thể hoạt động công khai mà không sợ bị trả thù.


Lúc này sự gần gũi của Long Châu với Đông Dương cho phép họ liên lạc với các điệp viên bên trong Việt Nam tương đối thường xuyên để lên kế hoạch và khởi xướng những hoạt động mới. Trong vài ngày Fenn thậm chí còn sử dụng những điệp viên người Hoa của chính mình trong một phần hoạt động của GBT. Càng dính sâu vào GBT ông càng đánh giá cao những nỗ lực của họ vì lợi ích của Đồng Minh. May thay những cảm giác đó là hai chiều và mối quan hệ của bộ ba với Fenn đã phát triển thành sự tin cậy lẫn nhau và tình bạn thân thiết. Chẳng hạn, Gordon đã cho phép Fenn đi cùng ông đến dự một cuộc họp ở vùng giáp ranh với André Lan, trưởng nhóm điệp viên của ông tại Việt Nam - một hành động tin tưởng đáng kể, nếu xét đến thái độ lưỡng lự để lộ những thành viên trong mạng lưới của mình với người ngoài của Gordon.


Trong các cuộc gặp sau đó với Lan, một kẻ thực dân có những mối quan hệ địa phương vững chắc, Fenn biết được nhiều hơn tình hình Đông Dương. Dù là người Pháp nhưng lòng trung thành của Lan đối với Đồng Minh và Gordon là không phải bàn cãi, và thời gian sẽ chứng minh, khách quan mà nói, những cố gắng của Lan thường có trọng lượng hơn thành kiến của y. Trong những báo cáo cho Fenn, Lan xác nhận hầu hết những thông tin OSS đã biết thời gian đó, đặc biệt y thể hiện lòng kính trọng đối với sự điều hành liên tục của người Pháp trong vùng, và y sơ ý biểu lộ đôi chút nguy hiểm rằng y đối đầu với chính mình bởi dính líu vào GBT.


Tranh luận về quan hệ Pháp - Nhật, Lan xác nhận rằng thật không "xía vào giữa người bản xứ và người Pháp, ngoại trừ phóng thích các tù chính trị", bởi "họ cần không gian nhà tù cho cái mà họ cho là những tội quan trọng hơn như thái độ chống Nhật hay gây rối, không hợp tác và hoạt động gián điệp ; y bổ sung, "gián điệp cộm cán" bị tử hình ngay lập tức.


Căn cứ vào vị trí điệp viên quan trọng nhất của Gordon ở Đông Dương, nếu bị bắt, Lan sẽ bị Nhật hành quyết. Mặc dù là kẻ nguy hiểm hơn những thành viên khác trong nhóm, nhưng Lan hoạt động không mệt mỏi để cung cấp cho Gordon những thông tin từ Hà Nội, và vô số trường hợp y đã hộ tống người Pháp chạy trốn khỏi Đông Dương đến Trung Quốc an toàn.


Lan còn cung cấp cho GBT những báo cáo trực tiếp về tác động của Nhật lên kinh tế Đông Dương và cách người Việt Nam nhìn nhận thật - từ bối cảnh của mình. Đối với nhận thức của người Việt Nam về Nhật Bản, Lan báo cáo rằng một thứ tuỳ theo lợi ích của Nhật là thái độ của họ. Y nói với Fenn, quân Nhật xử sự "tốt hơn lính Tây, cho dù đó là lính Pháp, lính Anh hay lính Mỹ", và bổ sung thêm, "các sĩ quan Nhật luôn nghiêm khắc bắt tuân thủ kỷ luật". Theo y, "người An Nam có thiện cảm với Nhật hơn chỉ vì họ quá căm thù Pháp". Mặc dù tình hình có thể xảy ra theo cách đó đối với Lan, nhưng những người khác nhìn nhận thái độ của người Việt khác Lan. Một báo cáo đến từ Bộ Thông tin và Ban quản trị xung đột chính trị Anh Quốc trong khi thừa nhận Nhật "đã cư xử đúng mực đáng kể tại Đông Dương", đã đi đến kết luận trái ngược với Lan và còn lưu ý đến những tình cảm thân Đồng Minh trong nhân dân:


Trên thực tế kể cũng khá lạ, làm sao người bản xứ lại nhanh chóng phát hiện ra và hiểu sự pha trộn giữa tính ngạo mạn và "thân thiện " của người Nhật để ghê tởm chúng vì điều đó đến thế. Điều này phần nào giải thích cho lòng nhân hậu của những người bản xứ nghèo khổ dành cho các tù binh chiến tranh người Anh. Người An Nam và các cộng đồng dân tộc khác đã mạo hiểm chuyển tiền và lướng thực v.v… cho các tù binh. Thái độ của người bản xứ đối với người Pháp có lẽ đã chuyển thành một dạng lãnh đạm. Sự căm ghét trước đây của người bản xứ đối với người Pháp bây giờ tập trung vào người Nhật, và nhờ đó người Pháp có lẽ được an ủi . Nhưng chắc chắn lần đầu tiên người bản xứ biết người Anh và Mỹ những dân tộc mà họ khâm phục vì đấu tranh chống Nhật .


Phần lớn các báo cáo của OSS trong năm 1944 về sự giúp đỡ Đồng Minh của nhân dân Đông Dương đều giống của Bộ Thông tin và Ban Quản trị Xung đột Chính trị Anh Quốc. Vào tháng 10, trong một chỉ thị hợp tác với FMM cho công tác tại Đông Dương, thiếu tá Harold Faxon của OSS đã lạc quan tuyên bố: "Trên thực tế toàn bộ người dân bản xứ đều chống Nhật và sẽ hân hoan đón nhận cơ hội tham gia khoá huấn luyện được (Đồng Minh) đề ra và các hoạt động tiếp theo".


Lúc này những khác biệt dễ nhận thấy trong ý kiến về "bản chất tâm lý" của người Việt Nam và về khả năng sử dụng họ như một phần của các chiến dịch bắt đầu xuất hiện trong các thành viên OSS. Những báo cáo sớm từ năm 1944 đã quên lợi dụng thông tin đó. Milton Miles và Robert Larson (người đã tuyên bố rằng người Việt Nam không phải và cũng không thể coi là dân tộc hạ đẳng) lượm lặt được và chủ yếu tập trung thảo luận những thuật ngữ có tính miệt thị. Một báo cáo hồi trung tuần tháng 5 về "những biện pháp dự định tuyên truyền vào Đông Dương" nói rõ rằng "khả năng tiếp nhận tuyên truyền của người Việt Nam" cần phải dựa trên hai yếu tố: thứ nhất, người An Nam cơ bản không thể hành động hướng tới những mục đích dài hạn và chỉ quan tâm tới những mối lợi trước mắt", và thứ hai, "người An Nam là một chủng tộc bị nô dịch nhiều năm và họ dễ dàng đáp lại lời khuyên và chỉ dẫn của người ngoại quốc hơn những điều tương tự được tin là xuất phát từ chính cộng đồng của họ". Một báo cáo tương tự cũng mô tả người Việt là "quen chịu phục tùng" và "không có khả năng tổ chức hay óc sáng kiến". Trong lúc cơ quan MO tiếp tục tác động tới kế hoạch dành cho Đông Dương thuộc Pháp thì những bình luận về dân tộc này đạt tới độ "sâu sắc" hơn và trở nên xấc xược hơn. Sĩ quan MO R.P. Leonard viết:


Thái độ phục tùng của người bản xứ và khuynh hướng vụ lợi của họ, xét đến người Việt đặc việt vì họ trội hơn hẳn các sắc tọc Đông Dương, có một ý nghĩa quan trọng để đổi lấy các hoạt động của MO. Họ đúng là không có năng lực phát triển và tổ chức, dĩ nhiên là tổ chức bí mật. Nghi kỵ lẫn nhau và lừa đảo lẫn nhau, bất kỳ tổ chức nào mà họ dày công tạo lập cũng luôn bị sụp đổ vì các thành viên của nó thiếu khả năng hoà hợp với nhau… (bởi họ) đã trở nên vụ lợi đến mức khác thường… họ sẽ làm bất cứ điều gì vì tiền, nhưng không thể hy vọng họ mạo hiềm từ những động cơ lý tưởng .


Mặc dù Leonard thừa nhận rằng có những ngoại lệ đối với "thực tế" này - vẫn có cá nhân "dũng cảm và lý tưởng" - ông ta kết luận rằng "một người An Nam như thế" không hữu dụng vì sẽ không giành được lòng tin của những người An Nam khác hưởng ứng lý tưởng". Theo quan điểm của Leonard, nỗ lực của OSS nên tập trung vào sử dụng những kiều dân Pháp bởi vì họ "bị lâm nguy hơn người bản xứ ở Đông Dương" và "có cơ sở tâm lý tưởng tự chúng ta".


Dẫu rằng những bình luận về báo cáo của Leonard nhìn chung là tích cực và không mâu thuẫn với những quan điểm không tán thành người Việt Nam, nhưng những tuyên bố có giá trị ít nhất cũng thừa nhận nhiều hơn một loại "người An Nam". Trong nhận định của mình, thiếu tá B.M. Turner đã mô tả sự đánh giá người Việt Nam như "phản ứng điển hình của kẻ mới đến" và chỉ ra rằng "Quốc dân Đảng và Cộng sản có những tổ chức mạnh tại Đông Dương"; ông đề nghị hành động thông qua họ sẽ là "cách làm hay để thu hút sự chú ý và niềm tin của những tầng lớp trí thức An Nam". Turner tán thành biện pháp kinh tế để giành được sự chú ý và lòng trung thành của người dân. Chính sách tuyên truyền liên quan đến tình hình kinh tế tại Đông Dương thuộc Pháp hy vọng sẽ ngăn người Việt và các dân tộc khác làm việc "giúp" thật. Chẳng hạn, một chủ đề được MO đề xuất: "Những con tầu gỗ chúng ta đóng cho Nhật sẽ chuyên chở lương thực của chúng ta đến Nhật và các khu vực miền Nam khi mà chúng ta bị đói" - hy vọng "giúp làm suy yếu Đông Dương với chức năng là cơ sở quân sự và kinh tế cho Nhật" bằng cách thuyết phục người Việt Nam ngừng làm việc trên những con tầu gỗ chở hàng do Nhật sử dụng. Trong khi tuyên truyền trù tính khơi dậy những tình cảm chống Nhật bằng cách cho thấy Nhật Bản là "nguyên nhân của mọi thiếu thốn, vật giá leo thang và lạm phát" có nhiều khả năng thành công thì những nỗ lực thức tỉnh nhân dân "không làm việc tại các nhà máy, hầm mỏ và các tuyến đường sắt… lại giẫm chân tại chỗ - cái giá phải trả cho hành động như vậy đơn giản là quá cao. Để tăng cường các thông điệp của MO, Turner đề nghị làm "truyền đơn và sách bướm" để tuyên truyền trong nhân dân đồng thời lưu ý rằng OSS có "một cuốn sách bướm tuyệt vời do Hội người An Nam Độc lập ấn hành. Nó cho chúng ta một ví dụ gần như hoàn hảo để áp dụng trong việc tạo ra mọi loại truyền đơn và sách bướm, đồng thời đưa ra một nguyên tắc chung tuyệt hảo để làm theo trong viết sách bướm. Đặc vụ MO Turner không chỉ là người duy nhất thừa nhận sự tồn tại của các tổ chức hiệu quả của người Việt Nam. Các báo cáo được viết gần một năm trước đó cũng thể hiện nhiều ý kiến tương tự như của Leonard, nhưng lại cố thừa nhận sự tồn tại của nhiều hơn một "loại" người An Nam. Sau đó, trong chứng thực những chủ đề tin đồn, thiếu tá Herbert Little đã chọn cộng động Thiên Chúa giáo Việt Nam làm ưu tiên đặc biệt và lưu ý rằng họ có "một trong những tổ chức chính trị mạnh nhất nước". Một đề cương riêng biệt về các mục tiêu của MO được viết cuối năm 1943 không chỉ thừa nhận sự tồn tại của hai "nhóm kình địch chống Nhật hoạt động tại Đông Dương" mà còn xem những tác nhân Việt Nam, so với cả tác nhân Pháp và Trung Quốc, "là những đầu mối liên lạc giá trị nhất" trong triển khai tuyên truyền thông một qua hệ thống liên lạc. Nói chung, tác giả của đề cương xem người Hoa là "những tác nhân đáng tin cậy và hữu dụng nhất", một phần bởi họ "ra vào Đông Dương không bị hạn chế", nhưng rất dè đặt sử dụng người Pháp bởi có sự kình địch trong các phe nhóm chính trị người Pháp và bởi "những tuyên bố chống chủ nghĩa đế quốc của chúng ta". Cực kỳ đơn giản, "khát vọng giành lại toàn bộ Đông Dương sau chiến tranh của Pháp" được xem là "không tương hợp với chính sách của Mỹ". Vì vậy tác giả kết luận, cần phải có sự hợp tác và trao đổi thông tin tối thiểu (với các nhóm người Pháp ở Côn Minh), điều đó sẽ hoàn toàn ngăn ngừa xung đột và rối loạn… không làm tổn thương đến chính sách hậu chiến về Đông Dương của Mỹ".


Trong lúc các quan chức OSS thảo luận những vấn đề liệu và bằng cách nào có thể sử dụng các điệp viên Việt Nam và Pháp thì Fenn tiếp tục làm việc với GBT. Mối quan hệ của ông với vô số người Pháp trong mạng lưới Gordon đã được thiết lập. Tuy nhiên sau đó Fenn tiếp tục nghi ngờ khả năng làm việc với người Việt. Chính Frank Tan là người tình cờ đưa vấn đề này ra ánh sáng. Giống như Gordon, Tan giới thiệu Fenn với người đăng cai những cuộc tiếp xúc của GBT và thậm chí cho phép ông tham dự một số cuộc họp với các quan chức Trung Quốc nhằm vạch ra kế hoạch cho mạng lưới điện đài dọc miền duyên hải nối Quảng Tây và Đông Dương thuộc Pháp. Các cuộc gặp với người Trung Quốc luôn luôn diễn ra trong không khí chân thành cho dù họ, giống như người Pháp, quan tâm đến hoạt động của GBT ở Đông Dương.


Thống chế Trương Phát Khuê của Vùng Chiến thuật 4 (bao gồm toàn bộ tỉnh Quảng Tây và phần phía tây của tỉnh Quảng Đông) đã cử một trong những tay chân thân tín nhất của ông ta, tướng Chen, đến hội kiến Gordon, Bernard, và Tan. Chính thức thì Chen đến để đánh giá tình hình chính trị và quân sự trong và ngoài Long Châu. Tuy nhiên mối quan tâm đặc biệt của ông ta tập trung vào việc liệu GBT có sử dụng điệp viên Việt Nam hay không. Vào mùa thu năm 1944 GBT đã thẳng thắn trả lời rằng họ không hoạt động với người Đông Dương, nhưng Fenn, người luôn nghiên cứu sâu hơn và khám phá tình hình nhiều hơn, đã chất vấn Chen về lý do đằng sau phản đối sử dụng các điệp viên Việt Nam của phía Trung Quốc. Trả lời của Chen đã cung cấp nhiều thông tin hữu ích, làm sáng tỏ thêm quan điểm của Trung Quốc về các vấn đề quốc tế:


Không thể kỳ vọng vào họ (người Việt Nam). Vấn đề là họ không thật quan tâm đến cuộc chíến chống Nhật Bản. Đúng và họ chống Nhật, nhưng cũng bằng chống Pháp. Ở mức độ thấp hơn họ chống cả Trung Quốc. Vì thế khó mà biến họ thành đồng minh trung thành. Tôi cho rằng các ngài đã phát hiện ra họ tự nhận là thân Mỹ. Có chuyện đó bởi họ hy vọng các ngài sẽ giúp họ giành độc lập khi chiến tranh kết thúc và chúng ta đuổi cổ được quân Nhật. Các ngài có thể được thăm dò bởi một nhóm có tên gọi Việt Minh, nhóm này gần như là cộng sản mặc dù nguỵ tạo là những người hoàn toàn theo chủ nghĩa dân tộc. Họ đã đề nghị giúp Tưởng thống chế Chang chống Nhật nếu Trung Quốc giúp họ giành độc lập sau chiến tranh. Trong trường hợp này ngài thống chế đã tham vấn tổng tư lệnh, nhưng đức ngài kiến quyết phản đối.


Mặc dù lúc này Pháp thất bại, nhưng có khả năng chuẩn bị quay trở lại. Vì thế không đáng Iàm mếch lòng Pháp vì giúp một nhóm tầm thường như Việt Minh - những kẻ chắc chắn sẽ chẳng có mảy may y nghĩa gì. Nhưng nếu họ tiếp xúc để đặt vấn đề với các ngài - họ quả quyết cực kỳ thân Mỹ - thì đừng bị mắc lừa, tha lỗi cho tôi vì đã nói như vậy. Họ buôn nước bọt hơi nhiều nhưng lại chẳng có gì nhiều để bán.


Phản ứng của Gordon đối với cuộc đối thoại giữa Fenn và Chen báo hiệu phần lớn những gì phải xảy ra. Gordon quả quyết với Chen rằng GBT sẽ không cộng tác với bất kỳ người Việt Nam nào và không hề có ý định cộng tác với họ trong tương lai. Ông tuyên bố dứt khoát: "Tôi nhất trí với ngài tất cả họ đều chống Pháp và không đáng tin cậy". Trong vài tháng tiếp theo, vì tình hình thay đổi, việc Gordon từ chối cộng tác với người Việt Nam sẽ gây ra một loạt rạn nứt giữa Gordon và Fenn và ngay trong chính GBT.


Tuy nhiên, trong những tháng cuối cùng của năm 1944 Fenn đã trở thành một thành viên tích cực trong mạng lưới của GBT. Thậm chí ông còn tham dự vào những kế hoạch tương lai cho nhóm, đóng góp ý kiến và tán thành trợ giúp tài chính cũng như hậu cần của OSS. Nhóm hy vọng lo liệu huấn luyện những hoạt động đặc biệt cho 1500 thường dân Pháp có liên hệ với GBT cũng như hướng dẫn "phổ biến chiến dịch MO". Căn cứ vào những hoạt động MO trước đó của Fenn lại mặt trận Trung Quốc - Burma - Ấn Độ, rõ ràng ông đã được chuẩn bị tốt cho công tác đào tạo điệp viên và sản xuất "truyền đơn đen" - những bản sao chép giả mạo ấn phẩm do thật sản xuất bề ngoài là thân thật nhưng trên thực tế lại chứa đựng tài liệu âm thầm chống Nhật tại Đông Dương. Những báo cáo cuối tháng của Fenn đã không ngần ngại ủng hộ GBT. Trong tháng Mười một Fenn đưa ra ý kiến về việc tăng cường toàn bộ những biện pháp phòng ngừa an ninh của GBT bởi Nhật đã theo dõi những hoạt động công khai ủng hộ Đồng Minh càng lúc càng tăng của nhiều người Pháp ở Việt Nam. Fenn nhận xét, với ba trạm điện đài quan sát hiệu quả cao ở Bắc Kỳ, "khoảng 20 bức điện đang được xử lý hàng ngày chuyển tải những thông tin về mục tiêu, báo cáo thời tiết Bộ Tư lệnh Tối cao Nhật và những tin tình báo đặc biệt cho các tổ chức khác nhau như AGAS. Thêm vào đó ông kết luận rằng việc này "dọn đường cho các cuộc tập kích trả đũa", rằng Không đoàn 14 "hầu như dựa vào toàn bộ thông tin về mục tiêu của GBT". Fenn bổ sung thêm một trạm ở Hà Nội hai trạm mới ở Sài Gòn và Tourane (Đà bẵng) hoàn toàn có thể tăng công xuất của mạng lưới trong một thời gian ngắn.


Đúng với chuyên môn cơ bản của mình, Fenn còn cung cấp một báo cáo tình báo về một Đông Dương "đặc biệt lôi cuốn đối với MO". Báo cáo của ông bao gồm những điều kiện sống và tinh thần của cả quân Nhật và Pháp cũng như khuynh hướng của người Việt Nam đối với Nhật và Đồng Minh. Fenn cũng cho biết rằng GBT sẽ đảm nhận tham gia nhiều hơn vào công tác cứu trợ và giải cứu. Đến cuối năm 1944, GBT đã có một hệ thống phát triển tốt tại chỗ nhằm giúp đỡ các phi công Đồng Minh bị bắn rơi trên toàn Đông Dương và, trong một số trường hợp, đã giành được sự biết ơn của cả AGAS và Không đoàn 14. AGAS đã trả cho "sự giúp đỡ nồng hậu của Gordon" chủ yếu là thiết bị điện đài để đền đáp các hoạt động như giải thoát các tù binh Đồng Minh ra khỏi các trại tù binh chiến tranh và các phi công Mỹ bị bắn rơi" tại Đông Dương thuộc Pháp.


Lan, điệp viên của Gordon ở Việt Nam, đã báo cáo về những cố gắng giúp đỡ tù binh chiến tranh (POW) tại Bắc Kỳ như sau:


Trong các trại giam khác nhau có vài ngàn tù binh chiến tranh Australía, Anh, Hà Lan và Mỹ - số tù binh Mỹ không nhiều. Tôi luôn chở trên xe một ít đồ hộp, gói hàng và quần áo cũ và bất kỳ khi nào đi ngang qua một xe chở đầy tù binh, tôi lại ném cho họ thứ gì đó. Bây giờ các tù binh đã nhận ra xe của tôi vì thế họ huých đám bảo vệ sang bên và thường chộp được và giấu đi những gì tôi ném cho họ. Bằng cách sử dụng một chiếc xe tải nhỏ chở gạo đến các trại giam, một trong những liên lạc của tôi đã đưa lén được cả một khẩu súng máy và đạn được vào một trại và họ đã giữ khẩu súng này cho một cuộc vượt ngục có tổ chức. Thêm rồi một hôm trong khi lục tìm thư từ được báo là đã đưa lén vào trại, đám gác ngục Nhật đã phát hiện ra một số viên đạn. Nhưng những cái đầu bã đậu còn đang mải tập trung tìm kiếm thư nên chúng chỉ mang số đạn này đi mà không cật vấn gì .


Dù câu chuyện của y hầu như đã phóng đại những sự kiện có thật, nhưng không nghi ngờ gì nữa Lan và các liên lạc của y đã mạo hiểm đáng kể mạng sống của họ để giúp tù binh.


Nếu quả thực các tù binh nhận ra được xe của Lan thì lính gác cũng có thể làm điều đó. Có thể hiểu là việc Lan ném đồ ăn cho tù binh không làm cho lính gác quá bực mình, nhưng nếu khẩu súng trên thùng xe chở gạo bị phát hiện thì người vận chuyển sẽ bị hành quyết tại chỗ. Ngoài ra, như giải thích của câu chuyện, đến cuối năm 1944 mạng lưới của GBT đã phát triển rộng khắp và bất kỳ điệp viên nào bị bắt cũng có thể làm phương hại nghiêm trọng sự an toàn của hàng loạt bạn bè và đồng nghiệp của Gordon, Bernard và Tan. Tính chất bí mật của mạng lưới GBT và hoạt động thận trọng của nó đã đem lại cho họ mức bảo vệ cao, nhưng cũng có thể những cặp mắt soi mói của Nhật phần nào bị trệch hướng bởi hoạt động công khai ủng hộ Đồng Minh của Kháng chiến Pháp ngày một gia tăng tại Đông Dương. Như sẽ thấy, Nhật đang theo dõi chặt chẽ hoạt động công khai ủng hộ Đồng Minh trong cộng đồng người Pháp, điều đó dường như đã bảo vệ các điệp viên GBT không bị Nhật phát hiện.


Hệ thống của Gordon giúp giải thoát các phi công bị bắn rơi cũng cực kỳ phức tạp. Mạng lưới cung cấp cho các phi công một bản danh sách chỉ rõ "những khu vực an toàn" nơi các phi công có thể đáp xuống an toàn. Các phi công được chỉ dẫn rằng nếu buộc phải nhảy dù xuống một địa hình bất lợi thì họ cần phải di chuyển trong đêm đến những khu vực an toàn. Ngay sau khi GBT được báo một phi công đã nhảy dù, các điệp viên người Pháp ở địa phương sẽ đốt lửa làm hiệu trên các sườn đồi giúp phi công tìm đường đến những vị trí được bảo vệ. Gordon kiên quyết không sử dụng người Việt vì một phần hoạt động của GBT đã được giải thích trong cảnh báo của ông rằng các phi công nên "tránh dân bản xứ - những người đã được đề nghị trao thưởng cho việc giao nộp phi công dù còn sống hay đã chết". Vì đến lúc đó Đông Dương chưa phải là khu vực hoạt động chính nên có tương đối ít các phi vụ ném bom và chỉ có hai phi công bị bắn rơi được cứu thoát vào mùa hè năm 1944. Một trong số đó được GBT cứu, người kia được các điệp viên người Hoa của Fenn giải thoát.


Tuy nhiên, vì chiến tranh vẫn tiếp diễn nên sẽ có nhiều phi công bị bắn rơi hơn, và bất kỳ khi nào có thể, các thành viên của mạng lưới GBT đều giúp tìm kiếm và giải cứu. Vào tháng 10, chỉ vài tuần trước khi Fenn đến tổng hành dinh của GBT, họ được thông báo rằng một phi công tên là Ray Marshall đã bị bắn rơi gần Hải Phòng. Anh ta thoát chết, chỉ bị thương nhẹ và được một nông dân người Hoa cứu. Mất gần hai tuần và vài thảm hoạ suýt xảy ra, người nông dân (Marshall đặt tên là Pop) mới đưa được viên phi công từ Hải Phòng vượt biên giới đến căn cứ của GBT ở Long Châu. Một trong những khó khăn mà hai người phải đối mặt là kiếm lương thực vì cả Marshall và Pop đều có ít tiền mặt và những vật có giá trị; mặc dù đã bỏ chiếc đồng hồ để đổi lấy gạo nhưng Marshall vẫn giữ được khẩu súng ngắn. Trên đường đi, Pop đã dẫn viên phi công qua một số làng mạc ông có người quen và nơi khác ông phải thuyết phục những người nông dân giúp đỡ. Trong lời khai của mình, Marshall dẫn giải: "Tôi không thể hiểu làm sao Pop lại có bạn ở khắp mọi nơi và vì sao họ mạo hiểm cả cuộc sống của mình để giúp chúng tôi". Cả Fenn và thư ký của Gordon, Hellen Tong, đã ghi lại câu chuyện của Marshall cũng như những trình bày của Pop. Trong hồi ký của mình, Fenn đưa ra ý kiến của riêng ông về lý do những người bạn của Pop đã giúp viên phi công Mỹ. Ông đi đến kết luận rằng "một vài người trong số họ, không nghi ngờ gì nữa, đã phát hiện ra Nhật là những chủ nhân tồi tệ hơn cả Pháp".


Không phải tất cả dân làng đều sẵn lòng đón tiếp bộ đội này, nhất là khi Nhật đe doạ cả nông dân Việt Nam và người Pháp phải gánh những hậu quả tàn khốc nếu họ giúp phi công Đồng Minh. Hơn nữa, Pop báo cho Fenn và GBT rằng có trường hợp tại một làng, cách đón tiếp thù địch mà họ nhận được là do kinh nghiệm tiêu cực trước đó của dân làng với một phi công Mỹ hơn là do những đe doạ của Nhật. Khi đến gần biên giới Trung Quốc hơn, Pop và Marshall đi men theo một làng duy nhất thực sự thù địch mà họ gặp trong chuyến đi. Marshall kể lại chi tiết chuyện này cho Fenn và GBT:


Khi Pop đi ra tìm họ, hai thanh niên đã nhận ít tiền còn lại của Marshall, thì tôi thiếp đi. Khi tôi thức dậy trời tối đen như mực. Bất ngờ tôi nhận ra rằng cả khu rừng xung quanh đang lung linh ánh đuốc của một đội tìm kiếm và họ đang chậm chạp đến gần tôi. Tôi nằm trong bụi cây với khẩu súng đã lên đạn và nghĩ thế là hết. Ánh lửa chụm lái rồi toả ra, một số chỉ cách tôi vài mét còn tôi thì nín thở. Tôi đã ấn định với Pop rằng tín hiệu giữa chúng tôi sẽ là tiếng đằng hắng của ông ta theo sau ba tiếng vỗ tay, và tôi sẽ đáp lại bằng ba tiếng vỗ tay. Vì thế trong bóng tối sau khi nghe thấy một tiếng đằng hắng tôi chờ đợi tiếng vỗ tay, nhưng chỉ có một tiếng đằng hắng khác. Thực tế là Pop không dám vỗ tay bới những người tìm kiêm ở quá gần. Dù sao thì cái tiếp theo mà tôi nhận ra là Pop đang giật chân tôi và ra hiệu cho tôi tháo giày nêu không dân làng có thể truy tìm tôi bởi những vệt giày.


Sau đó chúng tôi trèo cao, cao mãi lên núi cho đến khi có thể nhìn thấy toàn bộ thung lũng bị loang lổ bởi những ánh lửa đang chuyển động. Bằng cách chạy thật lực, chúng tôi có chút lợi thế, nhưng tôi bị đau không chỉ từ đôi bàn chân trần, quả là gay go và tệ hơn là từ việc bị va vào cây và một trong số đó đã móc vào mặt tôi làm nó tím bầm. Thay vì làm mình mệt lả, tôi cố nài châm đuốc vì có cảm giác là thêm một ngọn đuốc trong số tất cả hững họ đuốc đã được đốt chắc chắn mà không có vấn đề gì. Nhưng để giữ an toàn, tôi cho Pop đi trước vài bước để nếu chúng tôi có đụng phải ai đó thì người chịu trận là Pop chứ không phải tôi .


Pop giải thích với Fenn và Helen rằng làng này đặc biệt thù địch bởi trước đây một phi công bị bắn rơi tên là Norton đã bắn một già làng. Vì vậy thái độ của dân làng đối với phi công Mỹ ít thiện chí hơn. Dù không thể kiểm tra câu chuyện của Pop, nhưng hiểu những nguy hiểm tiềm tàng trong việc giúp một phi công Mỹ đã xác nhận lòng dũng cảm của ông trong quyết định dẫn Marshall đến nơi an toàn. Pop tiếp tục giải thích lý do khiến ông chấp nhận những rủi ro cá nhân lớn như thế để cứu Marshall: ngay sau khi máy bay rơi, tin đồn lan rất nhanh và Nhật treo thưởng một khoản tiền lớn để bắt viên phi công. Vì thế tất cả mọi người - Nhật, Pháp và An Nam - đều tìm kiêm như điên. Nhưng thực tế là, nhiều người An Nam ủng hộ Mỹ và hầu hết những người gốc Hoa như tôi đều biết Mỹ giúp Trung Quốc chống Nhật, vì vậy tôi muốn giúp họ. À, khoảng một năm trước một số tờ truyền đơn viết bằng tiếng Trung được rải xuống nơi tôi sống, chúng nói rằng tất cả mọi người nên giúp phi công Mỹ nếu họ bị bắn rơi. Bởi thế tôi biết nghĩa vụ của tôi là làm điều đó dù chuyện gì xảy ra cũng mặc.


Gordon nhắc lại lời cảnh báo của mình rằng các phi công nên tránh dân làng Việt Nam bởi họ đã "được Nhật đề nghị trọng thưởng cho việc giao nộp phi công dù còn sống hay đã chết". Pop, theo quan điểm của ông, là một ngoại lệ chứ không phải thông lệ. Tất nhiên Đồng Minh cũng treo thưởng như vậy, Gordon nói rõ, nhưng "phần thưởng của Nhật được trao tại chỗ trong khi giải thưởng của Đồng Minh lại tít mù xa tới 500 dặm!". Vì hành động dũng cảm của mình, Pop đã được nhận phần thưởng cho dù thấp hơn nhiều so với giải thưởng Nhật đưa ra và thấp hơn đáng kể so với "giá trị" của Marshall. Nhật treo giải anh ta tới 100.000 đồng; trong tuyên truyền, Không đoàn 14 quảng cáo "giá" của một phi công là 50.000 đô la hay 1.250.000 đồng. Fenn báo cáo rằng Pop hình như vui vẻ nhận 5.000 đồng GBT chi trả: nhưng ông từ chối bức hình Fenn chụp ông với lý do nhận một tấm hình từ người Mỹ sẽ có thể lãnh đạn của Nhật".


Sau khi Marshall an toàn trở về căn cứ của Không đoàn 14 tại Nam minh, một trong những điệp viên của Gordon, Simon Yu, đã báo tin về hậu quả của hành động chính nghĩa của Pop. Yu là một nhân vật phức tạp hết sức phù hợp với tổ chức của Gordon. Chỉ riêng thành phần gia đình cũng đã cho phép anh ta thích ứng với nhiều tình huống khác nhau: mẹ là người Bỉ, cha nửa là người Hoa, nửa là người Việt. Sống gần Hà Nội, anh ta lưu loát tiếng Pháp, Trung, Việt và Anh. Ưu thế rõ ràng này làm anh ta trở thành một điệp viên gần như hoàn hảo. Yu được mô tả là có trí thông minh và hiểu biết khác thường cũng như tính khí hơi thất thường và quá nhạy cảm.


Anh ta đặt nhiều hy vọng vào người khác như vào chính mình và không chịu nổi những trò ngu xuẩn. Fenn nhớ cụm từ tiếng Anh nổi tiếng "người bong bóng" của Yu để chỉ "ai đó thốt ra những lời vô nghĩa". Trong những thoả thuận tương lai của anh ta với OSS, Yu sẽ phát hiện ra nhiều người bong bóng trong hệ thống ở Côn Minh. Tuy nhiên, trong lần gặp gỡ đầu tiên với Fenn, Yu đã cư xử thật khéo khi dem đến những tin tức về trao đổi mậu dịch Nhật - Trung dọc theo biên giới cũng như những hậu quả đáng tiếc do phản ứng của Nhật về vụ đào thoát của Marshall gây ra. Mặc dù Fenn đã cố "xoá đi dấu vết của người Hoa đã giúp Marshall" bằng cách yêu cầu MO đăng tin "nội bộ" trên một tờ báo Côn Minh về vụ giải cứu đầy kịch tính Marshall được thực hiện bởi "những người An Nam nào đó đã tới Côn Minh và được trọng thưởng", nhưng công tác tuyên truyền không hoàn thành đúng lúc. Sau khi Marshall trốn thoát, quân Nhật đã kết tội tất cả người Hoa sống ở khu vực phía bắc Hải phòng vì giúp Đồng Minh. Yu và tướng George Wou của Vùng Chiến thuật 4 báo cáo rằng sự quấy rối thường xuyên đang "đẩy (người tị nạn) vào Trung Quốc", ở đó họ trông chờ cả lương thực và chỗ ở. Hai người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải chấm dứt dòng người tỵ nạn qua biên giới. Yu cho rằng phần lớn không phải là người tỵ nạn tuyệt vọng mà là "những điệp viên chính cống và đội quân thứ năm chuẩn bị cho sự xâm lăng của Nhật". Wou bổ sung, ngăn chặn dòng người sẽ "rất nặng nề đối với họ (người tị nạn)", và câu này được dịch ra cho Fenn và Bernard thành "trong quá trình ngăn chặn, chúng ta sẽ phải bắn họ". Bernard cắt ngang: Nếu một số người tỵ nạn bị bắn thì sẽ ngăn cản cả tị nạn thật lẫn giả vượt biên. Và tôi hiểu các ngài thực ra cũng không muốn làm như vậy. Cả Yu và Wou đều đồng ý với kết luận của Bernard. Rõ ràng, thiếu sự đón tiếp nồng hậu của phía Trung Quốc, những nguy hiểm đến từ quân Nhật đang giận dữ và sự cám dỗ của số tiền thưởng trao ngay đã nêu bật phẩm chất hiếm có của những người như Pop, những người đã chọn con đường giúp Đồng Minh mà không đếm xỉa đến vô số hiểm nguy họ có thể dương đầu.


Thời gian sẽ trả lời, GBT cũng đánh giá thấp lòng tự nguyện giúp quân nhân Mỹ trong cảnh hiểm nghèo của người Việt Nam. Cuối năm 1944 một nhóm địa phương ít tiếng tăm đã cứu thoát trung uý Rudolph Shaw khi máy bay của anh ta bị bắn rơi gần Cao Bằng. Nhà lãnh đạo nhóm này, lịch sử lưu danh ông với cái tên Hồ Chí Minh, sau khi đưa Shaw đến căn cứ Mỹ ở Côn Minh đã từ chối đề nghị tặng thưởng và chỉ yêu cầu được gặp viên tướng lừng danh của Không đoàn Hổ bay Claire Chennault. Yêu cầu của ông lúc đó đã bị từ chối, Shaw lên tầu hồi hương và sự kiện này dường như đã chìm sâu vào lịch sử chiến tranh. Cuộc giải cứu dễ dàng bị gạt sang một bên vào cuối năm 1944 đã thu hút sự chú ý của Fenn đầu năm 1945. Trong thời gian đó Fenn mải mê hơn trong các hoạt động của GBT, trên thực tế là đảm đương vị trí thành viên thứ tư cho Gordon, Bernard và Tan.


Tất cả bốn thành viên trong nhóm được hưởng nơi trú ẩn an toàn tại tổng hành dinh ở Long Châu cho dù có những tác động từ vụ giải cứu Marshall. Các điệp viên Pháp tại Việt Nam báo cáo với Fenn rằng quân Nhật "giận dữ vì máy bay đã đón Marshall tại Long Châu". Fenn cảnh báo thượng cấp của ông "nếu quân Nhật quá nóng máu, chúng có thể kéo đến trong vòng có nửa ngày và quét sạch chúng tôi". May thay, Nhật không chọn giải pháp trả đũa trực tiếp. Đối với Fenn, Gordon, Bernard và Tan thời gian trôi qua rất nhanh. Công tác của họ đầy hứng khởi, nơi ăn ở của họ khá thoải mái và nhóm của họ thật thú vị. Tuy nhiên tất cả điều này kết thúc với những chiến dịch tháng 11 và 12 của Nhật. Nhật mở màn Chiến dịch LGHLGO trong tháng 4 trong nỗ lực danh chiếm các căn cứ không quân của Không đoàn 14 ở miền Đông Nam Trung Quốc. Trong cuộc tấn công quyết liệt của Nhật ở phía bắc, từ biên giới Việt Nam đến căn cứ không quân của Mỹ ở Nam Ninh, Long Châu đã bị tàn phá.


GBT, giống như hầu hết lực lượng Đồng Minh trong khu vực, cho rằng quân Trung Quốc bảo vệ các căn cứ không quân cũng như quân Mỹ tại căn cứ, có đủ khả năng giữ vững vị trí của mình. Thực tế lại không phải vậy. Quân Trung Quốc bại trận, cơ sở của GBT bị buộc phải đi dời, đầu tiên là khỏi tổng hành dinh bình dị của họ, sau đó là cơ sở tạm thời ở Tĩnh Tây.


Trong nỗ lực bám trụ gần Đông Dương, nhóm tiến về Quế Lâm, căn cứ chính của Không đoàn 14, nhưng Quế Lâm cũng bị đánh bại vào tháng Mười một. Nói chung, Chiến dịch IGHIGO đã chiếm được 6 căn cứ không quân Mỹ - Trung Quốc (Nam Ninh, Liễu Châu, Quế Lâm, Lingling, Hành Dương, Suichuan) và khiến cho các thành viên GBT khó khăn hơn nhiều trong việc thăm dò các điệp viên của mình trên biên giới Đông Dương.


Bởi muốn ở gần Không đoàn 14 và AGAS nên GBT đã quyết định đặt tổng hành dinh mới tại thành phố ồn ào Côn Minh. Từng là một thành phố Trung Hoa tương đối yên tĩnh, đến năm 1944 Côn Minh trở thành trạm cuối chủ chốt cho nguồn tiếp tế tràn qua Himalaysia đến với Quốc Dân Đảng. Sau Chiến dịch IGHIGO, thành phố còn đón một số lượng lớn lính Mỹ, bao gồm các thành viên của Không đoàn 14, OSS, AGAS cũng như FMM và các tổ chức dân sự như Chữ Thập Đỏ. Giờ đây bị tước đi tổng hành dinh biệt lập và tự do mà tình trạng cách ly mang lại, Fenn và GBT thấy mình đi ngược chiều một cơn giông tố khác và nhận biết áp lực đang gia tăng không ngừng để chính thức đặt tổ chức của họ dưới sự chỉ huy của OSS.


Tâm trạng thất vọng của Gordon với OSS đã bắt đầu dâng cao ngay từ trước khi nhóm chuyển đến Côn Minh. Ông và Fenn nhất trí rằng nhiều người trong OSS về cơ bản là "chống Pháp"; tuy nhiên, Fenn, lúc này vẫn là một sĩ quan OSS, đã kiểm duyệt những bình luận của chính ông về tổ chức.


Gordon cảm thấy không cần che giấu nỗi oán hận đang tăng lên của ông như vậy. Với nguồn tài chính có sẵn từ AGAS, Chennault và người Anh, ông thẳng thừng tuyên bố rằng mặc dù đánh giá cao nguồn giúp đỡ của OSS, nhưng ông không cần chúng lắm. Theo ý kiến Gordon, OSS "chống lại mọi thứ ngoại trừ thu vén cá nhân". Ông tiếp tục phàn nàn với Fenn rằng cho đến lúc này OSS đã "lấy đi mọi thứ và hầu như chẳng đem lại cái gì trừ nói xấu sau lưng, với những người (như thiếu tá Austin Glass) được cử xuống để hoàn thành hay thậm chí do thám chúng ta và làm biến chất các điệp viên của chúng ta". "Thành thực mà nói", ông tiếp tục, "tôi có đủ trò lá mặt lá trái như thế này rồi. Nếu OSS không hợp tác thì tôi dự kiến quyết định chung số phận với AGAS - những người duy nhất quá nhiệt tình tuyển dụng chúng ta trong khi vẫn cho phép chúng ta hoàn toàn độc lập".


Phân tích tình hình của Gordon trên nhiều phương diện là cực kỳ chính xác. AGAS đã nhiều lần giải thích sự đánh giá cao của mình đối với những nỗ lực giải cứu phi công và POW của mạng lưới GBT, và toàn thể thành viên của nhóm yêu thích mối quan hệ hữu hảo với các nhân viên AGAS. Trong khi đó OSS tiếp tục thể hiện nỗi thất vọng đối với thái độ miễn cưỡng của Gordon đưa nhóm của ông phục tùng sự chỉ huy của OSS hay tiết lộ danh tính các điệp viên của ông. Tuy nhiên, thay cho toàn bộ nỗi thất vọng của Gordon (và của Fenn cũng vậy) với Glass, các báo cáo của Glass cho cấp trên của ông ở OSS trước sau như một khen ngợi GBT. Dựa vào kinh nghiệm đáng kể của chính mình ở Đông Dương, có thể Glass đã biết nhiều liên lạc người Pháp của Gordon ở khu vực Hà Nội - Hải Phòng. Cũng hoàn toàn hợp lý nếu Glass cảm thấy thiên hướng ủng hộ Đồng Minh trong những bạn bè thân, sơ của đôi bên và cố tuyển những người này cho OSS mà không biết mối quan hệ của họ đối với GBT. Tuy nhiên, công tác điều tra GBT của Glass chỉ làm tăng sự khinh bỉ của Gordon đối với OSS, trong khi đó những báo cáo của ông cho OSS càng thôi thúc cơ quan này giành được quyền kiểm soát toàn bộ tổ chức GBT.


Trong nỗ lực duy trì độc lập cho mạng lưới của mình mà vẫn tranh thủ được những nguồn tiếp tế và tiền bạc sẵn có của nhiều nhà tài trợ, Gordon đến Trùng Khánh hội kiến với các đại diện Mỹ, Pháp, Anh và Trung Quốc. Nhưng những cuộc gặp này đã thất bại. Ông báo về cho Fenn rằng "người Mỹ và Pháp ganh đua quyết liệt với nhau trong việc lừa dối tôi người ta báo với Wedemeyer tôi là điệp viên của Anh và với người Pháp tôi là điệp viên của Mỹ, còn với người Anh tôi là điệp viên Tầu. Chỉ có người Anh là không tin vào những điều nhảm nhí đó". Không nghi ngờ gì nữa, việc ông đã gặp quá nhiều đại biểu chỉ làm tăng quyết tâm của OSS đưa ông vào vòng cai quản của nó. Gordon còn phàn nàn về tình hình Hãng Texaco House ở Trùng Khánh, đặc biệt là về viên đại tá "không thể chịu nổi" người Mỹ, kẻ ngày nào cũng tham dự vào những cuộc ẩu đả do say rượu. Phản ứng dữ dội của ông đối với tình hình đã thúc giục Fenn chất vấn Bernard về thái độ đối đầu với người Mỹ của Gordon. Bernard, người mà tất cả các báo cáo dầu cho là chắc chắn thân Mỹ, đã phản đối việc Fenn mô tả Gordon "chống Mỹ". Ông tuyên bố, Gordon không chống Mỹ khi đó là "người của AGAS hay Bộ ngoại giao như (John) Davies". Rõ ràng kết luận ở đây là Gordon hiển nhiên chống Mỹ trong trường hợp đấy là OSS. Tuyên bố này có lẽ còn phản ánh thái độ của Bernard vì trong khi rõ ràng thân Mỹ, ông vẫn chống lại âm mưu lôi kéo GBT vào OSS


Đến cuối năm, Fenn báo cáo rằng ông đã hoàn thành trước thời hạn tất cả các mục tiêu như đã phác thảo cho đại tá Coughlin. Quan trọng hơn, ông khẳng định trong báo cáo của mình rằng ông đã đưa "OSS đến gần hơn thế giới của nhóm GBT" và thuyết phục họ về khả năng OSS "xử lý các vấn đề của mình". Ngược lại, ông cho biết đã "cung cấp toàn bộ các báo cáo về hoạt động và khả năng của nhóm GBT cho OSS, Fenn tuyên bố ông cũng đã "đưa được toàn bộ chương trình MO trong Đông Dương thuộc Pháp vào hoạt động".


Báo cáo của Fenn rõ ràng là quá lạc quan trong nhìn nhận vấn đề. Fenn dễ dàng khẳng định rằng ông đã làm "OSS hiểu rõ hơn nhóm GBT" vì ông là một sĩ quan OSS và tham gia nhóm với tư cách một thành viên chính thức như Gordon, Bernard và Tan. Tương tự, trong một số trường hợp như sau bản báo cáo sinh động của John Davies gửi Bộ ngoại giao, OSS đã sốt sắng với cả tiền bạc và hàng quân nhu. Tuy nhiên, các thành viên trong nhóm, bao gồm cả Fenn, đều hoàn toàn nhất trí không định đến những gì họ xem là những cặp mắt soi mói và kìm kẹp của OSS, và trong bất kỳ trung hợp nào GBT cũng có phương tiện trợ giúp khác. Cả người Anh và AGAS đều sẵn sàng cung cấp tài chính trong khả năng của họ mà không hề có ý định kiểm soát nhóm này.


Thật vậy, khi năm hết tết đến, Willis Bird, phó giám đốc OSS, đã khuyên Fenn bí mật "chuyển cơ quan GBT sang AGAS, kể cả ngài". Trong khi Fenn và các nhà lãnh đạo của GBT bằng lòng làm điều đó thì các thành viên khác của OSS lại không muốn thấy nhóm năng động này vuột khỏi vòng kiểm soát của OSS.


Khi năm 1944 kết thúc, để Fenn và Bernard quản lý nhóm, Gordon lên đường đến Washington D.C để gặp gỡ và hội kiến các đại diện OSS. Trong khi Bernard điều hành cơ sở GBT ở Côn Minh thì Fenn đón giao thừa tại Ấn Độ nhằm thắt chặt quan hệ của GBT với người Anh và quyên góp 3.000 đô la cho các chi phí hoạt động. Nhiệm vụ này đã đặt Fenn vào một vị trí tiềm ẩn hiểm nghèo. Dù là một sĩ quan Mỹ của OSS nhưng Fenn lại lên đường theo chỉ thị của Gordon và cố gắng - không có sự phê chuẩn chính thức của Mỹ - củng cố các mối quan hệ giữa Anh và GBT chữ không phải đưa GBT đến gần hơn với OSS. Tuy thế, Fenn không giữ bí mật sự hiện diện của ông tại Ấn Độ và gây ra những bình luận từ cả tình báo Anh lẫn OSS. MI5 tỏ ý lấy làm tiếc vì không thể cung cấp tài chính nhiều hơn cho Gordon trong khi phàn nàn về những gì nó cho là OSS sắp tiếp quản mạng lưới và ca ngợi những lợi ích về sự độc lập của Gordon. Cùng lúc đó các đồng nghiệp OSS công kích Fenn bằng những câu hỏi liên quan đến mục đích chuyến đi và lòng trung thành tổ chức của ông. Năm mới có thể mang đến nhiều thay đổi cho cả OSS và GBT.


Trong tháng Giêng, Tưởng Giới Thạch cho phép OSS thành lập mạng lưới riêng, thoát khỏi sự giám sát và kiểm soát của tướng Tai Li. Như vậy cơ hội của OSS đã tăng lên, khát vọng giành được mạng lưới GBT cũng tăng theo. Đầu tháng 2, thiếu tá Duncan Lee, phụ trách SI Ban Trung - Nhật Khu vực Viễn Đông của OSS, báo cáo rằng tư lệnh lực lượng Mỹ tại mặt trận Trung Quốc Albert Wedemeyer đã quyết định "chuyển đơn vị Gordon - Bernard sang OSS", và rằng, OSS "dường như sẽ chịu trách nhiệm về mặt nguyên tắc đối với các hoạt động của SI". Nhưng động thái này đã gặp phải những trở ngại nghiêm trọng. Loại trừ các điệp viên ngư ời Hoa của Fenn, mạng lưới GBT hầu như do riêng những người Pháp thân Đồng Minh thành lập. Và, như đã đề cập đến từ trước, chỉ trước đó vài tháng Roosevelt đã cấm giúp đỡ và cộng tác với người Pháp ở Đông Dương. Trong lúc Lee và đại tá Richard Heppner, người giám sát các hoạt động của OSS cho Wedemeyer, thăm dò khả năng sử dụng mạng lưới GBT thì ở Côn Minh Donovan tán thành hợp tác chặt chẽ hơn giữa Pháp và OSS. Vì vậy, có vẻ như hai cơ hội thuận lợi nhất của OSS đối với thu thập tin tình báo ở Đông Dương liên quan đến cộng tác trực tiếp với người Pháp vi phạm các chỉ thị của Roosevelt. Nhà sử học Stein Tonnesson đã kết luận rằng "vì Donovan chắc chắn đã được báo về lệnh cấm mà ông không thể xem thường một cách đơn giản, nên cách giải thích hợp lý duy nhất là ông được miễn chỉ thị của tổng thống thông qua thoả thuận đặc biệt nào đó với Roosevelt".


Giả dụ điều này là có thật thì các mối quan hệ giữa Pháp và Mỹ ở Trung Quốc cũng vẫn căng thẳng. Pháp phản đối mọi ám chỉ rằng thuộc địa của họ cần phải được độc lập và vừa giận dữ vừa bối rối bởi tình trạng trì trệ của họ tại Trung Quốc, nhất là bởi họ không có được cả sự tôn trọng lẫn nguồn giúp đỡ. Có lẽ việc Pháp cộng tác với Gordon rồi cũng có ảnh hưởng tương tự là không thể tránh được. Trong tháng Giêng Bernard và Fenn nhận được một thông báo tuyệt vọng từ André Lan nói rằng y "đang bị chính quyền Pháp làm khó bởi bị bẩm báo làm việc cho người Mỹ!". Theo Lan, ngay cả những người Pháp Tự do cũng chống Mỹ vì Roosevelt sẽ không công nhận quyền lợi của Pháp đối với Đông Dương và kết quả là các điệp viên GBT "thấy khó khăn trong việc thu thập tin tức và duy trì lịch liên lạc điện đài thậm chí còn khó khăn hơn nhiều".


Sau khi thảo luận tình hình, Bernard và Fenn quyết định rằng một trong hai ông cần phải đến biên giới gặp nhóm nhân viên Pháp bất mãn của Lan để tháo gỡ vấn đề. Sau chuyến đi lạnh lẽo và khó khăn, Fenn đến biên giới Việt Nam cùng hàng tiếp tế trọng yếu cho các điệp viên Pháp, trong đó có điện đài xách tay. Mặc dù cả Fenn và Bernard đều không thể tin chắc rằng người Pháp đã được thuyết phục về sự ngay thật của GBT, nhưng những món quà, đặc biệt là điện đài, đã gây được ấn tượng tốt. Dẫu rằng đã yếu đi đôi chút bởi rạn nứt trong quan hệ với những người Pháp Tự do, nhưng mạng lưới GBT vẫn báo cáo về một vụ ném bom của Đồng Minh vào Sài Gòn và về 9 phi công bị bắn rơi. Đáng buồn thay, họ báo cáo, 3 trong số đó đã bị Nhật bắt, dù Lan và các liên lạc của y trong Kháng chiến Pháp đã giải cứu thành công những người kia.


Frank Tan, người đã gặp các điệp viên mặt trận, báo cáo về sự trở về Trung Quốc an toàn của 2 trong số các phi công. Một trong hai phi công đó tên là Knight tương đối lành lặn đã kể cho GBT câu chuyện của mình. Knight khen ngợi cả Lan và ngươi bản xứ vì đã giải thoát anh ta:


Vừa tỉnh lại tôi thình lình nhận ra toàn bộ vấn đề - máy bay của chúng tôi đang cháy, những đám đông tụ tập xung quanh và một chiếc xe tải của quân Nhật đang lao về phía tôi. Vì vậy ngay lập tức tối quay ra định chôn dù, nhưng trước sự kinh ngạc của tôi, một vái người bản xứ đang làm việc đó!


Thế rồi tôi nhớ ra tôi phái phi tang mọi thứ trong các túi của tôi và khi tôi bắt đầu lôi các thứ ra thì một người bản xứ chộp lấy tấm bản đồ bằng lụa của tôi rối vùi nó xuống dưới bùn nhão chỉ bằng một động tác… Thế rồi những người khác đẩy vội tôi ra và giấu tôi vào một túp Iều gần đó. Khoảng 15 phút sau vài người Pháp xuất hiện cùng một nắm tiền biếu những người bản xứ nhưng họ không nhận và cuối cùng họ quay ra chào tôi. Đoạn anh chàng André ấy đứng ra kiểm soát tình hình và sau này tôi được biết anh ta chỉ đạo giải quyết toàn bộ vấn đề .


Như vậy, dù có được thừa nhận là "đặc tình" hay không, người Việt Nam vẫn tham gia giải cứu phi công Mỹ. Ví dụ này đã làm tăng sức nặng cho khẳng định trước đó là nhiều người Việt Nam chí ít cũng chống Nhật, và thậm chí còn có thể ủng hộ Đồng Minh nữa.


Vào tháng 1 năm 1945 Fenn hầu như không biết sau đó ông buộc phải xem xét lại toàn bộ những gì ông đã nghe được về người Việt Nam. Tạm thời ông còn tập trung cố làm dịu đi cuộc tranh cãi mỗi ngày một thêm gay gắt giữa ông và OSS, giữa OSS và GBT. Từ viễn cảnh của OSS, quyền kiểm soát cơ bản GBT dường như đã nằm trong tầm tay. Một báo cáo của OSS viết vào tháng 2 đã tuyên bố một cách lạc quan rằng GBT đã được đặt dưới quyền OSS và Gordon, lúc đó đang ở Washington, sẽ hội kiến các đại diện của OSS để quyết định nhóm của ông sẽ được sử dụng ra sao. Với những khó khăn liên quan tới khát vọng độc lập của mạng lưới GBT dường như đã được giải quyết, báo cáo viết, vấn đề duy nhất là trách nhiệm của khu vực. Rõ ràng trong những nhận xét có tính kết luận của mình, tác giả đã ám chỉ đến lệnh của Tổng thống Roosevelt cấm cộng tác với các nhóm thuộc Kháng chiến Pháp: "Toàn bộ vấn đề Đông Dương thuộc Pháp (đã) bị làm cho phức tạp bởi một số quyết định chính sách cấp cao", vấn đề này vẫn cần được chú tâm.


Tính quả quyết của bản báo cáo này không hề có căn cứ. Các mối quan hệ của cả Washington và Côn Minh, của OSS và GBT đã thực sự xuống dốc. Đối với Gordon, các biện pháp của OSS là "chuyên quyền". Ông khẳng định rằng, mức độ kiểm soát mà OSS yêu cầu có thể huỷ hoại sự độc lập - cái đã làm cho nhóm của ông rất thành công và vì thế mà rất đáng ao ước. Ở Côn Minh, Bernard và Tan coi việc nhận đồ tiếp tế của OSS là một công việc triền miên buồn chán. Bộ phận ngân sách của OSS coi Tan và Bernard là kiêu ngạo và xem Fenn không đáng tin cậy. Chỉ có SI là giữ được mối quan hệ chân thành chủ yếu bởi GBT tiếp tục cung cấp cho SI nhưng thông tin quan trọng từ các điệp viên của mình ở miền Nam Trung Quốc và Đông Dương. Tuy nhiên, Wedemeyer nhất mực yêu cầu tất cả các nhóm tình báo trên mặt trận của ông phải được đặt dưới quyền chỉ huy của ông, nghĩa là GBT không thể tiếp tục hoạt động như một dẫn vị độc lập. Vào tháng Hai, Wedemeyer và GBT đạt được một thoả hiệp. Những nỗ lực chung của Gordon ở Washington và Fenn ở Côn Minh đã dẫn đến việc chuyển GBT và Fenn sang AGAS, mặc dù đúng nghĩa về mặt pháp lý Fenn đã trở thành liên lạc của OSS tại AGAS.


Dẫu OSS không giành được độc quyền kiểm soát GBT như mong muốn nhưng nó đã bảo toàn được quyền sử dụng mạng lưới thông tin của GBT. Từ lâu vẫn hưởng lợi từ các nguồn tài liệu và thông tin của GBT, AGAS sướng rơn khi giành được Fenn và nhóm này. Fenn, Bernard và Tan ổn định vị trí công tác mới của mình với AGAS trong khi Gordon vẫn ở lại Mỹ thêm một tháng nữa. Vài ngày đầu tháng 3 năm 1945 trôi qua không có gì hấp dẫn. Điện tín vẫn tiếp tục tới, Helen giải mã chúng, còn Fenn và Tan phân tích và phân tán chúng khi cần. Ngày 9 tháng 3, các đường dây im lặng lạ thường.


Bernard và Fenn bối rối trước việc không có tin tức nhưng vẫn tương đối bình thản. Ngày hôm sau, 10 tháng 3, một bức điện bí ẩn được một điệp viên GBT ở Mengkai gửi đến. Nội dung bức điện như sau: "Quân Nhật đã chiếm tất cả các vị trí trên toàn Đông Dương" . Bernard và Fenn chờ đợi thêm nhưng chỉ nhận được sự im lặng từ các đường dây thường xuyên bận của họ. Không lâu sau đó họ phát hiện ra rằng mạng lưới mà họ đã phải dày công thiết lập và rất tự hào về nó gần như không còn tồn tại. Nhật đã mở màn Chiến dịch MEIGO (Chiến dịch Trăng sáng) và lúc này đã hoàn toàn kiểm soát Việt Nam. Mạng lưới GBT biến mất. Đông Dương thuộc Pháp không còn tồn tại.


CHƯƠNG 5


Fenn và Bernard chờ đợi bên chiếc diện đài câm lặng, cả hai vẫn chưa nhận ra ảnh hưởng của bức điện họ đã nhận trước đó trong ngày. Bức điện bí ẩn ngày 10 tháng 3 chỉ thông báo một cách đến giản: "Quân Nhật đã chiếm tất cả các vị trí trên toàn Đông Dương" . Những con chữ báo hiệu điềm xấu nhưng không ai trong hai ông có thể hiểu được toàn bộ tác động của chúng - sự bất ngờ diệt vong của GBT với tư cách là một mạng lưới có tổ chức hay mạng lưới của tầng lớp thống trị người Pháp ở Việt Nam. Hai ông cùng nhiều người khác trên toàn thế giới ngay sau đó phát hiện ra rằng ngày 9 tháng 3 năm 1945, vào hồi 9 giờ tối giờ địa phương, Nhật đã mở màn cuộc đảo chính có mật danh Chiến dịch MEIGO.


Mặc dù Chiến dịch MEIGO làm cả hai người Mỹ ngạc nhiên, nhưng khả năng nổ ra một cuộc đảo chính đã tồn tại ngay từ khi thật bắt đầu chiếm đóng Việt Nam. Dựa vào công trình nghiên cứu của mình có tên Lịch sử chính thức của Nhật Bản về Chiến tranh Thái Bình Dương , nhà sử học Louis Ai1en đã kết luận rằng Bộ Tổng Tham mưu của Đế quốc Nhật đã bắt đầu dự tính khả năng đảo chính sau khi Anh Mỹ đổ bộ vào Bắc Phi đầu tháng 11 năm 1942. Mặc dù rõ ràng Nhật muốn giữ nguyên hiện trạng tại Đông Dương để quân đội rảnh tay tập trung vào giao chiến ở những nơi khác, nhưng khả năng thực dân Pháp đứng về phe Đồng Minh vẫn còn hiện hữu. Nếu điều đó xảy ra, quân Nhật sẽ buộc phải "ngăn chặn những hành động thù địch trong nước (Đông Dương)".


Từ tháng 11 năm 1942 đến mùa hè năm 1943 có rất ít thời gian được sử dụng để lên kế hoạch cho khả năng hất cẳng Pháp. Tuy thế, cuối mùa hè năm 1943 các sĩ quan Nhật thuộc Đạo quân Phương lam (có căn cứ tại Singapore) đã thảo luận sự cần thiết phải nghiên cứu nhưng phương án khác nhau có thể sử dụng nếu nhu cầu phải có hành động quân sự xuất hiện. Đến tháng 11 việc lập kế hoạch Chiến dịch MA (sau đó đổi thành MEIGO) đang tiến triển. Ban Kế hoạch Tác chiến của Tổng hành dinh lưu ý một số trở ngại tiềm tàng - một trong số đó là khó khăn trong việc thuyết phục người Việt Nam ủng hộ Nhật. Chiến dịch MA đòi hỏi phải mở rộng lực lượng quân sự tại Việt Nam, trong đó có tăng cường số kempeitaí (cảnh sát quân sự), triển khai một trung đoàn xe tăng, và điều động Lữ đoàn Hỗn hợp Độc lập 34 cùng Sư đoàn 53 đến Đông Dương. Với sự sụt giảm nhanh chóng cơ may của quân đội Nhật sau tháng 6 năm 1942 và khó khăn mỗi lúc một tăng trong năm 1943, không ai trong giới quân sự thật mong muốn làm đổi hướng nguồn cung cấp cần thiết nhất đến Việt Nam trừ khi tình hình xấu đi đột ngột. Trong hai năm 1942 - 1943 Nhật không mấy lo ngại về Đông Dương. Lực lượng Đồng Minh còn cánh xa Việt Nam, và mặc dù không hẳn thân mật nhưng quan hệ giữa Nhật - Pháp nhìn chung là hữu hảo.


Tuy nhiên động lực của mối quan hệ Pháp - Nhật bắt đầu thay đổi khi chiến thắng của Đồng Minh tại châu Âu tăng lên. Những trận ném bom liên tục vào các thành phố của nước Đức diến ra trong suốt mùa xuân năm 1944, Rome được giải phóng, cuộc đổ bộ ngày D trong tháng 6 và cuối cùng Paris được giải phóng trong tháng 8 đã làm thay đổi thái độ của cả Nhật và Pháp. Trong khi người Pháp công khai ăn mừng sự diệt vong của chính phủ bù nhìn cho chủ nghĩa Quốc xã và thủ đô của họ sạch bóng thù thì người Nhật càng thêm cảnh giác với cách "niềm vui" này có thể hiện hình tại thuộc địa.


Theo hồi ức của một cựu cảnh sát thì "một loạt sự cố đáng tiếc đã làm tăng nghi ngờ của Nhật như: thể hiện sự coi thường cờ Nhật tại Hà Nội, phá hoại có chủ ý xe quân sự Nhật, phân biệt đối xử với các công ty thương mại Nhật, áp bức và bắt bớ những người Việt Nam thân Nhật". Đến tháng 8 năm 1944 Bộ ngoại giao Nhật Bản, các quan chức quân đội đóng tại Đông Dương đã ủng hộ việc nắm quyền của giới quân sự. Để chuẩn bị cho sự kiện có thể xảy ra này, một thoả thuận giữa quân đội và hải quân đã có hiệu lực từ tháng Giêng. Điều đó nhấn mạnh rằng cần phải duy trì sự ổn định "cùng lúc đánh bại hoàn toàn lực lượng quân đội và cảnh sát Pháp, bắt chúng phải đầu hàng bằng hành động mau lẹ và cương quyết, qua đó đập tan bất kỳ thái độ hiếu chiến nào mà chúng có thể thể hiện. Các trung tâm thông tin liên lạc, sân bay, tầu thuyền, tất cả phải được đánh chiếm và cơ cấu chính quyền hiện hành phải được duy trì. Kế hoạch này phải được giữ bí mật, tăng cường hoạt động gián điệp, huấn luyện và bố trí lại lực lượng vũ trang".


Tuy thế, vẫn còn một trở ngại lớn đối với đảo chính. Các giới chức Tokyo vẫn chưa bị thuyết phục rằng sự nắm quyền của quân đội là cần thiết hay khôn ngoan. Từ viễn cảnh của Nhật Bản, Đông Dương, nhất là Việt Nam, (từ năm 1940) đã trở thành một căn cứ hậu cần và tiếp tế quan trọng. Khi quân Mỹ đã tiến đến gần hơn sau khi tràn vào miền Nam Philippines tháng 10 năm 1944, giải phóng Manila và trung phần Luzon đầu năm 1945, bộ tư lệnh Nhật càng lo ngại về khả năng Đồng Minh đổ bộ lên miền duyên hải Đông Dương, nhất là vì quân Nhật tại đây "không cân xứng về số lượng".


Nhật không thể mạo hiểm có một kẻ thù ở sau lưng. Đề phòng Pháp có hành động như vậy là không thể tránh được. Pháp có lý do thoả đáng để trông chờ một cuộc đổ bộ của Đồng Minh vào Việt Nam. Chiến dịch BETA do Wedemeyer, tư lệnh quân Mỹ tại mặt trận Trung Quốc, triển khai đã tạo thành một cuộc tấn công hai gọng kìm với hướng chính nhằm vào Quảng Châu, Trung Quốc. Đồng Minh hy vọng mở được một cửa khẩu ở miền Nam Trung Quốc, từ đó thiết lập "tuyến tiếp tế ngắn và quy mô đến Trùng Khánh". Giai đoạn hai hay giai đoạn Đông Dương của Chiến dịch BETA đòi hỏi phải có một cuộc hành binh vu hồi vào Bắc Kỳ. Tháng 2 năm 1945


Wedemeyer tuyên bố rằng ông đã "triển khai kế hoạch tiến vào Đông Dương", kế hoạch này được giữ tuyệt mật và chỉ được thảo luận với một số ít người bên ngoài ban tham mưu của ông. Tuy nhiên, ông đã đề cập ý tưởng này với tuỳ viên quân sự Pháp, người đã "yêu cầu có càng nhiều lính Mỹ sát cánh với các đến vị tiên phong Trung Quốc thì càng tốt".


Cuộc tấn công đã không trở thành hiện thực vì chiến lược của Đồng Minh "quyết định từ Philippines tiến thẳng đến Okinawa mà không đổ bộ lên lục địa châu Á", và một lần nữa Đông Dương lại chỉ có vị trí thứ yếu trong hoạch địch kế hoạch thời chiến. Dẫu vậy, nhà sử học Stein Tonnesson đã kết luận rằng cuộc đổ bộ đã được đề xuất có những kết quả dài hạn quan trọng: "bằng cách làm tăng hy vọng của Pháp và Nhật vào một cuộc tấn công của Mỹ, Roosevelt, Wedemeyer và OSS đã thúc đẩy một cuộc xung đột giữa Pháp và Nhật, qua đó mở đường cho cách mạng".


Tuy thế, khả năng nổ ra một cuộc cách mạng vẫn chưa xuất hiện trong đầu thực dân Pháp hồi đầu năm 1945. Được những thắng lợi của Đồng Minh cả ở châu Âu và khu vực Thái Bình Dương khích lệ, người Pháp ở Đông Dương đã dự đoán phe Trục sẽ thất bại trong vòng vài tháng nữa; và đến đầu năm 1945 Kháng chiến Pháp dần trở nên công khai hơn trong thái độ chống phe Trục. Nhà cầm quyền Nhật không mù về điều đó, và dù cho những hoạt động của Kháng chiến Pháp không gây ra đảo chính nhưng rõ ràng đã đổ thêm dầu vào lửa. Nhật đã thể hiện dứt khoát thái độ không hài lòng với người Pháp, không khác với các thành viên trong mạng lưới của Lan và các điệp viên GBT - những người đã "che giấu phi công Mỹ bị bắn rơi tại Đông Dương và từ chối trao họ cho Nhật trừ phi được bảo đảm chính thức rằng những tù binh này sẽ được đối xử theo Công ước Geneva. Nhật không đưa ra bảo đảm và Pháp không giao nộp những người Mỹ". Sự bực tức của Nhật leo thang khi Pháp đổ lỗi cho Nhật gây ra "nhiều thương vong" cho người Pháp sau vụ 30 máy bay B29 của Mỹ ném bom Sài Gòn. Ngày 2 tháng 2 quyết định tiến hành đảo chính và những kế hoạch liên quan được chuyển lên Hoàng đế Hirohito, nhưng thời gian chính xác cho việc nắm quyền vẫn chưa được ấn định. "Quân đội Nhật theo thông lệ bắt đầu những hoạt động vào những ngày lịch sử nào đó", Louis Allen viết, "ngày 8 tháng 3 là Lễ công bố Huấn lệnh của Nhật Hoàng, 10 tháng 3 là ngày kỷ niệm các chiến sĩ trận vong. Mùng 9 tháng 3 tránh được cả hai ngày lễ đó".


Ngày 9 tháng 3 Nhật bắt đầu Chiến dịch MEIGO vì muốn giữ bí mật xung quanh việc lập kế hoạch và thực hiện chiến dịch này. Sáu giờ chiều, toàn quyền Jean Decoux và đại sứ Nhật Matsumoto Shunichi gặp nhau tại văn phòng của Decoux ở Sài Gòn để chính thức ký thoả thuận cung cấp gạo thường niên. Cuộc gặp dường như diễn ra theo đúng thủ tục thông thường đối với Decoux mặc dù ông ta cảm thấy lo lắng trước phản ứng của Nhật về những hành động công khai diễn ra như cơm bữa của Kháng chiến Pháp. Vào tháng 2, khi rời Hà Nội để thực hiện chuyến công cán hàng năm đến Sài Gòn, Decoux không biết điều gì sẽ xảy ra trong ngày mùng 9. Với việc kết thúc Chiến tranh thế giới 2 đã ở trong tầm mắt, ông ta vẫn tự tin rằng tình trạng thuộc địa của Pháp ở Việt Nam sẽ không bị thách thức. Ông ta nhớ đã vui sướng ngắm nhìn quốc kỳ Pháp tung bay trong làn gió nhẹ ở Sài Gòn - một biểu tượng của niềm kiêu hãnh và quyền lực của Pháp trong kỷ nguyên ô nhục ở châu Âu đối với Pháp. Khi chuẩn bị cho cái mà ông ta tin là một cuộc gặp như thông lệ với viên đại sứ, Decoux không hề cảm thấy những thay đổi quan trọng trong tâm trạng người Nhật ở Sài Gòn trong mấy ngày đầu tháng 3 ấy. Ông ta nhớ trong ngày 7 tháng 3 không có gì có vẻ bất bình thường ngay cả khi quân Nhật chuẩn bị thực hiện "những hành động ghê tởm chống lại Đông Dương" của chúng.


Tuy nhiên, Decoux không mong chờ cuộc hội kiến với Matsumoto. Ông ta không thích viên đại sứ và nhận thấy đó là một kẻ thô lỗ và thiếu sự tinh tế của người tiền nhiệm, ngài đại sứ Yoshizawa Kenkichi. Tại cuộc gặp diễn ra vào ngày mùng 9, Decoux nhận thấy viên đại sứ liên tục nhìn đồng hồ, có vẻ lo lắng và căng thẳng khi hai bên thảo luận về thoả thuận cung cấp gạo.


Cùng với kết luận của bản thoả thuận, Matsumoto bắt đầu thăm dò Decoux về ý định của chính phủ Pháp đối với de Gaulle, Đồng Minh và Nhật Bản. Decoux cố lảng tránh câu hỏi mà không gây thêm mối cừu hận với Nhật, ông ta quá hiểu bút sa là gà chết. Không có câu trả lời nào thoả mãn câu hỏi của Nhật ở vấn đề này. Phía Nhật buộc tội chính quyền Decoux giúp quân Đồng Minh đổ bộ trên toàn Đông Dương, không công nhận chế độ bù nhìn do Nhật dựng lên ở Nam Kinh, không cung cấp đầy đủ lao động khổ sai và tài chính cho quân Nhật và khoan dung cho những phi vụ ném bom của Mỹ trên toàn Đông Dương thay vì phải có "phản kháng nghiêm túc". Nhà sử học F.C. Jones tuyên bố rằng "tất cả những lời buộc tội đó đủ chính xác và trao đổi giữa hai bên cho thấy Nhật không bị mắc lừa về thái độ của Decoux đối với họ". Không có gì ngài toàn quyền nói ra vào thời điểm ấy có thể thay đổi tình hình: Tối hậu thư đã có trong tay và Matsumoto có thể đưa ra tuỳ thuộc vào trả lời của Decoux.


Đúng 7 giờ tối Matsumoto trao cho Decoux những yêu cầu mới nhất của chính phủ Nhật.


Văn kiện Matsumoto chuyển cho Decoux viết: Nhật không hài lòng với "tình hình hiện tại", đặc biệt lưu ý đến "những cuộc tấn công liên tục của Mỹ chống Đông Dương và khả năng nổ ra một cuộc tấn công của kẻ thù của chính phủ Nhật Bản". Nó thúc giục Decoux phải chứng minh ý định tham gia phòng thủ chung bảo vệ Đông Dương trong trường hợp Đồng Minh tấn công. Decoux có cả thảy 2 tiếng đồng hồ - đến 9 giờ tối - để đồng ý đặt toàn bộ lực lượng Pháp, đạn được, các tuyến đường sắt và những tài sản khác cần cho các chiến dịch quân sự dưới sự kiểm soát của Nhật. Văn kiện này còn nói rõ toàn bộ bộ máy hành chính của chính quyền Đông Dương được yêu cầu phải tuân thủ ngay lập tức những đòi hỏi của Nhật Bản. Ngài toàn quyền đã mất tinh thần trước cả nội dung của tối hậu thư và thời hạn hai giờ đồng hồ để ông ta phải đưa ra quyết định.


Sự nghiêm trọng của tình hình rõ ràng khiến tất cả lo lắng. Decoux không thể đồng ý với những yêu cầu của Nhật trừ phi mất sự tín nhiệm mà có lẽ ông ta có với chính phủ Pháp của de Gaulle. Nếu đầu hàng, ông ta dường như sẽ trở thành kẻ cộng tác và thậm chí có thể là phản bội trong mắt cả người Pháp ở thuộc địa và chính quốc. Nhưng nếu không đồng ý, ông ta sẽ để mất một mục tiêu từng mẫn cán theo đuổi kể từ khi thay Catroux năm 1940: duy trì Đông Dương thuộc Pháp. Decoux trả lời rằng ông ta cần phải bàn bạc với các chỉ huy quân đội Pháp trước khi đưa ra quyết định. Cả Decoux và Mitsumoto đều biết rằng ông ta đang cố kéo dài thời gian. Đến 8 giờ 15, Matsumoto, tương đối tự tin về cuộc đảo chính sắp xảy ra, cáo từ Decoux.


Ngày 9 tháng 3, khi mặt trời lặn, trong "sự im lặng chết người" theo sau sự ra đi của viên đại sứ, Jean Decoux quan sát nghi lễ hạ cờ Pháp hàng ngày và lo lắng không biết điều gì sẽ đến vào sáng hôm sau.


Căn cứ vào dự đoán của Decoux thì ông ta chẳng thể làm được gì nhiều. Ông ta nhanh chóng triệu tập các thành viên cao cấp trong ban tham mưu của mình, các quan chức dân sự và quân đội cấp cao có mặt tại Sài Gòn để phổ biến cho họ diễn biến của tình hình và tất cả đều cho rằng các yêu cầu của Nhật không thể chấp nhận được.


Tám giờ bốn nhăm, Decoux hoàn thành phúc đáp, theo đó không đồng ý cũng không phản đối bị vong lục của Nhật.


Decoux nhắc lại rằng ông ta không thể đồng ý với bị vong lục của Nhật nếu không tham khảo ý kiến các chỉ huy cấp cao quân đội Pháp tại Hà Nội, nhưng ông ta nói sẵn sàng đàm phán thêm với Nhật. Decoux đã kết luận rằng ông ta "sẽ không ký một thoả thuận đi ngược lại danh dự của cá nhân ông ta cũng như của quân đội Pháp". Tám giờ bốn nhăm, mặc dù thời hạn hai giờ đồng hồ vẫn chưa kết thúc, nhưng Decoux biết công dân Pháp đã "bị bắt và bị khiêu khích và quân Nhật đã cắt đứt những con đường giữa Sài Gòn và Chợ Lớn.


Đến 9 giờ, thông điệp của Pháp đang trên đường nhưng vẫn chưa đến tổng hành dinh quân đội Nhật, dù Nhật đã được thông báo về điều này. Trước đó, khi rời văn phòng toàn quyền, đại sứ Matsumoto đã để lại một sĩ quan Nhật tại Dinh Toàn quyền để đóng vai hướng dẫn viên và "vệ sĩ" cho sĩ quan Pháp, đại uý Robin, người chịu trách nhiệm chuyển phúc đáp của Decoux. Tuy nhiên, khi Robin chuẩn bị đi, anh ta phát hiện ra tay vệ sĩ người Nhật đã biến mất. Dẫu vậy Robin vẫn lên đường cùng trung uý D'Aiguilhon. Vẻ ngoài không giống với nơi toạ lạc chính xác của tổng hành dinh Nhật - nơi hầu như không bao giờ trưng một bảng yết thị đối với thẩm quyền Pháp - Robin và người hộ tống của anh ta bị lạc và do đó đã làm chậm việc chuyển phúc đáp. Phía Nhật chờ thêm 15 phút. 8 giờ 18, tướng Tsuchihashi Yuisu chỉ huy Đạo quân Thiên Hoàng 38 ở Sài Gòn, đã ra lệnh miệng cho 67.000 binh sĩ tại Việt Nam bắt đầu tiến hành đảo chính. 9 giờ 21, mật mã "777" đã báo hiệu cho các sĩ quan Nhật trên toàn Đông Dương. Với những người nhận, tín hiệu này có nghĩa là ngài toàn quyền đã cự tuyệt yêu cầu của Nhật và tất cả các đơn vị phải bắt đầu động binh ngay lập tức.


Sau đó không lâu đại uý Robin bước vào tổng hành dinh quân đội Nhật. Chỉ sau đó Robin và D'Aiguilhon mới nhận ra một chiếc xe hơi để lộ một lá cờ Nhật ngoại cỡ mà người ta đưa đến. May cho Tsuchihashi, phúc đáp của phía Pháp có thể dễ dàng được hiểu như lời từ chối yêu cầu của Nhật. Nếu bởi một lý do vu vơ nào đó Decoux đồng ý với những yêu cầu mới của Nhật thì Tsuchihashi đã phạm phải sai lầm vì ra lệnh tấn công một đồng minh quý giá và sẵn sàng hợp tác ở Đông Dương.


Tuy nhiên, viên toàn quyền đã không chấp nhận những đòi hỏi của Nhật và thế là Dinh Toàn quyền đã bị quân Nhật chiếm mà không có đổ máu. Cũng vào khoảng thời gian đó quân Nhật chiếm được các cơ quan công quyền, các đài phát thanh, các trung tâm điện tín và điện thoại, ngân hàng và các xí nghiệp công nghiệp chính yếu. Chúng còn tấn công lực lượng cảnh sát, bắt giữ thường dân và quân nhân Pháp.


Sáng hôm sau, thiếu tướng Kawamura, tư lệnh ban tham mưu Đạo quân 38, đề nghị được trao đổi riêng với Decoux.


Kawamura lấy làm tiếc rằng sự thiếu hợp tác của Pháp đòi hỏi phải tiến hành đảo chính và cam đoan với Decoux về việc tiếp tục bảo vệ sinh mệnh và tài sản của người Pháp. Tuy nhiên sau đó chính bản thân toàn quyền Decoux đã trở thành tù binh của Nhật tại Lộc binh, cách Sài Gòn 80 dặm về phía bắc. Dù bị giam cầm nhưng Decoux và "các sĩ quan cao cấp Pháp" vẫn được, như phía Nhật bảo đảm, "tuỳ nghi" đối xử. Người Pháp không chấp nhận việc này. Ước tính có khoảng 500 thường dân Pháp "lúc đầu là bất kỳ ai bị nghi ngờ giúp Đồng Minh và sau đó là các quan chức Phòng nhì trước đó đã từng trấn áp những người bản xứ có cảm tình với Nhật" đã bị bắt giam, và hơn 200 người đã bị giết hoặc mất tích.


Để bào chữa cho cuộc đảo chính, Nhật đã thông báo cho công chúng qua sóng phát thanh đổ lỗi cho những hoạt động của Kháng chiến Pháp hợp tác với Đồng Minh và sự thiếu hợp tác của Pháp là nguyên nhân cần phải làm đảo chính. Tại Nhật Bản, trong diễn văn đọc trước nghị viện, thủ tướng Nhật - tướng Koiso Kuniaki, buộc tội chính quyền Pháp đã có "những hành động phản bội" đòi hỏi phải làm đảo chính. Bộ trưởng ngoại giao Shigemitsu Mamoru làm rõ thêm vấn đề từ bối cảnh của Nhật:


Khi quân Đức rút khói Pháp, tân Chính phủ của de Gaulle đã ban hành lại quyết định gốc chống Nhật. Decoux (đúng nguyên văn) sau đó đã tuyên bố lòng trung thành và nói rõ rằng Đông Dương đang trong tình trạng chiến tranh với chúng ta. Đông Dương là căn cứ của lực lượng viễn chinh Nhật ở Malaysia, Burma, Java và Sumatra và phải được bảo đảm an ninh bằng mọi giá. Nhật không thể dễ dàng phục tùng một tuyên bố thù địch nhu vậy… Nhật không còn lựa chọn nào khác ngoài châm dứt tình trạng này .


Mặc dù những dấu hiệu đầu tiên của đảo chính xuất hiện ở Sài Gòn, nhưng ngày 9 tháng 3 đã chứng kiến Pháp chuyển giao quyền lực trên toàn thuộc địa. Cuộc tấn công đầu tiên và cuộc kháng cự mạnh mẽ nhất xảy ra tại Bắc Kỳ, nơi 32.000 quân Pháp đã chống lại Nhật. Có nhiều trường hợp các sĩ quan Pháp và quan chức cấp cao đã được mời dự bữa tối với các đối tác Nhật. Nhiều người đã nhận lời mời chỉ để bị bắt vào thời gian đã định. Một số người Pháp đã mất mạng trong các cuộc bắt bớ. Tại Lạng Sơn, nơi đã xảy ra một cuộc giao tranh nhỏ giữa Pháp và Nhật năm 1940, tướng Emile Lemonnier và công sứ Pháp Camille Auphelle cùng ba sĩ quan tham mưu cao cấp đã bị chặt đầu sau khi từ chối ký biên bản đầu hàng. 100 lính lê dương tại đồn Brière de L'Isle (Lạng Sơn) đã chống lại quân Nhật trong 24 giờ đồng hồ trong một trận chiến thỉnh thoảng lại đánh giáp lá cà. Quân Nhật giết hầu hết lính đồn trú, nhiều người trong số họ theo tường trình đã hát vang bài "Marseillaise" trước khi chết. Các đồn binh ở Hà Giang và Hà Nội cũng bị đánh chiếm và hàng ngàn người bị bắt làm tù binh. Vị trí cuối cùng của Pháp đầu hàng là Đồng Đăng, nơi binh lính thuộc địa và các sĩ quan Pháp (chỉ có một người sống sót) bị bao vây đến ngày 12 tháng 3.


Nhà sử học David Marr đi đến kết luận rằng: "2100 sĩ quan và quân nhân người Âu đã bị giết hoặc mất tích" trong cuộc đảo chính và rằng tổn thất của người Việt Nam thậm chí còn lớn hơn. Ông ước tính "khoảng 15.000 thành viên của lực lượng vũ trang Đông Dương bị Nhật giam giữ, trong đó có 12.000 người Âu" .


Mặc dù hầu hết các đồn binh nhanh chóng đầu hàng, nhưng có hai viên chỉ huy là tướng Gabriel Sabattier và Marcel Alessandri đã chạy thoát khỏi Đông Dương cùng đám bộ hạ của mình.


Nhà sử học Pháp André Gaudel viết rằng cuối tháng 2 tướng Sabattier, tư lệnh sư đoàn Bắc Kỳ và lãnh đạo Kháng chiến miền Bắc đã chỉ thị rõ cho các lãnh đạo tỉnh kiên quyết chống lại bất kỳ hành động gây hấn nào sắp sửa xảy ra của Nhật. Dựa vào thông tin của Phòng nhì, Sabattier đã cảnh báo các đồn binh ở Bắc Kỳ và Bắc Lào về khả năng xảy ra đảo chính và đã bí mật rời Hà Nội ngày 8 tháng 3 để đến với lực lượng của ông ta đóng tại phía bắc thành phố. Lực lượng lớn nhất trong vùng đóng ngay tại phía bắc sông Hồng là Trung đoàn Lê dương số 5. Khoảng 2000 lính lê dương được đặt dưới sự chỉ huy của tướng Alessandri. Còn giao chiến tại nơi khác nên quân Nhật không tấn công vào tối 9 tháng 3, điều đó cho phép Alessandri và lính của ông ta có thời gian rút chạy về phía bắc. Tuy nhiên sự trì hoãn này kéo dài không lâu quân Nhật đuổi theo đám tàn binh Pháp đang tháo chạy, cắt đứt đường đến hai cửa khẩu biên giới quan trọng nhất tại Lào Cai và Hà Giang.


Địa hình và hoàn cảnh đã thử thách cả Sabattier và Alessandri. Sabattier nhanh chóng mất liên lạc với hầu hết các đơn vị của ông ta và buộc phải đi bộ dọc theo sông Đà về Lai Châu cùng một nhóm nhỏ tàn quân còn sống sót: 3 sĩ quan, 1 phiên dịch, tài xế của ông ta và 2 lính dân tộc Thái.


Trong khi đó, Alessandri thận trọng cân nhắc khả năng đào thoát thành công vào lãnh thổ Đồng Minh. Tuổi trung bình của binh lính dưới quyền ông ta là 40 và không quen với gian khổ về thể chất, nghĩa là nhiều người trong số họ sẽ bỏ mạng trong chuyến đi nguy hiểm vượt qua nhiều khu rừng rậm rạp và núi non hiểm trở để đến biên giới Trung Quốc.


Alessandri còn có một số bạn bè cùng cấp bậc với ông ta trong quân đội Đông Dương. Trong khi suy tính bước đi tiếp theo sau cuộc đảo chính, ông ta quyết định tách khỏi quân đội Đông Dương. Động thái này được hiểu theo nhiều cách.


Nhà sử học J. Lee Ready nói rõ, lính Đông Dương đã được lệnh "cùng người Âu bỏ lại trang bị và đồng phục và cố thoát khỏi nhà" với hy vọng họ có thể sống sót bằng cánh "băng rừng". Tương tự, Gaudel viết rằng Alessandri "đã cho họ tự do". Điệp viên Pháp và học giả tôn giáo châu Á Paul Mus nhớ lại, một số binh lính Việt đã khóc khi ra đi. Theo Mus, những người lính đó "trở về làng bản của họ vẫn trong bộ quân phục Pháp và vài người đã bị lính Nhật giết vì không chịu chào".


Tuy vậy, David Marr chỉ rõ rằng những người này đã phải "tự xoay sở lấy… một mình, không vũ khí, dễ bị tấn công". Ông nhận xét, bị cho giải ngũ có lẽ "làm một số người trong bọn họ dễ chịu, nhưng rõ ràng làm tổn thương sâu sắc những người khác, và điều đó sau này được những người Việt Nam theo phong trào đòi độc lập sử dụng để nêu bật bản chất xảo trá của chủ nghĩa thực dân Pháp".


Chúng ta có thể cho rằng cách đối xử "xảo trá" này đã có những tác động đáng kể trong một thời gian dài. Cùng năm đó khi người Mỹ đến Đông Dương, họ đã đối xử tốt và hoạt động sát cánh cùng Việt Minh. Một số người Việt đã đề cao thêm hình ảnh những người Mỹ và khơi sâu sự phẫn nộ của người Việt Nam đối với Alessandri và người Pháp. Hai tình tiết trên càng làm tăng thêm sự ghét bỏ người Pháp vì thái độ của họ và làm nghi ngờ tuyên bố tiếp nhận quyền cai trị Việt Nam của họ. Vì mặc dù binh lính của Alessandri đã gặp vô vàn nguy hiểm trong suốt 3 tháng trời sau đó, thì sau khi rũ bỏ quân phục và vũ khí, binh lính Đông Dương có quyền cảm thấy mình bị làm nhục và bỏ rơi. Ngày 10 tháng 3, đội hình hàng dọc gồm người, ngựa và la của Alessandri vượt sông Đà và trên đường tháo chạy bị quân Nhật liên tục tấn công. 75 lính của đơn vị Lê dương số 3 bỏ mạng trong một trận đánh tuyệt vọng và tiếp tục phải chống lại nhiều cuộc tấn công của Nhật vài tuần sau đó.


Trong một số trường hợp, họ còn bị người Đông Dương tấn công. Một báo cáo Ultra(1) từ ngày 27 tháng 4 năm 1945 viết, "một đơn vị Pháp 56 người trong khi cố vào lãnh thổ Trung Quốc" đã bị "quần chúng tấn công suốt dọc đường đi khiến 30 người thiệt mạng". Một biệt đội Pháp khác đã bị "người An Nam phản lại và buộc phải bỏ trang bị để chạy thoát quân Nhật". Kinh nghiệm của Mus, tuy thế, lại không chứng minh được điều này. Ông nhớ rằng "trước cuộc đảo chính người Pháp được trọng vọng như những ông chủ, sau đảo chính họ trở thành những vị khách không mời với những danh tiếng tồi tệ nhất". Nhưng trong chuyến bay rời Hà Nội tháng 3 năm 1945, ông "đã được chính người Việt Nam giúp đỡ bằng mọi khả năng có thể". Theo Mus, cuộc đảo chính đơn giản là "món mì ăn liền, khi mắt người ta đã mở và cảm giác phụ thuộc không còn nữa".


Đấy chính xác là sự mất kiểm soát mà Pháp vẫn cố sức ngăn cản. Ngày 28 tháng 3 tướng Alessandri thiết lập đại bản doanh của ông ta tại một thung lũng sau này sẽ trở thành nổi tiếng trong cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam: Điện Biên Phủ. Ngày 29 tháng 3 tướng Sabattier nhập với ông ta. Cùng ngày một máy bay Anh hạ cánh đưa François de Langlade, sứ giả của de Gaulle, và đại tá Dewavrin (được biết đến nhiều hơn với bí danh Passy), giám đốc cơ quan tình báo của de Gaulle (DGER). De Langlade mang đến hai thông báo cho Sabattier. Thông báo thứ nhất cho Sabattier biết rằng de Gaulle đã bổ nhiệm ông ta làm phái viên toàn quyền, chức vụ này đem lại cho ông ta cả quyền hành dân sự và quân sự. Với tư cách là tư lệnh toàn bộ lực lượng Pháp tại Đông Dương, Sabattier lập "thủ đô" tạm thời của mình tại Điện Biên Phủ. Trong thông báo thứ hai, de Gaulle ra lệnh cho Sebattier duy trì vị trí của mình tại Đông Dương như biểu tượng hiển nhiên của chủ quyền không bị cắt rời của Pháp trên toàn thuộc địa.


Tuy nhiên, sau chưa đầy một tuần ở Điện Biên Phủ, Nhật đã buộc Pháp phải tháo chạy. Sabattier và Alessandri đã sớm tự trấn an với niềm tin rằng Nhật sẽ bằng lòng chiếm giữ vùng đồng bằng màu mỡ và những binh sĩ Pháp đã trốn thoát sẽ được an toàn trên vùng cao. Nhưng sự dừng chân chóng vánh của họ tại Điện Biên Phủ đã bị đánh dấu bằng những cuộc tấn công hàng ngày của quân Nhật mạnh hơn. Không còn thời gian trì hoãn, Pháp mở đường máu rút khỏi Điện Biên phủ về hướng Lai Châu. Đến ngày cuối cùng của tháng, Nhật đã đánh bật Pháp ra khỏi Tuần Giáo. Quân đội Thiên Hoàng tiếp tục truy kích Pháp qua Luang Prabang đến Phong Saly và tiếp đó là Lai Châu - nơi quân Pháp kháng cự đến ngày 9 tháng 4. Đến cuối tháng 5 Nhật đã hoàn toàn đánh bật Pháp ra khỏi Đông Dương. Ngày 20 tháng 5 người Pháp vượt biên giới vào Trung Quốc. Trong 72 ngày họ đã phải tháo chạy qua những địa hình hiểm trở, trong điều kiện thời tiết bất thường và không có đủ đồ tiếp tế. Đến tháng 6, gần 5.700 người tụt hậu, trong đó có 2.469 người Âu, qua được biên giới Trung Quốc tại nhiều điểm khác nhau chỉ để bị tước vũ khí và đối xử với sự khinh miệt ra mặt của chủ nhà.


Sabattier đã thất bại trong việc duy trì vị trí chiến đấu của Pháp tại thuộc địa. Mặc dù ông ta - và nhiều người khác nữa - đã đổ lỗi cho sự "phản bội" của Nhật, họ cũng đổ lỗi cho cả người Mỹ vì đã từ chối họ những hỗ trợ cần thiết để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Nhật. David Marr cũng như nhiều nhà sử học khác cho rằng "sự giúp đỡ thực chất của Mỹ và Trung Quốc có thể cho phép Sabattier bảo vệ một vài đồn lẻ ở miền núi". Người Pháp đã đặc biệt hy vọng vào tiếp tế đường không của Không đoàn 14 xuất phát từ những căn cứ tại Trung Quốc.


Liên quan đến cuộc đảo chính của Nhật, tư lệnh Không đoàn 14, tướng Claire Chennault, thấy mình rơi vào một tình thế khó khăn. Sau đảo chính, báo cáo về cuộc vây hãm Lạng Sơn tới tấp được đặt lên bàn làm việc của Chennault. Người Pháp báo đã chịu những tổn thất nặng nề và yêu cầu không quân Đồng Minh tấn công chống kẻ thù. Khi Chennault yêu cầu giấy phép của tổng hành dinh mặt trận Trung Quốc để tiến hành ném bom ngay lập tức nhằm giải nguy cho các đồn binh, câu trả lời khẳng định ngắn gọn và rõ ràng "Mặc quỷ tha ma bắt chúng!". Dù đã quá muộn để bảo vệ đồn Lạng Sơn, ý muốn giúp Pháp của Chennault là rõ ràng. Ngày 10 tháng 3, ông gặp Tưởng Giới Thạch để thảo luận về chính sách của Trung Quốc đối với những người Pháp chạy trốn.


Trí thức Trung Quốc khinh bỉ người Pháp, Chennault xoay câu hỏi của mình quanh khả năng liệu Pháp có kháng cự được những đợt tấn công của kẻ thù chung của họ hay không. Ông hỏi: Liệu người Pháp kháng cự ngoan cường chống Nhật thì cứ mặc họ cho số phận định đoạt hay lực lượng Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, sẽ gửi quân đến giúp? Nếu kháng cự không mấy ngoan cường, họ có bị tước vũ khí khi vào Trung Quốc hay không? Trả lời của Tưởng cho câu hỏi sau là không rõ ràng; ông ta cho rằng người Pháp có thể "được phép ở lại Trung Quốc trong những khu vực quy định". Trả lời của ông ta về việc giúp Pháp có vẻ rõ ràng hơn đôi chút. "Nếu kháng cự ngoan cường", Tưởng tuyên bố, "thì có thể được giúp đỡ". Căn cứ vào sự "cho phép" này, từ ngày 12 đến 28 tháng 3 Không đoàn 14 đã thực hiện 98 lần xuất kích trên bầu trời Dông Dương, trong đó có cả các phi vụ ném bom và trinh sát. 28 lần trong số đó là "trực tiếp đáp lại yêu cầu của Pháp". Chennault khẳng định, số lượng các lần xuất kích đã có thể nhiều hơn nếu không vì thời tiết xấu, không có sẵn đồ tiếp tế (và) trang bị thừa, và sự thay đổi bất thường của tình hình".

Trong hồi ký của mình, Chennault nhớ lại:

Ngay sau khi Nhật tấn công tôi đã cử các nhân viên tình báo của Không đoàn 14 tói Đông Dương để bắt liên lạc với quân Pháp. Bay trên những chiếc máy bay hạng nhẹ, họ đáp xuống một dải đất rừng đã được phát quang rồi khi chuẩn bị thả dù đạn được thuốc men và 1ương thực cho lính Pháp đang rút lui thì nhận được chỉ thị từ Tổng hành dinh mặt trận: không cung cấp vũ khí và đạn được cho quân Pháp trong bất cứ hoàn cảnh nào. Không đoàn đã làm hệt khả năng của mình để giảm nhẹ tình cảnh quẫn bách của người Pháp đang tháo chạy bằng cách oanh tạc và ném bom vào độihình.quân Nhật Cuối cùng chúng tôi cũng được phép đi tản phụ nữ và trẻ em Pháp bằng đường hàng không.


Như đã thảo luận trước, cho đến đầu năm 1945 sự mơ hồ trong chính sách của Mỹ về việc tiếp tục duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp vẫn chưa được giải quyết. Tuy nhiên, sự miễn cưỡng giúp người Pháp giữ Đông Dương dường như đã được thoả thuận từ trên xuống dưới thông qua một loạt mệnh lệnh. Tất nhiên đến cuối tháng 4 việc này đã trở nên rõ ràng vì mặc dù Roosevelt từ trần ngày 12, nhưng tư lệnh mặt trận Trung Quốc tiếp tục tuân thủ những chỉ thị của ông liên quan đến Đông Dương thuộc Pháp. Tướng Wedemeyer triệu tập một cuộc họp của ban tham mưu sáng ngày 25 tháng 4 năm 1945. Tới dự có đại tá Willis Bird, phó chỉ huy OSS tại mặt trận Trung Quốc. Trong báo cáo với thượng cấp của mình Bird lưu ý những chỉ thị rõ ràng từ Wedemeyer liên quan đến Đông Dương thuộc Pháp: "Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không trao trang thiết bị hay vũ khí cho FIC (Đông Dương thuộc Pháp). Lương thực và thuốc men có thể được cung cấp trên cơ sở nhân đạo nhưng điều đó không thể hiện rằng chúng ta nên tiếp tế cho họ. OSS có thể làm hết khả năng của mình tại FLC chỉ vì những mục đích tình báo và có thể chỉ đưa đến đó những trang thiết bị và vũ khí cần thiết để bảo vệ các đơn vị của nó, không tiến hành hoạt động phá hoại".


Ngày 7 tháng 3 năm 1945, tướng Wedemeyer nhận thông tin bổ sung về chính sách liên quan đến thuộc địa Pháp khi ông và Patrick Hurley, đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, tiếp kiến Roosevelt . Cả hai ông ra về với "những chỉ thị rõ ràng về những gì họ không thể làm tại Đông Dương". Tuy nhiên những gì họ có thể làm lại vẫn mơ hồ. Nhà sử học Stein Tonnesson đã đặt ra một câu hỏi khó: "Có nên đổ chuyện này chỉ cho điều kiện sức khoẻ yếu của Roosevelt không, hay Tổng thống đã cố ý giành thế chủ động ở Đông Dương cho Nhật? Vì mục đích của Roosevelt là đặt Đông Dương dưới sự uỷ trị quốc tế nên phải cám dỗ để Nhật làm cái việc thủ tiêu chế độ thuộc địa".


Câu hỏi liệu Roosevelt có cố ý giành "thế chủ động" cho Nhật hay không sẽ vẫn còn để ngỏ cho các phỏng đoán. Nhưng bất chấp ý định của Roosevelt , trên thực tế, những hành động của ông đã bật đèn xanh cho Nhật loại bỏ quyền lực của Pháp. Dĩ nhiên việc Chennault hiểu chính sách về Đông Dương của tổng thống như đã chỉ thị cho ông qua các mệnh lệnh đến từ Wedemeyer đã đem đến cho ông một vài lựa chọn đối với người Pháp, cốt lõi là cứ để họ cuốn theo chiều gió. "Tôi đã thi hành triệt các mệnh lệnh", Chennault nhớ lại, "nhưng tôi không thích ý tưởng để mặc người Pháp bị tàn sát trong rừng khi tôi chính thức bị buộc phải làm ngơ trước hoàn cảnh khó khăn của họ". Ông kết luận, "Chính phủ Mỹ muốn thấy người Pháp bị tống cổ khỏi Đông Dương bằng vũ lực có thế vấn đề tách họ khỏi thuộc địa sau chiến tranh mới dễ dàng hơn". Tuy nhiên, cho dù người Pháp không nhận được viện trợ của Mỹ như hy vọng, nhưng không phải là họ không có lựa chọn. Tầu thuỷ và máy bay vận tải Mỹ tránh người Pháp, nhưng hàng viện trợ của Anh từ Calcutta đã đến tay một số lính Pháp chạy nạn. Các chuyến tiếp tế đường không đã thả xuống nào súng, nào lựu đạn và súng cối. Cho dù rõ ràng dây là hàng tâm lý, nhưng những chuyến thả dù hoá ra lại có rất ít giá trị đối với vài người sống sót, bởi sức lực đã giảm sút nên họ buộc phải bỏ bớt gánh nặng đang cõng trên lưng mình. Những người khác có thể trong điều kiện chiến đấu tốt hơn lại phải từ bỏ lối đánh du kích vì thiếu trang bị.


Lúc đầu OSS đã lên kế hoạch viện trợ cho tàn quân Kháng chiến Pháp. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, "Đội du kích" do thiếu tá John W. Summers đứng đầu đã được cảnh báo về nhiệm vụ gần Móng Cái, trên bờ biển phía bắc Việt Nam .


Trung uý Robert Ettinger của OSS được điều đến đội này để thực thi công tác đặc biệt của SI. Năm người (không bao gồm Ettinger) phải tổ chức và trang bị cho "bất kỳ lực lượng nào của Kháng chiến Pháp trong vùng" và thực hiện "hoạt động SO thông thường và công tác phá hoại". Mặc dù việc này bề ngoài có vẻ vi phạm chỉ thị trước đó của Wedemeyer, nhưng có thể giải thích nhiệm vụ của Summers là tuần tra theo chỉ thị ngày 20 tháng 3: cho phép OSS cung cấp viện trợ quân sự "dưới dạng hàng quân nhu và / hay các quân nhân do Mỹ kiểm soát cho bất kỳ hay tất cả các nhóm chống Nhật".


Sứ mạng đầu tiên đó của Summers kết thúc như một số sứ mạng "mới" được Đội du kích thực hiện tại Việt Nam từ 12 tháng 3 đến 23 tháng 4. Cuối cùng, ngày 24 tháng 4, những thành viên trong nhóm Summers đã lọt vào Đông Dương thuộc Pháp. Summers ghi lại một số quan ngại về những gì họ có thể phát hiện ra trên mặt đất: "Toàn bộ thời gian từ 12 tháng 3 quân Nhật đã và đang tiến vững chắc về phía Bắc và Tây Bắc và chúng tôi càng lúc càng thiếu tự tin về chính thực trạng tình hình lúc đó". Trong lúc đổ bộ và định vị đám tàn quân đang rút chạy, Đội du kích đã báo cáo về tình hình của người Pháp như sau:


Lực lượng Pháp mà chúng tôi thấy không muốn chiến đâu thêm và chúng tôi chỉ đang cố tiến về phía Trung Quốc bằng hết khả năng của mình. Họ chỉ mang theo những trang bị thiết yếu. Một số súng cacbin Mỹ mà họ nói được người Anh thả dù xuồng. Họ cho biết đã nhận được khá nhiều vũ khí hạng nhẹ và đạn được từ người Anh nhưng đã phá huỷ chúng. Không ai trong chúng tôi nhớ đã thấy một người Pháp bị thương. Không một người Pháp nào chúng tôi gặp hay nói chuyện cùng có huy hiệu Nhật, trang bị hay quà lưu niệm… Ấn tượng của chúng tôi là trên thực tế người Pháp đã chiến đấu rất ít. Không người Pháp nào có thể nói cho chúng tôi vê địa điểm họ đã quyết chiến. Chúng tôi cho rằng chiến đấu ở đây chủ yếu chỉ là giao tranh của quân cản hậu khi những đội tuần tra dẫn đầu của Nhật đuổi kịp những người Pháp đang chạy trốn… ý kiến của chúng tôi, đó chỉ là cảm giác chúng tôi nhận được khi nói chuyện với các sĩ quan Pháp, là họ chỉ muốn thoát khỏi FIC để đến Trung Quốc và cố lấy lòng chính phủ Pháp hiện hành… Từ những gì chúng tôi chứng kiến, các quan chức Mỹ đã đúng khi không gửi viện trợ cho Pháp vì hầu như họ sẽ chỉ phá huỷ chúng như đã làm với hầu hết những trang bị mà người Anh gửi đến .


Người Pháp tiếp tục kéo về biên giới Trung Quốc và để 5 người của nhóm Summers cản hậu cho họ. Sáng ngày 28 tháng 4, một nhóm lính Nhật ước chừng 65 người, đã tấn công. May thay, toàn bộ thành viên của Đội đu kích đã thoát khỏi vòng vây, nhưng nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo của họ tại Đông Dương đã bất ngờ kết thúc.


Kinh nghiệm của trung uý Ettinger rất khác với kinh nghiệm của Đội du kích. Mặc dù OSS lúc đầu đã phái Ettinger đến với nhóm của Summers, nhưng anh ta đã đi riêng đến Đông Dương thuộc Pháp, nhập vào lực lượng của Sabattier tại Điện Biên Phủ ngày 28 tháng 3. Ettinger, một người Mỹ gốc Pháp, tham gia đội quân của Sebattier khi họ bắt đầu chuyến đi gian khổ qua Bắc Kỳ để đến Trung Quốc. Ngày 29 tháng 3, tổng hành dinh OSS tại Côn Minh nhận được những bức điện đầu tiên của Ettinger với nội dung người Pháp "vô cùng nguy khốn" và anh ta đã phải "đổi chỗ ba lần trong vòng 24 giờ để tránh bị bắt". Từ 29 tháng 3 đến 4 tháng 4 Ettinger đã gửi tin tình báo về sở chỉ huy mặt trận và Không đoàn 14 yêu cầu "thực hiện các phi vụ ném bom". Đáp lại yêu cầu của Ettinger, câu trả lời là tướng Chennault đã "được phép oanh tạc đội hình kẻ thù Nhật Bản dọc theo phòng tuyến Pháp".


Đúng như sẽ thấy, kinh nghiệm với đội quân của Sabattier là quan trọng nhất trong phương châm phối hợp thường gây tranh cãi giữa trung uý Ettinger và người Pháp đối với Đông Dương.


Tuy nhiên, cả công tác của Ettinger với Sabattier và sự lưu lại ngắn ngủi ở miền Bắc Việt Nam của Đội du kích đều không thoả mãn được nhu cầu tin tình báo của Mỹ về quân Nhật ở Đông Dương. Với tư cách là cơ quan thu thập tin tức chủ yếu trong khu vực cho Mỹ, bây giờ hơn lúc nào hết OSS cần những nguồn tin đáng tin cậy. Trước khi xảy ra đảo chính, OSS đã cố gắng giành được một vị trí trong mạng lưới thu thập tin tình báo trong vùng hay thậm chí còn tốt hơn, thiết lập mạng lưới của riêng mình. Nhưng OSS đã thất bại trong nỗ lực đưa GBT vào vòng kiểm soát của nó và không thành công trong tạo lập được mối quan hệ công tác vững bền với người Pháp tại khu vực này.


Trong khi OSS cố mở rộng những khả năng lựa chọn của nó thì giác thư ngày 1 tháng 3 của trung tá Paul Helliwell, người đứng đầu SI của OSS tại mặt trận Trung Quốc, gửi Wedemeyer đã mở ra một khả năng khác. Helliwell viết:


Như ngài biết, bên cạnh người Pháp, nhưng người hợp tác trong chừng mực nhiều hay ít khi tình hình đang tiên triển, còn có một số nhóm cách mạng bản xứ có nhưng mối liên hệ và điểm mạnh khác nhau ở khắp nơi. Thực ra tất cả đều chống Pháp cũng như chống Nhật. Nhiều nhóm trong số đó đã cố liên lạc với tổ chức này để bán thông tin hay làm công tác MO để đền đáp lại số tiền ứng trước hay, trong một số trường hợp, vũ khí và đạn được .


Helliwell tin rằng tính thời điểm cho các hoạt động của OSS có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Ông phát biểu: "Tôi có lý do để tin rằng Phái bộ Quân sự Pháp có phần bi quan về những hoạt động của GBT, và nếu họ bất ngờ kiểm soát chặt chẽ chúng thì chúng ta có thể thấy việc đưa tin còn hạn chế của chúng ta lúc này về FIC sẽ bị xoá sổ. Bởi vậy tôi cảm thấy việc chúng ta phải tác động trực tiếp đến những hoạt động của OSS tại nước này là rất quan trọng". Helliwell tin tưởng rõ ràng rằng OSS cần một mạng lưới do Mỹ chỉ đạo thay vì phải dựa vào những mạng lưới khác để chia sẻ thông tin. Để thực hiện điều đó, ông yêu cầu những chỉ thị đặc biệt từ Tổng hành dinh mặt trận về việc sử dụng các điệp viên bản xứ. Đặc biệt ông muốn biết: "Chúng tôi có thể quan hệ với người bản xứ hay các nhóm cách mạng đến mức nào để có được thông tin và nơi ẩn nấp cho các điệp viên của chúng ta?" Và ngoài ra, "Trong trường hợp chúng tôi có quan hệ với những nhóm bản xứ này thì chúng tôi có được phép cung cấp cho họ vũ khí và các đồ quân nhu khác hay không, hay chỉ giới hạn trong việc trả tiền cho họ?". Ông nhấn mạnh rằng OSS đang "lưỡng lự" với "các nhóm bản xứ" và không thể tiến lên nếu thiếu chỉ thị từ tổng hành dinh mặt trận.


Sự cấp bách mà Helliwell ám chỉ trong thư báo cáo của mình đã bị làm cho trầm trọng hơn 8 ngày sau đó bởi cuộc đảo chính của Nhật. Những sự kiện ngày 9 tháng 3 đã làm thay đổi tình hình đối với tất cả những người liên quan, tất nhiên cả với những cường quốc liên quan đến chiến tranh thế giới: Mỹ, Pháp và Nhật. Người Mỹ, chí ít là tạm thời, đã nếm mùi thiếu thông tin về những vấn đề như thời tiết, quân Nhật và sự di chuyển của tầu bè. Pháp mất không chỉ thuộc địa mà còn cả vị thế trong mắt những thần dân thuộc địa của mình. Sau ngày 9 tháng 3 Nhật tăng thêm trách nhiệm trong quản lý - hay ít ra là trong giám sát chính quyền Đông Dương. Tuy nhiên, thay đổi quan trọng nhất đến sau Chiến dịch MEIGO không làm liên luỵ đến mối quan hệ Pháp - Nhật hay ảnh hưởng nghiêm trọng đến nỗ lực chiến tranh. Với đảo chính, Việt Nam và Nhật bước vào một giai đoạn mới trong quan hệ của họ, một giai đoạn sẽ hoàn toàn thay đổi động lực của tình hình.


Trong lúc lên kế hoạch đảo chính, giới quân sự Nhật và chính quyền dân sự thường xuyên bất đồng - về thời gian, về quan hệ của họ với Pháp, và quan trọng hơn cả là về chính sách phải được theo đuổi liên quan đến "vương quốc" Đông Dương. Các thành viên Bộ ngoại giao Nhật, đặc biệt là Bộ trưởng Bộ ngoại giao Shigemitsu, muốn tuyên bố vương quốc độc lập trước bất kỳ hành động quân sự nào chống lại Pháp. Những bức điện được Ultra giải mã trong tháng 2 năm 1945 cho thấy rằng Shigemitsu đã "bảo vệ" vấn đề chủ quyền đối với Đông Dương và rằng "ý kiến của Bộ Ngoại giao về vấn đề độc lập ít ra một phần cũng được quy cho nỗi lo sợ chọc giận nước Nga Xô Viết". Một bức điện khác được Ultra giải mã đã cho thấy chính xác hơn thực chất những quan tâm của Nhật. Trong 4 điểm của nó, bức điện đã trình bày một lý lẽ có cơ sở cho phép Đông Dương độc lập càng sớm càng tốt:

Nước Nga đã gọi Nhật là kẻ xâm lược;

Thời gian khai mạc Hội nghị San Francisco là 25 tháng 4 tại đây các nước Đồng Minh được cho là tiếp tục tác động tới một đặc trưng dành cho Liên Hợp Quốc và trình bày chính sách về Đông Dương.

De Gaulle đã chuẩn bị công nhận chính phủ tự trị Đông Dương.

Đảng Cộng sản địa phương đang gia tăng thanh thế tại Đông Dương phản đối Nhật hất cẳng Pháp và chủ trương độc lập dân tộc thực sự.

Tuy nhiên, quân đội Nhật không đồng ý với đánh giá của Bộ Ngoại giao và cho là "hoàn toàn cần thiết phải xử lý lực lượng Đông Dương thuộc Pháp trước khi tiến hành thêm bất kỳ hành động nào". Ngoài ra, đòi hỏi của Shigemitsu rằng một trong những mục tiêu của đảo chính cần phải là minzoku kaihoo ( giải phóng con người) cũng gặp phải phản đối dữ dội trong các giới chức cao cấp của quân đội và chính phủ. Tại Hội nghị Ban chỉ huy Chiến tranh Tối cao, Shigemitsu nhấn mạnh rằng minzoku kaihoo có vẻ hợp với người Liên Xô hơn là "lý do tự vệ của Nhật" để lấy cớ tiến hành Chiến dịch MEIGO và chắc chắn sẽ làm "hài lòng" Liên Xô. Các thành viên khác của hội nghị đã bày tỏ sự dè đặt nghiêm trọng vì lo ngại rằng tư tưởng minzoku kaihoo sẽ có nguy cơ chuyển cuộc đảo chính sang "chiến tranh sắc tộc". Mỉa mai thay, theo Stein Tonnesson, ở đây có "sự tương đồng rõ rệt" giữa thái độ của Bộ trưởng ngoại giao Shigemitsu và Roosevelt . Cả hai ông đều cực lực chỉ trích chế độ thực dân Pháp và lời Roosevelt kết án sự thống trị của Pháp nghe rất giống với của Shigemitsu - mặc dù không ai trong hai ông đánh giá cao việc so sánh. Roosevelt mô tả ách thống trị của Pháp là "bòn rút" người dân Đông Dương, và ông tuyên bố nhân dân Đông Dương "có quyền được hưởng những gì tốt đẹp hơn thế", trong khi đó Shigemitsu gọi chính sách của thực dân Pháp là "cực kỳ phản động". Cả Roosevelt và Shigemitsu đều "cảm thấy rằng thời của chủ nghĩa thực dân châu Âu đã hết và muốn giành được sự mến mộ trong các dân tộc châu Á bằng cách góp phần vào công cuộc giải phóng họ. Cả hai đều đã hết sức nỗ lực thuyết phục các chỉ huy quân đội của đất nước mình rằng nên làm gì đó nhằm chấm dứt ách thống trị phản động của Pháp". Roosevelt qua dời trước khi chiến tranh kết thúc và không có gì từ kế hoạch uỷ trị của ông đến được với Đông Dương thuộc Pháp. Có lẽ Shigemitsu là người may mắn hơn. Mặc dù ngài Bộ trưởng ngoại giao thua trong cuộc tranh luận và độc lập không đến trước Chiến dịch MEIGO, nhưng Nhật Bản có thể ban cho Đông Dương "độc lập" trước khi kết thúc chiến tranh Thái Bình Dương. Shigemitsu nhớ rằng "đó là phần cơ bản trong chính sách G.E.A mới (Đại Đông Á) của Nhật", rằng nếu quân đội Nhật, vì an ninh của chính mình, lật đổ được chính quyền Pháp thì khát vọng chủng tộc phải được công nhận và một chính phủ độc lập phải được thành lập". Thật vậy, nhà sử học Kiyoko Kurusu Nitz đã thấy rằng "những sĩ quan và chỉ huy cao cấp ở Đông Dương dường như đã thuyết phục chính mình rằng họ đang hành động vì lợi ích của nhân dân Đông Dương cũng như Nhật Bản. Họ nóng lòng chờ đợi ngày có thể hoàn toàn hiến thân mình cho đại nghĩa và giúp đỡ người dân Đông Dương". Thật ra, trong tuần cuối cùng trước đảo chính Nhật tiếp tục xác nhận mối quan tâm của họ về hạnh phúc của nhân dân Đông Dương. Ngài Bộ trưởng ngoại giao đã phát hành tuyên cáo của mình cho đại sứ Nhật tại Sài Gòn, nêu rõ:


Hiển nhiên là đế quốc của chúng ta không có mưu đồ lãnh thổ hay bất cứ thứ gì về Đông Dương, và do đó có thể tuyên bố rằng nó sẽ không khước từ bất kỳ khoản trợ giúp nào cho nhân dân Đông Dương, những người đang cố bảo vệ giang sơn của mình trước những thế lực hung bạo ở Đông Á và rằng nó mong muốn người dân Đông Dương, những người từ bao đời nay bị áp bức biến ước mơ độc lập thành hiện thực và để đạt được mục đích đó nó sẽ báo đáp mọi sự giúp đỡ có thể trên cơ sở Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á .


Trong khi tán thành đề nghị giúp đỡ nhân dân Đông Dương, Nhật vẫn duy trì quan điểm thực tế - độc lập cho từng khu vực của Đông Dương sẽ được quyết định trên cơ sở "riêng rẽ" và chỉ "tới mức chúng không cản trở các chiến dịch quân sự".


Tại Huế, Yasutai, một cơ quan bí mật nhỏ kiểm soát công tác tình báo cho Nhật, chịu trách nhiệm về Chiến dịch MEIGO và "giải cứu" Hoàng đế Bảo Đại cùng vợ ông ta khỏi tay chính quyền Pháp. Vợ chồng ông hoàng bị nhận diện và cầm giữ trên đường về nhà từ một chuyến đi săn và được đưa "trở lại hoàng cung an toàn". Người Nhật "dường như lo ngại rằng Bảo Đại có thể bị đưa đi bởi các nhóm khác và sau đó sẽ lập ra một tổ chức hùng mạnh chống Nhật với ông ta là nhà lãnh đạo tượng trưng của quốc gia". Tất nhiên Nhật không hề muốn điều đó xảy ra. Với việc hoàng đế "an toàn" ngoài tầm tay người Pháp, họ cổ vũ ông ta tuyên bố "độc lập cho An Nam", bao gồm cả Bắc và Trung Kỳ, nhưng không có thuộc địa sinh lợi cao ở miền Nam, Nam Kỳ. Việc này làm ngạc nhiên nhiều người Việt chống Nhật. Họ hy vọng chú của Bảo Đại hoàng thân Cường Để, sẽ được mời lên ngai vàng. Những người Việt Nam theo phong trào đòi độc lập liên minh với Nhật phản đối việc chọn Bảo Đại và buộc tội ông ta phục vụ cho Pháp. Tuy đòi hỏi này có thể đúng, nhưng những người ủng hộ Bảo Đại cũng có thể chống lại bằng cách kết tội Cường Để phục vụ cho những ông chủ Nhật của mình.


Ông hoàng Cường Để, "người dẫn đầu cuộc đua không chính đáng giành ngôi báu", đã di cư sang Nhật từ đầu những năm 1900. Quan hệ của ông ta với Nhật trên thực tế là độc nhất vô nhị. Khi ở Tokyo , ông ta được cho là đã nhận một cậu bé Việt Nam sinh tại Nhật làm con nuôi. Gã con nuôi này sau đó đã "trở thành đại tá Sibata trong quân đội Nhật" và là một trong số những nhà lãnh đạo cuộc xâm lược Đông Dương của Nhật. Tại xứ Mặt trời mọc, Cường Để đảm dương cương vị lãnh đạo Việt Nam Quang Phục Hội theo lời mời của nhà ái quốc Việt Nam Phan Bội Châu. Quang phục Hội do Phan Bội Châu thành lập năm 1912 với tư cách là một "phong trào dân tộc ủng hộ chế độ quân chủ" và trở thành "tổ chức cơ bản thân Nhật của người Việt Nam " trong Chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1943 kempeitai sử dụng Quang phục Hội để mộ lính cho lực lượng quân đội bù nhìn của họ. Nếu thực sự con nuôi của Cường Để là đại tá trong quân đội Nhật, thì nhiệm vụ này có thể rất dễ dàng. Vào giữa năm 1944 tình báo OSS báo cáo rằng Cường Để có 7 thuộc hạ cùng ông ta ở Nhật và hơn 50 thuộc hạ khác ở Đài Loan.


Bên cạnh tiềm lực, Cường Để cũng có những bất lợi dễ nhận thấy: ông ta đã già và sống xa tổ quốc hầu hết thời trai trẻ. Hy vọng giành được sự ủng hộ của nhân dân và sự ổn định cho tân chính quyền "độc lập" của Bảo Đại, Nhật quyết định không không đưa Cường Để từ Tokyo về An Nam trong tháng 3 năm 1945 vì cảm thấy "nguy cơ bùng nổ tình trạng bất ổn ở địa phương".


Trong khi đó tại Việt Nam, những nhân vật cầm quyền khác cũng được "khích lệ" tuyên bố "độc lập" cho vương quốc của họ. Những kẻ được gọi là cố vấn Nhật đã đề nghị "hướng dẫn bí mật" cho quốc vương Lào và Campuchia như họ đã làm với Hoàng đế Bảo Đại. Trong mỗi trường hợp, cố vấn Nhật đến thăm nhà lãnh đạo và tặng ông ta "bản tuyên ngôn độc lập" kèm theo tuyên bố sau: "Chúng tôi không hề ép buộc trong vấn đề này (tuyên bố độc lập) nhưng chấp thuận sẽ giảm tối đa đầu rơi máu chảy". Chẳng có gì ngạc nhiên, không lâu sau những chuyến viếng thăm của các "cố vấn", tất cả các vùng lãnh thổ đều ra tuyên bố. Ngày 13 tháng 3 năm 1945, Quốc vương Norodom Sihanouk tuyên bố Campuchia độc lập. Ba tuần sau, Vua Sisavang Vong tuyên bố Lào thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Sau hai tuyên bố này, ngày 11 tháng 3 đến lượt tuyên bố của Bảo Đại, chấm dứt hơn 70 năm thống trị của thực dân Pháp.


Tại Việt Nam , mặc dù chính quyền Bảo Đại bị phỉ nhổ ở khắp nơi không hơn gì một chế độ bù nhìn, nhưng vài tháng tồn tại của nó dưới cái ô của Nhật lại khá quan trọng. Với việc thành lập chính quyền địa phương, cái tên "Việt Nam " đã quay trở lại. Trong tuyên bố độc lập, Bảo Đại đã bãi bỏ hiệp ước bảo hộ Pháp - An Nam và tuyên bố rằng Chính phủ Việt Nam "giành lại quyền độc lập của mình". Từ nay về sau, những thuật ngữ của người Pháp như "An Nam" sẽ được thay bằng "Việt Nam" và "người Việt Nam" sẽ thay cho người An Nam", cái tên trong một thời gian dài được xem như một điều xúc phạm. Hành động đơn giản này, một trong số rất ít thành tích của Bảo Đại, báo hiệu cảm giác đã được thức tỉnh của ông ta về tư thế của dân tộc Việt Nam .


Tuy nhiên, phải thừa nhận là mặc dù Bảo Đại từ chối phụ thuộc vào Pháp, nhưng ông ta lại chấp nhận phụ thuộc vào Nhật. Cách nhận thức này đã làm suy yếu nghiêm trọng uy tín của triều đình. Thông điệp độc lập của Bảo Đại không cái thiện được tình hình. Ông ta tuyên bố:


Đông Dương sẽ cố phát triển mình để xứng đáng với vị thế là một quốc gia độc Lập. Theo tuyên bố của Khối Đại Đông Á, Đông Dương là một bộ phận của khối này, bởi vậy nó phái tập hợp sức mạnh của mình để giúp cho sự thịnh vượng chung. Hoàn toàn tin tưởng vào sự chân thành của đế quốc Nhật Bản, Chính phủ Đỏng Dương đã quyết định hợp tác với Nhật và nguyện hiên dâng tất cả của cải của quốc gia để phân đấu cho mục đích chung .


Trong nghiên cứu chính quyền Bảo Đại, học giả Bùi Minh Dung đã đi đến kết luận rằng đối với Bảo Đại, "ngay cả một nền độc lập trên danh nghĩa cũng có thể tận dụng được nhiều hơn là không có độc lập". Trong cuốn hồi ký xuất bản năm 1980, Bảo Đại quả quyết rằng ông ta "chấp nhận độc lập" mà không hề tin tưởng vào mỹ từ của GEACPS.


Có lẽ không ai nhận ra thực tế của tình hình hơn chính người Nhật. Mặc dù họ dự định sử dụng tân chính phủ cho tình trạng tài chính của Đế quốc Mặt trời mọc, nhưng cố vấn cấp cao Yokoyama Masayuki và những người khác đã kết luận rằng họ phải phục hồi hình ảnh của Bảo Đại để làm cho ông ta có vẻ là một nhà lãnh đạo Việt Nam hơn là một con rối của Nhật Bản.


Người Nhật, ở một giới hạn nào đó, đang chuẩn bị cho khả năng xâm lược của Đồng Minh. Ngày 12 tháng 3, các nhà ngoại giao và quan chức quân sự Nhật nhóm họp tại Băng Cốc đã thông báo "Chính sách khẩn cấp cho Burma, Thái Lan và Đông Dương" cho Tokyo bằng điện tín. "Để đối phó với những tình huống xấu nhất", bức điện viết, "chúng tôi lên kế hoạch cổ vũ càng nhiều càng tốt những cuộc nổi dậy của các sắc tộc địa phương khác nhau và biến khu vực này thành cơ sở chiến đấu vòng ngoài ở mức độ tối đa, qua đó làm giảm đi gánh nặng phòng thủ của chính chúng ta. Đến lúc đó, chúng ta phải tăng cường nỗ lực để kiểm soát thái độ tinh thần của các sắc dân địa phương và khơi dậy tình cảm thân Nhật". Mặc dù Bảo Đại bấy giờ là người đứng đầu không bị tranh chấp của triều đình trong một "quốc gia" mới, nhưng Nhật đã khuyến khích ông ta lập ra một tân nội các với Trần Trọng Kim được họ chọn cho vị trí thủ tướng. Dù Trần Trọng Kim được "khắp nơi tôn trọng vì sự uyên bác của ông ta và cách thức mà ông ta quản lý các trường công ở Hà Nội", nhưng Kim vẫn còn quá ít kinh nghiệm chính trường. Nổi tiếng vì ý thức dân tộc, nếu ở vào thời kỳ khác và một nơi khác có lẽ ông ta trưởng thành được trong vị trí của mình, tuy nhiên, tháng 3 năm 1945 Trần Trọng Kim đã phải đối mặt với tình thế cực kỳ khó khăn. Người ta nói, Hoàng đế Bảo Đại đã bảo Kim, "trước đây chúng ta bị phụ thuộc. Bây giờ chúng ta đang có cơ hội, dẫu rằng chưa được độc lập hoàn toàn. Nhưng chúng ta cần chứng tỏ mình có đủ tư cách được hưởng độc lập. Nếu chúng ta thất bại trong việc thành lập nội các thì người Nhật sẽ nói rằng chúng ta không có năng lực và chắc chắn họ sẽ thiết lập sự cai trị bằng quân sự, điều đó sẽ rất bất lợi cho đất nước chúng ta".


Dù chỉ duy trì độc lập trên danh nghĩa nhưng chính phủ của Trần Trọng Kim đã có bước đi quan trọng đầu tiên hướng về một nước Việt Nam độc lập, trong đó có Việt Nam hoá một phần chính quyền thuộc địa Pháp, đàm phán chính thức hợp nhất lãnh thổ đất nước bao gồm Nam Kỳ là một bộ phận của Việt Nam, khuyến khích sự tham gia của các đảng phái chính trị, tiến hành cải cách giáo dục và nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ chính thức được sử dụng trong nhà trường và công sở. Trong thời gian tồn tại của chính phủ Trần Trọng Kim, sự tham gia của quần chúng vào tất cả các loại hình hội họp, dù là chính trị, văn hoá hay tôn giáo, đều được khuyến khích - đây là một thay đổi lớn lao xét về việc hạn chế hà khắc những cuộc tụ họp dưới thời Pháp thuộc. Mặc dù Nhật đã cho phép những cải cách tương đối có mức độ nhưng dĩ nhiên Trần Trọng Kim hiểu rõ hàm ý trong sự giúp đỡ của Nhật đối với chế độ của ông ta và chấp nhận rằng chính phủ của ông ta sẽ sụp đổ bởi chiến thắng của Đồng Minh. Năm 1949, nhìn lại nhiệm kỳ ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn 5 tháng của Kim, đánh giá của ông ta về Nhật trong Chiến tranh thế giới 2 đã không còn tích cực như trước:


Từng là một nước có cùng văn hoá Đông Á nhưng sau đó đã cho phép Âu hoá, Nhật Bản sử dụng những biện pháp hiểm độc để mở rộng sự thống trị của Thiên Hoàng. Trước đó Nhật đã thôn tính lãnh thổ Triều Tiên và Mãn Châu, và sau này lại muốn xâm lược Trung Quốc và các nước châu Á khác bị người châu Âu chiếm đóng. Mặc dù sử dụng các khẩu hiệu như "liên minh và cùng chủng tộc" và nhân danh "giải phóng các dân tộc bị áp bức", mưu đồ đen tối của Nhật và kéo tất cả lợi ích về cho mình. Vì vậy quan điểm chính trị của họ đầy mâu thuẫn. Lời nói của họ không đi đôi với việc làm. Họ sử dụng những mỹ từ nhân đạo để nhử mọi người vào bẫy làm cho họ dễ bề cai trị hơn. Những gì họ làm, trên thực tế chỉ phục vụ lợi ích của chính họ chứ không mảy may vì công lý.


Đối với hầu hết người dân Việt Nam , cuộc sống dưới triều đại mới Bảo Đại - Trần Trọng Kim chẳng khá lên được bao nhiêu. Đại bộ phận viên chức cấp thấp người Pháp và người Việt đã quay lại làm việc sau Chiến dịch MEIGO. Các cơ sở kinh doanh và công sở nơi thành thị mở cửa trở lại và cuộc sống ở cả thành thị lẫn nông thôn tiếp tục trôi đi. Mặc dù đã được "giải phóng", nhưng nhiều người Việt Nam vẫn không có thiện cảm và e ngại Nhật, những kẻ rốt cuộc lại là thế lực áp bức khác. Trên thực tế, Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục Quốc dân trong chính phủ Trần Trọng Kim, nhớ đã nói với tướng Mordant vào giữa năm 1944 rằng "nhân dân Việt Nam thà được Pháp ban cho độc lập còn hơn là để Nhật làm việc đó".


Tuy nhiên, khi tình hình xảy ra, Nhật đã cơ bản thay đổi thái độ và nhiều người Việt Nam đã nhìn nhận Pháp trên những phương diện mới. Trong tác phẩm viết về gia đình mình có tựa đề Cây liễu kinh thiêng: Bốn thế hệ trong đời một gia đình Việt Nam , Dương Văn Mai Elliott đã gọi lại những trải nghiệm của cha bà vào ngày sau đảo chính. Cha của Elliott, Dương Thiệu Chi, là một viên quan thành đạt làm việc cho chính quyền thực dân Pháp, "chưa bao giờ nghĩ sẽ có lúc một dân tộc châu Á lại có thể đánh đổ người Pháp và thoát khỏi ách thống trị của họ". Dương Thiệu Chi đang dự họp cùng ngài thủ hiến thì công sứ Pháp "ào vào phòng" cho biết quân Nhật đang đuổi theo ông ta và cầu xin được giúp đỡ. Elliott viết rằng trước khi cha bà "có thể bình tĩnh lại do bị sốc khi phải chứng kiến một người Pháp quá khiếp đảm cầu xin cứu giúp", thì một viên đại uý Nhật xuất hiện. Người Nhật cúi chào họ rất lịch sự đoạn tiến thẳng về phía người Pháp". Hai quan chức người Việt "không dám can thiệp" khi viên đại uý "dùng đốc kiếm của y đánh tới tấp vào đầu ngài công sứ pháp".


Cho dù nhiều người rõ ràng đã vui mừng trước cảnh người Pháp bị Nhật làm nhục, nhưng một số như Dương Thiệu Chi cảm thấy rằng vị thế của họ trở nên khó khăn hơn. "Với việc không còn Pháp làm tấm bình phong nữa", Elliott diễn tả, "cha tôi bị đẩy ra mặt đối mặt với họ (người Nhật) ông nhận thấy các viên chức mà ông tiếp xúc đều có giáo dục và nhã nhặn, nhưng cũng rất tàn nhẫn khi cưỡng bức thi hành những yêu sách của họ về lương thực và lao động, đồng thời cũng nhẫn tâm trước những tác động mà những yêu sách đó gây ra cho người Việt Nam".


Lệnh trưng thu liên tục thóc gạo của Nhật tại Việt Nam , kết hợp với những yếu tố khác, đã gây ra nạn đói tồi tệ nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Những đòi hỏi quá lớn về gạo của Nhật, sự phá huỷ các tuyến đường sắt và vận tải ven biến do những đợt ném bom của Đồng Minh gây ra, thêm vào đó là nạn lụt dữ dội và những cơn bão có sức tàn phá mạnh đã đẩy nông dân vào cảnh khốn cùng. Bắt đầu từ năm 1941, nạn đói tiếp tục trở nên tồi tệ hơn sau đảo chính. Mặc dù các quan chức Nhật tại Việt Nam đã báo cho Tokyo rằng "tựu chung giá cả không tăng đáng kể và đời sống kinh tế của người dân hầu như không thay đổi", nhưng họ đã không đả động gì đến thực tế đáng sợ của tình hình. Với sự thiếu gạo nghiêm trọng, giá cả đã tăng chóng mặt. Vào thời gian xảy ra đảo chính, giá cả ở Hà Nội đã tăng gấp 5 lần so với 5 năm trước khi Nhật đến Việt Nam . Vì vậy nói rằng "đời sống kinh tế của người dân hầu như không thay đổi" chính xác một cách đau lòng: người Việt vẫn chết hàng ngày vì đói và thiếu đinh dưỡng. Vậy mà, như Elliott mô tả, "hàng ngày các quan chức Nhật vẫn đến để đốc thúc các yêu cầu của họ. Chúng muốn nhiều gạo hơn ngay khi người dân đang chết đói".

Khi người Việt khảo sát cuộc sống của họ đầu mùa xuân năm 1945, cuộc sống dường như không tốt hơn dưới thời Pháp thuộc. Người nghèo vẫn hoàn nghèo, nhiều người đã trở nên cơ cực bởi ảnh hưởng của nạn đói vẫn tiếp tục cướp đi mạng sống của những thành viên yếu nhất trong xã hội. lòng dân vẫn tiếp tục phải è cổ nộp thuế thóc gạo - cái giờ đây đã trở nên quý hơn vàng. Họ tiếp tục phải tuân lệnh một tên chủ ngạo mạn và thường tàn bạo. Chỉ có khuôn mặt chủ nhân là thay đổi. Rất ít người trong giai cấp trung lưu hoặc tinh hoa thấy số phận của mình được cải thiện sau đảo chính. Giống như Dương Thiệu Chi, phần lớn quan lại thi hành những chức năng như dưới thời Pháp thuộc. Có rất ít người Việt Nam thân Nhật như vài thành viên của Quang phục Hội - những kẻ kiếm chác được. Thậm chí còn có thể biện luận rằng chính quyền Bảo Đại - Trần Trọng Kim cũng chẳng được lợi lộc gì. Cùng với thất bại của Nhật, những người này được gọi là những kẻ cộng tác và ít người có được một sự nghiệp tiếng tăm tại Việt Nam .


Tất nhiên có những quan điểm khác nhau về đóng góp của chính phủ Trần Trọng Kim và tầm quan trọng của "nền độc lập dưới ách cai trị của Nhật. Vũ Ngư Chiêu kết luận rằng sau đảo chính đã "bùng phát cơn sốt độc lập", khi hai tiếng "độc lập" có một hiệu quả nhiệm mầu làm thay đổi thái độ của tất cả mọi người. Với tư cách là một nhân chứng, ông viện dẫn một tờ báo xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội, chủ bút báo này viết: "Chúng ta đang bước vào một giai đoạn lịch sử mới. Việc quân Nhật nổ súng tại đây đêm 9 tháng 3 năm 1945 đã cáo chung cuộc sống nô dịch hoá kéo dài gần một thế kỷ dưới ách thống trị bạo ngược của Pháp. Từ nay trở đi, chúng ta được phép định đoạt cuộc sống đích thực của chính mình". Nhà sử học David Marr kết luận rằng từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1945 "nhiệt huyết ái quốc và lòng tận tuỵ tăng cao chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam như thể từng cá nhân và cả dân tộc đã tái sinh". Các báo cáo tình báo năm 1945 xác nhận một quan điểm bi quan hơn: "Hầu hết mọi người", một báo cáo viết, vẫn "hoàn toàn thờ ơ với sự giải phóng mới mẻ của họ, (và) đeo đuổi cùng một loại cuộc sống đã từng được ban cho họ dưới ách thống trị của Pháp. Nhưng những người khác (phần lớn là người An Nam) đã vỡ mộng về mức độ độc lập mà Nhật đưa ra". Có lẽ nhà sử học Bùi Minh Dung đã tổng kết tình hình tốt nhất. "Tại Việt Nam ", ông viết, "một chế độ chấp nhận, nhượng bộ hay có được sự tồn tại của nó nhờ sự hiện diện trong nước của quân đội nước ngoài gần như không được đa số người dân xem là độc lập thực sự".


Trong những ngày sau đảo chính, Nhật đàn xếp một cấp độ kiểm soát mới. Người Pháp ở Đông Dương phẫn uất vì sự đối xử của Nhật và thái độ của người Việt mà lâu nay họ vẫn coi không hơn gì đầy tớ. Kháng chiến Pháp, đặc biệt là những kẻ đã tái tập hợp tại Trung Quốc, tìm cách trở lại Việt Nam dưới cờ Đồng Minh và sức mạnh của vũ khí. Người Việt Nam tìm cách thoát khỏi tình trạng cùng khổ, và ở miền Bắc, một vị cứu tinh hợp lý, Việt Minh, dường như đang giành được động lực thúc đẩy tiến trình phát triển. Cuối cùng, người Mỹ tiếp tục tiến hành chiến tranh trên Thái Bình Dương. Nhằm mục đích đó, OSS tại mặt trận Trung Quốc đã tìm một biện pháp mới, hiệu quả để thu thập tin tình báo và hỗ trợ nỗ lực chiến tranh. Harry Bernard và điệp viên OSS Charles Fenn cố tìm những gì còn tồn tại của mạng lưới tình báo GBT và sử dụng mọi biện pháp cần thiết để xây dựng lại mạng lưới này.


Kết quả của cuộc đảo chính do Nhật tiến hành đã buộc cả ba lực lượng cuối cùng - Việt Minh, OSS và GBT sát cánh bên nhau để đánh bại kẻ thù chung và tống cổ chúng ra khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, câu hỏi liệu họ có được phép làm thế hay không vẫn còn để ngỏ.


Chú thích:

(1) Đôi khi viết là ULTRA: Tin tức tình báo cấp độ cao từ các nguồn được giải mã.


CHƯƠNG 6

Sau cuộc đảo chính của Nhật, OSS và GBT phải vật lộn tìm kiếm những cách thức mới để thu thập tin tức tình báo tại Đông Dương. Dù OSS và GBT có mối quan hệ căng thẳng ngay từ thời điểm biết nhau nhưng sự tham gia của Charles Fenn vào GBT đã tạo ra một kết nối quan trọng giữa hai tổ chức này, nếu không phải là những kết quả mà một trong hai bên lường trước được.


OSS vẫn nản lòng vì khó tiếp cận được với người của GBT và việc nó không thể kiểm soát được nhóm này. Đặc biệt, Lawrence Gordon và Harry Bernard tiếp tục bị chọc tức bởi những nỗ lực không ngừng của OSS nhằm kiểm soát họ và bằng những khoản trợ cấp ít ỏi mà tổ chức của Bill Donovan "phân phối". Dù OSS và GBT đều khó chịu nhưng cả hai bên cảm thấy sự cấp bách rõ rệt của công tác tìm kiếm những nguồn thông tin mới khi mà tác động của Chiến dịch MEIGO trở nên rõ ràng hơn. Trong những ngày sau đảo chính, cả hai tổ chức này nhanh chóng rà soát lại những lựa chọn của họ. Trái ngược với vẻ bề ngoài, mạng lưới của GBT không hoàn toàn sụp đổ, mặc dù Bernard và Fenn phải bắt đầu thiết lập lại nó với rất ít thông tin về tình hình của các điệp viên của họ tại Việt Nam . Còn với OSS , các điệp viên người Pháp dường như vân là lựa chọn khả thi. Đội Gorrilla đã nhảy dù vào vị trí quân Pháp rút lui, và Trung uý Ettinger đã có quan hệ với lực lượng của Sabattier. Nhưng với thực tế người Pháp rõ ràng đã bị đẩy xa hơn khỏi cuộc chơi, OSS buộc phải tìm những nguồn thông tin khác từ bên trong Việt Nam .


Trong tiểu sử Hồ Chí Minh và trong chính hồi ký của mình, Charles Fenn đã nhớ lại "những lời yêu cầu" khẩn thiết của cả Wedemeyer và Hải quân Mỹ vào ngày sau đảo chính.


Cả Wedemeyer lẫn Hải quân Mỹ đều lặp lại rằng họ cần các báo cáo thời tiết và thông tin về các mục tiêu, lực lượng phòng không và hoạt động chuyển quân của Nhật. Fenn sau đó được chỉ thị phải khởi động mạng lưới tình báo mới, sử dụng "người bản xứ nếu cần thiết!". Fenn đã suy tính về lựa chọn này, nhưng với ông điều khó xử không phải là liệu có nên sử dụng "những người bản xứ" hay không, mà là sử dụng những người bản xứ nào: "Trời mới biết có thể tin ai đó", ông tuyên bố.


Chắc chắn GBT không phải nhóm đầu tiên và cũng không phải nhóm cuối cùng quả quyết rằng không thể tin được người Đông Dương. Nhưng Fenn đã đi tới kết luận này dựa trên kinh nghiệm tập hợp thông tin tình báo trước đó của mình. Tháng 11 năm 1944, Fenn công bổ một tài liệu cho OSS có tên "Đông Dương thuộc Pháp - Tin tức tình báo về quyền lợi đặc biệt đối với MO" . Trong báo cáo này Fenn tập trung chủ yếu vào người Nhật, người Pháp và tình hình tổng thể tại khu vực, nhưng ông cũng bình luận về người Việt Nam nữa. Theo ông, vào thời điểm đó, "người bản xứ" không "đặc biệt chống Nhật". Nhưng họ cũng nhận ra rằng người Nhật phải "chịu trách nhiệm về nạn khan hiếm hàng hoá, thuế má cao và các cuộc tấn công của quân Đồng Minh, bất chấp những luận điệu khôn ngoan của Nhật nhằm gắp lửa vào tay Pháp". Hơn nữa, Fenn báo cáo rằng "không thể bỏ qua nhận xét của người Pháp và người An Nam rằng về mọi mặt Nhật Bản đều thua kém Mỹ, cả về nguyên liệu và sản xuất thành phẩm. Điều này làm dấy lên thái độ "Làm sao người Nhật có thể chiến thắng với năng lực kém hơn như vậy?" Mặc dù điều này có thể lý giải cho tỷ lệ thành công thấp của người Nhật trong nỗ lực lôi kéo người Đông Dương vào sự nghiệp của họ nhưng Fenn đã đi đến một kết luận khác. Ông phát biểu một cách đơn giản rằng người Nhật thất bại vì "Người An Nam không muốn làm gì liên quan đến chiến tranh". Dựa trên giả định này, không khó để hiểu được sự dè đặt của Fenn trong sử dụng các điệp viên người Đông Dương.


Không có dấu hiệu nào cho thấy quan điểm của Fenn thay đổi trong hai tháng tiếp đó. Tuy nhiên, theo đề xướng của OSS tại Côn Minh, Fenn đã chất vấn "Jo-Jo", một điệp viên người Hoa của GBT, về khả năng sử dụng người Việt Nam "thâm nhập vào Đông Dương cùng điện đài". Không hề ngạc nhiên, Jo-Jo đáp rằng có lẽ họ nên tìm một số người Hoa làm việc này. "Thậm chí nếu có người An Nam sử dụng được điện đài thì chúng ta cũng không nên dùng họ", Jo-Jo nói. "Trước đây chúng ta đã thử làm việc này vì lợi ích của chính mình, thậm chí còn trang bị vũ khí cho họ. Nhưng khi chúng ta một lần nữa đồng ý công nhận Pháp là một cường quốc với nhà lãnh đạo là de Gaulle, thì chúng ta cũng phải chấp nhận không trợ giúp người An Nam".


Khi Fenn cân nhắc vấn đề tìm kiếm những điệp viên thích hợp trong những ngày sau cuộc đảo chính của Nhật, trong óc ông chợt loé lên câu chuyện mà Frank Tan đã kể cho ông vài tháng trước đó. Theo lời Tan, một phi công Mỹ - trung uý Rudolph Shaw, đã được "một số người An Nam" giải cứu khi máy bay của anh này rơi xuống Bắc Kỳ. Rõ ràng, Shaw đã được một người tên Hồ và cộng sự trẻ hơn của ông hộ tống tới Côn Minh. Fenn đã đặc biệt ấn tượng khi được kể lại rằng ông Hồ từ chối tiền thưởng và mong muốn của ông được gặp Chennault "chỉ vì lòng tôn kính". Nhưng Fenn không có may mắn nghe tiếp câu chuyện về ông Hồ bí ẩn đó. Rồi ông được biết Shaw sau đó đã hồi hương trong khi ông Hồ và cộng sự cũng ra đi. Dù hơi thất vọng, nhưng khi nghe câu chuyện này vào tháng Giêng năm 1945, Fenn cũng không cần quá bận tâm tới việc tiếp cận người Việt Nam : Vào tháng Giêng cuộc đảo chính của Nhật chưa xảy ra và mạng lưới của GBT vẫn còn mạnh. Tuy nhiên, sau đảo chính, câu chuyện về người đàn ông tên Hồ luôn ám ảnh tâm trí Fenn.


Trong khi đó, vì mất liên lạc với người Pháp ở Đông Dương, OSS tại Côn Minh cũng bắt đầu tìm kiếm những con đường mới để tiếp cận thông tin trong khu vực này. Dù bị hạn chế hơn GBT bởi các quy định quan liêu cấm không cho dính líu tới Đông Dương, nhưng OSS đã từng làm việc với các điệp viên Việt Nam một cách hạn chế sáu tháng trước cuộc đảo chính. Chịu trách nhiệm trước tiên về những mối liên hệ này là thiếu tá Austin Glass. Như sẽ được nhắc lại, mối quan hệ của Glass với Fenn và GBT có phần căng thẳng, vì cho dù Glass không ngớt lời ca ngợi GBT, nhưng Fenn và Gordon vẫn tin rằng ông đang ngầm phá hoại mạng lưới của họ. Mỉa mai thay, mặc dù Glass không có vẻ như đang cố gắng làm điều đó nhưng chính sự cộng tác của ông với các điệp viên người Việt hơn là bất cứ nỗ lực nào nhằm phá các điệp viên người Pháp của GBT, đã mang lại cho OSS một lợi thế tình báo hơn hẳn GBT. Ba mươi năm lăn lộn tại Đông Dương và thông thạo cả tiếng Pháp và Việt của Glass đã khiến ông trở thành đại diện lý tưởng để tìm kiểm các điệp viên người Việt. Trên thực tế trong nhật ký công tác tại OSS của ông đề ngày mùng 2 tháng 9 năm 1943, Glass được giao nhiệm vụ "tìm kiếm các điệp viên chiến trường để tung vào Đông Dương và duy trì mối quan hệ mật thiết với các tổ chức ngầm của Pháp và của người bản xứ ".


Hè - thu năm 1944, Glass đã tìm được 35 điệp viên người Việt. Một điệp viên có tên là "George", một thành viên xuất chúng của cộng đồng người Việt tại Côn Minh, cùng hai người khác được đưa tới Tsingtsi, cách Cao Bằng không xa. George được coi là có giá trị đặc biệt bởi mạng lưới bạn hữu rộng khắp của anh tại Bắc Kỳ. Glass quả quyết rằng George đã tổ chức một cuộc họp tại Đông Dương với một số "người bạn" và hướng dẫn họ nhiệm vụ và loại thông tin phải thu thập.


Glass cũng lưu ý những khó khăn mà các điệp viên tham gia vào mạng lưới này, như George, có thể gặp phải. Chẳng hạn, các điệp viên "buộc phải di chuyển bằng đường bộ, từ cơ sở bí mật này tới cơ sở bí mật khác".


Glass thậm chí còn ấn tượng hơn với "Jimmy", được mô tả như một người Bắc Kỳ "không biết sợ" xuất thân từ một gia đình giàu có. Được đào tạo tại Pháp, Jimmy đã đi khắp châu Á và, theo lời Glass, là "một người kháng Nhật kịch liệt và theo chủ nghĩa dân tộc An Nam mạnh mẽ". Hiển nhiên Jimmy khá nổi tiếng ở Bắc Kỳ và có thể liều lĩnh đi lại trong vùng. Glass công nhận rằng Jimmy đã "hoàn thành một số nhiệm vụ nguy hiểm", trong đó có việc anh đưa hai nữ nhân viên điện đài từ Nam Ninh tới Long Châu và qua biên giới vào Bắc Kỳ để vận hành "trạm điện đài" TR - I của chúng ta (OSS) tại vùng ven Hà Nội". Hai phụ nữ này được sĩ quan huấn luyện OSS mô tả là "cực kỳ thành thạo - nhanh nhẹn và chính xác". Khi ở Hà Nội, Jimmy có thể "thu thập các mẫu giấy tờ cá nhân, sách báo tiếng Pháp và tiếng Việt". Với sự giúp đỡ của Jimmy, 12 điệp viên mới người Việt đã được đưa tới Đông Dương trong tháng 7 năm 1944. Một nhóm 12 điệp viên nữa được đưa vào Bắc Việt Nam trong tháng 10. Cũng qua Jimmy, liên lạc với một điệp viên mới có mật danh là "Jean" được thiết lập. Người này theo Glass mô tả, có "mối quan hệ mật thiết với các đu kích bản xứ tại hai tỉnh miền núi phía bắc Bắc Kỳ là Hà Giang và Yên Bái".


Tháng 10 năm 1944 Glass viết cho cấp trên của mình, đại tá Hall, để hỏi thêm thông tin về việc huấn luyện thêm hai nhân viên điện đài người Việt, và lưu ý đại tá rằng hai người này đã chờ đợi từ tháng 8 để bắt tay vào "sự nghiệp của chúng ta". Ông báo cáo, các điệp viên đang làm việc cho ông ở ngoại ô Kweihsien phía Nam Trung Quốc đã bắt đầu gửi tin về từ ngày 13 tháng 10, và bổ sung, "những kết quả ban đầu có vẻ rất thú vị". Từ lá thư ngắn gọn của Glass, không thể biết rõ ông đã biết chính xác những gì về định hướng chính trị của các điệp viên của mình. Trong thư gửi Hall, Glass chỉ viết rằng dù ông không biết tên hai người đang chờ huấn luyện nhưng có thể liên lạc với họ thông qua "Ông Phạm Việt Tú hay Phạm Minh Sinh". Mặc dù Glass hầu như không hoàn toàn coi trọng mối quan hệ với Phạm Việt Tú (bí danh Phạm Tuân) vào thời điểm đó, nhưng Tú không phải là một điệp viên bình thường. Ông là phái viên của Việt Minh cử tới phái đoàn Mỹ và Pháp tại Côn Minh.


Cho dù những mối liên hệ đầu tiên giữa Việt Minh và người Mỹ chỉ bắt đầu từ đầu tháng 12 năm 1942, khi Việt Minh tới Đại sứ quán Mỹ nhờ giúp giải thoát Hồ Chí Minh ra khỏi nhà tù Trung Quốc, nhưng kết quả chẳng đáng là bao.


Tuy nhiên, điều này không làm tiệt tan những hy vọng của Việt Minh. Với niềm hy vọng tìm được một luật sư đồng cảm tại Mỹ Phạm Việt Tú rõ ràng đã theo dõi sát sao các phương tiện truyền thông và tiến trình chính trị của Mỹ. Ngày 29 tháng 8 năm 1944, ông viết thư cho Thương nghị sĩ bang Kansas Arthur Capper cảm ơn ông ta vì "đã quan tâm" tới Đông Dương. Trong thư Phạm Việt Tú nhắc đến một "thông điệp truyền cảm" của Capper mới được xuất bản, "kêu gọi thế giới chú ý tới cuộc kháng chiến dũng cảm của nhân dân Đông Dương chống lại quân xâm lược Nhật". Dù chỉ là một nhóm ít tiếng tăm trong chiến tranh, nhưng Việt Minh quan tâm đặc biệt đến các sự kiện thế giới bởi chúng có thể liên quan tới Đông Dương ở điểm nào đó trong tương lai gần.


Phạm Việt Tú đã thể hiện hiểu biết của mình đối với các sự kiện thế giới khi viết cho Thượng nghị sĩ: "Vì ngài đã quan tâm đến đất nước chúng tôi, nên chúng tôi cảm thấy rằng ngài muốn biết thông tin về các sự kiện ở Đông Dương và đặc biệt là những phong trào trong một đất nước đang đấu tranh vì các nguyên tắc tự do mà Liên Hiệp Quốc đã theo đuổi trong cuộc chiến chống lại chính thể bạo ngược". Dù Tú đã hứa rằng Việt Minh sẽ "tăng gấp đôi những nỗ lực (của họ)" chống lại quân Nhật bởi vì họ "được khích lệ mạnh mẽ bởi ý nghĩ rằng những nỗ lực mà trong đó tổ chức (của họ) tham gia đã được ghi nhận trong ấn phẩm của Capperl", nhưng Việt Minh không thấy kết quả xác thực từ trao đổi thư từ của ông.


Sự kiện tháng 10 năm 1944 không khác những gì đã xảy ra năm 1942: Phạm Việt Tú có rất ít cơ may giao thiệp với cả người Mỹ và người Pháp Tự do tại Côn Minh - những kẻ thấy ông và tổ chức của ông khá tầm thường. Tuy vậy, ông đã giới thiệu cho Glass những điệp viên có thể cho rằng cũng là người của Việt Minh. Glass đã đích thân gặp một vài người trong số điệp viên này, cuộc gặp đã dẫn tới một trong những tuyên bố đáng quan tâm nhất của ông: "Đêm nay (14-10-1944)", ông viết, "tôi đang gặp thành viên nổi tiếng nhất của dân tộc này tại Trung Quốc". Các nhà sử học hiện đại có thể nghĩ ngay rằng đó là Hồ Chí Minh. Tuy nhiên cuối tháng 9 năm 1944 Hồ Chí Minh đã quay trở lại Việt Bắc, khu giải phóng của Việt Minh ở phía bắc Bắc kỳ. Dù Glass có vẻ như đã gặp người mà ông gọi là "người An Nam thân thiện" thì người ta vẫn chưa rõ cuộc gặp đó diễn ra ở đâu, khi nào và chính xác ai là người mà Glass đã gặp vào đêm 14-10-1944 đó.


Việc lập kế hoạch và công tác của Glass với người Việt Nam hầu như thuận lợi hơn bởi một giác thư của OSS viết vào tháng 10 năm 1943, chỉ một tháng sau bản nhật ký công tác của chính ông, chỉ thị cho ông "tìm kiếm" các điệp viên người Đông Dương cũng như người Pháp. Chủ đề đầu tiên của "Đề cương một kế hoạch cho Đông Dương" là tận dụng triệt để người Việt. Mục II của tài liệu này có tiêu đề "Chúng ta phải hoạt động bằng gì tại Đông Dương", nêu rõ:


May mắn thay, ở đó tồn tại một thứ vũ khí sẵn có dưới dạng Phong trào đòi độc lập của người An Nam, một trong những tổ chức mạnh mẽ và dữ dội nhất trên khắp châu Á. Phong trào này được biệt đến trong quá khứ với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa đẫm máu, sử dụng khủng bố như một vũ khí chính trị và một chương trình phá hoại và kháng cự thụ động được thực thi một cách chu đáo và được tổ chức tốt… Người An Nam là những chiến binh dùng cảm, và năm 1918 hơn 50.000 lính An Nam ở mặt trận Tây Âu đã chứng tỏ những phẩm chất của mình như mô tả của một nhà quan sát là "dũng cảm, thông minh, bền bỉ, kỷ luật, nhẫn nại, tham vọng và một quyết tâm giành chiến thắng" .


Với những đặc trưng này, mục III của giác thư có tên "Người An Nam có thể làm gì cho chúng ta" bàn về giá trị riêng biệt của người Đông Dương đối với sự nghiệp của Đồng Minh. Dù tác giả OSS của giác thư đã thêm thắt một số khía cạnh nhất định vào tài liệu này, nhưng cũng dễ hiểu tại sao Glass, và sau đó là những người khác, cảm thầy sử dụng người Việt Nam hiển nhiên là một lợi thế so với người Mỹ. Mục III biện luận:


Họ có thể làm tê liệt hàng loạt đội quân Nhật bằng cách tiến hành chiến tranh du kích có hệ thống trong vùng rừng rậm hiểm trở tại Nam Kỳ và vô số đồn điền cao su trên khắp Đông Dương. Mảnh đất màu mỡ nhất để tuyển mộ du kích là đồng bằng châu thổ sông Hồng, nơi mà thiên tai cùng với nạn nhân mãn đã khiến người dân trở nên cay đắng và bất an… Cuộc khởi nghĩa (Yên Bái) năm 1930, cũng như các cuộc khởi nghĩa khác, có đặc điểm là đánh bom và chiến tranh du kích. Những người yêu nước An Nam không lạ gì các chiến thuật phá vỡ đường dây liên lạc, phục kích các biệt đội nhỏ và mưu sát những lãnh đạo quan trọng .


Những mục còn lại của tài liệu đều mang tính chất cung cấp thông tin tưởng tự nhau; chúng bàn luận nhiều biện pháp khiến người Việt Nam quay lại chống Nhật và các loại tuyên truyền cả công khai lẫn phá hoại có thể sử dụng tại Đông Dương. Trong số những quan tâm đặc biệt là tuyên bố "Cách thức tuyên truyền hiệu quả nhất mà chúng ta có thể sử dụng là thuyết phục người An Nam rằng cuộc chiến tranh này, nếu Đồng Minh thắng, sẽ là phương tiện mà qua đó họ có thể giành được độc lập". Nhưng tác giả đã che giấu quan điểm chính trị và ngoại giao của mình với lời cảnh báo: "Bất chấp quan điểm của chúng ta về vấn đề liệu có nên tồn tại một nước An Nam độc lập và tự do hay không, thì đây vẫn là phương pháp nhanh nhất để khiến sức mạnh của Phong trào giành độc lập của người An Nam hướng tới mục đích của chúng ta". Kế hoạch này khuyến khích người Việt Nam giết càng nhiều lính Nhật càng tốt sao cho "không phải giết chúng ở nơi khác", nhằm đẩy nhanh chiến thắng của Đồng Minh và "tự do của người An Nam", mà điều này được lần lượt thực hiện dựa trên "số lượng quân Nhật họ có thể ám sát". Dù đã nêu rõ những lợi ích tiềm tàng của việc tận dụng người Đông Dương trong nỗ lực chiến tranh, nhưng tác giả cũng lưu ý rằng họ cần phải được huấn luyện "về nghệ thuật phá hoại".


Thêm nữa, "Kế hoạch cho Đông Dương" đưa ra ba gợi ý về việc làm thế nào có thể liên lạc với người Việt để bắt đầu trọng trách nhân danh Đồng Minh này. OSS có thể gửi thông tin tuyên truyền qua các đài phát thanh, sử dụng dịch vụ tình báo đối ngoại của Quốc Dân Đảng hay thuê những người cộng sản Trung Quốc. OSS đã tạo nhiều mối quan hệ, thường là gây tranh cãi, với những người cộng sản Trung Quốc trong cuộc chiến chung chống Nhật. Sẽ không khó khăn cho họ để một lần nữa tiếp cận Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) như một trung gian nhằm hướng tới những người cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, trong số những quan tâm đặc biệt lâu dài lại là những thông tin được cung cấp cho OSS về những người cộng sản "An Nam".


Những người cộng sản Trung Quốc có nhiều mối quan hệ hữu hảo với người An Nam . Năm 1931, khi giai đoạn cao trào, Đảng cộng sản (Việt Nam) có 1500 đảng viên trên 100.000 nông dân dù các con số không chính thức hiện nay có thể gấp năm lần như thế. Lãnh đạo của phong trào cộng sản An Nam này được huấn luyện tại Quảng Châu dưóỉ quyền điệp viên của Quốc tế Cộng sản Mikhail Borodin, ngoài ra ông còn được học hành đến nơi đến chốn tại Moskva và nhiều nước châu Âu. Ông được tất cả người dân An Nam biết tới với cái tên Nguyễn Ái Quốc. Chu Ân Lai, "đại sứ" đảng cộng sản tại Trùng Khánh chính là đầu mối liên lạc tốt nhất trong mối quan hệ đó.


Mặc dù OSS không biết gì trong một thời gian khá dài nhưng Nguyễn Ái Quốc, người mà họ cho rằng đang theo đuổi sự nghiệp chống Nhật năm 1943, lại chính là người có một bí danh mới mà Fenn bắt đầu xem xét liên hệ một cách nghiêm túc cả trên cương vị điệp viên vào tháng 3 năm 1945. Nếu Fenn nhận ra điều này vào thời điểm đó thì mối quan hệ của ông với Hồ Chí Minh có thể đã khác.


Lần đầu tiên Fenn đề cập tới Hồ Chí Minh là tại một trong các báo cáo của ông vào tháng 10 năm 1944. Cùng những thứ khác, Fenn đã cung cấp hồ sơ cuộc đối thoại với tướng Chen, cố vấn quân sự cho George Wou tại Vùng Chiến thuật 4 Trung Quốc, trong đó ông đã khám phá ra ý tưởng làm việc với "những người An Nam". Chen đã từng bác bỏ ý kiến sử dụng người Việt bởi vì, "không một người An Nam nào giúp chúng ta chống Nhật mà không hy vọng chúng ta sẽ giúp họ chống lại Pháp, kể cả bây giờ hoặc sau này". Dù có vẻ kiên quyết phản đối, nhưng Chen cũng nói rõ tuyên bố trước đây của mình: "Một số người cộng sản trẻ tuổi có thể giúp chúng ta việc này. Hành động của họ trong FIC, như các điệp viên người Hoa đã báo cáo, cho thấy một hiệu quả nhất định và chủ yếu chống lại Nhật hơn là chống Pháp". Nhưng Chen lại một lần nữa nhấn mạnh ý kiến của ông ta: "Những người cộng sản này có thể có liên hệ với Diên An (căn cứ của những người cộng sản Trung Quốc) và do đó một vấn đề chính trị sẽ nảy sinh giữa Mỹ và Trung Quốc nếu chúng ta giúp họ".


"Có một", Fenn nói thêm trong báo cáo của ông về cuộc đối thoại đó, "người An Nam tên là Hu Tze-ming (nguyên văn) đứng đầu nhóm Chống xâm lược Quốc tế (Chống phát xít là người mà chúng ta có thể sử dụng được". Không rõ rằng liệu tướng Chen hoặc Charles Fenn có liên tưởng rõ ràng nhóm "những người cộng sản trẻ tuổi" với nhóm Chống xâm lược Quốc tế và Hồ Chí Minh hay không.


Trước tháng 11 năm 1944, Fenn đã hình thành quan điểm thăm dò của mình về những người cộng sản Việt Nam . Ông báo cho OSS rằng dù "Nhóm cộng sản dường như là xương sống của Đảng Cách mạng nhưng họ thiếu những vị lãnh đạo giỏi và không có đường lối về vai trò mà họ nắm giữ. Hình như họ nghĩ họ nên để người Nga dẫn dắt và rằng người Nga không muốn họ chống Nhật. Họ có liên lạc nhưng không quá phụ thuộc vào tham vấn của những người cộng sản Trung Quốc". Việc Fenn đánh giá tương đối thấp những người cộng sản và khả năng chống Nhật của họ có thể đã ngăn cản ông tìm kiếm người đã hộ tống viên phi công Mỹ về lãnh thổ của Đồng Minh. Quả thực, chính sự trở về an toàn của trung uý Shaw dường như là cầu nối cho cuộc gặp gỡ sau này của Hồ Chí Minh với những thành viên chủ chốt của cộng đồng Mỹ tại Côn Minh. Fenn sau đó đã gọi cuộc giải cứu Shaw là "chiếc chìa khoá thần kỳ mở toang những cánh cửa kiên cố".


Cuộc giải cứu cực kỳ quan trọng đó đã có kết quả khi, trong một chuyến trinh sát, Shaw - một phi công Mỹ thuộc phi đội 51 - buộc phải đáp xuống vùng ven Cao Bằng vào ngày 2 tháng 11 năm 1944. Trong "Từ Côn Minh về Pác Bó", Vũ Anh (bí danh Trịnh Đông Hải), một nhà tổ chức của ICP tại Côn Minh và Việt Bắc, đã nhớ lại:


Một hôm, tại Cao Bằng, một tổ chức cứu quốc (đơn vị) đã cứu sống một viên phi công Mỹ đáp xuống lãnh thổ của chúng ta do trục trặc động cơ. Anh là trung uý Shaw. Pháp và Nhật đang truy tìm anh, những các nhà cách mạng đã bảo vệ anh, đưa anh tới phòng làm việc của ông Phạm Văn Đồng tại vùng Nước Hai. Phạm Văn Đồng đưa anh tới gặp Bác. Shaw được đón tiếp chu đáo và rất vui khi gặp Bác. Anh nói rằng anh đã nghe những lời tuyên truyền bị bóp méo liên quan đến Việt Minh, và chỉ đến lúc đó anh mới nhận ra sự thật .

Ghi chép của Vũ Anh được viết năm 1962 có thể đã hơi cường điệu. Dù Shaw có thể rất vui khi được gặp Hồ Chí Minh nhưng vì người Việt nói tiếng Anh ở vùng rừng núi Bắc Việt Nam rất hiếm nên lúc đó anh không thấy có gì đặc biệt quan trọng trong cái tên hay người đàn ông đó. Shaw lại càng không thể biết được bất cứ điều gì về tổ chức Việt Minh. Có lẽ anh đã được dặn dò, như hầu hết các phi công, là nên đề phòng những người Việt Nam vì họ có thể mang anh đến nộp cho chính quyền Pháp hoặc Nhật để lấy tiền thưởng mà Nhật rêu rao. Vì vậy, người ta có thể nói rằng việc được các cán bộ Việt Minh đối xử tử tế đã khiến Shaw "nhận ra sự thật" về Việt Nam nói chung. Sau này anh mới khám phá ra nhiều điều khác về Việt Minh.

Khi còn ở Côn Minh Shaw đã công bố một số thông tin, trong đó có một quyển sách nhỏ dạng nhật ký có tựa đề "Một Đông Dương thực sự dưới con mắt trung uý Shaw" và một lá thư không đề ngày gửi một đại tá vô danh. Dù người ta cho rằng quyển sách đó là do Shaw viết nhưng cấp trên của anh lập tức đặt dấu hỏi về tác giả thực sự của nó. Lời chú thích kèm theo từ cơ quan của Chennault cho biết thêm rằng Shaw không thể nào viết quyển sách đó và thậm chí "những suy nghĩ, ý tưởng và sự cải biên cũng không phải của anh ta".

"Trên thực tế", lời chú thích tiếp tục, "khó mà tin được chúng là của anh ta. Nhưng dù gì họ cũng làm được việc, và điều mà cuốn sách muốn bộc lộ nhất là… chúng ta (nên) liên lạc với những người này và làm những gì có thể". Các sĩ quan của Không đoàn 14 kết luận rằng người của Việt Minh đã viết hộ và để Shaw đứng tên quyển sách này - mà có lẽ tác giả chính là Hồ Chí Minh - nhưng bất luận tác giả là ai thì nhật ký của Shaw đã đem lại nhiều thông tin bổ ích. Nó cung cấp những chi tiết gây ấn tượng mạnh về việc Shaw hạ cánh và lưu lại với Việt Minh và về sự kiểm soát tình hình khôn khéo của họ, đồng thời cũng nêu rõ lịch sử cơ bản chính xác về Đông Dương thuộc Pháp.

Với thể văn xuôi rõ ràng và bản viết tay không một tỳ vết, cuốn nhật ký đã đan quyện những suy ngẫm với thực tế, mà một vài trong số đó có thể đúng là của Shaw, với những thông tin chắc chắn không phải của anh. Chẳng hạn, những đoạn đầu tiên trong nhật ký của Shaw giải thích việc hạ cánh của anh nhưng cũng thêm vào những thông tin quan trọng:

Ngay từ đầu cuộc chiến chống phát xít Nhật, tôi có lẽ là phi công đầu tiên của Đồng Minh tới Đông Dương để sống ở đó cả một tháng trời, để biết đôi chút về dân nước này và sau đó trở về căn cứ an toàn và lành lặn… Trước khi nhảy dù, tôi đã chỉnh máy bay của tôi sao cho nó sẽ hoàn toàn vô dụng nếu rơi vào tay kẻ thù. Ngay khi tôi chạm đất, một người Đông Dương trẻ tuổi bước tới mỉm cười, thân mật bắt cả hai tay tôi và ra hiệu tôi đi theo anh ta. Tôi đưa cho anh ta 600 đô la Đông Dương. Anh ta nhất quyết không nhận tiền và trông có vẻ bị xúc phạm. Tôi rất ngac nhiên với thái độ của anh ta và nghĩ có lẽ anh ta cho rằng ngần ấy tiền chưa đủ. Đó là một sai lầm lớn của tôi. Lúc đầu tôi nghĩ họ là những kẻ tham lam, nhưng trên thực tế hầu hết những người yêu nước Đông Dương lại rất đức độ. Họ giúp chúng tôi không phải vì tiền của chúng tôi, mà vì tình yêu thương và tình bằng hữu. Họ biết rằng chúng tôi đang chiến đấu không chỉ vì nước Mỹ mà còn vì tự do và dân chủ của thế giới, và cũng vì đất nước của họ nữa. Vì lý do đó mà họ coi bổn phận yêu nước của mình là giúp đỡ chúng tôi - những đồng minh của họ .

Cán bộ Việt Minh đầu tiên mà Shaw gặp không biết tiếng Anh, tuy nhiên bằng cử chỉ người ấy đã dẫn Shaw đến nơi ẩn nấp gần đấy. Tại đó Shaw gặp một nhóm thanh niên, và một cung cách đối xử với người Mỹ chân thành nhưng có khuynh hướng chính trị xuất hiện. Dù cả Shaw lẫn những thanh niên này đều không dùng ngôn ngữ của nhau nhưng họ bắt đầu giao tiếp. Shaw mô tả quang cảnh: Các cán bộ nói với anh, "Việt Minh, Hoa Kỳ! Việt Minh, Hoa Kỳ!". Và Shaw, làm theo họ, đáp lại "Việt Minh! Việt Minh?". Nhật ký của anh ghi lại rằng Việt Minh "rất hài lòng" với phản ứng của anh. Shaw dần học được cách lặp lại khẩu hiệu này trước mỗi lần được giới thiệu, và mỗi lần như thế, Việt Minh đều "rất hài lòng".

Trong khi ẩn náu cùng các chiến sĩ du kích Việt Minh, Shaw chờ đợi đầu tiên là lính Pháp sau đó là lính Nhật tới lấy đi máy bay của anh và lùng sục dấu vết của anh trong khu rừng và những ngôi làng gần đó. Shaw thuật lại những gì anh đã trải qua:

Trong 30 ngày chơi trò trốn tìm với quân Pháp và Nhật, những người yêu nước đã đưa tôi từ nói ẩn náu này đến nói ẩn náu khác. Họ cố gắng hết sức để tôi cảm thấy thoải mái. Bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu nếu có thể, dân làng, cả nam, phụ, lão, ấu đều tô chức những buổi gặp mặt bí mật để chào đón tôi. Khi người chủ toạ dứt lời, tôi luôn luôn đáp lại với một câu ngắn gọn và đon giản: " Việt Minh! Việt Minh!". Sau đó họ đứng dậy và đồng thanh nói. "Hoa Kỳ! Roosevelt ! Hoa Kỳ!Roosevelt !". Các buổi gặp mặt kết thúc vớí những cái bắt tay thân thiện .

Mười ngày sau, Shaw nhận được lá thư từ Uỷ ban Trung ương Việt Minh chào mừng anh và thông báo "chúng tôi đã ra lệnh cho Căn cứ địa của chúng tôi tại Cao Bằng tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng ngài và hộ tống ngài ra biên giới Bắc Kỳ - Trung Quốc". Uỷ ban Trung ương đề nghị Shaw giúp xây dựng tình hữu nghị vững mạnh giữa Mỹ và Việt Nam . Nhiệm vụ này sẽ sớm được thực hiện dễ dàng hơn. Trong vòng vài ngày Shaw báo cáo, anh gặp một "nhà ái quốc" nói tiếng Anh. Ông đã mô tả tổ chức của mình và giải thích rằng con đường an toàn nhất tới lãnh thổ Đồng Minh thật không may lại là dài nhất. Vì rất ít người Việt Nam biết tiếng Anh vào thời điểm đó và căn cứ vào lời xác nhận của Vũ Anh rằng Shaw đã được đưa đến gặp Hồ Chí Minh ngay sau khi anh tới, có thể cho rằng người Việt Nam yêu nước mà Shaw đã gặp chính là Hồ Chí Minh. Ông cố gắng làm vơi đi nỗi sợ hãi của Shaw, đảm bảo rằng anh "tuyệt đối an toàn khi ở với chúng tôi (Việt Minh)". Có thể tưởng tượng được Shaw hẳn là đã cảm thấy bớt căng thẳng phần nào khi được nghe những lời dễ chịu này bằng chính ngôn ngữ của anh, nhất là sau chuyến hạ cánh khẩn cấp vào khu vực kẻ thù kiểm soát và sau những ngày chỉ biết giao tiếp bằng cử chỉ và khẩu hiệu. Trong nhật ký, Shaw đã thể hiện sự nhẹ nhõm của mình và sau đó chuyển sang những trải nghiệm hàng ngày. "Từ người bạn ấy", anh viết, "tôi bắt đầu biết được đôi điều về Đông Dương". Mười sáu trang tiếp theo trong cuốn "Đông Dương đích thực" thuật lại chi tiết lịch sử cai trị xấu xa của Pháp với một trình tự chính xác cuộc đấu tranh của người Việt Nam chống Pháp. Nó cũng thuật lại sự sụp đổ của Pháp năm 1940 và cuộc sống dưới thời Nhật, bao gồm cả việc chúng sử dụng đảng thân Nhật của Hoàng thân Cường Để. Cuốn sách kết luận:

Tóm lại, Đông Dương là một mảnh đất kinh hoàng. Nơí này không được hưởng tự do, hạnh phúc và các quyền lợi khác. Người dân bị vắt kiệt bới sự áp bức bóc lột đã man và phi nhân tính. Họ sống trong khổ cực và ngu dốt… Bị đè nén dưới hai gọng kìm phát xít, người Đông Dương biết rằng họ hoặc phải đấu tranh cho cuộc sống và tự do của mình hoặc sẽ chết mòn trong kiếp nô lệ. Và họ chọn cách thứ nhất.

Ngoài ra, cuốn sách cũng tiết lộ nguồn gốc và mục đích của Việt Minh cũng như vị trí của họ trong mối quan hệ với Đồng Minh:

Việt Minh hùng mạnh thế nào, tôi không biết. Nhưng như những gì tôi đã chứng kiến thì tổ chức này rất được nhân dân ủng hộ. Đi đến đâu tôi cũng được dân lành chào với hai tiếng "Việt Minh! Việt Minh!" và họ làm tất cả để giúp những người yêu nước, cho dù có bị ngăn cấm và đàn áp.

Tháng 12, những người bạn Đông Dương đưa tôi trở về Trung Quốc. Trước khi chia tay, họ dặn đi dặn lại tôi phảí gửi Iời chào tốt đẹp nhất của họ tới quân đội và nhân dân Mỹ. Lần bắt tay cuối cùng họ hô to. "Hoa Kỳ muôn năm! Roosevelt muôn năm! Tướng Chennault muôn năm!", và tôi hô to đáp lại. "Đông Dương muôn năm! Việt Minh muôn năm!". Tôi rất vui khi được quay trỏ lại và kể với đất nước tôi và những đồng minh của nó về tình hình thức tế tại Đông Dương…

Tôi khiêm nhường nghĩ rằng, vì nhiệm vụ dân chủ cũng như vì lợi ích chiến lược, chúng ta phải giúp đỡ phong trào chống Nhật, chống phát xít của Đông Dương một cách có hiệu quả.

(Đã ký) J. R. Shaw

Ngay sau khi quay lại Trung Quốc, Shaw bay thẳng về Mỹ.

Không nghi ngờ gì nữa, câu chuyện của anh dường như không thể tin nổi với rất nhiều người tại tổng hành dinh, nhưng sự thật về chuyến hạ cánh miễn cưỡng của Shaw và việc anh trở về an toàn đã minh chứng cho tất cả. Khi được hỏi ai đã cưu mang anh trong một tháng trên lãnh thổ bị Nhật chiếm đóng, lời đầu tiên thốt ra trên môi anh chắc chắn là "Việt Minh! Việt Minh!". Vị tướng chỉ huy của anh, Claire Chennault, viết trong báo cáo gửi Wedemeyer rằng "sự an toàn tức khắc và vụ tầu thoát sau cùng" của Shaw là nhờ "một tổ chức bản xứ tên là Đông Dương độc lập Hội". Chennault viết tiếp: "Tôi nhiệt liệt ủng hộ việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp với bất kỳ tổ chức nào tại Đông Dương thuộc Pháp giúp đỡ một cách hiệu quả việc giải thoát lính Mỹ, có thể yêu cầu sự trợ giúp tại nước đó bất chấp thái độ chính trị của họ". Kết luận của ông trong tuyên bố cuối cùng khá rõ ràng: "Điều đáng chú ý là", ông viết "trong số ba vụ giải cứu tại Đông Dương thuộc Pháp thì người Pháp chỉ liên quan trực tiếp đến một vụ, mà trong đó người Trung Quốc cũng tự nhận là có công lớn". Vụ giải cứu Shaw chẳng liên quan đến người Pháp cũng như người Trung Quốc - mà chỉ là một nhóm Đông Dương có vẻ như cực kỳ thân Mỹ. Đối với Việt Minh, cuộc giải cứu Shaw thực sự là chiếc "chìa khoá thần kỳ".

Khi cả nhóm đến Tân Trào, Hồ Chí Minh đưa cho Tan một "bản báo cáo cuộc hành quân được đánh máy với nhiều chi tiết về địa thế hiểm trở, những mối nguy hiểm khi hành quân ban đêm, hệ thống quân thám và phu khuân vác phức tạp dọc đường, những động vật hoang đã gặp phải…". David Marr viết rằng "rõ ràng Hồ Chí Minh muốn gây ấn tượng cho Tan về chuyến đi gian khổ từ biên giới, hy vọng những báo cáo điện đài Tan gửi về Côn Minh sẽ giành được thiện cảm và khiến Đồng Minh tăng viện trợ cho Việt Minh".

Báo cáo được cung cấp cho Tan chứa đựng những điều tương tự như nhật ký của trung uý Shaw; cả hai đều đặt Việt Minh vào giai đoạn trung tâm trong cuộc chiến đấu đang tiếp diễn chống lại cả Nhật và Pháp. Nhờ sự giúp đỡ của Hồ Chí Minh, công tác tổ chức một mạng lưới người đưa tin tình báo được tiến hành trong khi đó Mac Shin huấn luyện các học viên điều khiển điện đài, cả "truyền và nhận tin và làm thế nào để sử dụng ánh sáng làm dấu hiệu thu hút sự chú ý của máy bay", Tan đã truyền đạt rất nhiều chi tiết về căn cứ của Việt Minh và các chiến sĩ du kích cho Fenn:

Mọi người chào tôi và làm tất cả những gì có thể để giúp chúng tôi, và họ lo rằng chúng tôi không ăn được thức ăn nghèo định dưỡng của họ. Mac đang dạy họ kỹ thuật điện đài và nói họ đều yên mến anh. Họ đều có ý thức quân sự và luyện quân hàng ngày. Việc chúng tôi mang tới đây một khối lượng lớn súng (được báo cáo là có 2 khẩu súng trường 3 khẩu cacbín, một khẩu Bren, vài khẩu súng lục) và đạn được thực sự có ích. Họ nói vũ khí của chúng tôi tốt hơn của Pháp và của Nhật nhiều. Ở đất nước này mỗi người đều có một loại súng nào đó. Tôi thấy một khẩu súng trường loại 1904 Remington ở đây, một khẩu súng kíp phải đánh lửa và một khẩu khác phải châm ngòi để khởi động ngòi nổ sau đó súng mới khai hoả. Một số lại giống như súng săn, nhưng phải nạp đạn từ phía trước - lắp đạn và nhồi thuộc súng vào. Sau đó đặt một đầu que diêm vào ngòi nổ và bóp cò: trông giống như súng mà những người hành hương sử dụng để bắn gà tây!

Những người đưa tin đầu tiên từ Pác Bó mang về rất nhiều thông tin từ bên trong Đông Dương, bao gồm "thư, bản đồ, tài liệu truyền đơn của Nhật và những tài liệu MO khác". Tan báo cáo rằng sau đảo chính người dân trở nên chống Nhật hơn là chống Pháp. Trong một lá thư cùng thời điểm, Hồ Chí Minh cảm ơn Fenn vì đã cưu mang một nhóm Việt Minh mà ông đưa tới Côn Minh, vì đã huấn luyện và dạy họ "những điều cần thiết khác trong cuộc đấu tranh chung chống Nhật của chúng ta". Ông kết thúc bức thư ngắn của mình bằng cách một lần nữa gửi lời mời Fenn tới thăm căn cứ của Việt Minh và đề nghị Fenn gửi "lời thăm hỏi của mình tới tướng Chennault". Một lần nữa ông chứng tỏ sự chân thành của mình. Có thể nếu những lời thăm hỏi vô hại này đến tai vị tướng, cái tên Hồ Chí Minh sẽ sống mãi trong trí nhớ của Chennault, hay ít nhất Chennault cũng gắn tên Hồ Chí Minh với một ý nghĩa tích cực mỗi khi nhớ đến trong những hoàn cảnh khác.

Sau khi Tan và Shin tới Tân Trào, số lượng và chất lượng của các báo cáo tình báo bắt đầu tăng. "Sau một thời gian", Nguyễn Kim Hùng nhớ lại, "trong số hàng thả dù tiếp tế có một vài máy điện đài kỹ thuật số. Với những thứ này, Hồ Chí Minh quyết định thiết lập ba trạm điện đài nữa. Một ở Hà Giang, do ông Quý phụ trách. Một ở Lạng Sơn, do ông Liễu Minh phụ trách. Trạm còn lại ở Cao Bằng do ông Bắc chịu trách nhiệm. Và tôi nhớ rằng nhiệm vụ được giao cho các trạm này là thu thập thông tin thời tiết hai lần một ngày cho lực lượng Đồng Minh, cung cấp thông tin tình báo và thông tin về vị trí đóng quân của Nhật để lực lượng Đồng Minh tấn công đồng thời tìm kiếm những địa điểm thích hợp để thả hàng tiếp tên và hạ cánh".

Việc Hồ Chí Minh có phải là người ra quyết định chính về địa điểm thiết lập các trạm điện đài do GBT/AGAS/OSS tài trợ hay không vẫn còn chưa được xác nhận. Tuy nhiên, mối quan hệ của ông với người Mỹ và nỗ lực chiến tranh của Đồng Minh dường như đã tiếp thêm sức mạnh cho những thành viên trẻ của Việt Minh và giúp củng cố khả năng kiểm soát của ông. Nhưng thậm chí trước khi thiết lập mạng lưới này tại Bắc Kỳ, điệp viên Lucius đã bắt đầu gửi báo cáo cho Fenn. Ngày 29 tháng 3, "Hoo" gửi đi một bản báo cáo gay gắt về tình hình tại Đông Dương thuộc Pháp. Trong đó, cũng như cuốn sách của Shaw, là trình tự thời gian chính xác và lịch sử Việt Nam từ khi Pháp xâm lược. Như một phần nền tảng mô tả hoạt động chống Pháp của Việt Nam , Hồ Chí Minh nhận xét: "Bên cạnh quyền tự do hút thuốc phiện, uống rượu và nộp thuế, người Đông Dương không có quyền tự do nào khác". Thêm vào đó, ông đã cung cấp vô số thông tin về việc sử dụng tuyên truyền của Nhật và về thái độ của Việt Nam đối với cả Nhật và Đồng Minh. Chú ý đặc biệt được dành cho những hoạt động của Việt Minh: sự ủng hộ mà giai cấp nông dân dành cho họ, những hoạt động chống Nhật của họ, và sự ngược đãi của Pháp đối với họ.

"Bên cạnh tuyên truyền và công tác tổ chức", Hồ Chí Minh nói, "Việt Minh rất chú ý đến vấn đề giáo dục. Dù còn vô vàn khó khăn nhưng họ vẫn tổ chức những lớp học bí mật buổi tối để đay người nông dân, cả nam lẫn nữ, đọc và viết. Tại những nơi Việt Minh hoạt động mạnh, nạn mù chữ gần như được xoá sổ". Tuy nhiên, ông cũng thành thật chỉ ra rằng công tác của họ vượt quá khả năng tự lực. Ban đêm, thanh niên Việt Minh luyện tập chiến tranh du kích với vũ khí tự tạo - thường là súng gỗ và gậy tre. Một phần vì thiếu vũ khí nên sự kháng Nhật hiếm khi mang tính bạo lực. Hầu hết các hoạt động kháng cự đều mang tính thụ động. Chẳng hạn, ông giải thích "đôi khi các cán bộ giấu thực phẩm của Nhật, chỉ để hứng lấy sự trả đũa của Pháp. Khi tìm thấy nơi cất giấu, người Pháp sẽ tịch thu hết gạo và trừng phạt cả làng cộng sản". Khi xây dựng hình ảnh Việt Minh trong con mắt những người cuối cùng sẽ đọc báo cáo của mình, Hồ Chí Minh đồng thời cũng lên án Pháp:

Pháp bắn chết người của Việt Minh, sau đó cắt cổ họ và treo lên một cái sào tại ngã tư làng. Người của Việt Minh thường bị chúng đốt nhà, tịch thu tài sản, bắt bớ người thân và đầu họ được Pháp treo giá cao. Nơi nào bị nghi ngờ có Việt Minh hoạt động, nơi đó cả làng sẽ bị tàn phá còn người dân bị bắt giữ… Các gián điệp Nhật và Pháp, những kẻ phản bội người Đông Dương và người Hoa đã hình thành một mạng lưới chỉ điểm được tổ chức hoàn hảo. Liên lạc ngầm thường bị cắt đứt và người của Việt Minh thường phải mất tới vài tuần để di chuyển trong một quãng đường ngắn. Các cán bộ Việt Minh thường phải chịu đói, rét và bệnh tật. Dù còn có khó khăn này khác, nhưng người của Việt Minh vẫn tiếp tục hoạt động và lớn mạnh, bởi họ có lý tưởng yêu nước sâu sắc. Họ có lòng dũng cảm, sự kiên nhẫn và tinh thần hy sinh quên mình. Họ biết mình đang đấu tranh vì cái gì, chịu đựng cái gì và khi cần, hy sinh vì cái gì .

Mọi dấu hiệu đều cho thấy Hồ Chí Minh vô cùng tin tưởng vào kết quả cuối cùng của cuộc chiến: thất bại của Nhật và chiến thắng của Mỹ. Khi Hồ Chí Minh nói về chiến thắng sắp tới ông cũng đặt một câu hỏi tu từ cho độc giả người Mỹ của mình: "Liệu Đồng Minh có thực sự chiến đấu vì tự do và dân chủ của thế giới như họ vẫn trịnh trọng phát biểu trong các tuyên bố chính thức của họ hay không? Hay họ chiến đấu đơn giản vì cứu rỗi quyền lợi thực dân ích kỷ của Pháp?". Fenn rất xúc động trước lời văn của Hồ Chí Minh. Và, giống như Shaw, Tan cũng bị chinh phục khi trò chuyện tới khuya với con người có sức lôi cuốn quần chúng này qua rất nhiều đêm ở bên nhau trong những khu rừng đại ngàn Bắc Việt Nam.

Cả Frank Tan và Mac Shin đều ở Tân Trào gần 4 tháng. Dù mới đầu Hồ Chí Minh hoài nghi việc đưa Tan và Shin vào Việt Nam, nhưng trong một trong những lá thư đầu tiên gửi Fenn ông nhận xét rằng cả hai đều thích nghi khá tốt. Công việc của Tan tại Bắc Kỳ nhanh chóng trở nên cực kỳ quan trọng. Khi ở đó, Tan đã tham gia "thu thập tin tình báo về Nhật đồng thời (hợp tác với AGAS) mở rộng mạng lưới lẩn tránh và trốn thoát. Ông cũng tìm kiếm những người Mỹ nào đó đang lẩn trốn tại tam giác Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn - tất cả đều nằm trong trọng tầm hoạt động chống Nhật của Hồ Chí Minh".

Trong những tháng làm việc bên nhau, Hồ Chí Minh và Tan đã có một tình bạn đặc biệt thân thiết. Với học vấn uyên bác và cá tính Mỹ, Tan nhìn bề ngoài có vẻ rất khác so với người bạn chiến đấu Việt Nam nhiều tuổi hơn. Nhưng họ sớm nhận ra rằng họ có nhiều điểm chung. Cả hai đều đã trải qua sự phân biệt đối xử tại quê nhà - Hồ Chí Minh dưới ách thống trị của Pháp và Tan là người Hoa lớn lên trong khu vực toàn "người da trắng" tại Boston. Tan nhớ lại những ngày đầu tại Boston: "Tôi sớm cảm nhận được rằng luôn luôn có một rào cản, luôn luôn có cảm giác rằng chúng tôi bị phân biệt đối xử so với người da trắng". Và cả hai đều phải trải qua tình trạng thiếu thốn tình cảm. Không lâu trước khi rời Trung Quốc tới Việt Bắc, Tan đã bị cô thư ký trẻ đẹp của Gordon hắt hủi.

Thất vọng và tổn thương, Tan giãi bày với Hồ Chí Minh, người về phần mình đã kể cho Tan về nỗi luyến tiếc của chính ông vì phải chia tay một thiếu nữ mà ông rất mến khi rời Việt Nam đi tìm đường cứu nước. "Trong suốt 4 tháng Mac Shin và tôi ở trong rừng rậm với ông Hồ, ông Giáp và đội quân của họ", Tan nhớ lại, "một tình bạn đã nảy nở giữa tất cả chúng tôi".

Tan cũng phản ánh tình cảm nảy sinh giữa Shin và Hồ Chí Minh. "Đối với một người trẻ và trông trẻ hơn như Mac, Hồ Chí Minh coi anh như con trai mình. Ông nói rằng nếu Mac muốn quay trở lại Việt Nam sau chiến tranh thì ông sẽ giúp anh định cư trên một mảnh đất đẹp, nhưng để Mac tự tìm cho mình một cô vợ hiền". Cả Tan và Shin đều cảm nhận được thái độ dễ mến và ân cần - cái khiến ông được mọi người quý trọng suốt đời, như cái tên "Bác Hồ" hiền hậu và tốt bụng.

Tan hồi tưởng:

Khi quan hệ của tôi với Hồ Chí Minh trở nên thân mật hơn, tôi bắt đầu hiểu rõ con người ông - một người hiến dâng cả cuộc đời để giành đại tự do cho nhân dân mình. Tôi có cảm giác ông là một người cô đơn, đã hy sinh và từ chối tất cả những tiện nghí và hạnh phúc thông thường của cuộc sống. Một sự hy sinh như thế khiến ông chẳng làm gì khác ngoài nghĩ và hành động cho một mục tiêu duy nhất. Do đó, chính tính không nhất quán này khiến cho một số người mô tả ông như một người cộng sản, hay ngươc lại như một người yêu nước .

Trần Trọng Trung, một trong những học viên của Việt Minh học điều khiển điện đài tại Tân Trào, nhận xét về tình bạn đang lớn mạnh từ bối cảnh Việt Nam:

Tôi cũng nhận thấy rằng ông Mac Shin và ông Frank Tan rất quý Bác Hồ. Chính ông Mac Shin trong lúc lúc hướng dẫn, giảng bài về điện đài cũng nói. "Hồ Chí Minh của chúng ta là một người vĩ đại. Thật là một niềm vinh dự khi các anh được ở đây với ông, vì vậy các anh phải cố gắng nắm bắt những công nghệ này sao cho có thể phụng sự ông tốt nhất ".

Nhìn nhận lại, Trần Trọng Trung ví tình bạn bền vững giữa họ như một "mối tình đầu", anh kết luận, "tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi".

Sự xuất hiện của Hồ Chí Minh và nhất là mối quan hệ rõ ràng của ông với Tan đã gây ra những khuấy động trong các đồng nghiệp của ông, vài người đã thậm chí tin vào những lời đồn đại rằng ông đã chết. Bất ngờ từ sự trở về của ông hoà lẫn với niềm cảm phục của họ trước những thiết bị mà Tan và Shin mang theo. Một trong những người đưa tin của Việt Minh được giao nhiệm vụ chuyển thư cho Fenn đã cung cấp nhiều chi tiết: "Họ mang theo mọi loại vũ khí, tốt hơn những thứ mà Pháp hay Nhật có". Những giải toả từ sự trở về của Hồ Chí Minh đã không được trọn vẹn bởi nỗi lo về tình trạng sức khoẻ đang suy yếu trầm trọng của ông. Chuyến đi gian khổ từng khiến một người trẻ tuổi như Tan muốn bỏ cuộc đã đẩy người đàn ông ngũ tuần tới giới hạn của sức chịu đựng. Khi bắt đầu hồi phục, ông thực hiện một bước củng cố niềm tin cho người của mình bằng cách khôn khéo sử dụng những vật lưu niệm tưởng chừng như không quan trọng trong thời gian ông ở Côn Minh: tấm ảnh có bút tích của Chennault và các khẩu Colt 45 mới cứng của Mỹ. Fenn ghi lại câu chuyện của người đưa tin trong nhật ký của mình:

Khi đã bình phục ông mời tất cả những nhà lãnh đạo cao nhất đến dự một cuộc họp, không chỉ có riêng người của ông, mà cả đối thủ ở các nhóm khác những kẻ đã lợi dụng sự vắng mặt của ông để tự đề cao mình. Ông nói với họ hiện ông đã đành được sự giúp đỡ của người Mỹ, trong đó có Chennault. Lúc đầu không ai thực sự tin ông. Rồi ông đưa ra bức ảnh của Chennault với dòng chữ "Thân ái". Sau đó ông đem tới vài khẩu súng lục tự động và tặng cho mỗi thủ lĩnh một khẩu. Họ cho rằng đích thân Chennault tặng những món quà này. Sau cuộc họp, vấn đề ai là người lãnh đạo tối cao không bao giò còn được bàn cãi .

Tan nói thêm, chuyến bay tới biên giới trên một chuyên cơ Mỹ, khả năng của Shin giúp Hồ Chí Minh giữ liên lạc với người Mỹ qua điện đài và sự trở về của chính ông mang theo "vũ khí hạng nặng Mỹ" dường như "chứng minh tình bằng hữu với người Mỹ" đối với nhiều người có mặt hôm đó. Ngay sau cuộc họp, Tan đánh điện về Côn Minh rằng "uy tín của Hồ Chí Minh đã tăng thêm 10 điểm nữa", khi GBT thả vào một loạt đồ tiếp tế - "máy điện đài, thuốc men, dụng cụ nhỏ, vũ khí".

Khỏi phải nói, người đưa tin đã đánh giá sức mạnh của Hồ Chí Minh rất cao cả trước mắt và lâu đài. Nhưng dù chân thành trong hầu hết những quan hệ trước đây của mình với Mỹ khả năng tác động đến tình hình khó tin của Hồ Chí Minh và vai trò của Mỹ trong đó nên được đánh giá một cách khách quan. Nhìn lại những tháng trọng yếu sau cuộc đảo chính, Fenn kết luận rằng Hồ Chí Minh đã trở thành "nhà lãnh đạo khỏi bàn cãi của một đảng cách mạng có sức mạnh áp đảo". Vào thời điểm cuộc đảo chính xảy ra, Hồ Chí Minh "đã là lãnh đạo của một trong số nhiều chính đảng", Fenn nói tiếp. Ông "không được Mỹ thừa nhận, bị Pháp chống đối, bị Trung Quốc lảng tránh; lại không có vũ khí và thiết bị. Vào lúc đó, ông cũng bị chia cắt khỏi nhóm của mình tới 600 dặm cách trở và không có cơ hội đi bằng máy bay suốt quãng đường đó. Tất cả những điều này đã thay đổi, ông tin rằng, "phần lớn là nhờ vào GBT".

Đầu tháng năm, Tan đều đặn gửi tin tình báo từ căn cứ của Việt Minh, đặc biệt là những tài liệu MO như "báo, truyền đơn, sổ ghi chép của Nhật và vài viên thuốc của Nhật được phát cho người An Nam". Tại Côn Minh, các cán bộ Việt Minh được GBT huấn luyện để sau này thực hiện liên lạc điện đài tại Đông Dương. Và dù Fenn báo cáo rằng ông thường xuyên gửi thông tin MO mà ông nhận được tới tổng hành dinh của OSS, nhưng mọi dấu hiệu đều cho thấy ông muốn giữ điệp viên Lucius, và các cán bộ Việt Minh khác như Phạm Văn Đồng, cho GBT và AGAS hơn. Nghi ngờ lòng trung thành với tổ chức của Fenn, các điệp viên của OSS tại Côn Minh, đặc biệt là Archimedes Patti, người rất nóng lòng muốn tiếp kiến và dùng điệp viên Lucius cho chính họ, sẽ phải tìm cách khác để gặp được người làm chủ tình hình lúc này - Hồ Chí Minh.

Chú thích:
(1) Charles Pierre Baudelclire (1821 - 1867) là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất ở Pháp trong thế kỷ 19


Bí mật về OSS và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Part 2

1 nhận xét:

Angelika nói...

Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)